Cùng với các chính sách, giải pháp vốn đầu tư trên đây thì việc đổi mới chính sách huy động và sử dụng nhân lực cho phát triển CSHT GTNT cũng là một trong những vấn đề quan trọng và cần thiết.
Thực tế cho thấy hàng năm có tới hàng chục triệu ngày công lao động được huy động và sử dụng vào mục đích tạo lập và phát triển các công trình CSHT GTNT. Tuy nhiên phần lớn lực lượng lao động này được thực hiện dưới các hình thức đóng góp trực tiếp, tại chỗ như: lao động nghĩa vụ, lao động công ích Đó là các hình thức mang nặng tính hành chính, bắt buộc và mang tính bình quân theo quyết định của mỗi địa phương, mỗi cơ sở .
103 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1518 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp thúc đẩy đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn Việt Nam từ nay đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
“Đẩy mạnh việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, ưu tiên cho công trình trọng diểm phục vụ chung cho nền kinh tế… xây dựng một cơ sở hạ tầng thiết yếu ở nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Tăng tỷ lệ đầu tư cho nông thôn và nông nghiệp, xây dựng và nâng cao cơ sở hạ tầng”.
Phát triển cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn là giải pháp quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội nông thôn và nền nông nghiệp Việt Nam. Nghị quyết Đại hội Đảng đã xem xét đến vấn đề cơ sở hạ tầng nông thôn dưới góc độ kinh tế và coi hệ thống đường giao thông nông thôn là một trong những vấn đề nổi cộm. Phát triển giao thông nông thôn sẽ đảm bảo cho việc lưu thông hàng hoá một cách thông suốt, gắn người tiêu thụ với các cơ sở sản xuất nông thôn. Từ đó sẽ tạo điều kiện mở rộng thị trường cho nền kinh tế nông thôn. Nhờ đó đời sống của nông dân được cải thiện, chất lượng cuộc sống được nâng lên. Điều này là phù hợp với chương trình xóa đói giảm nghèo của Nhà nước, đây được coi là chương trình kinh tế xã hội quan trọng trong chiến lược phát triển nông thôn. Gắn xoá đói giảm nghèo với tăng trưởng kinh tế mà giải pháp chủ yếu là tập trung đầu tư cho cơ sở hạ tầng, trong đó phát triển giao thông nông thôn là một trọng điểm đầu tư.
Đảng và Nhà nước ta cũng đã xác định phát triển giao thông nông thôn là nền tảng cho việc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn từ đó đóng góp phần vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Nhà nước chủ trương: Việc đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn được gắn chặt giữa các nguồn lực theo phương châm: Nhà nước đầu tư hỗ trợ, cộng đồng xã hội tham gia đầu tư, gắn chặt việc xây dựng với các chương trình khác.
Đảng và Nhà nước đã vạch rõ đường lối và quan điểm phát triển cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn như sau:
a. Quan điểm về chiến lược phát triển CSHT GTNT
Nhà nước thay đổi cơ cấu đầu tư tăng thêm tỷ lệ vốn đầu tư cho nông nghiệp, tăng gấp đôi so với tốc độ tăng trưởng của nông nghiệp vừa qua. Vì vậy trong xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn. Bởi vì khi chuyển sang sản xuất hàng hoá thì việc giao lưu, trao đổi hàng hoá trở nên cấp thiết, do vậy đòi hỏi phải có đường và đường tốt để vừa vận chuyển nhanh với giá vận tải hạ mà vẫn đảm bảo hàng hoá không bị hỏng, giá thành hàng hoá giảm. Đó là điều cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Thực tế, ở nước ta những năm gần đây đường xá mở đến đâu thì bến xe, chợ thị trấn, thị tứ mọc ra đến đó. Sự giao lưu hàng hoá đó phát triển là “cầu” cho sự phát triển “cung” của sản xuất hàng hoá. Với ý nghĩa đó đầu tư và xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn phải trở thành chiến lược phát triển lâu dài, đầu tư lớn.
b. Quan điểm về tính hiệu quả trong đầu tư
Để phục vụ tình trạng đầu tư dàn đều như những năm trước đây, nhất là thời kỳ bao cấp, vốn đầu tư có tính chất cấp phát do địa phương nào, cơ quan nào cũng tìm mọi cách để xin được vốn đầu tư, không tính đến hiệu quả.
Trong thời gian tới việc đầu tư xây dựng cơ bản trong nông nghiệp, trong đó có vấn đề xây dựng CSHT giao thông nông thôn phải được thực hiện theo những quy định nhất định, trước hết là phải có luận chứng kinh tế, có điều kiện tiếp nhận vốn đầu tư, người chủ công trình phải chịu trách nhiệm tổ chức quản lý sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả.
c. Quan điểm đa dạng hoá các hình thái vốn đầu tư
Sử dụng nhiều nguồn vốn để đầu tư như vốn ngân sách cấp, vốn vay chung, vốn vay với lãi xuất thấp hoặc vốn vay không có lãi, huy động theo dạng phát hành trái phiếu có mục tiêu, huy động vốn theo dạng cổ phần đầu tư và từng công trình. Thực hiện một chiến lược vốn đầu tư xây dựng cơ bản chung cho nền kinh tế của đất nước và phát triển kinh tế nông thôn nói riêng.
d. Quan điểm xã hội hóa phát triển cơ sở hạ tầng GTNT
Giao thông nông thôn phát triển tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất, giao lưu thành thị và nông thôn được mở rộng, nâng cao dân trí cho nhân dân khu vực nông thôn. Nên phát triển cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn là công việc không chỉ của riêng Chính phủ mà là công việc của toàn dân. Do đó, nguồn vốn để đầu tư phát triển GTNT phải được huy động từ nhiều nguồn như ngân sách TW, ngân sách địa phương, sự đóng góp của nhân dân và cả các doanh nghiệp, với phương châm “dân làm là chính, Nhà nước hỗ trợ một phần”.
2.2. Mục tiêu phát triển cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn:
Giao thông nông thôn phát triển sẽ góp phần tích cực thúc đẩy sự phát triển nông nghiệp, làm thay đổi bộ mặt nông thôn rút ngắn khoảng cách giữa nông thôn với thành thị, giữa niền núi với đồng bằng về kinh tế, văn hoá, tạo điều kiện thuận lợi lưu thông hàng hoá do nông thôn làm ra đến nơi tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
a-Mục tiêu trước mắt của xây dựng giao thông nông thôn từ nay đến năm 2005 là:
+ Mở thông đường cho xe ô tô đến 390 trung tâm xã và cụm xã, đồng thời làm đường cho ngựa thồ và xe máy đến được 25 xã còn lại và phấn đấu có 94,2% số xã có đường ô tô đến trung tâm xã.
+ Phấn đấu mỗi năm nâng cấp mặt đường từ 5- 6% để đến năm 2005 hệ thống đường giao thông nông thôn đạt khoảng 40- 50% mặt đường bằng bê tông xi măng hoặc bê tông nhựa.
+ Từng bước xoá cầu “khỉ”, nâng cao chất lượng các công trình vượt sông và đảm bảo tính vĩnh cửu của nền, mặt đường và giao thông thông suốt liên tục. Xây dựng mới 5500 cái cầu/ 61000 m dài ở đồng bằng sông Cửu Long và một số vùng nông thôn khác.
b-Mục tiêu lâu dài phát triển giao thông nông thôn đến 2010:
Tất cả các tuyến đường huyện đều đạt tiêu chuẩn cấp 5, đường liên xã, đường xá đạt tiêu chuẩn giao thông nông thôn loại A và B
Nhựa hoá 40 - 50% các tuyến đường nông thôn, vùng Đồng bằng nhựa hoá tới 80%, khoảng 80% đường nông thôn có thể thông suốt 4 mùa
Củng cố và phát triển mạng lưới đường thôn xóm và giao thông nội đồng. Xây dựng cầu nông thôn mới cho toàn vùng Đồng bằng sông Cửu Long và một số vùng khác.
3. Mục tiêu và phương hướng đầu tư phát triển CSHT GTNT:
3.1. Mục tiêu huy động vốn phát triển CSHT GTNT.
Một trong những yếu tố quan trọng nhất để phát triển cơ sở hạ tầng giao thông ở nông thôn là yếu tố vốn. Có vốn chúng ta mới có thể xây dựng mới, cải tạo, nâng cấp, duy tu bảo dưỡng thường xuyên được các công trình giao thông nông thôn. Để thực hiện công cuộc công nghiệp hoá nông thôn và để đạt được các mục tiêu chiến lược phát triển giao thông nông thôn, dự tính nhu cầu vốn đến năm 2010 cho cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn sẽ phân bổ như sau:
Bảng 15 : Dự tính yêu cầu đầu tư CSht gtnt kế hoạch 2001- 2010
2001-2005
(tỷ đồng)
Bình quân/năm
(tỷ đồng/năm)
Tỷ lệ
(%)
2001- 2010
(tỷ đồng)
Nhà nước hỗ trợ
Trong đó:
+TW
+Địa phương
Nhân dân đóng góp
3290
1252
2038
4572
658
250
408
914
42
16
26
58
5040
1440
3600
7000
Tổng cộng
7862
1572
100
10000-12000
Nguồn: Bộ Giao thông vận tải
Trong giai đoạn 2001- 2010, muốn đạt được mục tiêu của ngành nông nghiệp và nông thôn trước tiên chúng ta cần phải phát triển hệ thống CSHT tiến lên một bước. Theo nguồn thông tin tạp chí Tài chính để đáp ứng được nhu cầu này thì: hệ số ICOR yêu cầu đảm bảo tỷ lệ đầu tư cho nông nghiệp không dưới 23% GDP. Vì vậy, Nhà nước không những phải dành một tỷ lệ 23% vốn ngân sách Nhà nước cho nông nghiệp và nông thôn mà Nhà nước cần phải có chính sách huy động vốn đầu tư thích hợp từ khu vực ngoài quốc doanh và từ nước ngoài. Trong đó vốn đầu tư dành cho hạ tầng nông thôn chiếm trên 50% đặc biệt là dành cho các công trình hạ tầng, điện, giao thông… Theo trung tâm nghiên cứu phát triển nông thôn thuộc Bộ Xây dựng, vốn đầu tư để phát triển các công trình thuỷ lợi, giao thông, điện nông thôn cần khoảng 45000 tỷ đồng đến 80000 tỷ đồng.
Trong các mục tiêu về cơ sở hạ tầng, mục tiêu về vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn là: Để xây dựng mới giao thông từ huyện đến xã (các xã chưa có đường ô tô đến trung tâm xã), duy tu nâng cấp chất lượng đường cấp huyện, cấp xã, xây dựng và cải tạo hàng ngàn cầu cống, thực hiện tốt 100% số xã có đường ô tô thì chúng ta cần một lượng vốn từ 10.000 đến 12.000 tỷ đồng.
3.2. Phương hướng đầu tư phát triển CSHT GTNT.
a. Quy hoạch mạng lưới đường giao thông nông thôn
Hệ thống đường bộ bất cứ vùng nào cũng gồm các tuyến đường được phân làm nhiều cấp, tạo nên một mạng lưới. Các đường tiếp cận cơ bản từ các trung tâm xã chỉ là một bộ phận mạng lưới đường nông thôn. Việc hoàn thành chương trình quốc gia về đường tiếp cận cơ bản bằng cách đầu tư cho các tuyến đường cấp cao hơn và thấp hơn của mạng lưới các đường tỉnh, các đường xã và nội xã, sẽ đáp ứng hơn các nhu cầu tiếp cận nông thôn. Việc hoàn thành chương trình cũng sẽ đảm bảo toàn bộ lợi ích tiềm tàng của việc tạo các tuyến đường tiếp cận từ trung tâm xã đến trung tâm huyện như lưu lượng giao thông tăng lên trên các tuyến đường tiếp cận cơ bản. Đối với nhiều xã, việc đến trung tâm huyện phải đi qua đường tiếp cận cơ bản, rồi sau đó được nối với đường tỉnh. Một số tuyến đường cấp cao hơn có đường tiếp cận cơ bản nối tới này ở trong tình trạng xấu hoặc chưa được nâng cấp, cần phải tiếp tục đầu tư cho khôi phục và nâng cấp nhằm mang lại khả năng tiếp cận liên tục với trung tâm huyện trong mọi điều kiện thời tiết. Việc quy hoạch và thực thi các nguồn vốn đầu tư này cần phải kết hợp với việc khôi phục các đường tiếp cận cơ bản nhằm đạt được sự nối tiếp trọn vẹn từ các trung tâm xã.
Người dân nông thôn nhấn mạnh tới sự cần thiết phải cải thiện các tuyến nối tới các cơ sở xã, phải đem lại khả năng tiếp cận các tuyến tới các cơ sở xã như chợ chính, các trường cấp III hay các xưởng xay xát lúa tại một vài xã, chứ không phải tất cả các xã.
b. Sử dụng có hiệu quả các nguồn lực khan hiếm.
Khả năng sẵn có về các nguồn vốn cho đầu tư phát triển mạng lưới đường nông thôn từ nguồn vốn của Chính phủ, vốn của các tài trợ cho đến những đóng góp của nhân dân sẽ tiếp tục bị hạn chế do còn nhiều nhu cầu khác. Điều quan trọng là những nguồn vốn khan hiếm này cần được sử dụng có hiệu quả nhằm đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và giảm bớt đói nghèo trên toàn quốc.
Nhu cầu đầu tư thay đổi đáng kể giữa các tỉnh, các huyện trong một tỉnh do có sự khác biệt lớn về quy mô, mức độ phát triển và tình trạng của mạng lưới đường nông thôn trên cả nước. Các nguồn vốn quốc gia do Trung ương cấp được dành cho các vùng sâu, xa và nghèo đói, nhưng đối với các nguồn vốn trực tiếp của các tài trợ, chính phủ Việt Nam lại có khuynh hướng muốn phân chia đồng đều cho các tỉnh, mà điều này vừa không công bằng, vừa không hiệu quả. Các nguồn vốn phân bổ cho các tỉnh và huyện cần phải căn cứ vào nhu cầu ưu tiên đầu tư cho đường nông thôn, có xét đến các lợi ích đem lại cho người dân và cho quá trình phát triển kinh tế. Điều này đòi hỏi Nhà nước phải tiếp tục giám sát đường nông thôn trên cả nước.
Điều được xem như thích hợp là ưư tiên đầu tư quóc gia phải giánh chop phát triển mạng lưới đường nông thôn xuống các trung tâm xã với chi phí tối thiểu đạt tiêu chuẩn có thể bảo dưỡng trong mọi điều kiện thời tiết. Việc đầu tư với chi phí tối thiểu cho 1Km cho nâng cấp hay khôi phục các đường nông thôn sẽ làm tăng tối đa tổng chiều dài các tuyến dường tiếp cận đi lại được trong mọi điều kiện thời tiết được xây dựng trên cả nước và có tác động lớn nhất đến số lượng người dân nông thôn kể cả người dân nông thôn nghèo.
Việc áp dung một chính sách chung về nâng cấp các đường nông thôn lên các tiêu chuẩn nông thôn cao hơn và tốn kém hơn (như rải nhựa) chắc chắn sẽ làm giảm đáng kể chiều dài của mạng lưới đường nông thôn có thể đi lại trong mọi điều kiện thòi tiết. Trong giai đoạn trước mắt, việc nâng cấp các tuyến đường nông thôn nhằm đem lại mức độ phục vụ cao hơn bằng cách đầu tư thêm cho dải nhựa, làm mặt đường phải lưu ý tập chung vào các tuyền đường nông thôn giữ vai trò quan trọng về kinh tế và có lưu lượng xe lớn-nơi mà việc đầu tư căn cứ vào các điều kiện kinh tế và chi phí cho toàn bộ quãng đời con đường. Trong gai đoạn lâu dài, do nhu cầu về các dường tiếp cận đi lại được trong mọi điều kiện thời tiết được đáp ứng ngày càng tăng nên tỷ lệ các nguồn lực giàng cho nâng cấp có thể tăng lên.
Cải thiện khả năng tiếp cận nội xã và liên xã thông qua các đầu tư
Có chi phí thấp có thể nang lại hiệu quả cao. Một số nhận định đã chỉ ra rằng:
- Nhu cầu chính là xây dựng các công trình thoát nước ngang đường nhỏ để khắc phục các trở ngại hoặc khó khăn trong việc đi lại trong và giữa xã.
- Một số nhu cầu về tiếp cận nội xã không đòi hỏi phải có đường hoàn toàn để cho xe cơ giới có thể đi lại. Việc cải tạo sơ bộ cơ sở hạ tầng giao thông cấp thấp hơn (như đường nhỏ và đường mòn), bao gồm cả việc xây dựng cầu có chi phí thấp, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi bộ và đi lại của các phương tiện có tốc độ thấp sẽ đem lại mức tiếp cận hiệu quả.
c. Tiến hành đầu tư với chi phí thấp có khó khăn trong việc đi bộ và sử dụng xúc vật thồ trong xã, đặc biệt là trong mùa mưa.
ở các vùng có xu hướng bị ngập lụt thường xuyên, kể cả lũ, các tuyến đường nông thôn phải được thiết kế và xây dựng sao cho có thể chống trọi được với các dòng nước và các mức nước ngập theo mùa dự kiến. Nếu việc này không được thực hiện, thí vốn đầu tư lớn cho khôi phục và nâng cấp đường sẽ nhanh chóng bị mất đi do lũ lụt phá huỷ mặt đường, nền đường và các công trình thoát nước ngang đường.
ở một số nước khác trong vùng có xu hướng bị ngập lụt, các tuyến đường nông thôn tương đương với các tuyến đường tiếp cận cơ bản ở Việt Nam được thiết kế để chống trọi với các múc lũ cao trong vòng 10 năm trở lại. Điều này đòi hỏi quan tâm đặc biệt thiết kế kỹ thuật để đạt độ cao của đường trên mức lũ về và đảm bảo công suất thoát dòng tương xứng cho các công trình thoát nước ngang.
Vận tải đường sông chiếm một vị trí quan trọng tại các vùng ven sông ở nông thôn đặc biệt là ở đồng băng sông Cửu Long. Đường sông nội địa là nguồn cơ sở hạ tầng sẵn có để vận chuyển hành khách và hàng hoá ở những vùng mà việc xây dựng đường tương đối tốn kém. Có thể khai thác nguồn tài nguyên này do đó làm giảm nhu cầu đầu tư cho đường bộ bằng cách hoà nhập đường sông các địa phương vào quá trình phát triển mạng lưới đường nông thôn như:
- Xem xét khả năng tiếp cận mà đường sông đã đem lại khi lập quy hoạch và dành ưu tiên các nguồn vốn đầu tư cho đường nông thôn.
- Đầu tư có hạn cho các công trình trên đất liền phục vụ cho việc chuyển tải giữa đường sông và đường bộ.
II. Dự báo khả năng huy động vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn:
1- Huy động từ nguồn vốn đầu tư của Nhà nước
Những năm gần đây, vốn đầu tư của Nhà nước cho nông nghiệp - nông thôn và giao thông nông thôn nói riêng tuy giảm về tỷ trọng song lại tăng về khối lượng. Nguồn vốn naỳ là lực lượng cơ bản chủ yếu để phát triển cho cơ sở hạ tầng GTNT, đặc biệt là giao thông vùng sâu,vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.
Trong những năm tới, với tốc độ phát triển kinh tế 7- 7.5% năm, ngân sách Nhà nước dành cho các đầu tư cho toàn xã hội tăng lên tất yếu vốn đầu tư cho CSHT GTNT cũng tăng lên. Giai đoạn từ nay đến năm 2010 Nhà nước có khả năng đầu tư cho CSHTNT khoảng 12- 15% vốn đầu tư của ngân sách, trong đó dành 40% số vốn đầu tư này vào công trình giao thông. Lượng vốn này đáp ứng được phần nào nhu cầu vốn cần huy động để phát triển các công trình giao thông quan trọng mang tính xã hội cao.
2- Huy động nguồn vốn trong dân
Khu vực nông thôn nước ta nhìn chung có nền kinh tế lạc hậu, người dân rất mong muốn có một hệ thống cơ sở hạ tầng, đặc biệt là có một mạng lưới giao thông lưu thông thuận tiện để mở rộng thị trường, giao lưu van hoá… để từ đó nâng cao đời sống, giảm sự khác biệt mọi mặt giữa nông thôn và thành thị. Mấy năm qua thực hiện mong muốn này, nhân dân nông thôn đã tích cực tham gia thực hiện chương trình đầu tư theo phương châm: “Trung ương và địa phương cùng làm, Nhà nước và nhân dân cùng góp sức”. Họ đã góp sức người, sức của để cùng với các nguồn vốn khác xây dựng và cải tạo mạng lưới giao thông của khu vực mình. Tiền của và ngày công lao động của người dân ở đây chiếm tỷ lệ khá lớn cho đầu tư phát triển giao thông đường làng xã của vùng, trong đó chủ yếu là ngày công lao động.
Nguồn vốn huy động được bằng sự đóng góp của nhân dân nông thôn được sử dụng để nâng cấp các tuyến đưỡng xã, thôn, tuy nhiên trong những năm trước mắt nguồn vốn này chưa thể huy động được nhiều. Dự tính trong thời gian tới nguồn vốn này đáp ứng 45- 60% tổng nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển giao thông nông thôn.
Mặt khác, từ thực trạng huy động nguồn vốn đóng góp của nhân dân đã cho thấy vai trò của nguồn vốn này là hết sức quan trọng trong các hình thức BOT, BT chưa mạnh tại các địa phương. Để trong thời gian tới nguồn vốn huy động trong dân chiếm khoảng 50% tổng số vốn đầu tư thì cần phải quan tâm phát triển các hình thức BOT, BT để thu hút các nguồn vốn của các doanh nghiệp tư nhân vào phát triển cơ sở hạ tầng nói chung và cho mạng lưới giao thông nông thôn nói riêng.
3. Dự báo khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Sau khi có luật đầu tư nước ngoài (1998), nguồn vốn nước ngoài đầu tư vào nền kinh tế Việt Nam ngày càng tăng nhanh nhưng do hạn chế của khu vực nông thôn nên lượng vốn này dành cho phát triển giao thổngất ít và đa số là vốn từ nguồn ODA với tính chất hỗ trợ phát triển, được sử dụng để nâng cấp đường giao thông cho các tỉnh theo chương trình chung của cả nước.
Trong giai đoạn hiện nay, nhu cầu đầu tư cho phát triển mạng lưới giao thông đòi hỏi một lượng vốn rất lớn. Nguồn vốn trong nước là rất hạn hẹp mặc dù đã có nhiều hình thức huy động, nên muốn phát triển mạng lưới giao thông một cách nhanh chóng theo hướng ưu tiên đi trước một bước, tạo tiền đề cho việc phát triển kinh tế- xã hội thì phải tìm mọi biện pháp thu hút cácnguồn vốn đầu tư nước ngoài- Đây là một nguồn hết sức quan trọng và cần thiết. Ước tính trong giai đoạn 2001- 2010 nguồn vốn nước ngoài thu hút được chiếm khoảng 10- 13% tổng nguồn vốn đầu tư vào giao thông nông thôn.
3.1. Vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA)
ODA là các khoản viện trợ bao gồm viện trợ không hoàn lại và cho vay ưu đãi (gồm cho vay không lãi suất và cho vay với lãi suất ưu đãi) tuỳ thuộc mục tiêu vay và mức vay, thời hạn vay dài (25 năm đến 40 năm) để giảmgánh nặng nợ, có thời gian ân hạn để nước tiếp nhận có thời gian phát huy hiệu quả vốn vay tạo điều kiện trả nợ. Viện trợcó hai dạng chủ yếu là viện trợ kỹ thuật (cung cấp chuyên gia) và viện trợ vốn (các hàng hoá hoặc tiền vốn nhằm thực hiện các mục tiêu khác nhau). Vốn ODA của các nước công nghiệp phát triển dành ra 0,7% GDP để viện trợ cho các nước đang phát triển và chủ yếu là các dự án giao thông vận tải, giao thông nông thôn, giáo dục, y tế…
Trong những năm gần đây, các nguồn vốn ODA đầu tư vào giao thông nông thôn nước ta với khối lượng còn hạn chế. Đây là nguồn vốn quan trọng nhất trong các nguồn vốn nước ngoài đối với phát triển giao thông nông thôn. Dự kiến trong giai đoạn 2001- 2010 nguồn này đáp ứng khoảng 6% tổng nhu cầu vốn đầu tư.
3.2. Viện trợ của các tổ chức phi Chính phủ (NGO)
Viện trợ NGO đều là các viện trợ không hoàn lại. Hiện nay, vịen trợ của NGO ở Việt Nam cũng đang có những thay đổi: Trước đây, NGO chủ yếu là viện trợ vật chất đáp ứng nhu cầu nhân đạo như thuốc men, lương thực cho các vùng bị thiên tai, lũ lụt,… Hiện nay loại viện trợ này bao gồm cả các chương trình viện trợ phát triển với mục tiêu dài hạn, trong đó có dành cho phát triển giao thông vận tải nói chung và giao thông nông thôn nói riêng.
Nguồn vốn viện trợ của NGO cho phát triển CSHT GTNT chỉ chủ yếu tập trung ở các vùng khó khăn đặc biệt và chỉ đóng góp một phần chứ không nhiều. Song việc thu hút nguồn vốn này cho phát triển giao thông nông thôn là rất cần thiết vì vốn đầu tư cho lĩnh vực này đòi hỏi rất lớn nên tận dụng được bất kỳ nguồn vốn nào dù ít hay nhiều đều làm giảm gánh nặng tài chính cho Chính phủ.
3.3. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Những năm gần đây lĩnh vực xây dựng CSHT ở Việt Nam xuất hiện phương thức đầu tư mới, đó là phương thức xây dựng- vận hành- chuyển giao (BOT), xây dựng- chuyển giao vận hành (BTO), xây dựng- chuyển giao (BT). Luật đầu tư nước ngoài đã cho phép các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào phát triển CSHT GTNT.
Dự kiến trong giai đoạn 2001- 2010 nguồn vốn này sẽ đáp ứng khoảng 3- 5% tổng nhu cầu vốn cho phát triển giao thông nông thôn.
Như vậy, từ thực tiễn cho thấy vốn đầu tư cho phát triển CSHT GTNT chủ yếu là nguồn do dân đóng góp, vốn ngân sách là cơ bản và nguồn vốn từ nước ngoài là quan trọng. Với các dự báo trên đây, nó sẽ là các cơ sở để lập các dự án đầu tư phát triển CSHT GTNT và mỗi địa phương cần cố gắng phát huy mọi tiềm năng sẵn có và mở rộng mối quan hệ nhằm thu hút được các nguồn vốn đó để phát triển giao thông, từ đó phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.
Qua dự báo khả năng huy động vốn cho phát triển cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn, chúng ta thấy rằng vốn có thể huy động chỉ đáp ứng khoảng 87 – 97% nhu cầu. Với nhu cầu vốn đầu tư cho cơ sở giao thông nông thôn từ 10000 – 12000 tỷ đồng trong giai đoạn từ nay đến năm 2010, đòi hỏi Nhà nước và các cấp chính quyền cần huy động tối đa nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước, ngân sách địa phương cũng như huy động từ nguồn đóng góp từ nhân dân. phần còn thiếu có thể huy động từ các tổ chức nước ngoài hay từ vốn vay tín dụng.
III. Một số giải pháp cơ bản nâng cao đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn
Cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn là một bộ phận quan trọng trong hệ thống giao thông vận tải quốc gia. Cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn tạo động lực phát triển kinh tế- xã hội và ngược lại giao thông chậm phát triển sẽ là trở ngại lớn tạo ra sự trì trệ trong nhiệm vụ phát triển nông thôn, cũng như thực thực hiện chủ trương chính sách của Nhà nước trong khu vực nông thôn. Trong điều kiện hiện nay, vốn đầu tư cho giao thông nông thôn là rất hạn chế. Do vậy, để nâng cao đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn cần thực hiện một số giải pháp cơ bản sau.
1- Giải pháp huy động tối đa nguồn vốn.
Đây là một trong những giải pháp then chốt nhất để đảm bảo cho sự phát triển của cơ sở hạ tầng GTNT hiện nay. Bởi vì, như những phân tích thực hiện ở phần trên cho thấy tình trạnh thiếu hụt nghiêm trọng vốn đầu tư đang là trở lực và thách thức rất lớn đối với sự phát triển của nó. Vấn đề đặt ra là: Nguồn vốn cần huy động ở đâu và làm thế nào để có thể huy động tối đa các nguồn vốn đầu tư cho phát triển CSHT GTNT?.
Vấn đề này hiện đang được thảo luận rộng rãi trên nhiều phương tiện khác nhau. Có ý kiến nhấn mạnh đến sự cần thiết phải tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài và vai trò quan trọng của nó trong việc tạo lập mạng lưới CSHT nông nghiệp nông thôn nói chung cũng như CSHT giao thông nông thôn nói riêng. Ngược lại, cũng có nhiều ý kiến cho rằng nhấn mạnh đến “Tính chất quyết định của nguồn vốn trong nước”, và cho rằng Việt Nam cần hướng những nỗ lực vào “huy động vốn trong nước để xây dựng CSHT GTNT hơn là tìm từ bên ngoài”.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, do nhu cầu vốn đầu tư cho nền kinh tế quốc dân nói chung và cho cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn đều đòi hỏi rất lớn và một cách bức xúc nên cần phải có quan điểm tổng hợp và chính sách nhất quán về huy động vốn đầu tư. Trong đó, cần có những thể chế và chính sách phù hợp để khuyến khích, động viên mọi nguồn vốn, dưới nhiều hình thức khác nhau của các tổ chức, đơn vị và các cá nhân thuộc mọi thành phần và lực lượng kinh tế, xã hội kể cả trong nớc, ngoài nước và của các tổ chức quốc tế khác. Cần huy động tối đa nguồn vốn trong nước đồng thời với việc mở rộng thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Theo đó, các giải pháp huy động vốn đầu tư CSHT GTNT có thể và cần hướng tới việc giải quyết những vấn đề sau
1.1-Tăng cường vốn đầu tư trực tiếp từ Ngân sách Nhà nước (Bao gồm cả ngân sách Trung ương, địa phương và cơ sở) cho việc tạo lập và phát triển GTNT.
Kinh nghiệm ở phần lớn các nước, đặc biệt là ở các nước công nghiệp phát triển đều cho thấy vị trí và tầm quan trọng hàng đầu của vốn đầu tư ngân sách với sự phát triển cuả lĩnh vực này và nó thường chiếm một tỷ lệ rất cao. Đầu tư cao độ của chính phủ Nhật cho cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn và đặc biệt là cơ sở hạ tầng giao thông trong nhiều thập kỷ sau chiến tranh là một ví dụ thực tế điển hình.
Tại nước ta, đầu tư ngân sách Nhà nước cho CSHT GTNT trong thời gian qua còn hạn chế, chỉ chiếm khoảng 23% vốn phát triển GTNT. Do vậy, cần phải tăng cường hơn nữa đầu tư ngân sách cho CSHT. Đây là nguồn quan trọng đảm bảo sự phát triển của nó. Song ở đây cũng cần óc sự phân cấp giữa ngân sách địa phương, ngân sách Trung ương và cơ sở. Trong đó, vốn ngân sách TW cần hỗ trợ tập trung đầu tư cao các tuyến đường mà điều kiện kinh tế- xã hội lạc hậu hay các địa phương có vị trí chiến lược về quốc phòng, an ninh… Ngân sách địa phương cần tập trung cho các hệ thống, công trình đầu mối của địa phương và hỗ trợ nhiều hơn cho quy hoạch, mở rộng, nâng cấp bảo dưỡng mạng lưới GTNT thôn, xã, ấp…
Vấn đề quan trọng là ở chỗ, Nhà nước cần có chính sách phù hợp động viên các nguồn thu cho ngân sách địa phương, cơ sở và dành một tỷ lệ thoả đáng các nguồn thu này để đầu tư cho giao thông nông thôn tại chỗ.
Đối với các vùng kinh tế hàng hoá phát triển Nhà nước có thể huy động một tỷ lệ nhất định trong lợi nhuận của các sản xuất, thu mua, chế biến và xuất khẩu để hỗ trợ đầu tư trở lại cho CSHT GTNT ở địa phương. Đối với những vùng trọng điểm khó khăn, vốn đầu tư ngân sách có thể được thực hiện trực tiếp đến mỗi hệ thống đường, các công trình cầu cống… hoặc gián tiếp thông qua các dự án, chương trình phát triển kinh tế- xã hội nói chung.
Có thể nói, đây là một giải pháp có tính chiến lược trong phát triển nông thôn nói chung và CSHT GTNT nói riêng trong thời gian tơí. Đầu tư của Nhà nước có ý nghĩa tạo lập cơ sở, hình thành đòn bẩy cho một tiến trình phát triển mới ở nông thôn. Điều đặc biệt là những đầu tư đó làm nòng cốt trong việc thay đổi về chất trong phương thức phát triển CSHT GTNT trong điều kiện phát triển mới.
1.2- Giải pháp huy động nguồn lực trong dân:
Xét tổng thể giải pháp huy động nguồn lực trong dân, trong thời gian qua để phát triển GTNT là nằm trong khôn khổ hệ thống tài chính của nền kinh tế xã hội chậm phát triển . Đó là cách tạo ra nguồn tài chính và sử dụng nguồn lực tại chỗ để xây dựng các cơ sở hạ tầng tại chỗ, giải pháp này ở trừng mực nào đó nhất định có tác dụng tích cực. Tuy nhiên mức độ tham gia của giải pháp này trong việc phát triển cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn thời gian qua bị thu hẹp, tỷ lệ giải pháp này khoảng 50% tổng kinh phí đầu tư. Điều này chứng tỏ vị trí và tầm quan trọng của giải pháp huy động nguồn lực trong dân giảm đi đáng kể.
Trong điều kiện nền kinh tế còn kém phát triển, nguồn vốn đầu tư trong những năm tới cho phát triển cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn từ phía nền KH-XH và từ phía nước còn hạn chế, mặt khác nguồn nhân lực trong nông thôn khá dồi dào, nhất là lao động nông còn dư thừa nhiều. Do đó huy động nguồn lực trong dân ở một chừng mực nào đó cho phát triển CSHT GTNT là cần thiết .
* Mặt tài chính
Để việc huy động nguồn tài chính trong dân cần thực hiện :
Một là việc huy động dù của cộng đồng thôn xóm hay của xã cũng đều phải dựa trên căn bản những quy định mang tính chất nhà nước, tức trong khuôn khổ pháp lý.
Hai là việc huy động xây dựng mạng lưới giao thông trong phạm vi xã là thuộc cộng đồng làng xã, vì thế những dự án xây dựng cũng như việc huy động tiền vốn và vật chất phảỉ được bàn bạc dân chủ trong dân, trong các tổ chức xã hội, trong đảng bộ và trong HĐND. Đồng thời mọi hoạt động, xây dựng phải được công khai, minh bạch.
Ba là việc xây dựng hạ tầng giao thông ở nông thôn phải tuân theo trình tự và thủ tục xây dựng do Nhà nước ban hành. Nhất thiết phải có quy hoạch, thiết kế, luận chứng kinh tế – kỹ thuật. Để tránh tình trạng “vừa thổi còi vừa đá bóng”. Trong tổ chức xây dựng, nhất thiết phải thành lập ban quản lý dự án, xây dựng tách khỏi UBND với tư cách là chủ đầu tư và được đặt dưới sự kiểm soát của HĐND, UBND.
*Huy động nguồn nhân lực trong dân:
Cùng với các chính sách, giải pháp vốn đầu tư trên đây thì việc đổi mới chính sách huy động và sử dụng nhân lực cho phát triển CSHT GTNT cũng là một trong những vấn đề quan trọng và cần thiết.
Thực tế cho thấy hàng năm có tới hàng chục triệu ngày công lao động được huy động và sử dụng vào mục đích tạo lập và phát triển các công trình CSHT GTNT. Tuy nhiên phần lớn lực lượng lao động này được thực hiện dưới các hình thức đóng góp trực tiếp, tại chỗ như: lao động nghĩa vụ, lao động công ích … Đó là các hình thức mang nặng tính hành chính, bắt buộc và mang tính bình quân theo quyết định của mỗi địa phương, mỗi cơ sở….
Để cho sự góp sức của nhân dân thực sự mang lại hiệu quả trong giai đoạn hiện nay cần:
+ Khuyến khích và coi trọng hơn nữa các hình thức động viên, đóng góp lao động tự nguyện của dân cư và các tổ chức KT-XH khác ở nông thôn, tạo ra ý thức trách nhiệm có tính tự giác, tính văn hoá ở cộng đồng với việc xây dựng và phát triển GTNT.
+ Mở rộng các hình thức huy động và sử dụng lao động theo cơ chế thị trường như: Thầu khoán, thuê hoặc hợp đồng nhân công… ở đây lao động sử dụng cho CSHT cần được quan niệm giống như lao động hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác. Điều đó sẽ đảm bảo tính bình đẳng về lợi ích và thu nhập của người lao động, đồng thời cũng phù hợp với cơ chế đấu thầu các dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn.
+ Cần gắn chính sách huy động nhân lực đầu tư cho CSHT GTNT theo cơ chế thị trường với chính sách tạo công ăn việc làm tại chỗ ở nông thôn, coi xây dựng và phát triển GTNT là đối tượng trực tiếp tạo ra việc làm và thu nhập cho một bộ phận nhát định dân cư nông thôn.
1.3- Nhà nước cần mở rộng các hình thức huy động vốn khác nhau như phát hành công trái, kỳ phiếu, trái phiếu, xổ số kiến thiết… để đầu tư cho CSHT GTNT.
Đây là giải pháp không mới song trong điều kiện thiếu vốn nghiêm trọng hiện nay thì nếu thực hiện tốt giải pháp này vẫn sẽ phát huy hiệu quả rất cao. Theo đó, có thể phát hành công trái hoặc xổ số trực tiếp theo từng hệ thống hay công trình nhất định: nhất là đối với những công trình giao thông trọng điểm, đầu tư có ý nghĩa liên huyện hoặc các trục đường nối với đường tỉnh. Tiến hành tăng lãi suất công trái để khuyến khích nhân dân mua từ đó sẽ bổ sung một lượng vốn phục vụ phát triển CSHT GTNT.
1.4. Tranh thủ vốn đầu tư nước ngoài, mở rộng các hình thức liên doanh, hợp tác đầu tư.
Trong những năm gần đây, trong tổng số vốn đầu tư nước ngoài nói chung thì tỷ lệ đầu tư vào nông nghiệp - lâm nghiệp - ngư nghiệp chỉ chiếm 8,7%, phần lớn là các dự án và chương trình đầu tư quy mô nhỏ. Vốn đầu tư nước ngoài cho giao thông ở khu vực này hầu như chưa đáng kể. Do vậy hiện nay và trong thời gian tới Nhà nước cần có chính sách và giải pháp thích hợp hơn nữa để khuyến khích, tăng cường đầu tư cho cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn kể cả vốn vay, viện trợ của chính phủ cũng như nguồn tài trợ của các tổ chức phi chính phủ và hợp tác đầu tư của các kinh doanh…
Một giải pháp chiến lược và đồng bộ để huy động tối đa các nguồn vốn đầu tư như trên là cần thiết. Song các giải pháp trên phải gắn liền với những biện pháp hữu hiệu trong quản lý và sử dụng các nguồn vốn thì mới có thể đem lại kết quả và hiệu quả địch thực.
1.5. Tăng cường hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
Vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn đã ít lại đầu tư phân tán dàn trải, không tập trung vào các công trình trọng điểm, vùng trọng điểm, hiệu quả đầu tư thấp gây thất thoát lãng phí, điều này làm giảm tính hấp dẫn đối với các đầu tư bỏ vốn vào phát triển cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn.
Vì vậy cần có những biện pháp tích cực hơn nữa trong việc cấp vốn đầu tư cho CSHT GTNT.
Tích cực khai thác, ngân sách từ ngân sách TW, ngân sách địa phương, tiềm năng to lớn của nhân dân của các tài trợ quốc tế, doanh nghiệp trong nước, kiều bào ta ở nước ngoài. Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư thu hồi vốn (BOT) nếu được nhân dân địa phương chấp nhận.
Xây dựng các công trình phát triển CSHT giao thông nông thôn đến năm 2010 và chia từng giai đoạn để thực hiện theo nguyên tắc: Vùng sản xuất hàng hoá tập trung cao, thuận lời ưu tiên trước; Đầu tư phải đồng bộ và kết hợp với các nguồn của địa phương, của dân và các nguồn khác; Nghiên cứu đầy đủ và chi tiết quy hoạch và phát triển kinh tế tổng thể từng tiểu vùng nông thôn và công khai hoá các quy hoạch đó cho toàn dân ở những vùng đó và những vùng khác biết để cùng tham gia thực hiện bằng nguồn vốn tự có.
Tạo thêm nguồn lực bằng việc dành một phần vốn sự nghiệp kinh tế đường bộ và các vật tư tồn kho, dầm cầu tháo gỡ từ các cầu cũ, để hỗ trợ xây dựng các công trình này. Nguồn lực của Bộ Giao thông vận tải nhằm đào tạo cán bộ xã làm giao thông, hỗ trợ nhựa đường dầm cầu, các trang thiết bị loại vừa và nhỏ. Đưa các chương trình mục tiêu quốc gia vào các xã đặc biệt khó khăn, trong đó tỷ trọng đầu tư cho giao thông nông thôn miền núi rất lớn, chiếm 70 - 80% nguồn lực của địa phương gồm ngân sách tỉnh, huyện, xã và đóng góp của nhân dân. Đồng thời tranh thủ nguồn viện trợ của nước ngoài để xây dựng giao thông nông ở địa phương. Có định hình các dạng cầu phù hợp phục vụ vùng núi, vùng sâu, vùng xa như cầu treo, cầu dây văng, dầm cầu, sử dụng vật liệu tại chỗ… nhà nước hỗ trợ vật liệu kỹ thuật như sắt, thép, xi măng, nhựa đường, thuốc nổ và thiết bị làm đường như máy xúc, máy ủi, xe ben cho 1000 xã thuộc 91 huyện. Ngoài ra, các xã huyện cần tiến hành lập các quỹ đầu tư phát triển CSHT GTNT.
2- Giải pháp nâng cao tổ chức quản lý các dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn.
Quản lý giao thông nông thôn là một bộ phận quan trọng của công tác quản lý Nhà nước về giao thông vận tải. Nếu công tác quản lý giao thông không làm tốt sẽ gây ra lãng phí rất lớn, các công trình giao thông xuống cấp rất nhanh như thực trạng giao thông nông thôn của nước ta hiện nay. Do đó, công tác quản lý và tổ chức phải được xuyên suốt từ Trung ương đến địa phương.
2.1.Về tổ chức
a. Bộ Giao thông vận tải.
Dựa báo Ngân sách TW phân bổ cho giao thông nông thôn, phối hợp với các Sở cân đối từng địa bàn, từng tỉnh theo quy hoạch phát triển toàn quốc và từng vùng lãnh thổ.
Hoàn thiện xây dựng các cơ chế, chính sách, quy phạm các tiêu chuẩn định mức kinh tế - kỹ thuật giao thông nông thôn
Phối hợp với các địa phương tổ chức đào tạo và đào tạo lại lực lượng cán bộ quản lý kinh tế, kỹ thuật giao thông nông thôn
Tổ chức quản lý kỹ thuật, quản lý an toàn giao thông vận tải trên địa bàn nông thôn.
b. Cấp tỉnh và các thành phố trực thuộc Trung ương
Đây là cấp quản lý toàn diện các hoạt động giao thông nông thôn, nguồn vốn Trung ương và Bộ Giao thông vận tải cấp, ban hành các thông tư chỉ thị, cụ thể hoá chính sách nước để thực thi trên địa bàn.
Sở giao thông là cơ quan quản lý chuyên ngành, làm tham mưu trực tiếp về quy hoạch và kế hoạch phát triển giao thông nông thôn, sử dụng các nguồn vốn do tỉnh và Trung ương tài trợ. Sở tổ chức quản lý kỹ thuật, an toàn giao thông, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách và phát triển các nhân tố mới trong phong trào để nhân rộng và động viên khen thưởng.
c. Cấp huyện
Cấp huyện quản lý trực tiếp mạng lưới giao thông nông thôn gồm đường từ huyện về các xã, đường liên xã, đường do xã và đường từ huyện về các xã, thôn tự làm cũng như mạng lưới đường sông, kênh rạch địa phương.
Uỷ ban nhân dân huyện chủ trì việc huy động tại chỗ, các nguồn vốn của nhân dân cũng như sự đóng góp kinh phí của các đơn vị đóng trên địa bàn để xây dựng và bảo dưỡng hệ thống giao thông tại địa phương
Mỗi huyện cần một bộ phận chuyên trách về giao thông nằm trong phòng quản lý công trình hạ tầng cơ sở, am hiểu sâu về kỹ thuật xây dựng và sửa chữa đường nông thôn; nắm vững các chính sách về giao thông, hướng dẫn địa phương trong việc tổ chức thực hiện và giám sát, kiểm tra.
Mỗi huyện phải có một đội chuyên trách lo việc xây dựng, duy tu mạng lưới cơ sở hạ tầng giao thông hoặc sử dụng các thành phần kinh tế theo chế độ hợp đồng giao khoán.
d. Cấp xã
Xã là địa bàn thực hiện phần chủ chốt và trực tiếp hưởng thụ thành quả mà việc phát triển cơ sở hạ tầng giao thông, không chỉ trong sản xuất nông nghiệp, giao lưu hàng hoá mà còn cả lợi ích về mặt văn hoá- xã hội. Xã là cấp cân đối từ tất cả các nguồn tự có, nguồn tài trợ từ cấp trên và của bên ngài, cũng như sự đóng góp của công đồng dân cư theo kế hoạch đã được Hội đồng nhân dân xã thông qua. Xã chịu sự quản lý, kiểm tra của huyện về mặt kỹ thuật cũng như việc sử dụng các nguồn vốn do cấp trên hỗ trợ.
Mỗi xã cần có một uỷ ban trực tiếp phụ trách công tác giao thông để quản lý kế hoạch và hướng dẫn thôn xóm quản lý đường xã trên địa bàn.
Đối với những người làm công tác bảo dưỡng giao thông cần có chế độ thù lao tương xứng với công sức của họ bỏ ra, địa phương có thể trả bằng thóc hay bằng tiền.
Nên áp dụng hình thức khoán quản lý duy tu cho cá nhân hoặc nhóm người lao động do xã chỉ đạo, dân đấu thầu. Các huyện tổng kết kinh nghiệm, hướng dẫn xã tổ chức giao thầu theo đúng quy chế do huyện đề ra.
2.2. Về quản lý xây dựng
a. Trước khi xây dựng nhất thiết phải có dự án được duyệt. Cơ quan có thẩm quyền duyệt có thể là huyện, xã tuỳ theo quy mô dự án trên cơ sở quy hoạch đã được tỉnh thống nhất, tổng hợp báo cáo Bộ Kế hoạch đầu tư và Bộ Giao thông vận tải.
Các dự án phải được thẩm định trươc khi quyết định đầu tư và phải có chủ đầu tư (huyện hoặc xã).
+ Chủ đầu tư có thể tự quản ký, cũng như có thể ký hợp đồng với đơn vị xây dựng tại địa phương giám sát, nghiệm thu, thanh toán công trình.
+ Các dự án khi thực hiện phải thông qua huyện và thông báo cho Hội đồng Nhân dân, Uỷ ban nhân dân xã, sau đó tập hợp báo cáo cho tỉnh, hàng năm tỉnh báo cáo cho Bộ giao thông để tổng hợp báo cáo cho Nhà nước.
+ Các huyện phải có phòng quản lý cơ sở hạ tầng trong đó có giao thông nông thôn.
+ Các xã có cán bộ chuyên trách hoặc kiêm nhiệm theo dõi giao thông vận tải.
b. Trong quá trình thực hiện các dự án xây dựng giao thông nông thôn cần phải quản lý chất lượng và tổ chức nghiệm thu bàn giao quản lý và sửa chữa công trình sau này.
+ Đối với các tuyến đường do huyện chủ làm đầu tư thực hiện quản lý chất lượng theo điều lệ xây dựng cơ bản hiện hành.
+ Đối với các tuyến đường xã, thôn xóm ấp: Địa phương tổ chức lực lượng giám sát quản lý chất lượng, nghiệm thu thì mời Ban quản lý của huyện.
Công trình thi công xong phải nghiệm thu về khối lượng, chất lượng, giá trị và bàn giao đưa vào sử dụng, quản lý bảo dưỡng theo nguyên tắc sau:
- Đối với đường huyện: Việc nghiệm thu thực hiện theo điều lệ xây dựng cơ bản hiện hành. Phòng giao thông huyện có kế hoạch quản lý và sửa chữa hàng năm đối với từng tuyến đường. Có thể tổ chức giao từng đoạn tuyến cho các xã sử dụng quản lý, sửa chữa có hướng dẫn nghiệp vụ hàng năm.
- Đối với đường xã và thôn: Uỷ ban nhân dân xã tổ chức nghiệm thu. Tổ chức giao từng đoạn tuyến cho các thôn, buôn quản lý, sửa chữa hàng năm. Giao thông vận tải nông thôn và miền núi là một bộ phận không thể tách rời của hệ thống giao thông vận tải toàn quốc, đồng thời nó mang đặc thù riêng về mặt tổ chức xây dựng và quản lý. Do đó cần nghiên cứu thiết lập một hệ thống tổ chức và các biện pháp quản lý phù hợp từ Bộ xuống các huyện, xã thôn.
Trong quá trình tổ chức thực hiện, cần theo dõi và bổ sung để phù hợp với điều kiện cụ thể của từng địa phương và của từng thời kỳ phát triển để sự nghiệp phát triển giao thông nông thôn ở nước ta ngày càng tiến lên vững chắc.
3. Giải pháp chính sách phát triển CSHT GTNT.
3.1. Đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế và kỹ thuật.
Một trong những nguyên nhân làm cho đầu tư vào cơ sở hạ tầng giao thông hiệu quả chưa cao đó là do đội ngũ cán bộ quản lý và kỹ thuật. Hầu hết các địa phương có cán bộ quản lý vốn đầu tư phát triển kinh tế nông thôn nói chung va quản lý các dự án phát triển cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn nói riêng là rất kém. Đội ngũ này không có kinh nghiệm kiến thức chuyên môn, hay nếu có thì rất hạn chế, trình độ học vấn thấp nên gây ra lãng phí, thất thoát lớn trong công cuộc xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông ở nông thôn như tham ô tiền đầu tư xây dựng cơ bản, tăng tiền vật liệu hay mua vật tư kém chất lượng… Đặc biệt là đội ngũ cán bộ ở địa phương các tỉnh dân tộc miền núi. Hiện nay cả nước có 1568 xã thuộc khu vực III với hơn 43.300 cán bộ chính quyền cơ sở song đại bộ phận trưởng thành từ thực tiễn công tác ở địa bàn cơ sở xã thôn, bản… Theo thống kê của chương trình phát triển nhân lực miền núi phía Bắc của ACECA thì có tới 75% lực lượng cán bộ thôn xã bản ở vùng miền núi phía Bắc có trình độ sơ cấp trở xuống, đội ngũ cán bộ có bằng Đại học cao đẳng là rất thấp chỉ có 4,5%.
Với những thực trạng trên, trong những năm tới để quá trình đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông ở nông thôn hiệu quả cần phải có chính sách đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý:
+ Thực hiện tổ chức thường xuyên các lớp đào tạo ngắn hạn về trình độ quản lý kinh tế, kỹ thuật cho các cán bộ cấp huyện, xã
+ Có chính sách đào tạo độ ngũ lãnh đạo kế cận bằng việc cử các cán bộ trẻ đi học, bồi dưỡng kiến thức và thực thi khuyến khích con em địa phương học tập tại các trường đại học, cao đẳng về phục vụ quê hương.
3.2. áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn.
Giao thông nông nông thôn muốn phát triển phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng trong phát triển các ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật luôn là vấn đề then chốt. Hiện nay, việc nhanh chóng phổ cập tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất và xây dựng nông thôn, đặc biệt là xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn là con đường có hiệu quả đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu và hiện đại hoá kinh tế nông thôn.
Trong thực tế của nước ta hiện nay, các phương tiện thiết bị xây dựng rất lạc hậu do đó là một lý do làm cho các tuyến đường nông thôn nhanh chóng xuống cấp, tuổi thọ công trình thấp,…Với yêu cầu tăng mức đầu tư cho các công trình nghiên cứu và phổ cập khoa học công nghệ vào nông thôn nói chung và phát triển cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn nói riêng, cần phải thực hiện ngay một số chế độ cụ thể nhằm khuyến khích mạnh mẽ các cán bộ khoa học công nghệ về công tác tại nông thôn.
Tích cực đưa khoa học kỹ thuật, vật liệu mới, sử dụng vật liệu tại chỗ, công nghệ thi công đơn giản, dễ thực hiện để đông đảo nhân dân tự quản lý tự làm có sự hướng dẫn về kỹ thuật.
Huy động các đơn vị, các chuyên gia trong và ngoài nước thiết kế các mẫu, mô hình các loại công trình để áp dụng với các địa bàn khác nhau. Mặt khác, nghiên cứu ứng dụng cải tiến kỹ thuật các mô hình, mẫu các công trình đã có trong và ngoài nướoc để phù hợp với từng vùng.
Xây dựng các trung tâm nghiên cứu công nghệ cơ sở hạ tầng trong đó có cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn, Nhà nước cần cấp một số kinh phí cho trung tâm hoạt động nhằm nghiên cứu thu thập các công nghệ. Bên cạnh đó cần vận động mọi cơ sở, tổ chức ứng dụng những công nghệ có hiệu quả.
Phân cấp đầu tư vốn cho nghiên cứu khoa học công nghệ như sau:
- Vốn ngân sách Trung ương cấp cho các công trình, đề tài, các đề án, các thiết kế quy hoạch các công nghệ, xây dựng thực nghiệm mang tính chất chung phổ biến.
- Vốn ngân sách địa phương, ngành nghiên cứu các đề tài, công nghệ xây dựng thực nghiệm mang tính chất đặc thù từng địa phương.
3.3. Cải tiến cơ chế huy động vốn và hoàn vốn.
a. Đối với cơ chế huy động vốn.
Huy động vốn dựa vào cơ sở tính toán nhu cầu vốn đầu tư, khả năng huy động các nguồn vốn cung ứng của từng lĩnh vực cũng như trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế. Đảm bảo thực hiện công tác kế hoạch hoá và điều hành công tác huy động vốn theo tháng, quý trên cơ sở chỉ tiêu cần đáp ứng.
Đối với ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương trích 45% thu từ thuế sử dụng đất nông nghiệp để địa phương xây dựng và phát triển nông thôn. Với các công trình lớn Nhà nước cần phải huy động vốn thông qua nhiều công cụ huy động khác nhau song các công cụ này phải đảm bảo một cách hợp lý giữa thời hạn, phương thức thanh toán, giao dịch, trao đổi về loại tiền huy động. Khai thác triệt để mọi nguồn thu của ngân sách Nhà nước, cải tiến hệ thống thuế; đây là nguồn vốn cơ bản để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn.
Đối với vốn góp của dân chúng ta huy động cả đóng góp bằng tiền, bằng sức lao động và đóng bằng hiện vật.
Trong những năm tới, chúng ta phải tập trung vốn hỗ trợ ODA và vốn của các tổ chức tài chính quốc tế vào phát triển CSHT giao thông nông thôn. Nguồn vốn viện trợ không hoàn lại phải tập trung ưu tiên phát triển cho vùng sâu vùng xa, vùng có dân tộc ít người, vùng miền núi trung du.
Đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài chúng ta cần khuyến khích đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn theo hình thức BOT, BT, BTO. Trong ba hình thức trên chúng ta cần khuyến khích đầu tư theo hình thức BT vì hình thức này đem lại lợi ích cho cả hai bên đối tác trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn.
b. Đối với cơ chế hoàn vốn.
Trong thực tế những năm qua, vốn đầu tư của các doanh nghiệp, các nhân trong và ngoài nước vào phát triển CSHT giao thông ở nông thôn là rất nhỏ bé. Mà nguyên nhân chủ yếu là cơ chế hoàn vốn của Nhà nước với vấn đề này còn chưa rõ ràng, làm cho các doanh nghiệp cá nhân không dám bỏ tiền đầu tư. Mục tiêu hoàn vốn là để tái đầu tư, vì thế cơ chế vốn phải được tính toán phù hợp với điều kiện của từng vùng. Chúng ta phải xác định mức phí sử dụng mà nguời hưởng lợi từ công trình phải trả sao cho thời gian thu hồi không quá lâu, phí thu hồi được đầy đủ, hấp dẫn được các đầu tư mà lại phù hợp với thu nhập của người sử dụng.
Để huy động một nguồn vốn quan trọng này vào phát triển CSHT giao thông nông thôn đòi hỏi Nhà nước cần có chính sách đổi mới cơ chế hoàn vốn rõ ràng.
+ Nếu tư nhân và các doanh nghiệp bỏ tiền đầu tư xây dựng, bảo dưỡng các con đường, cơ sở hạ tầng giao thông đường sông, cầu cống…sẽ được quyền thu phí nguời dân, các phương tiện qua lại, các đơn vị đóng trên địa bàn có sử dụng các công trình cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn này.
+ Khuyến khích các đầu tư nước ngoài đầu tư vào các hình thức BOT, BT, BOT vào xây dựng giao thông nông thôn. Nếu các đầu tư tham gia xây dựng các công trình giao thông nông thôn sẽ được hưởng các ưu đãi trong đầu tư xây dựng các công trình về sau. Nhà nước cần phải từng bước giảm nhẹ các thủ tục hành chính phức tạp, không phân biệt đối xử giữa đầu tư nước ngoài và trong nước, hỗ trợ mặt giải phóng mặt bằng…
kết luận
Phát triển cơ sở hạ tầng và hệ thống giao thông nông thôn trong một đất nước có gần 80% dân số sống trong khu vực nông thôn là việc vô cùng cần thiết. Cơ sở hạ tầng GTNT chủ yếu là hệ thống các tuyến đường huyện và đường trong các xã, thôn , hệ thống đường tỉnh trở thành các tuyến nối quan trọng liên kết các khu vực nông thôn tới các trung tâm kinh tế, thương mại trong vùng. Ngoài ra, giao thông nông thôn còn phải kể đến mạng lưới rộng lớn các đường nhỏ không thể phân loại được cùng với các tuyến sông ngòi tại nông thôn.
Những năm qua mặc dù GTNT đã được cải thiện một phần, các tỉnh đều phấn đấu xoá xã “trắng” về giao thông nông thôn, nhưng nhiều nơi đường xá chưa đáp ứng được nhu cấu đi lại của người dân trong mọi điều kiện thời tiết. Đường nông thôn nhiều nơi đạt tiêu chuẩn thấp và thiếu kết cấu thoát nước ngang, không được bào trì đúng lúc. Vốn cho đầu tư CSHT GTNT thì rất hạn hẹp chủ yếu là vốn của nhân dân đóng góp với khoảng 65% trong năm 2000, vốn đầu tư của Nhà nước đang có xu hướng giảm so với tổng số vốn đầu tư cho giao thông nông thôn.
Đề tài đã tổng hợp những vấn đề lý luận và những quan điểm đầu tư phát triển CSHT GTNT của Đảng và Nhà nước, đã làm rõ vai trò của cơ sở hạ tầng với quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, đặc biệt là tầm quan trọng trong việc thúc đẩy sản xuất và nâng cao mức sống của dân cư.
Đề tài đã nêu rõ những yếu kém và nguyên nhân của sự yếu kém đó, đồng thời nêu ra các nhu cầu to lớn và các vấn đề cấp thiết nhất hiện nay của sự phát triển CSHT GTNT trong thời gian tới, từ đó đưa ra nhu cầu vốn cho phát triển CSHT GTNT. Qua đó, đề tài đã đưa ra một số giải pháp cơ bản góp phần thúc đẩy quá trình đầu tư phát trỉen giao thông nông thôn như giải pháp huy động tối đa các nguồn lực vào phát triển CSHT GTNT, giải pháp chính sách và giải pháp nâng cao trình độ tổ chức quản lý quá trình đầu tư phát triển CSHT GTNT, trong đó giải pháp huy động tối đa các nguồn lực vào phát triển CSHT GTNT là quan trọng nhất song cần phải có các giải pháp kết hợp để đạt hiệu quả tốt nhất.
Đề tài đã đề cập tới một vấn đề tương đối phức tạp và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng tới sự phát triển nông thôn. Do nghiên cứu trong một thời gian ngắn do đó đề tài chỉ đề cập tới những vấn đề cơ bản của việc đầu tư phát triển CSHT GTNT. Hy vọng chuyên đề sẽ góp phần làm rõ những vướng mắc của lĩnh vực quan trọng này.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2000), Số liệu tổng hợp về vốn đầu tư cho nông nghiệp – nông thôn
Bùi Minh Tuấn (2001), “Hoàn thiện cơ chế quản lý đối với đầu tư xây dựng giao thông nông thôn”, Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 7 -2001
Dự án xây dựng giao thông nông thôn của WB, 1996
GS.TSKH. Nguyễn Văn Chọn, Kinh tế đầu tư, tập I. NXB Thống kê Hà Nội 4 – 2001.
Kinh tế phát triển, tập I, Nhà xuất bản Thống kê 1999
Lê Ngọc Hoàn, “Thành tựu và định hướng đầu tư phát triển giao thông nông thôn Việt Nam”, Tạp chí GTVT Số 4/2002
Niên giám thống kê 2000, Nhà xuất bản Thống kê Hà Nội 2000
Niên giám thống kê 2001 ,Nhà xuất bản Thống kê Hà Nội 2001
9. Ngân sách Nhà nước quyết toán năm 2000 và dự toán năm 2002, NXB Tài chính Hà Nội, tháng 3 – 2002.
10. Ngọc Hiền, “Cơ chế chính sách phát triển giao thông nông thôn trong chiến lược hiện đại hoá nông thôn”. Tạp chí giao thông vận tải, Số 4 - 2001
11. PGS.TS. Đỗ Hoài Nam – TS. Lê Cao Đoàn, Xây dựng hạ tầng cơ sở nông thôn trong giai đoạn công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học xã hội Hà Nội 2001
12. The rural Transport project, WB 2001
13. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần VIII, IX, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội.
14. Vụ Thống kê và thông tin, Tài liệu chọc lọc 10 cuộc điều tra lớn về kinh tế – xã hội, Nhà xuất bản Thống kê 2000
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- B0150.doc