Đề tài Một số giải pháp thúc đẩy sự hoạt động thị trường chứng khoán ở Việt Nam

Về tầm quan trọng, sự cần thiết và tính bức bách của thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay đối với nền kinh tế được đánh giá rất cao bởi các chuyên gia cũng như các nhà kinh tế. Tuy nhiên sau thời gian đi vào hoạt động, thị trường chứng khoán Việt Nam còn tỏ ra có rất nhiều yếu kém, chưa thể đáp ứng được lòng mong đợi của công chúng đầu tư, cha thể hiện được vai trò là kênh huy động vốn dài hạn cho các doanh nghiệp. Thể hiện như: cơ cấu cấu chưa hoàn thiện, cơ chế vận hành còn nhiều ách tắc, thiếu sự hiểu biết, thói quen đầu tư của công chúng. Nên thị trường chứng khoán Việt Nam thực sự chưa thể khẳng định được thế đứng quan trọng của mình đối với nền kinh tế. Vì vậy, có rất nhiều vấn đề được đặt ra như: Nhà nước cần phải có những chính sách gì? Phải tạo một khuôn khổ pháp lý như thế nào? để cho thị trường chứng khoán hoạt động một cách thuận lợi cũng như phải có thêm nhiều giải pháp để khẩn trương giải quyết những vấn đề cò tồn tại xung quanh thị trường chứng khoán. Xuất phát từ thực trạng như thế, những giải pháp trên chắc chắn sẽ góp phần tháo gỡ bớt những khó khăn như hiện nay. Tuy nhiên việc sử dụng các giải pháp phải linh hoạt, không quá rập khuôn gây phản tác dụng. Mà phải tuỳ vào điều kiện của nước ta mà áp dụng cho phù hợp

doc36 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 1110 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp thúc đẩy sự hoạt động thị trường chứng khoán ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng khoán mua được phải dùng để thế chấp cho khoản vay của khách hàng cho đến khi các chứng khoán này được bán trên thị trường. Tại một số nước, tỷ lệ cấp tín dụng chứng khoán của các tổ chức này cho khách hàng được pháp luật giới hạn ở mức tối đa là 60 % tổng giá trị chứng khoán cần mua. Mục đích của nghiệp vụ này là nhằm thu lợi dựa trên mức hoa hồng thu được, kích thích các nghiệp vụ khác hoạt động và nhằm tạo sự sôi động, sự phong phú về cầu hàng hoá chứng khoán. 3. Các yếu tố kỹ thuật nghiệp vụ. 3.1. Phân tích chỉ số chứng khoán. Đó là việc sử dụng các công thức toán học để tính toán và xác định độ biến động của giá cả chứng khoán dựa trên tiêu chuẩn và điều kiện thị trường nhất định. Đòi hỏi là các chuyên gia về chứng khoán, có đầy đủ thông tin chính xác về thị trường, có các kỹ thuật thiết bị tiên tiến và đòi hỏi phải nghiên cứu thường xuyên, liên tục, sâu sắc để đưa các số liệu chính xác về các chỉ số chứng khoán và tình hình thị trường. Vai trò: + Cung cấp cho nhà đầu tư những thông tin trung thực nhất về tình hình thị trường và có các quyết định đầu tư đúng đắn. + Giúp các cơ quan chứng khoán Nhà nước xác định được các giới hạn biến động từ đó có thể đưa ra các chính sách phù hợp. + Giúp các nhà đầu tư chứng khoán đối phó với những thay đổi của thị trường hiện tại cũng như trong tương lai. 3.2. Xác định giá chứng khoán. Bao gồm việc xác định giá phát hành và giá bán trên thị trường. Nghiệp vụ này ảnh hưởng đến khả năng hấp đẫn đối với nhà đầu tư cũng như khả năng thu hút vốn của doanh nghiệp. Đó là việc tính toán yếu tố có lợi nhuận chứng khoán tạo ra và các yếu tố rủi ro của chứng khoán đó. Ngoài ra, để mua chứng khoán trên thị trường, các nhà đầu tư, các tổ chức môi giới, kinh doanh và tư vấn đầu tư chứng khoán cũng phải xác định được mức giá cụ thể mua được của loại chứng khoán đó trên cơ sở đánh giá hiện tại cũng như tương lai về giá chứng khoán đó. Ngoài các nghiệp vụ trên, còn có các nghiệp vụ như đánh giá rủi ro chứng khoán, các loại chỉ số khác giúp cho mọi đối tượng có thể tham gia thị trường chứng khoán một cách dễ dàng nhất. Chương II Thực trạng của thị trường chứng khoán việt nam I. sự cần thiết của thị trường chứng khoán Việt Nam 1. Nền kinh tế Việt Nam hơn 10 năm đổi mới. Chủ trương của Đảng và Nhà Nước ta đã đề ra trong Đại hội VI là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ những thành tựu đã đạt được của công cuộc đổi mới nền kinh tế hơn 10 năm qua đã chứng tỏ chủ trương trên là hoàn toàn đúng đắn. Trong thời kỳ 1986 -1990 nền kinh tế nước ta có nhịp độ tăng trưởng bình quân thấp (thấp hơn cả thời kỳ 5 năm trước đó). Cụ thể thời kỳ này chỉ tăng trưởng 3,9 % còn thời kỳ 1981-1985 là 6,4 %. Chỉ số lạm phát năm 1986 lên tới 774,4 %, năm 1990 lạm phát tuy đã được kiềm chế nhưng vẫn ở mức cao (67%). Từ năm 1991 đến nay nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển vượt bậc, tốc độ tăng trưởng trong nhiều năm liền khá cao (hơn 8%/năm), lạm phát được kiềm chế ở mức độ cho phép, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Bảng: Tốc độ tăng trưởng GDP và lạm phát. Đơn vị: % Năm 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Tốc độ tăng GDP 5,96 8,65 8,07 8,84 9,54 9,34 8,15 5,83 4.99 6,7 Tốc độ lạm phát 67,5 17,5 5,2 14,4 12,7 4,5 3,6 9,2 0,1 - Để đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước đòi hỏi phải có một nguồn vốn lớn. Nghị quyết Đại hội VIII đã đề ra cho giai đoạn 1996-2000 đòi hỏi một nguồn vốn 40-45 tỷ USD, bình quân mỗi năm phải đạt 8 tỷ USD để thúc đẩy CNH-HĐH nhằm từng bước tạo ra cơ cấu kinh tế hợp lý, góp phần chống nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. 2. Nhu cầu về vốn trung hạn và dài hạn cho các doanh nghiệp Việt Nam là rất lớn. Về quy mô vốn: Qua điều tra gần đây với 273 DN thì có khoảng 50 % có số vốn chủ sở hữu trên 10 tỷ đồng và hầu hết là các DN Nhà nước. Về cơ cấu vốn: Đối với khối DNNN thì tỷ lệ vốn vay trên tổng vốn kinh doanh thường chiếm trên 70 %. Tỷ lệ vốn Nhà nước chiếm trên 30 % trong tổng số vốn. Còn các công ty cổ phần có tỷ trọng phần vốn tự có trong tổng số vốn kinh doanh cao hơn (60%). Tuy nhiên, họ cũng gặp khó khăn trong vấn đề vay Ngân hàng. Về tình hình huy động vốn của các DN: Mục đích huy động vốn chủ yếu vào bổ sung vốn lưu động và đổi mới công nghệ. Mà nguồn vay vốn chủ yếu lại từ vay vốn ngắn hạn Ngân hàng, và lượng vay lại không được đáp ứng đầy đủ. Do vậy, hiệu quả của đồng vốn vay phục vụ sản xuất kinh doanh của các DN bị hạn chế nhiều. Một xu hướng khá phổ biến là huy động vốn trong nội bộ DN thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Theo thống kê, trong năm 2000, nhu cầu vốn hoạt động kinh doanh của các DN cần khoảng 20 nghìn tỷ đồng Việt Nam, tính bình quân mỗi DN cần khoảng 84 tỷ đồng. Nếu tính đến 2005 con số này vào khoảng 30 nghìn tỷ đồng, trung bình mỗi DN cần khoảng 100 tỷ đồng. Tóm lại, nhu cầu về vốn trung hạn, dài hạn của các DN là rất lớn. Với những khó khăn về lãi suất cao, khó khăn về thủ tục và điều kiện vay vốn, nếu DN chỉ huy động vốn từ các NHTM như hiện nay thì chắc chắn không thể đáp ứng được nhu cầu về vốn hiện nay của các DN. Vậy cần thiết phải có một thị trường chứng khoán có tổ chức và được quản lý chặt chẽ để tạo kênh huy động vốn trung hạn, dài hạn rất lớn cho các DN, đặc biệt là những DN có nhu cầu về vốn lớn. Mặt khác, theo các tài liệu cho biết thì các nguồn vốn trong dân là không nhỏ, (trên 20 000 tỷ Đồng-TBKT 40/97). Số vốn này chủ yếu là để gửi tiết kiệm hoặc tích trữ còn để đầu tư là rất thấp. Vậy nếu có thị trường chứng khoán sẽ kích thích dân chúng có ý thức tiết kiệm, đầu tư sinh lợi từ những khoản này. 3. Thị trường chứng khoán là sự đòi hỏi khách quan của nền kinh tế nước ta. Thứ nhất, thị trường chứng khoán góp phần giải quyết bài toán về sự thiếu vốn trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Như trên, thị trường chứng khoán có thể đáp ứng được những nguồn vốn trung hạn, dài hạn rất lớn cho các DN. Việc hình thành và phát triển thị trường chứng khoán sẽ giúp Nhà nước ta có được một công cụ để phát huy nội lực đồng thời giúp nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế. Thứ hai, sự phát triển thị trường chứng khoán là tất yếu khách quan khi nước ta chuyển sang cơ chế thị trường, vì cho phép các chủ thể kinh tế mở rộng quyền tự chủ tài chính với các hình thức huy động vốn da dạng. Như vậy, việc thiết lập thị trường chứng khoán ở Việt Nam là hết sức cần thiết, nó có ý nghĩa thực tiễn to lớn trong việc huy động vốn đầu tư phát triển kinh tế xã hội và đặc biệt là tạo điều kiện thuận lợi cho các luồng vốn ở trong và ngoài nước lưu chuyển thông suốt, góp phần tích cực vào việc đáp ứng nhu cầu về vốn nền kinh tế. II. Những thuận lợi và khó khăn trong việc hình thành và phát triển thị trường chứng khoán 1. Thuận lợi. Thứ nhất, nước ta có một hệ thống chính trị ổn định. Thu nhập của dân cư gần đây được cải thiện rõ rệt. Uy tín của Đảng, Nhà nước đối với nhân dân ngày càng cao. Đây là tiền đề vững chắc mà mọi nền kinh tế đều cần đến thể hiện thông qua mối liên hệ biên chứng giữa chính trị và kinh tế. Thứ hai, nền kinh tế nước ta đã thoát ra khỏi khủng hoảng, tăng trưởng cao và liên tục trong những năm gần đây. Đây là tiền đề quan trọng cho các DN làm ăn có hiệu quả và có đủ điều kiện tham gia niêm yết chứng khoán. Mức tăng trưởng cao sẽ góp phần tăng mức tiết kiệm, đầu tư trên cơ sở đó tăng mức cầu về chứng khoán trên thị trường. Thứ ba, Đảng và Chính phủ ta đã có tầm nhìn đúng đắn và quan tâm thoả đáng về thị trường chứng khoán. Như đưa ra chính sách đa dạng hoá các hình thức sở hữu, cải cách hệ thống tài chính, cải cách Ngân hàng, cải cách hệ thống các DNNN. Cụ thể ngày 28/11/1996 Uỷ ban chứng khoán Nhà nước được ra đời và đến ngày 20/7/2000 thị trường chứng khoán Việt Nam chính thức đi vào hoạt động. Thứ tư, đối với lĩnh vực tài chính Ngân hàng, trong những năm cải cách và đổi mới đã cho ra đời khá nhiều NHTM, các tổ chức Bảo hiểm và các định chế tài chính khác. Đây là các nhân tố và điều kiện quan trọng đối với sự phát triển của thị trường tài chính nói chung và đối với sự phát triển của thị trường chứng khoán nói riêng. Thứ năm, hệ thống pháp luật của nước ta không ngừng được bổ sung và ngày càng hoàn thiện. Điều này đã tạo ra môi trường pháp lý ngày càng thuận lợi cho thị trường chứng khoán Việt Nam. Các văn bản pháp luật quan trọng là: Nghị quyết số 75/CP ngày 28/11/1996 về việc thành lập Uỷ ban chứng khoán Nhà nước và Nghị định số: 48/1998 NĐ-CP ngày 11/7/1998 về chứng khoán và thị trường chứng khoán Đây là những cơ sở pháp lý quan trọng và căn bản đối với quá trình xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán ở nước ta. Thứ sáu, chế độ kế toán DN mới được sửa đổi và ban hành, áp dụng gần gũi hơn đối với các chuẩn mực quốc tế. Bên cạnh đó hệ thống kiểm toán, kể cả kiểm toán Nhà nước, phi Nhà nước, kiểm toán nước ngoài đã được hình thành và phát triển. Đây cũng là những mắt xích, đầu mối quan trọngkhông thể thiếu được trong quá trình hình thành và phát triển chứng khoán và thị trường chứng khoán. Thứ bảy, hệ thống thông tin liên lạc, truyền thông ở nước ta đang trên đà phát triển mạnh. Chiến lược tăng tốc độ Bưu điện là điều kiện hỗ trợ quan trọng để hình thành và phát triển thị trường chứng khoán. Có thể nói, trình độ và năng lực của ngành tin học Việt Nam đã đủ khả năng tham gia vào tham gia vào việc xây dựng các chương trình của hệ thống giao dịch điện tử thị trường chứng khoán. Cuối cùng, một yếu tố thuận lợi khác quan trọng đó là Việt Nam là nước phát triển sau nên có thể tranh thủ học hỏi kinh nghiệm các nước đi trước. Nhờ chính sách kinh tế mở cửa, hội nhập với bên ngoài, làm cho quan hệ kinh tế trong nước cũng như quan hệ kinh tế đối ngoại ngày càng thu được những kết quả rất đáng khích lệ. Bên cạnh đó, cũng có sự giúp đỡ nhiệt tình và hiệu quả của các quốc gia, các tổ chức quốc tế. Những yếu tố này đã có những tác động tích cực đến việc hình thành và phát triển thị trường chứng khoán ở nước ta. 2. Những khó khăn và thách thức. Đã nói đến thị trường thì phải nói đến hàng hoá cho thị trường đó. Song, trên thực tế hàng hoá thị trường chứng khoán Việt Nam còn nghèo nàn về số lượng và chủng loại, những công ty cổ phần đủ điều kiện tham gia niêm yết tại trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK) còn hạn chế. Hiện nay, có khoảng 43 công ty cổ phần có đủ điều kiện niêm yết chứng khoán trên trung tâm giao dịch chứng khoán. Nếu so sánh với tổng số công ty cổ phần hiện có (tính đến thời điểm 19/7/2000 là khoảng 630 công ty) thì con số này khá khiêm tốn (chiếm khoảng 6 %). Trên thực tế rất ít các công ty đã niêm yết chứng khoán tại trung tâm giao dịch chứng khoán Tp.Hồ Chí Minh tính đến cuối tháng 9/2000, mới chỉ có 4 công ty tham gia niêm yết. Hệ thống kiểm toán của nước ta tuy đã được hình thành và phát triển từng bước, nhưng vẫn chưa thể đáp ứng được nhu cầu của thị trường chứng khoán kể cả về số lượng và chất lượng, đặc biệt là khi qui mô của thị trường chứng khoán được mở rộng. Hiện nay, trên phạm vi cả nước có hơn 20 000 DN nếu chỉ cần 1/10 số DN này đăng ký phát hành và cần đến kiểm toán, thì khả năng hiện tại của ngành kiểm toán trong nước (trong cả nước có 19 công ty kiểm toán độc lập nước nước ngoài) thì sẽ cần bao nhiêu thời gian để hình thành công việc này? Cho đến nay, Việt Nam vẫn là nước có thu nhập bình quân thấp so với thế giới, do vậy khi thực hiện cổ phần hoá (CPH) các DNNN theo đúng kế hoạch và tiến độ đặt ra là vấn đề không dễ dàng. Hay do tập quán thanh toán bằng tiền mặt vẫn còn phổ biến trong công chúng và ngay cả đối với DN. Hệ thống thanh toán qua Ngân hàng hiệu quả chưa cao. Sự đỗ vỡ của một số NHTM, quỹ tiết kiệm đã làm giảm lòng tin của công chúng. Với những vấn đề như vậy đã gây sự cản trở cho việc phát triển thị trường chứng khoán ở nước ta. Đội ngũ cán bộ điều hành, quản lý thị trường chứng khoán còn non trẻ, thiếu cả số lượng, kinh nghiệm và kiến thức nghiệp vụ. Để có đủ tri thức, kinh nghiệm và một đội ngũ cán bộ quản lý điều hành vững vàng, dày dạn là cả một thách thức lớn đối với ngành chứng khoán nước ta. Mặc dù còn quá ít thời gian để thị trường chứng khoán Việt Nam có thể khẳng định được vai trò trong đời sống kinh tế, nhưng dù sao cần phải thấy rằng, những diễn biến của trung tâm giao dịch chứng khoán Tp Hồ Chí Minh thời gian qua đã bộc lộ nhiều mâu thuẫn không thể giải quyết. Thứ nhất, hệ thống trung gian tài chính với tư cách là “hoạt chất” bôi trơn hoạt động của thị trường chứng khoán đang được dư luận cho là vừa thiếu vừa yếu. Những mâu thuẫn phát sinh ở đây là, bối cảnh hàng hoá của thị trường chứng khoán còn quá nghèo nàn. Thứ hai, thực tế hoạt động của thị trường chứng khoán cho thấy, quy mô của hệ thống lưu ký còn quá nhỏ, đòi hỏi phải được mở rộng ra ở nhiều địa phương để đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư. Điều này không hề đơn giản, vì đi kèm với nó cần phải phát triển hạ tầng kỹ thuật thông tin hiện đại, đòi hỏi chi phí không nhỏ, khó có thể đáp ứng trong điều kiện hoàn cảnh hiện nay. Thứ ba, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách ưu đãi, như các công ty chứng khoán , các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ được miễn thuế thu nhập DN thêm một năm và được giảm 50 % trong 2 năm tiếp theo. Tuy nhiên những ưu đãi này vẫn không thể hạn chế được những thua lỗ của họ. Thứ tư, khi thành lập thị trường chứng khoán, mong muốn của các nhà quản lý là mở rộng kênh huy động vốn dài hạn cho phát triển kinh tế. Tuy nhiên, qua 3 tháng hoạt động mới chỉ có 4 công ty niêm yết. Một số công ty chưa niêm yết khi được hỏi lý do đều trả lời rằng, nếu có nhu cầu vốn thì vay vốn của Ngân hàng rẻ hơn. Qua phân tích những mâu thuẫn trên để thấy rằng con đường ổn định và phát triển thị trường chứng khoán theo đúng nghĩa của nó là không hề bằng phẳng. III. Những điều kiện cần thiết để hình thành thị trường chứng khoán Việt Nam 1. Điều kiện kinh tế. Đây là nền tảng đảm bảo cho thị trường chứng khoán hoạt động và được quyết định lớn bởi các chính sách kinh tế của Nhà nước. Hiến pháp 1992 xác định “Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với các hình thức đa dạng dựa trên chế độ sở hưũ toàn dân, sở hữu tập thể và tư nhân.” Hiện nay Việt Nam có khoảng hàng nghìn DN các loại, cá khoảng 700 DN đã được cổ phần hoá. Trong những DN đã cổ phần hoá có rất nhiều DN có khả năng phát hành và niêm yết trên thị trường chứng khoán. Với một nền kinh tế tăng trưởng nhanh, phát triển ổn định và với hệ thống tiền tệ tỷ giá ổn định, hệ thống thị trường vốn ngắn hạn đã được thiết lập và hoạt động trôi chảy sẽ góp phần lớn cho thị trường chứng khoán với tư cách là thị trường vốn trung và dài hạn hoạt động có hiệu quả. Mấy năm qua, tăng trưởng kinh tế Việt Nam khoảng 8%/ năm. Đây là kết quả điều hành kinh tế vĩ mô của Nhà nước, là sự cố gắng của tất cả các cấp, ngành, của toàn thể nhân dân lao động Việt Nam. Tuy nhiên, do xuất phát điểm còn thấp nên chúng ta còn gặp nhiều khó khăn. Nếu cứ duy trì tốc độ từ 8-10%/ năm, thì trong vòng 15 năm, thì thu nhập bình quân sẽ tăng gấp đôi và sẽ cho phép thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển mạnh. Chính thị trường chứng khoán đáp ứng một nhu cầu rất lớn về vốn dài hạn cho các DN. Đây cũng chính là yếu tố tác động trở lại tới nền kinh tế, giúp nền kinh tế phát triển cao hơn, nhanh hơn. 2. Điều kiện pháp lý. Tất cả các loại chứng khoán đư ra bán hay mua trên thị trường đều phải tuân theo một khung pháp lý tiêu chuẩn theo luật định. Các vấn đề sở hữu chứng khoán, đều phải được chứng nhận của các cơ quan môi giới. Vì vậy hệ thống thị trường chứng khoán đòi hỏi một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh. Mặc dù có nhiều luật lệ ràng buộc trên thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, còn phát sinh nhiều biểu hiện tiêu cực như: gian lận, đầu cơ gây rối thị trường, trục lợi cá nhânlàm giảm niềm tin của nhà đầu tư. Nếu kéo dài có thể gây khủng hoảng thên thị trường chứng khoán. Do vậy, việc xây dựng hệ thống pháp lý là điều kiện quan trọng tạo hành lang pháp lý cho thị trường chứng khoán phát triển và là tiền đề cho việc duy trì lòng tin và bảo vệ công chúng đầu tư. 3. Điều kiện kỹ thuật tổ chức. Thứ nhất là, xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho sự phát triển thị trường chứng khoán. Tức phải xây dựng hệ thống giao dịch, hệ thống xử lý dữ liệu, hệ thống thông tin và hệ thống thanh toán bù trừ, lưu trữ chứng khoán với mô hình và mức độ tự động hoá ban đầu thích hợp. Thứ hai là, các tổ chức hoạt động trên thị trường chứng khoán. Đây là yếu tố có ý nghĩa rất quan trọng. Các tổ chức như các công ty bảo lãnh phát hành chứng khoán, các công ty môi giới, các công ty tư vấn, các quỹ đầu tư. Ngoài cần phát triển các nhà đầu tư cá tổ chức. Đây là các chủ thể chiếm tỷ trọng lớn trong việc phát triển cầu thị trường. IV. Quá trình chuẩn bị cho sự phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam 1. Khuôn khổ pháp lý. Đầu năm 1990, việc nghiên cứu xây dựng cơ sở lý luận và phân tích các điều kiện ra đời cho thị trường chứng khoán Việt Nam đã được thực hiện. Trên cơ sở đó một số bản đề án hình thành thị trường chứng khoán Việt Nam đã được xây dựng và trình Chính phủ xem xét. Năm 1994 ban chỉ đạo soạn thảo pháp lệnh về thị trường chứng khoán bao gồm đại diện của Bộ tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Bộ tư phápđã được thành lập để thống nhất đầu mối, triển khai xây dựng đề án về thị trường chứng khoán và soạn thảo một số văn bản pháp qui liên quan. 1.1. Thành lập Uỷ ban chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) UBCKNN được thành lập từ ngày 28/11/1996, là cơ quan thuộc Chính phủ, có chức năng tổ chức và quản lý Nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Nhiệm vụ của UBCKNN: Xây dựng hệ thống pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Tổ chức xây dựng, phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam. Cấp, đình chỉ hay thu hồi giấy phếp hoạt động của các định chế tài chính hoạt động trên thị trường chứng khoán. Tổ chức giáo dục, đào tạo và cấp chứng chỉ cho mọi đối tượng tham gia thị trường chứng khoán. UBCKNN có trụ sở đặt tại Hà Nội và một cơ quan đại diện tại Tp Hồ Chí Minh . Sơ đồ: Tổ chức bộ máy UBCKNN Việt Nam Các uỷ viên kiểm nhiệm - Một thứ trưởng Bộ khế hoạch - Một thứ trưởng Bộ tài chính - Một thứ trưởng Bộ tư pháp - Một Phó thống đốc NHNN Cơ quan đại diện Tp -HCM Sở GDCK Tp - HCM Văn phòng Vụ phát triển TTCK Vụ quản lý kinh doanh chứng khoán Vụ quản lý phát hành chứng khoán Vụ quan hệ quốc tế Vụ tổ chức cán bộ và đào tạo Thanh tra Chủ tịch Phó chủ tịch Sơ đồ: TTCK Việt Nam và các tổ chức liên hệ. Uỷ ban chứng khoán Nhà nước Cơ quan tư vấn Công ty CK1 Công ty CK2 Công ty CK3 Dân chúng Người tiết kiệm Nhà đầu tư Doanh nghiệp Quỹ đầu tư Quỹ bảo hiểm Quỹ tương hỗ Kho bạc Nhà nước Chính quyền địa phương Trung tâm thông tin - Thông tin - Thanh toán - Quản lý chứng khoán Trung tâm giao dịch chứng khoán Tp Hồ Chí Minh Công ty kiểm toán ******* Nghị định 48/1998 NĐ-CP là khung pháp lý cơ bản đầu tiên về thị trường chứng khoán Việt Nam, thể hiện quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán. Nghị định này đã nêu lên một số nguyên tắc cơ bản về quản lý và phát hành chứng khoán ra công chúng, về thị trường giao dịch tập trung, phạm vi kinh doanh của các công ty chứng khoán, quỹ đầu tư, sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài, những hành vi hạn chế, cấm trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Những văn bản trên đã tạo ra khuôn khổ pháp lý cho sự hình thành và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam. 1.2. Qui chế phát hành. Phát hành cổ phiếu, tức là công ty bán cổ phần thu tiền hoặc các tài sản khác phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. ở đây có hai vấn đề cần xem xét: Loại lượng hàng hoá đem bán và phương thức bán. Trong đó chú ý đến phương thức bán (phát hành) gồm các phát hành rộng (ra công chúng) và phát hành hẹp (có địa chỉ). Phát hành hẹp: số lượng người mua không lớn và chỉ phát hành cho các công ty đầu tư. Phát hành rộng: có đặc điểm ngược với phương thức phát hành hẹp. Ta có sơ đồ của quy trình phát hành rộng: Công ty phát hành chứng khoán (CP,Tp Chứng chỉ đầu tư, chứng khoán khác , Hồ sơ xin cấp giấy phép PHCK UBCKNN Phát hành CP Lần đầu tiên Các điều kiện phát hànhCP Lần PH Thêm tổng giá trị CP đang lưu hành Giá trị CPPH Ê tổng giá trị CP đang lưu hành Các điều kiện để tổ chức sử dụng vốn PHTP Phát hành thêm CP Phát hành TP Công bố việc PH (Ê5 ngày) Chào bán (Ê90 ngày) Đình chỉ PH Thu hồi Giấy phép PH Nộp lệ phí cấp giấy phép (0,02 %) Chế độ báo cáo (Ê10 ngày sau khi kết thúc PH) Không cấp phép (hồ sơ không hợp lệ) Cấp phép(Ê45 ngày) Trừ Tp Chính phủ (1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (8) (8) Trên đây là quy chế phát hành chứng khoán ra công chúng. Để cho các công ty cổ phần tận dụng hết khả năng và cơ hội huy động vốn thì ngoài luật DN hiện hành cần hoàn thiện luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán để thị trường chứng khoán hoạt động có hiệu quả. 1.3. Phương thức và quy mô hoạt động của thị trường giao dịch chứng khoán Việt Nam. Về quy mô thị trường giao dịch chứng khoán Tp Hồ Chí Minh được tổ chức khá khiêm tốn, phù hợp với chức năng , vai trò của nó trong giai đoạn đầu. Ban giám đốc điều hành Hành chính nhân sự Quản lý thành viên Quản lý niêm yết Quản lý giao dịch Giám sát thị trường Đăng ký lưu ký thanh toán bù trừ Công nghệ tin học Nghiên cứu thông tin thị trường Về cơ cấu tổ chức: Tất cả có hơn 80 các bộ công nhân viên làm việc tại trung tâm giao dịch chứng khoán. Về chức năng: đây là thị trường tập trung của các chứng khoán niêm yết được phát hành ra công chúng. Các chức năng là: quản lý, điều hành và giám sát các hoạt động giao dịch nhằm đảm bảo cho thị trường chứng khoán hoạt động giao dịch an toàn công khai, công bằng và hiệu quả bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư. Hệ thống giao dịch tại trung tâm giao dịch chứng khoán là hệ thống giao dịch tự động có khả năng xử lý 300 000 lệnh giao dịch/ ngày, với trang thiết bị và bảng điện tử tiêu chuẩn. Hệ thống này cho phép tiến hành theo hai phương thức: (1) Khớp lệnh định kỳ và (2) thoả thuận (áp dụng riêng cho các giao dịch với khối lượng lớn). Về tầm quan trọng trung tâm giao dịch chứng khoán là tiền đề cho việc thành lập sở giao dich chứng khoán Việt Nam và cũng là bước tất yếu trong giai đoạn đầu hình thành thị trường chứng khoán Việt Nam. Theo kinh nghiệm của các nước trên thế giới việc thành lập trung tâm giao dịch chứng khoán sẽ rút ngắn được thời gian chuẩn bị các điều kiện vật chất tiền đề, con người và khung pháp lý cho việc thử nghiệm thành lập thị trường chứng khoán ở Việt Nam. 2. Về hàng hoá cho thị trường chứng khoán Việt Nam. Chuẩn bị hàng phong phú và chất lượng là công tác then chốt trong việc tổ chức thị trường chứng khoán. Vì vậy cần phải thúc đẩy và nắm bắt cụ thể tình hình CPH, khối lượng chứng khoán hiện có, cũng như khả năng thực tế và nguyện vọng của các DN phát hành và niêm yết trái phiếu, cổ phiếu. a) Trái phiếu: Trái phiếu được niêm yết tại trung tâm giao dịch chứng khoán bao gồm trái phiếu Chính phủ và trái phiếu DN. - Trái phiếu Chính phủ: được phát hành để bù đắp thiếu hụt ngân sách Nhà nước và phục vụ đầu tư phát triển. Bao gồm các loại như: tín phiếu kho bạc ( 1 năm) hoặc trái phiếu công trình - và đều do Bộ tài chính phát hành. - Thị trường trái phiếu Chính phủ những năm gần đây có xu hướng tăng. Tuy nhiên, do tính chất của tín phiếu kho bạc là thời gian ngắn nên rất kém hiệu quả trong việc tạo cầu hàng hoá chứng khoán. Đối với trái phiếu công trình phải duy trì được liên tục nếu không cũng rất nhanh hết thời hạn. Bên cạnh đó, việc phát hành trái phiếu xây dựng tổ quốc cũng góp nguồn cung cấp hàng hoá quan trọng cho thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay. Dự kiến số lượng huy động khoảng 3000-4000 tỷ đồng trong năm 1999, với thời hạn 5 năm, in mệnh giá, không ghi tên có thể chuyển nhượng và dễ dàng thanh toán. - Về lãi suất phát hành có xu hướng giảm và phù hợp với lãi suất của các NHTM. Bảng: lãi suất tín phiếu, trái phiếu bán lể qua hệ thống kho bạc. Nguồn: kho bạc Nhà nước. Đơn vị: % 1991 1992 1993-1994 1995 1996 1997 1998 4-5 % 3 % 2% 1,75 % 1,4 % 1 % 0,97 % b) Cổ phiếu và cổ phần hoá doanh nghiêp Nhà nước. Theo luật công ty và luật DNNN Việt Nam thì chỉ có công ty cổ phần và DNNN có quyền phát hành cổ phiếu. Hiện nay, có khoảng 200 CTCP và 5800 DNNN trong đó chỉ có vài trăm DN có cổ phiếu. Và hiện nay, có khoảng hơn 50 NHCP và tổng số vốn điều lệ là 2200 tỷ đồng do các cổ đông đóng góp. Đa số các cổ đông là các NHTM, tổng công ty và một phần nhỏ là do cá nhân nắm giữ. Về tư tưởng CPH bắt đầu từ Đại hội VI. Tính đến cuối năm 1998 đã có 116 DNNN đã CPH với tổng số vốn điều lệ ttrên 700 tỷ đồng; đến giữa tháng 9 có khoảng trên 154 DN đã CPH. Hiện nay (cuối 9/2000) có khoảng 470 DNNN đã hoàn thành công việc CPH. Tuy còn chưa đạt chỉ tiêu mà Chính phủ đặt ra song kết quả trên cũng góp phần lớn để tạo “hàng hoá” cho thị trường chứng khoán nước ta hiện nay. 3. Vấn đề tạo nguồn nhân lực cho thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán đòi hỏi đổi ngũ nhân viên tinh thông nghiệp vụ, có bản lĩnh phẩm chất tốt. ở Việt Nam, nói chung các yêu cầu này chưa được đảm bảo. Về đào tạo cán bộ: Bộ tài chính, Ngân hàng Nhà nước, các trường đại học, các viện nghiên cứu đã tổ chức một số khoá đào tạo về thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, vẫn còn mang tính chất phôi thai, chưa có hệ thống. Ngày 5/12/1997, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 1038/1997/ QĐ-TTg về việc thành lập trung tâm nghiên cứu khoa học và bồi dưỡng nghiêp vụ chứng khoán và thị trường chứng khoán, Năm 1999, để đáp ứng nhu cầu đào tạo, trung tâm đã có chương trình đào tạo của mình, có nhiệm vụ trang bị kiến thức và kỹ năng cho tất cả những ai muốn nắm bắt về lĩnh vực này. Chương III. Một số giải pháp, kiến nghị thúc đẩy sự hoạt động thị trường chứng khoán Việt Nam I. Hoàn thiện cơ cấu tổ chức thị trường chứng khoán Việt Nam Trên thế giới từ lâu đã tồn tại mô hình thị trường chứng khoán hai cấp: thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Thị trường sơ cấp còn gọi là thị trường giao dịch phi tập trung (OTC-over the counter). Thị trường này được hình thành và phát triển một cách tự phát từ nhiều năm nay, và giao dịch các loại chứng khoán chưa niêm yết. Mặc dù thị trường OTC là sân chơi khá phù hợp và hiệu quả đối với các DN Việt Nam, nhưng chính phủ ta vẫn chưa có khuôn khổ pháp lý cho loại hình thị trường này hoạt động. Thị trường thứ cấp hay thị trường giao dịch tập trung tại trung tâm giao dịch chứng khoán, giao dịch các loại chứng khoán dã niêm yết. Về cơ cấu tổ chức của thị trường chứng khoán tập trung thì tuỳ vào từng điều kiện cụ thể ở mỗi nước mà có những đăc điểm khác nhau. Đối với nước ta, trong giai đoạn đầu hoạt động, cơ cấu tổ chức bao gồm: Uỷ ban chứng khoán Nhà nước (UBCKNN). Trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK). Hệ thống các công ty chứng khoán (CtyCK) và hiệp hội những nhà kinh doanh chứng khoán. Các quỹ đầu tư chứng khoán. Các tổ chức nghiên cứu và tư vấn về chứng khoán. Các cơ quan kiểm toán độc lập. Các tổ phụ trách về thông tin trên thị trường chứng khoán. 1. Hoàn thiện trung tâm giao dịch chứng khoán Tp Hồ Chí Minh. Trung tâm giao dịch chứng khoán là bước phát triển tất yếu trong giai đoạn đầu hình thành thị trường chứng khoán Việt Nam và cũng là tiền đề cho việc thành lập sở giao dịch chứng khoán Việt Nam (SGDCK). Sỡ dĩ Việt Nam chưa thành lập SGDCK là vì cơ chế vận hành của nó phức tạp bao gồm từ khâu đăng ký, niêm yết, giao dịch, thanh toán bù trừ và lưu ký chứng khoán đòi hỏi phải tuân thủ những quy định rất nghiêm ngặt,và cần có cơ sở hạ tầng tốt, trong đó bao gồm các yếu tố: cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ, con người và khung pháp lý hoàn chỉnh đáp ứng được yêu cầu trong quá trình vận hành. Về thực chất, trung tâm giao dịch chứng khoán hoạt động như một SGDCK thu nhỏ, có hình thức thích hợp hơn đối với giai đoạn đầu phát triển thị trường chứng khoán ở nước ta hiện nay. Và vì vậy hoạt động của TTGDCK cũng phải đáp ứng những yêu cầu trên của UBCKNN. Về số lượng TTGDCK cũng là vấn đề có nhiều tranh cãi. Hiện nay ngoài TTGDCK Tp Hồ Chí Minh còn có nhiều ý kiến cũng như bản đề án thành lập TTGDCK Hà Nội. Cần khẳng định rằng không phải cứ nhiều TTGDCK trên một nước là tốt. Tuy nhiên, có thể mở thêm chi nhánh hoặc sàn giao dịch tại Hà Nội và được nối mạng với trụ sở chính. Về các thành viên tham gia TTGDCK là các công ty chứng khoán được UBCKNN cấp giấy phép hoạt động. Các công ty chứng khoán tham gia là các CtyCP hoặc các công ty TNHH độc lập hình thành từ các NHTM quốc doanh, NHTM cổ phần, công ty tài chính, Bảo hiểm hoặc các tổng công ty mạnh được UBCKNN cấp giấy phép hoạt động. Ngoài ra, để TTGDCK Tp Hồ Chí Minh hoạt động có hiệu quả thì cần quán triệt các chức năng, nhiệm vụ: Tổ chức quản lý điều hành và hoàn thiện hệ thống giao dịchcũng như ngăn chặn, xử lý các hành vi không công bằng, gian lận. Công bố thông tin, đưa ra các chỉ số phân tích tạo điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư, từ đó tạo sức mạnh cho sự phát triển thị trường chứng khoán. 2. Hoàn thiện cơ cấu các tổ chức liên quan. Công ty chứng khoán và trung gian tài chính: Hầu hết ở các nước, các CtyCK, các TGTC độc lập với hoạt động của Ngân hàng. Nhưng do đặc điểm của hệ thống tài chính Ngân hàng nước ta chưa phát triển, nên không thể xây dựng một hệ thống các CtyCK và các TGTC ngay từ đầu mà phải sử dụng ngay các tổ chức hiện tại và từng bước có hướng chuyển đổi và bổ sung chức năng cho hựp lý. Mặt khác, chúng ta nên mở cửa mời các CtyCK nước ngoài tham gia liên doanh với Việt Nam để học hỏi kinh nghiệm và chuyển giao công nghệ. Ngoài ra, cần có các CtyCK Nhà nước, nhằm can thiệp thị trường, bình ổn thị trường giao dịch chứng khoán thông qua các biện pháp kinh tế thay cho biện pháp can thiệp thị trường bằng biện pháp hành chính tổ chức. Quỹ đầu tư: Đây là việc một tổ chức nào đó tập hợp vốn riêng lẻ để cùng đầu tư vào một lô chứng khoán lớn có triển vọng, dưới hình thức là một CtyCP hay hợp đồng hợp tác liên doanh. Do là nghiệp vụ mới mẻ ở nước ta nên muốn hoạt động có hiệu quả nên dựa vào các tổ chức sẵn có như các công ty Bảo hiểm, các công ty tài chính Các công ty kiểm toán: Mặc dù không trực tiếp thuộc cơ cấu tổ chức bộ máy TTCK, nhưng lại rất cần thiết cho hoạt động của TTCK. Ví dụ một công ty kiểm toán ở Việt Nam (Vaco) hoạt động với nội dung: tư vấn giúp các DN chấp hành đúng các quy chế hành chính, kế toán, thực hiện đúng nghĩa vụ đối với Nhà nước, kiểm định hợp pháp của một số tài liệu, số liệu tài chính, xác nhận các báo quyết toán. Ngoài ra, cần hoàn thiện các tổ chức nghiên cứu, các hoạt động tư vấn, các tổ chức phân bổ thông tinnhằm hoàn thiện cơ cấu tổ chức cho TTCK hoạt động có hiệu quả. II. Hoàn thiện cơ chế tổ chức vận hành thị trường chứng khoán hiện nay ở nước ta. Hơn 5 năm nỗ lực và quyết tâm chuẩn bị tạo dựng những vấn đề cần thiết cho TTCK Việt Nam ra đời. Một kênh huy động dẫn vốn cho đầu tư phát triển kinh tế đất nước, đã hiện diện. Dù sao thì đó cũng chỉ là một cỗ máy, còn sự vận hành, công năng của nó đạt tới hiệu quả ra sao, thì đó còn là vấn đề lớn. 1. Về các giao dịch chứng khoán phi tập trung. Hiện nay cơ chế vận hành này chưa được chú ý đúng mức ở nước ta. Mà ta đã biết TTCK phi tập trung (OTC) là rất cần thiết cho điều kiện ban đầu của nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Lý do: Thứ nhất, theo quy định hiện nay, tổ chức phát hành phải đáp ứng một số điều kiện nhất định như vốn điều lệ hơn 10 tỷ đồng, hoạt động kinh doanh có lãi trong hai năm liền gần nhất tính đến ngày nộp hồ sơ xin phép phát hành Trên thực tế nhiều Dn không đáp ứng được các điều kiện trên vẫn có nhu cầu trao đổi vốn, do đó cần phải có một thị trường để giao dịch những loại chứng khoán này. Thứ hai, có nhiều DN đã có đủ các điều kiện trên, nhưng có thể có nhiều lý do mà họ chưa thể niêm yết chứng khoán, nhưng chắc chắn đã hình thành nhu cầu trao đổi, giao dịch chứng khoán mà DN đã phát hành. Thứ ba, đối với các loại TP, CP của các công ty mới CPH bán ra, tuy vậy nếu các cổ đông muốn bán lại thì chắc chắn sẽ rất khó khăn vì chưa có thị trường. Vậy việc sớm đáp ứng nhu cầu giao dịch trên thị trường giao dịch OTC là rất cần thiết và tránh tâpj trung phiền hà làm ảnh hưởng đến giao dịch của các chứng khoán đã niêm yết. 2. Các Ngân hàng thương mại Việt Nam (NHTM) với thị trường chứng khoán. Các NHTM Việt Nam có vai trò rất lớn tới quá trình hình thành và phát triển TTCK. Hiện nay, chúng ta vẫn chưa vận dụng hết năng lực tự thân của hệ thống hơn 50 NHTM này đẻ hỗ trợ cho TTCK. Vì vậy cần có chính sách tạo sự thông thoáng cho các NHTM hoạt động có hiệu quả trong TTCK. Vấn đề bất cập hiện nay là việc lập công ty chứng khoán độc lập riêng mà không tính đến tính chất từng nghiệp vụ. Ví dụ hoạt động kinh doanh chứng khoán cho chính Ngân hàng, hay bảo lãnh phát hành, nó liên quan đến vốn Ngân hàng nên việc thành lập các công ty chứng khoán độc lập riêng là cần thiết, còn loại hình khác không sử dụng đến tiền vốn, ít rủi ro, bản thân NHTM với tư cách là một định chế tài chính-tiền tệ có sẵn có sẵn bộ máy tổ chức thì có thể đảm nhiệm những nghiệp vụ trên. Lúc này lại không cần đến công ty chứng khoán độc lập riêng. Vậy bất cập này cần phải xem xét lại trong giai đoạn tới. Bên cạnh một khó khăn nữa cho các NHTM là muốn lập CtyCK, thì phải hoạt động có lãi, nợ quá hạn dưới 50 % Mặc dù các điều kiện này có thể không cần thiết lắm vì nhiều loại hình dịch vụ kinh doanh chứng khoán không thuộc tính chất kinh doanh vốn tiền tệ, NHTM chỉ làm dịch vụ để thu hoa hồng như loại hình dịch vụ tư vấn đầu tư chứng khoán, môi giới, quản lý doanh mục chứng khoán, lưu ký chứng khoán, đại lý phát hành nên cần có cơ chế nới lỏng so với việc NHTM mua bán chứng khoán tự doanh hay bảo lãnh phát hành. III. Vấn đề tạo hàng hoá cho thị trường chứng khoán. 1. Những nguyên nhân làm cho cung ít hơn cầu. Đây là vấn đề bức xúc của thị trường chứng khoán nước ta hiện nay. Một số chuyên gia cho rằng, nếu không sớm có giải pháp tạo thêm “hàng hoá” có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu thị trường thì thị trường chứng khoán không những không đảm đương được vai trò là kênh huy động vốn cho nền kinh tế mà có thể gây ra những đổ vỡ trong đầu tư. Nhìn lại các kênh cung cấp hàng hoá trong thời gian qua, thấy loại hàng hoá mà Nhà nước có thể phát hành được là TP Chính phủ thì lại không làm tốt, còn loại hàng hoá không thể ép buộc niêm yết (cổ phiếu) thì lại thiếu cơ chế khuyến khích đưa vào thị trường chứng khoán. Trên thực tế, hàng hoá chủ đạo dự kiến trên thị trường chứng khoán đã không thực hiện được, còn trái phiếu công trình, trái phiếu công ty thì chưa thấy xuất hiện trên thị trường chứng khoán. Về phần các DN, ý kiến chung là họ chưa thực sự cần vốn trong bối cảnh hiện nay, nếu cần thì đi vay Ngân hàng là giải pháp tiện lợi hơn. Về nguyên nhân làm cho thị trường chứng khoán kém sôi động, cung ít hơn cầu là xuất phát từ hai phía: Thứ nhất, là từ phía các DN e ngại công khai tài chính vẫn còn nặng nề. Việc chờ đợi hoạt động của thị trường chứng khoán có thực đem lại hiệu quả hay không hay cũng có thể chưa có điều kiện niêm yết đã khiến cho quá trình tham gia thị trường chứng khoán của các công ty bị chững lại. Thứ hai, là từ phía cơ quan chuyên ngành, nếu vẫn còn giữ nguyên các điều kiện niêm yết chắc chắn sẽ làm cho sự kém sôi động ở thị trường chứng khoán tập trung mà nổi lên có thể là sự sôi động của thị trường OTC. 2. Các giải pháp tạo hàng hoá cho thị trường chứng khoán. Nổi bật sau những phiên giao dịch chứng khoán thời gian qua là vấn đề cung và cầu trên thị trường. Có lúc cầu vượt để đẩy giá cổ phiếu lên cao, cũng có lúc cung vượt làm gía cổ phiếu đi xuống. Xét cho cùng, cả hai trường hợp đều do thiếu hàng hoá hạn chế khả năng lựa chọn cho các nhà đầu tư. Thực tế, đã có rất nhiều giải pháp được đưa ra để tăng cung như tăng thêm các công ty niêm yết, bán bớt số cổ phần Nhà nước đang nắm giữ tuy nhiên, theo đánh gía của các chuyên gia, thì đây chỉ là các biện pháp tình thế mang tính “đối phó”. Việc đưa thêm các công ty chứng khoán vào niêm yết để có chứng khoán giao dịch mới chỉ tạo khả năng thanh khoản cho các cổ đông đã đầu tư bấy lâu nay vào công ty đó, chứ chưa thực sự đem lai hàng hoá cho công chúng đầu tư đang “chực mua” ở thị trường chứng khoán. Do vậy giải pháp tạo cung mang tính dài hạn, là huy động vốn mới ở thị trường sơ cấp để chủ động xây dựng nguồn cung cho mình. Cụ thể hơn là kích thích các công ty CPH hoặc các công ty cổ phần được thành lập theo luật DN phát hành thêm cổ phiếu ra công chúng. Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay do thiếu nhất quán trong công tác CPH và huy động vốn mới nên việc CPH các DNNN chỉ là chuyển (chia) tài sản công ty ra thành nhiều phần cho từng chủ mới và chủ cũ, kết quả là không làm tăng tài sản. Nếu nhìn vào cổ phiếu của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán hiện nay thấy chỉ dừng lại ở việc mua đi bán lại, gía cổ phiếu tăng nhưng thực vốn của công ty không tăng (nếu công ty không phát hành thêm cổ phiếu để mở rộng sản xuất kinh doanh). Theo các chuyên gia chứng khoán, điều nay không đem lai lợi ích gì cho các công ty niêm yết ngoài việc thiên hạ biết đến cổ phiếu của mình như thế nào. Nên cần khẳng định lại việc huy động vốn ở thị trường sơ cấp hiện nay là hết sức cần thiết. Lợi ích của việc phát hành cổ phiếu ra công chúng là tạo nguồn cung hàng hoá mới, liên tục, có giá cả xác thực, bình quân mang tính thị trường qua sự nhìn nhận tương đối của công chúng đầu tư. Hay đẩy mạnh quá trình CPH các DNNN là biện pháp tạo nguồn cung tiềm năng cho thị trường chứng khoán và cũng cần nhận thức rõ, thị trường sơ cấp mới là nơi huy động vốn tốt nhất cho nền kinh tế. 3. Giải pháp về chứng khoán. Hiện nay TTGDCK Tp Hồ Chí Minh mở cửa hoạt động sẽ chỉ có 4-5 loại chứng khoán được niêm yết giao dịch, trong khi cả nền kinh tế có hơn 400 loại cổ phiếu và hơn chục loại trái phiếu. Điều này có ý nghĩa tạo ra một TTCK chính thức, nhưng hầu hết chứng khoán đều không có nơi giao dịch. Tất cả các loại chứng khoán đã phát hành hợp pháp sẽ được đưa vào TTGD gồm hai loại: chứng khoán niêm yết và chứng khoán giao dịch. Chứng khoán giao dịch là loại chứng khoán không niêm yết được ghi danh để giao dịch mua bán tại một khu riêng của TTGDCK. Mục đích của giải pháp này là tạo ra khả năng thanh khoản cho mọi đồng vốn đầu tư chứng khoán, tức là khả năng chuyển chứng khoán thành tiền và ngược lại cho nhà đầu tư. Sự khác nhau căn bản giữa chứng khoán niêm yết và chứng khoán giao dịch là ở quy mô và tính đại chúng của công ty phát hành, tính khả mại và sự an toàn của loại chứng khoán. Vậy Nhà nước cần có chính sách ưu đãi đối với chứng khoán niêm yết, như miễn hoặc giảm các loại thuế và chế độ thông tin thị trường để khuyến khích phát triển loại chứng khoán này. Vậy giải pháp cụ thể là buộc loại chứng khoán đủ tiêu chuẩn phải niêm yết, còn loại không đạt tiêu chuẩn thì phải đăng ký để giao dịch tại khu vưc chứng khoán không niêm yết tạo khả năng thanh khoản cho vốn đầu tư, từ đó khuyến khích đầu tư, cũng như hình thành mối liên hệ có trách nhiệm giữa công ty cổ phần, thị trường chứng khoán với nhà đầu tư thông qua chế độ thông tin và giao dich. Mặt khác, sự ép buộc này giúp nhà đầu tư hiểu biết đúng đắn về công ty thông qua sự đánh giá của công chúng (thị trường) thể hiện ở giá cả chứng khoán. Cuối cùng, bảo đảm sự phát triển của thị trường thông qua việc gia tăng liên tục nguồn cung ứng chứng khoán. Bên cạnh hai loại chứng khoán trên, TTGDCK còn có loại chứng khoán phát hành mới. Các chứng khoán này sẽ thông qua các công ty chứng khoán, đại lý phát hành đem chứng khoán vào bán tại TTGDCK thông qua đấu giá tập trung để xác định giá bán cổ phần, xác định lãi suất trái phiếu và phân phát cho những cá nhân, tổ chức trúng thầu. IV. Giải pháp tạo nguồn nhân lực, nâng cao sự hiểu biết của công chúng. Khi thị trường chứng khoán đi vào hoạt động đòi hỏi phải có một đội ngũ đông đảo cán bộ có năng lực làm việc với thị trường chứng khoán, phải có dân trí cao cũng như thói quen đầu tư của dân chúng. Kết quả điều tra cho thấy phần lớn cán bộ trong các DN đều chưa qua đào tạo kiến thức về TTCK. Còn số DN có đội ngũ cán bộ đã qua đào tạo về chứng khoán và TTCK chỉ chiếm khoảng 17 %. Các thông tin về chứng khoán và TTCK mà DN tiếp cận chủ yếu thông qua hệ thống thông tin đại chúng và các buổi nói chuyện chuyên đề (chiếm khoảng 58 %). Tuy nhiên thực tế tiếp xúc với cán bộ của DN, thì hầu hết sự hiểu biết của cán bộ công ty còn rất hạn chế họ chỉ nghe nói chuyện về hoạt động chứng khoán chứ chưa hiểu biết, thậm chí những nguyên tắc cơ bản của hoạt động này. Điều này phản ánh thực tế là công tác thông tin tuyên truyền và phổ biến kiến thức về chứng khoán và TTCK chưa được triển khai mạnh mẽ và hiệu quả. Điều này cũng khẳng định luôn là sự hiểu biết về chứng khoán và TTCK còn rất mơ hồ. Thậm chí cả sinh viên các trường Đại học-Tầng lớp trí thức của xã hội cũng chưa được chuẩn bị kiến thức cơ bản về chứng khoán và TTCK. 2. Các hình thức đào tạo phổ biến. - Cử cán bộ đi học trong nước hoặc nước ngoài với nội dung đào tạo như: kinh nghiệm giám sát của UBCKNN, vận hành TTGDCK, việc quản lý kinh doanh cho các công ty môi giới, quỹ đầu tư, trung tâm đăng ký, thanh toán bù trừ, lưu ký thực hành kỹ năng thao tác tại sàn giao dịch và ở công ty môi giới. Cần chú ý đến tầng lớp cán bộ trẻ, năng động có khả năng tiếp thu nhanh những tri thức hiện đại về công nghệ và những nghiệp vụ chuyên môn phức tạp của TTCK. Bộ giáo dục đào tạo cần khẩn trương triển khai xây dựng hệ thống giáo trình về TTCK để chính thức đưa vào giảng dạy trong các trường Đại học, Cao đẳng. - Tổ chức các khoá phổ biến kiến thức vè chứng khoán, các buổi hội thảo chuyên đề có sự hỗ trợ của nhà nước, các tổ chức quốc tế, mời các tầng lớp dân chúng công nhân viên để họ biết được phương thức đầu tư sinh lợi cho bản thân họ cũng như cho đất nước qua TTCK. -Tạo điều kiện cho mọi công nhân viên tiếp xúc với phương tiện truyền tin đại chúng như báo chí, tạp chí, phát thanh, truyền hình cho họ tự nguyện đến với TTCK. Ngoài ra còn rất nhiều phương pháp nữa. Nhiều DN đề nghị tổ chức các buổi báo cáo chuyên đề, mời các chuyên gia của UBCKNN đến nói chuyện cũng như giới thiệu các văn bản pháp lý về chứng khoán và PHCK hiện có ở Việt Nam. V. Xây dựng cơ sở hạ tầng cho thị trường chứng khoán. Để đáp ứng yêu cầu vận hành của TTCK cần: - Hoàn thiện và thực hiẹn các đề án, trang thiết bị hệ thống máy tính cho TTGDCK . - Tăng cường hơn nữa cơ sở vật chất kỹ thuật cho hệ thống ngân hàng. Hiện nay, những điều kiện trên ở Việt Nam còn mỏng và chưa đủ hiện đại cho sự vận hành TTCK ở trình độ cao, cũng như chưa thể đáp ứng hay xử lý kịp thông tin cho TTCK trong giai đoạn tới. Vì vậy trong thời gian tới cần: Đầu tư xây dựng hệ thống thanh toán bù trừ tự động trên phạm vi cả nước, khai thác triệt để mạng lưới viễn thông, bưu điện hiện có để liên kết thị trường vốn trong nước thành một thị trường thông suốt và tiến tới nối mạng với hệ thống thanh toán quốc tế. Củng cố hoàn thiện trung tâm tin học ứng dụng của NHNN, để cung cấp thông tin về tình hình tài chính DN làm chỗ dựa cho hoạt động kinh doanh trên TTCK của NHTM, các tổ chức trung gian khác. Xây dựng các trung tâm tin học mạnh đủ sức lưu trữ, cập nhật và xử lý dữ liệu, thông tin đáp ứng mọi yêu cầu nghiệp vụ của hệ thống NH và TTCK. VI. Giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô. Đây là giải tầm vĩ mô của nhà nước, nhiệm vụ là ổn định giá cả, kiềm chế lạm phátgóp phần ổn định kinh tế. Đối với việc xây dựng một TTCK phát triển cao, Nhà nước giữ vai trò quyết định. Đặc biệt là việc quản lý, tạo điều kiện, khuyến khích cho thị trường phát triển theo đúng đường lối của Đảng và Chính phủ. Đối với TTCK nói riêng các chính sách của Nhà nước đưa ra phải đảm bảo: - Một TTCK có tổ chức, hoạt động công bằng, hiệu quả, an toàn, bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư phải phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của đất nước, từng bước hội nhập với TTCK trong khu vực và thế giới. - Phát triển TTCK từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện, phù hợp với tình hình và điều kiện cụ thể của đất nước. Những giải pháp cụ thể: Thực hiện chính sách tỷ giá linh hoạt, luôn ở mức ổn định tương đối, cần phải đặt trong sự thống nhất toàn bộ với các chính sách lãi suất, dự trữ ngoại tệ... đồng thời bám sát với những diễn biến của tình hình tài chính tiền tệ trong và ngoài nớc. Cân bằng cán cân thanh toán quốc tế, phát huy chính sách kinh tế đối ngoại, nhằm huy động thêm vốn bên ngoài cho phát triển kinh tế đất nước. Tăng cường quản lý tín dụng, nâng cao hiệu quả các khoản vay, giảm tối đa nợ quá hạn, nợ tồn đọng và nợ khó đòi, chống thất thoát và rủi ro tín dụng đối với hệ thống Ngân hàng, nâng cao hiệu quả đầu tư. Kiện toàn và phát triển hệ thống Ngân hàng lành mạnh, hiện đại. Hoàn thiện khung pháp lý làm cơ sở cho hoạt động của hệ thống Ngân hàng cũng nh sự hoạt động của TTCK. Các kiến nghị: 1. Cần thúc đẩy mạnh mẽ cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nớc để tạo nhiều hàng hoá có chất lượng cho thị trường chứng khoán. Đặc biệt là những doanh nghiệp có quy mô lớn, làm ăn có hiệu quả và gắn việc cổ phần hoá với phát hành cổ phiếu ra công chúng. Chỉ khi chứng khoán của doanh nghiệp có sức thu hút mạnh mẽ đối với công chúng đầu tư, có nhiều nhà đầu tư tham gia trên thị trường, tác động tâm lý sẽ khuyến khích cho thị trường phát triển nhanh hơn. Như khẳng định ở trên: "cổ phần hoá là biện pháp rất hữu hiệu tạo nguồn cung tiềm năng cho thị trường chứng khoán". 2. Cần ban hành những cơ chế, chính sách ưu đãi khuyến khích các doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực chứng khoán và hoạt động kinh doanh chứng khoán. Qua điều tra các doanh nghiệp đều e ngại hoạt động ban đầu của các công ty niêm yết và cônh ty chứng khoán sẽ gặp phải khó khăn. Cụ thể: Các chính sách kích cung cổ phiếu: giảm thuế thu nhập đối với công ty niêm yết, cho phép trả chậm thuế, miễn giảm phí niêm yết cho các công ty niêm yết. Đây là việc rất cần làm, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi lượng hàng hoá trên thị trường Việt Nam còn rất nghèo nàn. Các chính sách kích cầu: miễn thuế thu nhập đối với nhà đầu tư cá nhân. Chính sách cổ tức cố định đối với các nhà đầu tư cá nhân trong những công ty có vốn của Nhà nước. Chính sách khuyến khích các doanh nghiệp tham gia hoạt động kinh doanh chứng khoán như miễn giảm thuế, hỗ trợ vốn... trong việc thành lập công ty chứng khoán và hoạt động của các công ty chứng khoán. Các biện pháp bảo vệ công chúng đầu tư: - Khống chế giá trần tối đa (trong giai đoạn hiện nay). - Cung cấp đầy đủ và kịp thời các thông tin cần thiết cho công chúng đầu tư. - Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát các công ty chứng khoán thành viên. - Thường xuyên theo giõi hoạt động giao dịch trên thị trường nhằm phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi sai phạm. 3. Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền và đào tạo, phổ biến kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Trên thực tế, việc thiếu hiểu biết về chứng khoán và thị trường chứng khoán trong xã hội là rất phổ biến. Nhu cầu đào tạo kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán cũng rất lớn, trong khi việc phối hợp triển khai tuyên truyền trên các phơng tiện thông tin đại chúng đã được mở rộng và đạt hiệu quả như mong muốn. Các biện pháp cần thiết như tổ chức phổ cập miễn phí kiến thức về thị trường chứng khoán cho công chúng và nâng cao nghiệp vụ cho những người được đào tạo cơ bản. UBCKNN nên tạo điều kiện giải đáp thắc mắc cho người đầu tư. Trên đây là những giải pháp khá cụ thể và tách bạch. Trên thực tế để thị trường chứng khoán hoạt động có hiệu quả cần phải sử dụng các giải pháp đó một cách linh hoạt. Tuy nhiên, hiện nay ở Việt Nam, để có một giải pháp mang tính chất chiến lược, ổn định thì vẫn còn là một vấn đề rất lớn cần phải nghiên cứu thêm. kết luận Về tầm quan trọng, sự cần thiết và tính bức bách của thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay đối với nền kinh tế được đánh giá rất cao bởi các chuyên gia cũng như các nhà kinh tế. Tuy nhiên sau thời gian đi vào hoạt động, thị trường chứng khoán Việt Nam còn tỏ ra có rất nhiều yếu kém, chưa thể đáp ứng được lòng mong đợi của công chúng đầu tư, cha thể hiện được vai trò là kênh huy động vốn dài hạn cho các doanh nghiệp. Thể hiện như: cơ cấu cấu chưa hoàn thiện, cơ chế vận hành còn nhiều ách tắc, thiếu sự hiểu biết, thói quen đầu tư của công chúng... Nên thị trường chứng khoán Việt Nam thực sự chưa thể khẳng định được thế đứng quan trọng của mình đối với nền kinh tế. Vì vậy, có rất nhiều vấn đề được đặt ra như: Nhà nước cần phải có những chính sách gì? Phải tạo một khuôn khổ pháp lý như thế nào? để cho thị trường chứng khoán hoạt động một cách thuận lợi cũng như phải có thêm nhiều giải pháp để khẩn trương giải quyết những vấn đề cò tồn tại xung quanh thị trường chứng khoán. Xuất phát từ thực trạng như thế, những giải pháp trên chắc chắn sẽ góp phần tháo gỡ bớt những khó khăn như hiện nay. Tuy nhiên việc sử dụng các giải pháp phải linh hoạt, không quá rập khuôn gây phản tác dụng. Mà phải tuỳ vào điều kiện của nước ta mà áp dụng cho phù hợp. Vấn đề khó khăn vẫn còn đó, thị trường chứng khoán nước ta vẫn trong giai đoạn hình thành, cần phải quan tâm chặt chẽ và liên tục để tìm ra những giải pháp mới hữu hiệu hơn. Hà nội, Ngày15 tháng 10 năm 2000. Sinh viên: Tống Văn Thể tài liệu tham khảo 1. Giáo trình: Thị trường chứng khoán. PGS-TS Nguyễn Văn Nam, khoa NH-TC trường Đại học KTQD-Hà Nội-1998. 2 Việt Nam với thị trường chứng khoán Bùi Nguyên Hoan. NXB Chính trị quốc gia. 3. Thị trường chứng khoán và công ty cổ phần Bùi Nguyên Hoan.NXB Chính trị quốc gia -1998 4. Hỏi đáp về thị trường chứng khoán Đặng Quang Gia. Nhà xuất bản Thống kê. 5. Thị trường chứng khoán PGS.TS Lê Văn Tư & Lê Tùng Vân. Nhà xuất bản Thống kê. 6. Thị trường chứng khoán và bước đầu hình thành TTCK tại Việt Nam Võ Thành Hiệu & Bùi Kim Yến. Nhà xuất bản Thống kê. 7. Tạp chí chứng khoán Việt Nam- Các số năm 1999 & 2000. 8. Tạp chí đầu tư chứng khoán- Các số năm 2000. 9. Tạp chí Thời báo Sài gòn. 10. Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ -Số 8+9/2000. Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc8928.doc
Tài liệu liên quan