Hiện nay, ở nước ta đã hình thành mô hình KCN, KCX. Tính đến năm 2000 là 67 KCN (trong đó có 3 KCX). Các KCN, KCX. Tuy nhiên bên cạnh đó còn có nhiều KCN chưa phát huy được tác dụng của mình.
Chính vì vậy mà Nhà nước ta phải có các giải pháp, các chính sách ưu đãi để thu hút được nhiều hơn nữa các nguồn vốn đầu tư đặc biệt là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Việc đưa ra các giải pháp và chính sách hợp lý sẽ không những tạo ra môi trường đầu tư và hành pháp lý thuận lợi cho FDI mà còn tạo điều kiện thúc đẩy cho các khu công nghiệp và khu chế xuất phát triển, từ đó góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, đưa nền kinh tế nước ta từng bước hoà nhập với nền kinh tế của các nước trong khu vực và trên thế giới./.
26 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1494 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoaì vào các khu công nghiệp, khu chế xuất của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Trong công cuộc CNH - HĐH đất nước hiện nay, Nhà nước ta khẳng định phải dựa vào nội lực là chính, tuy nhiên xuất phát từ điều kiện của nước ta là một nước có nền kinh tế yếu kém, điểm xuất phát thấp cơ sở hạ tầng lạc hậu, thu nhập quốc dân và thu nhập dân cư thấp. Vì vậy nguồn vốn để CNH-HĐH trước mắt phụ thuộc nhiều từ nước ngoài mà chủ yếu là đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Để thu hút đầu tư nước ngoài cho công cuộc phát triển của quốc gia, khu công nghiệp (KCN), khu chế xuất (KCX) được đánh giá là một nhân tố quan trọng. Vì ở đó các công trình hạ tầng cơ sở được tập trung, đầu tư nhanh với chất lượng cao, hình thành các dịch vụ cần thiết và các thủ tục đơn giản đáp ứng yêu cầu của các nhà đầu tư. Nhiều nước đã thành công trong công cuộc CNH-HĐH như xây dựng những KCN, KCX như vậy.
ở Việt Nam hiện nay KCN, KCX đã trở thành những thực thể kinh tế - xã hội không thể thiếu trong nền kinh tế. KCN, KCX đã góp phần tăng sản lượng công nghiệp, tăng xuất khẩu, giảm thất nghiệp, tăng thu nhập người dân hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý hơn, ... có được sự thành công này là do chính sách rộng mở của Nhà nước ta nhằm thu hút FDI cho phát triển KCN, KCX. Và trên thực tế lượng vốn FDI chiếm tỷ lệ rất cao trong KCN, KCX.
Như vậy, để tiếp tục phát triển KCN, KCX ở Việt Nam chúng ta cần thu hút nhiều hơn nữa các nguồn vốn vào KCN, KCX đặc biệt là FDI. Và trong khuôn khổ đề tài này sẽ tập trung nghiên cứu về : “Một số giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoaì vào các khu công nghiệp, khu chế xuất của Việt Nam”.
Nội dung đề tài gồm 3 phần:
Chương I: Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các KCN, KCX
Chương II: Thực trạng đầu tư nước ngoài trong các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam thời gian qua
Chương III: Quan điểm và một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển các KCN, KCX ở Việt nam
Đây là vấn đề rất phức tạp và bức xúc, mang tầm vĩ mô. Vì vậy không thể tránh khỏi những thiếu sót mong được sự góp ý của các độc giả.
Chương I: Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài và KCN, KCX
1. tổng quan về đầu tư trực tiếp nước ngoài:
1.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài :
Trong xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá với qui mô và tốc độ này càng lớn, tạo ra một nền kinh tế sôi động mà ở đó tính phụ thuộc giữa các nước các quốc gia ngày càng tăng. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ và cách mạng thông tin đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình đổi mới cơ cấu kinh tế tạo nên sự dịch chuyển vốn giữa các quốc gia. Đặc biệt là nhu cầu vốn đầu tư đầu tư phát triển để công nghiệp hoá hiện đại hoá của các nước phát triển rất lớn. Mặt khác các nước phát triển dồi dào vốn và công nghệmuốn tìm kiếm những nơi thuận lợi, chi phí thấp để hạ giá thành sản phẩm và chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ. Chính vì vậy tạo nên một sự thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư nước ngoài và đặc biệt phổ biến nhất vẫn là hình thức đầu tư trực tiếp.
Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư quốc tế chủ yếu mà nhà đầu tư nước ngoài đầu tư toàn bộ hay phần lớn vốn đầu tư của các dự án nhằm giành quyền đều hành hoặc tham gia điều hành các doanh nghiệp sản xuất hoặc kinh doanh dịch vụ.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có các đặc điểm sau:
-Đây là hình thức đầu tư bằng vốn cuả các nhà đầu tư họ tự quyết đinh đầu tư tự quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Hình thức này mang tính khả thi và hiệu quả cao
-Chủ đầu tư nước ngoài điều hành toàn bộ mọi hoạt động đầu tư nếu là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc tham gia điều hành doanh nghiệp hoạt động tuỳ theo tỷ lệ góp vốn của mình
-Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài nước chủ nhà có thể tiếp nhận được công nghệ tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm tổ chức quản lý là các mục tiêu mà các hình thức khác không giải quyết được.
-Nguồn vốn hày không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu của chủ đầu tư dưới hình thức vốn pháp định và trong quá trình hoạt động, nó còn bao gồm cả vốn vay của doanh nghiệp để triển khai hoặc mở rộng dự án cũng như đầu tư từ lợi nhuận thu được.
1.2. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài:
Hơn 10 năm kể từ khi ban hành luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã trở thnàh một bộ phận không thể thiếu được có tốc độ phát triển nhanh nhất trong các hoạt động kinh tế đối ngoại của nước ta đóng góp tích cực và ngày càng lớn vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, là một nhân tố góp phần vào thành công của công cuộc đổi mưói kinh tế
Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài mang phạm vi quốc tế. Nó mang lại lợi ích cho cả hai bên và đồng vốn đầu tư bỏ ra rất hiệu quả.
Đặc biệt là ở các nước đang phát triển nó giải quyết được các vấn đề :
-FDI tăng cường vốn đầu tư bù đắp sự thiếu hụt về ngoại tệ góp phần tăng khả năng cạnh tranh và tăng xuất khẩu, bù đắp cán cân thanh toán
-FDI góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động tạo điều kiện tích luỹ trong nước
-FDI sẽ chuyển giao công nghệ kĩ thuật hiện đại, kĩ xảo chuyên môn, trình độ quản lý tiên tiến cho nước nhận đầu tư. Xét về lâu dài diều này sẽ góp phần tăng năng suất của các yếu tố sản xuất, thúc đẩy các ngành nghề mới đòi hỏi hàm lượng công nghệ cao như điện tử tin học... Chính vì vậy nó có tác dụng lớn đối với quá trình công nghiệp hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế tăng trưởng nhanh của nước nhận đầu tư.
Từ sự chuyển giao này cũng giúp cho các nước chủ nhà có được kĩ thuật tiên tiến, kinh nghiệm trong quản lý, đội ngũ cán bộ lao động được bồi dưỡng đào tạo nhiều mặt.
-FDI giúp các nước nhận đầu tư trực tiếp tiếp cận được với thị trường thế giới, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế trong xu hướng khu vực hoá toàn cầu hoá.
Ngày nay đầu tư trực tiếp nước ngoài trở thành một tất yếu khách quan trong điều kiện quốc tế háo nên sản xuất lưu thông. Các quốc gia trên thế giới dù có thể chế chính trị khác nhau đều cần đến vốn đầu tư nước ngoài và coi đó là một nguồn lực cần khai thác.
Bên cạnh đó, đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng có một số ít hạn chế càn được khắc phục như :việc quản lý vốn do chủ đầu tư có kinh nghiệm về tranh sự quản lý của nước chủ nhà. Còn nước chủ nhà nhưa có nhiều kinh nghiệm, còn sơ hở trong quản lý hoạt động các cơ sở có vốn nước ngoài. Tình trạng gian lận thuế, buôn lậu, ô nhiễm môi trường vẫn xảy ra. Để nhằm khắc phục những hạn chế phát huy tính tích cực Nhà nước ta đã đưa ra nhiều các chính sách nhằm xác định các địa bàn dự án lĩnh vực ưu tiên khuyến khích đầu tư giành lại chữ "tín " của cộng đồng đầu tư nước ngoài nhằm thu hút nhiều hơn nữa FDI vào Việt nam .
1.3. Các hình thức FDI trong thực tiễn:
Trong thực tiễn FDI có nhiều hình thức thường được áp dụng là:
*Hợp đồng hợp tác kinh doanh theo qui định điếu 7 nghị định 12/CP'Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản kí kết quả hai bên hay nhiều bên qui định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư kinh doanh ở Việt nam mà không cần thành lập pháp nhân.
Hình thức này có đặc điểm:
-Không ra đời một pháp nhân mới
-Cơ sở của hình thức này là hợp đồng hpợp tác kinh doanh. Trong hợp đồng nội dung chính phản ánh trách nhiệm quyền lợi giữa các bên với nhau (không cần đề cập đến việc góp vốn).
-Thời hạn cần thiết của hợp đồng do các bên thoả thuận phù hợp với tính chất mục tiêu kinh doanh và được các cơ quan cấp giấy phép kinh doanh chuẩn y.
-Hợp đồng phải do đại diện có thẩm quyền của các bên kí. Trong quá trình hợp tác kinh doanh các bên giữ nguyên tư cách pháp nhân của mình.
*Doanh nghiệp liên doanh:
Theo khoản 2 diều 2 luật đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam qui định "Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp do hai hay nhiều bên hợp tác thành lập tại VN trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định kí giữa Chính phủ nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam và chính phủ nước ngoài hoặc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với doanh nghiệp Việt nam hoặc do doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh.
Hình thức này có đặc điểm:
-Thành lập pháp nhân mới hoạt động trên nguyên tắc hạch toán độc lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn. Các bên chịu trách nhiệm về phần vốn của mình .
-Phần góp vốn của bên hoặc các bên nước ngoài không hạn chế mức tối đa nhưng tối thiểu không được dưới 30% vốn pháp định và trong qúa trình hoạt động không giảm vốn pháp định.
-Cơ quan lãnh đạo cao nhất của doanh nghiệp liên doanh là hội đồng quản trị mà thành viên của nó do mỗi bên chỉ định tương ứng với tỷ lệ góp vốn của các bên nhưng ít nhất phải là 2 người, Hội đồng quản trị có quyền quyết định những vấn đề quan trọng trong hoạt động của doanh nghiệp theo nguyên tắc nhất trí.
-Các bên tham gia liên doanh phân chia lợi nhuận và phân chia rủi ro theo tỷ lệ góp vốn của mỗi bên trong vốn pháp định hoặc theo thoả thuận giữa các bên.
-Thời hạn hoạt động không quá 50 năm trong trường hợp đặc biệt được kéo dài thêm nhưng không quá 20 năm.
*Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài :
Theo điều 26 nghị định 12/CP qui định :"Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại Việt nam tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh doanh "Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt nam. Thời hạn hoạt động không quá 50 năm kể từ ngày được cấp giấy phép.
Ngoài 3 hình thức chủ yếu trên còn có các hình thức:
*Hợp đồng xây dựng -kinh doanh- chuyển giao(BOT):
Theo điều 12 khoản 2 luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam :"Hợp đồng xây dựng -kinh doanh- chuyển giao là văn bản kí giữa cơ quan có thẩm quyền của Việt nam và nhà đầu tư nước ngoài đề xây dựng kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong thời hạn nhất định, hết thời hạn nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước Việt nam"
*Hợp đồng xây dựng -chuyển giao -kinh doanh là văn bản kí kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt nam và nhà đầu tư nước ngoài xây dựng công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng xong nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt nam. Chính phủ Việt nam dành cho nhà đầu tư kinh doanh trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý .
*Hợp đồng xây dựng -chuyển giao(BT):
Theo khoản 13 điều 2 luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam "Hợp đồng xây dựng chuyển giao là hợp đồng kí kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt nam và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng kết cấu hạ tầng. Sau khi xây xong nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho nhà nước Việt nam. Chính phủ Việt nam tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện các dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý".
2. KCN - KCX và vai trò của nó đối với thu hút fdi.
2.1. Khái niệm, đặc điểm KCN, KCX:
a. Khu chế xuất:
Theo điều 2 khoản 2 qui chế KCN, KCX"Khu chế xuất là khu tập trung các doanh nghiệp chế xuất chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu có ranh giới địa lý xác định không có dân cư sinh sống được chính phủ hoặc thủ tướng chính phủ quyết định thành lập".
Mặc dù qui chế KCX ở từng nước là khác nhau nhưng đặc trưng sau đây được coi là đặc điểm của một khu chề xuất điển hình :
-Nhập khẩu miễn thuế nguyên vật liệu và thủ tục đơn giản... MCX không phải nộp thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu sản phẩm. Tuy nhiên những hàng hoá sản xuất trong khu chế xuất cũng có thể bán trong thị trường nội địa nếu thị trường nội địa có nhu cầu.
-Những doanh nghiệp trong khu chế xuất được hưởng mức thuế lợi tức là 10% là mức thuế thấp nhất và được miễn thuế thu nhập công ty trong 4 năm kề từ khi kinh doanh có lãi và giảm tiếp 50% trong 4 năm tiếp theo.
-Những doanh nghiệp trong KCX thường được cung cấp thủ tục hải quan nhanh chóng cho việc nhập khẩu vật liệu và xuất khẩu hàng hoá .
-Những doanh nghiệp trong KCX được sử dụng cơ sở hạ tàng tốt như đường xá, điện thoại, điện tín...
b. Khu công nghiệp
Theo khoản 1 điều 2 qui định "KCN là khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, do chính phủ hoặc thủ tướng chính phủ quyết định. Trong KCN có thể có doanh nghiệp chế xuất. Trong KCN có các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, doanh nghiệp dịch vụ khu công nghiệp.
Các doanh nghiệp trong khu công nghiệp được hưởng một số ưu đãi theo qui định cho từng loại doanh nghiệp.
c. Sự khác nhau giữa KCN và KCX
-KCX được xây dựng để thu hút các đơn vị sản xuất sản phẩm xuất khẩu, còn KCN được mở ra cho tất cả các ngành công nghiệp. KCN, KCX kể cả sản xuất hàng xuất khẩu và tiêu thụ trong nước do vậy KCN có thể bao gồm KCX .
-Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong khu công nghiệp sẽ được hưởng một số ưu đãi nhất định trong đó đặc biệt ưu đãi vỡi những hãng sản xuất hàng xuất khẩu do đó những hãng này mà nằm trong khu công nghiệp sẽ được hưởng những ưu đãi như trong khu chế xuất và cũng được hưởng những ưu đãi như trong KCN.
Việc lựa chọn vị trí đề xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất là rất quan trọngđòi hỏi phát huy được thế mạnh tiềm năng kinh tế của từng vùng.
2.2.Vai trò của KCN -KCX đối với thu hút FDI
Từ đầu những năm 90 đến nay sau khi xuất hiện những khu công nghiệp và khu chế xuất ở Việt nam và kiểm nghiệm lại kinh nghiệm của một số nước đang phát triển đi trước chúng ta khẳng định được vai trò quan trọng của KCN, KCX. Việc tập trung các doanh nghiệp chế biến nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài và vốn đầu tư trong nước đưa nhanh kĩ thuật mới vào sản xuất thúc đẩy tiến bộ khoa học công nghệ xây dựng các ngành mũi nhọn nâng cao vị trí chủ đạo của công nghiệp trong nền kinh tế đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế bền vững, phát triển công nghiệp chế biến nông lâm hải sản hỗ trợ các ngành này và phục vụ xuất khẩu phân bố lại các khu vực sản xuất và sinh hoạt thực hiện đô thị hoá nông thôn chuyển dời các cơ sở sản xuất từ nội đô ra ngoại vi, cải tạo môi trường sống cho dân cư đô thị, tạo thêm nhiều việc làm cho lao động thành phố và nông thôn.
Việc thành lập khu chế xuất, khu công nghiệp là tạo ra các khu vực thuận lợi hơn cho việc phát triển kinh tế thu hút đầu tư. Chính vì vai trò to lớn của KCN, KCX rất cần thiết ở nước ta. Chỉ có KCX, KCN mới tạo ra được bước nhẩy vọt, tạo ra nền kinh tế phát triển bền vững. Chọn được địa điểm vị trí và qui hoạch KCN, KCX cùng các đối tác hợp lý sẽ tạo ra cho nước ta một bộ mặt mới.
3. Kinh nghiệm của một số nước trong việc phát triển KCN- KCX
KCN đầu tiên của thế giới thành lập ở Anh vào năm1896. Người ta sớm nhận ra ưu điểm của hình thức tổ chức này do đó số lượng của khu công nghiệp được xây ngày càng tăng trên khắp thế giới .
Việt nam là nước đi sau để thực hiện được mục tiêu "đi tắt đón đầu"trong phát triển kinh tế đòi hỏi chúng ta phải học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước để tiến hành phát triển KCN, KCX cho phù hợp với điều kiện phát triển của Việt nam .
3.1. Kinh nghiệm của Thái lan
Vào những năm 60 , luật KCN được ban hành từ đó cho đến nay có 40 khu công nghiệp hoạt động. Nhà nước Thái lan qui hoạch phát triển KCN dựa trên qui hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Những KCN do nhà nước bảo trợ tuy bị lỗ nhưng vẫn xây dựng để đảm bảo cho phát triển như khu công nghiệp Bắc Thái Lan, có khoảng 11 KCN được xây dựng tại những vùng không nằm trong khu qui hoạch miễn là họ có thị trường .
Diện tích KCN, mặt bằng KCN có thể được mở rộng hơn so với diện tích được duyệt nếu được thoả thuận của người có đất mà mình được dùng. Về quản lý do cục quản lý KCN Thái lan , ngoài ra Cục Quản lý KCN còn có chức năng kinh doanh.
Về chính sách đối với xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng, Nhà nước không ưu đãi cho vay vốn, tuy nhiên Nhà nước đứng ra bảo lãnh cho các công ty nhà nước vay mà không phải thế chấp. Mọi ưu tiên đều dành hết cho các khu công nghiệp trong nước. Mọi khách hàng muốn đầu tư vào khu công nghiệp họ sẽ được tạo điều kiện cần thiết để biết về KCN, mạng lưới KCN .
3.2. Kinh nghiệm của Đài loan
Đài loan là một trong những quốc gia thành công trong việc phát triển KCN, KCX. Từ cuối những thập kỷ 50, Đài loan đã nhận định được vị thế kinh tế của mình là loại hình kinh tế hải đảo có đặc tính đất chật người đông, tài nguyên nghèo nàn kinh tế phụ thuộc rất lớn vào thị trường nước ngoài vì vậy Đài loan chỉ phát triển những ngành công nghiệp nhỏ sử dụng nhiều lao động. Các xí nghiệp vừa và nhỏ xuất hiện rất nhiều trong KCN, KCX và các doanh nghiệp này được hưởng cơ sở hạ tầng thuận lợi cùng một số ưu đãi khác.
Hiện nay Đài loan có 3KCX, 30KCN, 2KCNC. Trung ương quản lý12 KCN có tầm quan trọng nhất nằm trong qui hoạch được chích quyền tư phê duyệt. Các khu công nghiệp còn lại do địa phương hoặc tư nhân quản lý .
Các KCN ở Đài loan phân bố khắp nước hầu như huyện nào cũng có khu công nghiệp, mỗi khu công nghiệp là một hạt nhân để phát triển vùng .
Đây là những kinh nghiệm quí báu để cho nhà nước Việt nam đánh giá lại tiềm năng, năng lực định vị lại vị thế của mình để phát triển khu công nghiệp một cách hợp lý .
chương II
Thực trạng đầu tư nước ngoài trong các KCN, KCX ở Việt nam thời gian qua .
1. Giới thiệu vài nét về các KCN-KCX
Trong quá trình đổi mới hội nhập kinh tế cùng thế giới Nhà nước Việt Nam đã sớm nhận biết được tầm quan trọng của KCN, KCX đối với sự phát triển kinh tế cũng như thu hút đầu tư nước ngoài. Vì vậy từ những năm 80 Nhà nước đã có chủ trương cho phép thành lập KCN, KCX. Mở đầu cho sự phát triển khu kinh tế ở Việt Nam là sự ra đời của khu công nghiệp, khu chế xuất Tân Thuận tại thành phố Hồ Chí Minh liên doanh với Đài loan vào tháng 11/1990. Cho đến nay số lượng KCN, KCX đã tăng khá nhanh chóng trên phạm vi cả nước. Tính đến năm 2000 cả nước có 67 KCN và 3 KCX
Biểu: Thời điểm thành lập KCN, KCX từ 1991 đến 9 tháng đầu năm 2000.
Năm
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999 2000
Số KCN, KCX
1
2
1
4
5
16
20
14
3 4
Như vậy từ năm 1991 đến 9 tháng đầu năm 2000 tốc độ phát triển của các KCN, KCX tăng đặc biệt nhanh vào các năm 1996, 1997, 1998. Các KCN nằm hầu hết ở phía Nam với 41 khu, miền Bắc 15 khu miền Trung 13 khu.
Về loại hình khu công nghiệp có 17 KCN thuộc loại khu công nghiệp được thành lập trên cơ sở có một số doanh nghiệp công nghiệp đang hoạt động. 11 khu công nghiệp phục vụ di dời các khu công nghiệp từ mọi độ lớn, 22 khu công nghiệp có qui mô nhỏ ở các tỉnh đồng bằng bắc bộ, duyên hải miền trung và đồng bằng sông Cửu long phục vụ chế biến nông lâm thuỷ sản. Có 10 khu công nghiệp mới, hiện đại trong đó có 13 khu công nghiệp hợp tác với nước ngoài để phát triển cơ sở hạ tầng thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Diện tích chiếm đất của 70 KCN trên 1 vạn ha (không kể KCN Dung Quất) bình quân 1 khu là 160 ha. Có 1/3 số khu công nghiệp là có diện tích 100 ha.
Về ngành nghề KCN gồm công nghiệp nhẹ, hoá chất điện tử, chế biến thực phẩm nông sản thuỷ sản phục vụ sản xuất nông nghiệp phục vụ xuất khẩu công nghiệp nặng gắn với cảng nước sâu ở các vùng kinh tế trọng điểm (tam giác phát triển vùng phía Bắc, phía Nam và miền Trung có khu Dung Quất Đà Nẵng với công nghiệp hoá chất công nghệ chế biến có khu Bà Rịa Vũng Tàu). Cơ cấu ngành nghề được gắn với lợi thế của từng vùng tránh triệt tiêu lẫn nhau.
Như vậy các khu công nghiệp Việt nam rất đa dạng về loại hình, diện tích đất ngành nghề đối tượng thu hút đầu tư, không gian hoạt động và thời gian thành lập. Nó quyết định chất lượng, kết quả hoạt động của khu công nghiệp trong thời gian qua.
Quá trình hình thành và phát triển khu công nghiệp đã "Hình thành mạng lưới khu công nghiệp, phân bố rộng khắp trên các vùng của đất nước phù hợp với nhịp độ phát triển kinh tế trên các vùng của đất nước".
2. Tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài trong
các KCN, KCX ở Việt Nam
Số doanh nghiệp
Vốn đăng ký
Doanh nghiệp trong nước
307
1, 38 Tỷ USD
Doanh nghiệp ngoài nước
543
6, 1 Tỷ USD
Tổng
850
7, 48 Tỷ USD
Nguồn: Ban quản lý KCN Việt Nam tính đến tháng 9 năm 2000.
Tính đến tháng 9 năm 2000 đã có 850 doanh nghiệp được cấp giấy phép hoạt động trong các khu công nghiệp với tổng số vốn đăng kí 7, 48 tỷ USD trong đó có 543 doanh nghiệp nước ngoài vốn đăng kí 6, 7 tỷ USD và 307 doanh nghiệp trong nước vốn đăng kí 16, 998 tỷ đồng. Vốn đã thực hiện khoảng 40% tổng vốn đăng kí.
Đã có 24 nước, vùng lãnh thổ có dự án đầu tư vào khu công nghiệp. Phần lớn các đối tác nước ngoài đầu tư vào khu công nghiệp thuộc các nước Đông á và Đông Nam Châu á. Các công ty của Nhật bản đã thực hiện các dự án đầu tư có công nghệ tiên tiến và giá trị xuất khẩu lớn như dự án sản xuất các thiết bị vi điện tử như công ty FUJILTSU, động cơ nhỏ MABUCHI, người máy rorzerobotech... Các công ty của Đài loan, Hàn quốc quan tâm đến công nghiệp điện tử, giầy da, dệt, chế biến nông sản phục vụ sản xuất nông nghiệp. Các đối tác châu âu và Mỹ có các dự án đầu tư gắn liền với công nghiệp chế biến dầu khí và công nghiệp hoá chất. Các KCN phía nam thực hiện đa dạng hoá các dự án đầu tư trong khi các khu công nghiệp ở Hà nội và Hải phòng tập trung vào hai đối tác là Nhật bản và Hàn Quốc.
Nếu như những năm trước đây, đầu tư nước ngoài chiếm tỷ lệ cao trong khu công nghiệp (chiếm khoảng 50% vốn đầu tư phát triển hạ tầng, gần 90% số dự án đầu tư và 93% vốn đầu tư của doanh nghiệp hoạt động trong khu công nghiệp) thì từ năm 1998 đến nay hình thức đầu tư trong nước nhích dần. Đây là một biểu hiện tốt, riêng 9 tháng đầu năm 2000 các KCN đã thu hút được 183 dự án, tăng 55% so với năm 1998. Với tổng vốn đăng kí là 632 triệu USD, tăng 54% so với năm 1998, trong đó có 75 dự án đầu tư nước ngoài vốn đăng kí là 425 triệu USD. Đầu tư trong nước có 108 dự án, vốn đăng kí 2. 887 tỷ đồng Việt Nam, tăng 4 lần so với năm 1998. Như vậy tình hình thu hút vốn đầu tư FDI vào các KCN, KCX của Việt Nam mặc dù chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á nhưng vẫn có các dấu hiệu khả quan.
3. Những thành quả và tồn tại trong KCN, KCX ở Việt Nam.
3.1. Những thành quả.
Hoạt động KCN đạt được kết quả tăng nhanh hơn so với nền kinh tế nói chung, ngành công nghiệp và KCN nói riêng.
Kết quả đạt được trong KCN, KCX( Triệu USD ).
Năm
Chỉ Tiêu
Giá trị sản lượng
Đóng góp xuất khẩu
1997
1. 155
848
1998
1. 871
1. 300
1999
1. 700
1. 170
2000
1.751
1.230
Năm 1997 đạt giá trị sản lượng 1. 155 triệu USD, chiếm 12% giá trị sản xuất CN. Đóng góp cho xuất khẩu 848 triệu USD, gần bằng 7% giá trị xuất khẩu của cả nước, 47% giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tăng 2 lần so với năm 1996.
Năm 1998 các KCN đạt giá trị sản lượng 1. 871 Triệu USD chiếm gần 16% giá trị sản xuất CN, đóng góp cho xuất khẩu 1. 300 triệu USD, bằng 12% giá trị xuất khẩu cả nước, 65% giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tăng 50% so với năm 1997.
Trong 9 tháng năm 1999 các KCN có giá trị sản lượng 1,5 tỷ USD chiếm 17% giá trị sản lượng CN của cả nước, trong đó xuất khẩu đạt 1,17 tỷ USD chiếm 13% giá trị xuất khẩu của cả nước. Cả 2 chỉ tiêu này tăng 30% so với cùng kì năm 1998.
Trong năm 2000, các KCN có giá trị sản lượng 1,7tỷ USD chiếm 18% giá trị sản lượng công nghiệp của cả nước.
Các KCN đã thu hút 13, 7 vạn lao động, tạo ra sức mua cho xã hội khoảng 1000 tỷ đồng/năm.
Ngoài số lao động trực tiếp làm việc trong KCN, KCX, đã tạo việc làm cho hàng vạn lao động làm việc trong ngành dịch vụ, xây dựng cơ bản phục vụ cho các KCN.
Tay nghề công nhân, trình độ cán bộ quản lý được nâng lên. Mức lương và thu nhập của người dân cao hơn. Nhiều KCN đã trả lương người lao động với mức 1 triệu đồng/tháng. Công nhân làm việc trong KCN tại Bình Dương có mức lương trung bình là 680. 000 đồng/tháng.
KCN tác động đến phát triển các cơ sở nguyên liệu, dịch vụ cho nông nghiệp, nâng cao giá trị nông sản, mở rộng thị trường, hình thành các đô thị vệ tinh. Thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng và góp phần xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế gắn với văn minh tiến bộ và công bằng xã hội.
Đầu tư nước ngoài góp phần quan trọng trong việc hình thành và phát triển KCN, ngược lại KCN là địa bàn thuận lợi để thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Những năm gần đây số dự án và số vốn đăng kí tăng nhanh. Nhiều dự án đầu tư đi vào hoạt động ổn định góp phần tạo ra nhiều sản phẩm công nghiệp với số lượng lớn, chất lượng cao đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và xuất khẩu.
Chính yếu tố này đã tạo nên tốc độ ổn định về giá trị xuất khẩu của cả nước trong những năm gần đây. Nhất là năm 1999 tốc độ tăng trưởng 23% gấp 3 lần kế hoạch.
Các doanh nghiệp không những thúc đẩy nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao và tương đối ổn định mà còn tạo tiền đề và điều kiện để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH.
3.2. Những tồn tại.
+ Chưa thống nhất trong nhận thức và vận dụng phát triển KCN.
Sau hơn 9 năm hoạt động, vai trò của KCN, KCX đối với sự phát triển của nền kinh tế là không thể phủ nhận. Nhưng trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện vẫn tồn tại nhận thức cho rằng KCN chỉ là “một túi đựng các doanh nghiệp công nghiệp” nên vẫn còn trường hợp thực thi chính sách, tổ chức quản lý KCN như các doanh nghiệp riêng rẽ. Nói cách khác trong tư duy vẫn chưa coi KCN là thực thể kinh tế- xã hội, từ đó xuất hiện những biểu hiện bàng quan đứng ngoài, thậm chí có tư tưởng phủ định vai trò của KCN cho rằng phát triển KCN trong thời gian qua là theo phong trào, thay vì phải cùng hợp lực để phát huy vai trò, hiệu quả của nó vì lợi ích của ngành, của địa phương và của nền kinh tế. Có địa phương cho rằng: KCN là của trung ương và khoán trắng cho ban quản lý KCN và công ty phát triển hạ tầng.
+ Luật pháp chưa đồng bộ, chưa đáp ứng nhu cầu phát triển.
Vẫn còn sự khác biệt giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài trong hoạt động KCN. Do vẫn còn duy trì chính sách bảo hộ doanh nghiệp trong nước nên đến nay vẫn chưa tạo được một sân chơi bình đẳng giữa các doanh nghiệp, tạo sự cạnh tranh trong một môi trường pháp lý công bằng và minh bạch.
Công tác quy hoạch và phát triển KCN dựa trên cơ sở các đề nghị của UBND tỉnh, chưa thực sự gắn quy hoạch ngành nghề kết hợp với lãnh thổ trên cơ sở quy hoạch tổng thể. Danh mục các KCN mới nêu tên, địa điểm và diện tích đất, chưa có nội dung kinh tế-kỹ thuật, nên khi xem xét không đủ thông tin, căn cứ để ra quyết định chính xác KCN nào làm trước, KCN nào cho phép triển khai sau.
Đối với các doanh nghiệp trong nước chưa có quy định khuyến khích nhiều cho các doanh nghiệp trong KCN nên các doanh nghiệp trong nước vẫn còn thực hiện đầu tư ngoài KCN, chưa mặn mà đầu tư vào KCN dẫn đến khó khăn khi thực hiện quy hoạch phát triển.
Chậm thực hiện chính sách đào tạo nguồn nhân lực, nên việc cung cấp lao động cho KCN đang xuất hiện nghịch lý: thừa lao động giản đơn nhưng thiếu lao động kỹ thuật. Trong số 12 vạn lao động đang làm việc tại KCN có không ít lao động tuyển từ ngoài tỉnh, trong khi đó tỉnh vẫn còn hàng vạn lao động vẫn còn chờ việc làm. Nguyên nhân chủ yếu là do lao động địa phương chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc như chưa có tay nghề cao hoặc chưa có đủ điều kiện về trình độ học vấn để học nghề.
Việc đền bù giải quyết phóng mặt bằng đang là một vấn đề nổi cộm, làm chậm quá trình phát triển KCN gây nhiều khó khăn cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước trong xây dựng hạ tầng, thành lập các doanh nghiệp trong KCN. Công tác giải phóng mặt bằng nhanh cũng phải mất cả năm, ở các tỉnh miền Bắc còn dài hơn. Thủ tục hành chính về đất rất phức tạp, qua nhiều cửa, kéo dài thời gian thực hiện, chủ đầu tư thiếu vốn để đền bù, ở các tỉnh miền Nam để có đất làm các chủ đầu tư phải bỏ tiền ra mua đất của nông dân, sau đó phải trả tiền thuê đất cho Nhà nước. Nếu không có sự chỉ đạo thường xuyên của các cơ quan chính quyền địa phương trong vận động giải thích, thuyết phục di dời để lấy đất làm KCN thì việc đền bù giải phóng mặt bằng vẫn là khó khăn lớn nhất đối với công ty phát triển hạ tầng KCN trong giai đoạn đầu phát triển KCN.
Vấn đề môi trường chúng ta chưa có một chiến lược chung về bảo vệ môi trường phù hợp với đối tượng là các KCN. Sự phối hợp giữa Bộ, Ngành, Trung ương, các Sở và Ban quản lý KCN chưa chặt chẽ. Tình trạng những dòng kênh vẫn tiếp tục hứng chịu các loại chất thải không được xử lý, cũng như nhiều cư dân đô thị vẫn tiếp tục hứng chịu khói, bụi, tiếng ồn từ các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm. Kế hoạch di dời các cơ sở gây ô nhiễm chưa cụ thể. Trên chỉ đạo xuống dưới, dưới chưa có đủ cơ sở kỹ thuật để lập “bản đồ hiện trạng”. Sống chung với ô nhiễm là sự trả giá cho sự phát triển không đồng bộ.
Vấn đề tổ chức còn nhiều vướng mắc: ở Trung ương vẫn chưa thực hiện cơ chế một đầu mối giải quyết vấn đề liên quan đến KCN, nên tình trạng đùn đẩy, sợ trách nhiệm kéo dài thời gian xử lý hoặc rơi vào im lặng. Nhiều khi cần ý kiến của cơ quan chủ quản thì không biết ai là cơ quan chủ quản. Các ban quản lý cấp tỉnh hoạt động còn lúng túng, thiếu kinh nghiệm, quan hệ giữa một số ban quản lý KCN cấp tỉnh với một số ban ngành còn vướng mắc.
Vấn đề giá các dịch vụ ở nước ta hiện nay tuy đã có chủ trương nhưng việc thực hiện cơ chế một giá đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước vẫn còn tình trạng thu ép giá đối với người nước ngoài. Giá thuê đất ở nước ta còn cao hơn các nước trong khu vực, điều đó làm giảm mức thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Chính sách thuế ở nước ta chưa đồng bộ, vẫn còn tình trạng chồng chéo và gian lận trong thương mại như: trốn thuế, hàng giả, hàng lậu...
Trong mấy năm gần đây ở Việt Nam xuất hiện tình trạng chuyển giá. Đây là hình thức các tập đoàn lớn lợi dụng các liên doanh ở các nước sở tại trong đó có Việt Nam để chuyển giá, lợi nhuận và các khoản tài chính khác nhằm mục đích trốn thuế. Vì thế các liên doanh trở thành con bài giao dịch của các tập đoàn kinh tế lớn. Các liên doanh chỉ việc làm theo kế hoạch của các tập đoàn chứ không quan tâm đến việc làm ăn lỗ lãi tại nước sở tại. Điều này rất tai hại cho chiến lược phát triển của các nước sở tại trong đó có Việt Nam.
Vấn đề “Một cửa tại chỗ” tuy đã có nêu ra nhưng việc thực thi chưa có hiệu quả, vẫn còn tình trạng thủ tục hành chính rườm rà, qua nhiều cửa nhiều cấp rất phức tạp gây nhiều khó khăn phiền hà cho các nhà đầu tư.
Như vậy sau 10 năm đi vào hoạt động, KCN Viêt Nam đã trở thành một động lực kinh tế không thể thiếu được ở nước ta. Nhìn lại ta thấy được nhiều thành quả, bên cạnh đó vẫn tồn tại những vướng mắc. Điều đó buộc Nhà nước Việt Nam phải nhanh chóng phát huy những kết quả đạt được và khắc phục tồn tại để phát triển hơn nữa các KCN, KCX ở Việt Nam
Chương III
Quan điểm và một số giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển các kcn, kcx ở việt nam
1. quan điểm thu hút fdi vào các Kcn-kcx.
Chúng ta cần khẳng định lại chủ trương phát triển KCN, KCX ở nước ta là đúng đắn, cần thiết. CNH-HĐH ở một nước đất chật người đông, đi đôi với phát triển đảm bảo công bằng xã hội, môi trường sinh thái, không thể không có KCN nhất là khi nền hành chính còn nhiều rắc rối. Phát triển KCN không còn là việc riêng của từng ngành mà là sự nhiệp của toàn Đảng, toàn dân. Trong nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VIII đã đề ra phương hướng cho phát triển KCN là: "cải tạo các khu công nghiệp hiện có về kết cấu hạ tầng và công nghệ sản xuất. Xây dựng mới một số KCN phân bố rộng trên các vùng".
Từ sự chỉ đạo của văn kiện đại hội Đảng VIII chúng ta xác định phát triển KCN, KCX theo các hướng sau:
Xây dựng KCN trở thành lực lượng công nghiệp mạnh, có hiệu quả và sức cạnh tranh, phát triển theo hướng ngoại, nâng cao tay nghề công nhân, nắm bắt và vận dụng được nhiều thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ, thực hiện bảo vệ môi trường, phát huy hơn nữa vai trò lan toả, dẫn dắt của KCN đối sản xuất, kinh doanh thị trường ngoài KCN.
Từ nay đến năm 2020, phấn đấu đưa khu công nghiệp khoảng một nửa tổng giá trị sản lượng công nghiệp cả nước đảm bảo tốc độ bình quân hàng năm từ 15% đến 18%.
Chuyển dần từ công nghiệp gia công sang công nghiệp chế biến các nguyên liệu trong nước có sẵn và công nghiệp chế tạo nhằm nâng cao giá trị hàm lượng quốc gia của sản phẩm, hạn chế thua thiệt như hội nhập thị trường quốc tế và thị trường khu vực.
Đến năm 2010, tạo điều kiện cho các dịa phương có kế hoạch từng bước phát triển KCN, có tính đến khả năng của nền kinh tế theo kịp được tiến trình CNH-HĐH đất nước. Theo đó có thể tất cả 61 tỉnh thành trong cả nước sẽ có KCN, phát triển KCN theo chiều sâu và nâng cao chất lượng hiệu quả cuả nó theo hướng: Lấp đầy diện tích đất công nghiệp, chuyển dịch cơ cấu bên trong thông qua chuyển giao công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm và cuối cùng là phát triển công nghệ cao thuộc các lĩnh vực thông tin, cơ điện, điện tử, vật liệu mới và công nghệ sinh học.
Các doanh nghiệp công nghiệp thành lập hay di dời theo hướng: Từ những dự án đòi hỏi gần nguồn nguyên liệu, cần diện tích đất lớn vài trăm hecta, các dự án đầu tư theo chiều sâu không thuộc diện di dời và phù hợp với quy hoạch. Các dự án còn lại kiên quyết hướng các nhà đầu tư vào KCN.
Cải tạo làng nghề truyền thống và cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp hiện có về kết cấu hạ tầng và công nghệ sản xuất. Hình thành và phát triển KCN nhỏ tại các vùng nông thôn.
Các KCN đã thành lập phải cố gắng tiếp tục đầu tư để lấp đầy các khoảng trống trong KCN.
Theo các hướng như vậy Nhà nước ta đã dự báo nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển KCN, KCX ở Việt Nam trong những năm tới là:
Biểu nhu cầu vốn đầu tư phát triển KCN, KCX Việt Nam năm 2000-2010
TT
Chỉ Tiêu
Đơn Vị
1998
2000
2010
2000/1998
2010/1998
1
Số KCN, KCX
Khu
62
70-80
100
2
Tổng diện tích
Hecta
24. 109
26. 000
31. 000
3
Vốn phát triển hạ tầng.
Trong đó:
+ FDI:
+Vốn trong nước:
Triệu USD
1. 583
707, 7
875, 6
3. 600
1. 620
1. 986
5. 100
25. 000
2. 600
2, 27
2, 30
2, 26
3, 22
3, 50
3, 00
4
Tỷ trọng FDI trong tổng vốn
%
44, 6
45
49
5
Vốn đầu tư cho hạ tầng bình quân mỗi khu
Triệu USD
25, 5
48
51
Dự báo đến năm 2010 cả nước định hình khoảng trên dưới 100 KCN, KCX. Thu hút một lực lượng vốn đầu tư rất lớn khoảng 5. 100 triệu USD trong đó FDI là 2. 500 triệu USD chiếm khoảng 48%, gấp 3, 3 lần so với năm 1998.
2. Các giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển KCN, KCX ở Việt Nam trong thời gian tới.
2.1. Đồng bộ hoá hệ thống pháp luật, tạo môi trường thông thoáng để thu hút vốn đầu tư.
Hệ thống pháp luật là một trong những điều kiện ràng buộc liên quan đến công việc làm ăn của các nhà đầu tư. Vì vậy để tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển KCN, KCX thì Nhà nước Việt Nam phải ban hành những cơ chế chính sách còn thiếu, sửa đổi, bổ sung những chính sách không phù hợp để tạo ra môi trường pháp lý đồng bộ, “Luật chơi hoàn chỉnh” cho hoạt động của KCN, KCX.
Luật pháp được xây dựng và sửa đổi phải dựa vào địa điểm, phong tục, tập quán của đất nước và thông lệ quốc tế. Tạo ra môi trường ổn định, thông thoáng, công bằng cho các nhà đầu tư.
Nghiên cứu kinh nghiệm của các nước đồng thời sáng tạo, đưa ra các sáng kiến mới để cụ thể hoá luật pháp. Các chính sách về luật trước lúc ban hành phải làm thí điểm ở vài KCN, KCX để đánh giá được các tác động của nó.
Sửa đổi trong ổn định các chính sách lớn có ảnh hưởng trực tiếp tới lợi ích của các nhà đầu tư. Đồng thời phải linh hoạt, uyển chuyển trong các trường hợp cụ thể (Tức giao nhiều quyền tự quyết, tự quản cho KCN, KCX).
Các vấn đề địa điểm KCN, KCX cần được luật hoá. Vấn đề giải phóng mặt bằng KCN, KCX và phát triển mở rộng KCN, KCX nên giao cho các chủ đầu tư hay giao cho chính quyền địa phương cần quy định rõ.
Ngoài ra, Nhà nước cần phải hoàn thiện các chính sách liên quan đến người nước ngoài, XNK, quy chế đấu thầu, Luật thương mại, tài chính... để đảm bảo cho người nước ngoài yên tâm đầu tư.
2.2. Tạo ra quy hoạch KCN, KCX hợp lý.
Vấn đề thu hút vốn đã khó khăn nhưng vấn đề sử dụng vốn lại càng khó khăn hơn. Với số vốn có thể có làm sao để sử dụng vốn đó có hiệu quả để tạo lòng tin cho các nhà đầu tư mới là quan trọng. Chính vì vậy mà việc phát triển KCN, KCX cần được quy hoạch một cách hợp lý.
Trước hết công tác quy hoạch cần phải căn cứ vào điều kiện, tiềm năng, đặc điểm tự nhiên, khí hậu, phong tục tập quán... của từng vùng, địa phương. Các KCN trước đây quy hoạch chưa hợp lý, hoạt động không hiệu quả, không khai thác được tiềm năng của vùng, địa phương cần xử lý một cách dứt điểm. Mỗi tỉnh, thành phố nên nghiên cứu thế mạnh lớn nhất của mình để thành lập KCN, KCX. Xem đây là trung tâm để phát triển vùng và địa phương đó.
Do điều kiện, đặc điểm của đất nước cần phát triển các KCN vừa và nhỏ. Đồng thời cần thành lập các KCN, KCX lớn có tầm cỡ Quốc tế để tham gia tốt tiến trình hội nhập. Tất nhiên việc thành lập KCN ở các tỉnh, thành phố cũng phải tính toán hợp lý tránh tình trạng đua nhau thành lập, các KCN, KCX mọc lên tràn lan mà không chú ý tới chất lượng. Tính đến tháng 9 năm 1999 ở Việt nam có 66 KCN phân bố ở hầu hết các tỉnh, thành phố. Với số lượng như vậy chúng ta cần đầu tư vào việc lấp đầy các khoảng trống trong KCN tạo cho các KCN này hoạt động có hiệu quả.
Hiện nay ở Việt Nam, nông nghiệp vẫn được chú trọng phát triển vì vậy các KCN thành lập cấn có các đề án để sử dụng hợp lý các sản phẩm nông nghiệp (kể cả thành phẩm, cả phế phẩm) tạo ra sự liên kết chặt chẽ giữa công nghiệp-nông nghiệp-dịch vụ.
2.3. Phát huy dân chủ trong hoạt động kinh tế. Tạo mối quan hệ hợp lý giữa Nhà nước và KCN, KCX.
Vấn đề tạo ra mối quan hệ hợp lý giữa Nhà nước và KCN, KCX là vấn đề phức tạp. Nhà nước với vai trò quản lý vĩ mô của mình nên quản lý và kiểm soát các KCN ở tầm vĩ mô, định hướng phát triển cho KCN, KCX. Còn các chính sách cụ thể nên để cho các KCN, KCX tự linh hoạt, tự xử lý. Hay nói cách khác là Nhà nước nên giao quyền tự quyết, tự quản cho các KCN, KCX miễn là kết quả không trái với định hướng, với mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Nhà nước nên tạo điều kiện cho doanh nghiệp, các nhà đầu tư được giao dịch một cách trực tiếp với cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước để được tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn.
Cần phát huy dân chủ trong hoạt động kinh tế. Khi xây dựng các thể chế kinh tế Nhà nước cần lấy ý kiến của các đối tượng thi hành, đặc biệt là các doanh nghiệp, các nhà đầu tư. Bảo đảm cho mọi quy định được phù hợp với thực tế, kết hợp hài hoà lợi ích doanh nghiệp với lợi ích Nhà nước.
Trong mối quan hệ giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước, Nhà nước cần phải tạo ra sự công bằng, vô tư cho các doanh nghiệp. Nhà nước cần phải có một cơ chế thành lập ban chủ quản để giải quyết các vấn đề liên quan đến KCN, KCX.
Đồng thời chính phủ cần có biện pháp yêu cầu các doanh nghiệp tuân thủ pháp luật, hợp lực với Nhà nước xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh, đấu tranh chống các hành vi gian lận thương mại, vi phạm pháp luật. Điều đó đáp ứng yêu cầu và lợi ích của các doanh nghiệp muốn làm ăn chính đáng và cạnh tranh lành mạnh.
2.4. Cải thiện chính sách thuế, giảm thuế cho thuê đất.
Mức thuế suất hợp lý cũng sẽ là một lợi thế để thu hút các nhà đầu tue. Mặc dù KCN, KCX ở Việt nam đã có một số ưu đãi về thuế nhưng so với các nước trong khu vực thì vẫn chưa có ưu thế, cụ thể như thuế XNK, thuế VAT... chính sách thuế nhiều khi còn chồng chéo lên nhau. Chính vì vậy Nhà nước cần đưa ra các chính sách hợp lí để quản lý thuế, cần phải cụ thể chặt chẽ tránh tình trạng gian lận, trốn thuế làm lũng đoạn thị trường.
Hoạch định chính sách thuế phải phù hợp với xu thế hội nhập của thế giới, với định hướng tham gia vào các tổ chức thương mại khu vực và quốc tế. cần thí điểm cho một vài KCN, KCX để thực hiện chính sách giảm thuế nhằm thấy được các tác động cụ thể của nó để khắc phục.
Trong vấn đề chi phí trong khu chế xuất, một điểm còn nổi bật lên là vấn đề giá cho thuê đất. Hiện nay, mức giá cho thuê đất ở nước ta vẫn còn cao, việc này ảnh hưởng đến việc phát triển cơ sở hạ tầng trong KCN, KCX. Vì vậy, Nhà nước cần cho thuê đất với giá ưu đãi nhất, thậm chí chỉ thu tượng trưng để phát triển hạ tầng KCN và nên coi đất phát triển KCN khác hẳn với đất dành cho phát triển đô thị và kinh doanh các bất động sản khác thì mới đẩy nhanh tiến trình thu hút đầu tư, đặc biệt là thu hút FDI vào KCN, KCX. Nhà nước cũng cần điều chỉnh giá thuê đất ở miền Bắc, miền Trung và miền Nam cho hợp lý tránh tình trạng chênh lệch nhau khá lớn.
2.5. Hoàn thiện cơ sở hạ tầng trong KCN, KCX.
Đây là công việc tạo được sự thuận lợi, một tâm lý hài lòng của chủ đầu tư khi đầu tư vào KCN. Điều này là cách để giữ được chân các nhà đầu tư ở lại tiếp tục đầu tư vào KCN.
Chính vì vậy mà Nhà Nước ngoài nguồn vốn ngân sách cần huy động tối đa tất cả các nguồn vốn của các thành phần kinh tế khác để phát triển cơ sở hạ tầng. Cho phép xây dựng các ngân hàng hay mở các chi nhánh ngân hàng, bưu điện, sân bay, hải cảng... trong KCN, KCX.
Nhà nước có thể ban hành nhiều chính sách như: Cho vay ưu đãi ( có thể không có lãi suất để xây dựng cơ sở hạ tầng trong KCN). Không thu thuế đất của các doanh nghiệp xây dựng cơ sở hạ tầng KCN và nhiều chính sách giảm thuế, ưu đãi khác đối với các doanh nghiệp xây dựng cơ sở hạ tầng KCN.
2.6. Xây dựng, hoàn thiện mô hình tổ chức quản lý, thực hiện nguyên tắc một cửa, tại chỗ.
Hiện nay, tuy đã có sửa đổi nhưng vấn đề tổ chức quản lý các doanh nghiệp trong KCN vẫn chưa đồng bộ.
Nhiều thủ tục còn rườm rà gây nhiều khó khăn, phiền hà cho chủ đầu tư. Vì vậy các cơ quan nhà nước phải gấp rút nghiên cứu để xây dựng một mô hình tổ chức quản lý phù hợp để thúc đẩy sự phát triển của KCN, KCX.
Phải xây dựng một cơ chế quản lý “ Một cửa tại chỗ” từ trung ương đến địa phương phải làm cho cơ chế này thực sự có hiệu quả. Cần có một đầu mối tại Trung ương lo cho các KCN.
Tuy nhiên thực tế cho thấy vấn đề “ Một của tại chỗ” chưa áp dụng được thành công là do vấn đề bổng lộc, quyền lợi, chung nhiều của cán bộ trong đó có cả trả lương không đúng vì thế Nhà nước phải đưa ra chính sách chế độ tiền lương họp lý đồng thời giáo huấn đối với đội ngũ cán bộ.
Tăng cường hiệu lực cho ban quản lý KCN của Trung ương, ban này cần phải trở thành ban chủ quản cấp trên. Đồng thời các tỉnh uỷ quyền thêm số ban quản lý KCN để các ban quản lý KCN có nhiều quyền tự quyết, chủ động hơn trong công việc làm ăn. Tất nhiên cũng cần xác định rõ ban quản lý KCN cấp tỉnh là của địa phương. Còn ban quản lý cấp trung ương chỉ là đầu mối thực hiện, giúp mọi việc cho địa phương. Cấp trung ương nên tập trung vào việc tháo gỡ về cơ chế, chính sách.
Việc nữa là các KCN cần bỏ dần cơ chế xin cho để chủ động huy động vốn và làm ăn có trách nhiệm hơn. Có cơ chế tài chính phù hợp cho hoạt động của ban quản lý như mạnh dạn cho phép ban quản lý để lại một tỷ lệ thoả đáng các nguồn thu để ban tự trang trải cho mọi hoạt động của mình.
2.7. Chủ động vận động đầu tư và tiếp thị vào KCN, KCX.
Với chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá chính sách đối ngoại là một điều kiện thuận lợi cho việc thu hút vốn đầu tư. Vấn đề ở đây là ở các doanh nghiệp KCN. Các doanh nghiệp phải biết tự vận động, phải chủ động hoà nhập mình vào các hoạt động kinh tế quốc tế, phải xây dựng hệ thống thông tin tiếp thị vừa tiếp thị trực tiếp thị từ xa. Phải cử người ra nước ngoài để thương thuyết, vận động nhiều tập đoàn, nhiều doanh nghiệp đầu tư vào Việt Nam. Phải giới thiệu để họ biết về doanh nghiệp, về tiềm năng của doanh nghiệp, tiềm năng của KCN và từ đó họ thấy lợi ích mà họ sẽ thu được khi đầu tư vào Việt Nam.
Chúng ta cần mở rộng hơn nữa các diện đối tác ở các nước có tiềm năng. Trong đó cần chú trọng cả nội dung lẫn hình thức tiếp thị với nhiều hình thức giới thiệu các KCN, KCX Việt Nam ra thị trường thế giới. Trong phạm vi thẩm quyền cho phép, Ban quản lý hoặc công ty phát triển hạ tầng về việc giao dịch với các tổ chức và cá nhân nước ngoài tham quan, khảo sát thị trường các nước tổ chức hội thảo, tìm hiểu và học hỏi những kinh nghiệm hoạt động KCN ở các tỉnh bạn hoặc liên kết với các tỉnh bạn trong quan hệ mở rộng thị trường đầu tư thế giới.
Trong công tác tiếp thị nên cung cấp đầy đủ thông tin cần thiết cho các đối tác như khả năng cung cầu của sản phẩm sẽ được sản xuất, tiến độ thực hiện các công trình kết cấu hạ tầng trong KCN, các chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư được áp dụng với từng KCN, KCX cũng như kết quả thực hiện những cải cách thủ tục hành chính tại địa bàn tỉnh.
Tính hấp dẫn của môi trường đầu tư phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó vị trí địa lý KCN cùng hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội thuận lợi có ý nghĩa hàng đầu đối với các nhà đầu tư và chính đây là cơ sở thiết thực để làm tốt công tác tiếp thị đầu tư vào các KCN, KCX ở Việt Nam.
Kết luận
Trải qua một quá trình lịch sử lâu dài và bằng những kinh nghiệm rút ra từ nhiều nước trên thế giới, chúng ta có thể khẳng định được rằng những tác động kinh tế qua hoạt động thu hút FDI vào các khu công nghiệp và khu chế xuất là rất to lớn, nó đã và đang là nhân tố cấu thành và quy định xu hướng phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế. Mặt khác nó là nhân tố cơ bản thúc đẩy nhanh quá trình phát triển của nền kinh tế.
Hiện nay, ở nước ta đã hình thành mô hình KCN, KCX. Tính đến năm 2000 là 67 KCN (trong đó có 3 KCX). Các KCN, KCX. Tuy nhiên bên cạnh đó còn có nhiều KCN chưa phát huy được tác dụng của mình.
Chính vì vậy mà Nhà nước ta phải có các giải pháp, các chính sách ưu đãi để thu hút được nhiều hơn nữa các nguồn vốn đầu tư đặc biệt là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Việc đưa ra các giải pháp và chính sách hợp lý sẽ không những tạo ra môi trường đầu tư và hành pháp lý thuận lợi cho FDI mà còn tạo điều kiện thúc đẩy cho các khu công nghiệp và khu chế xuất phát triển, từ đó góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, đưa nền kinh tế nước ta từng bước hoà nhập với nền kinh tế của các nước trong khu vực và trên thế giới./.
.
Tài liệu tham khảo
Giáo trình kinh doanh quốc tế :
Giáo trình lập dự án -ĐHKTQD
Các bản tổng kết của ban quản lý KCN-KCX
Tạp chí cộng sản số 12,14,17 năm 2000
Võ Đại Lược - Thực trạng chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu 15 năm qua của việt nam ( Tạp chí KTTG số 4 - 8/2001 )
Trịnh Thị Hoa Mai - Vấn đề phát triển bền vững trong tiến trình phát triển KCN-KCX ở việt nam ( TCKTTG số 1- 2/2001 )
Nguyễn Xuân Dung - Một số vấn đề trong việc xây dựng KCN-KCX ở việt nam (TCKTTG số 5-10/99 )
Võ Đại Lược -Những vấn dề đặt ra cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của việt nam ( TCKTTG số 2-4/99 )
Nguyễn Sinh Cúc -Thực trạng của những KCN-KCX của việt nam hiện nay ( tạp chí phát triển kinh tế 7/99 )
Võ Phước Tấn -Giải pháp chiến lược thu hút FDI tại việt nam giai đoạn 2001-2005 (TCPTKT 8/2001 )
mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33715.doc