Đề tài Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu chè của Tổng công ty chè Việt nam

Đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề chuyển giao ý nghĩa để phát triển kinh tế và thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đạI hoá đất nước. Vai trò của xuất khẩu thể hiện trên các mặt sau: ã Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá, hiện đạI hoá. ã Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. ã Xuất khẩu tạo điều kiện cho các nghành khác có cơ hội phát triển thuận lợi. Ví dụ khi phát triển nghành dệt may xuất khẩu sẽ tạo cơ hội đầy đủ cho việc phát triển nghành sản xuất nguyên liệu như bông hay thuốc nhuộm. Sự phát triển của nghành công nghiệp chế biến thực phẩm xuất khẩu ( gạo, dầu, thực vật, chè.v.v.) có thể sẽ kéo theo sự phát triển của nghành công nghiệp chế tạo thiết bị phục vụ cho nó. ã Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần cho sản xuất phát triển và ổn định.

doc76 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1173 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu chè của Tổng công ty chè Việt nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng ép cấp, ép giá, duy trì giá mua ở mức cao nhất có thể. Nhờ vậy, người trồng chè yên tâm gắn bó với vườn chè, không xảy ra hiện tượng chặt cây chè để trồng cây khác như để xảy ra đối với cà phê và một số cây công nghiệp khác. * Tổng công ty đã thực hiện tốt chức năng đầu mối XNK của mình, mở ra các thị trường mới không chỉ cho các đơn vị thành viên của mình mà cho các các doanh nghiệp sản xuất chè Việt Nam khác. Từ khi thành lập đến nay, chưa năm nào Tổng công ty kinh doanh bị thua lỗ. Nhiều đơn vị thành viên trong mấy năm gần đây cũng đã thoát khỏi tình trạng không thu đủ bù chi và hoạt động ngày càng có lãi. Có thể thấy đây thực sự là một sự cố gắng lớn của các nhà lãnh đạo nếu đem so sánh kết quả này với thực tế của các DNNN hiện nay: Theo kết quả do Tổng cục quản lý vốn và tài sản nhà nước tại DNNN ghi nhận sau khi khảo sát các báo cáo tài chính năm 1997, tại 3.646 DNNN ở 39 tỉnh, thành phố, có 43,6% số DNNN làm ăn có hiệu quả và vẫn còn 13% kém hiệu quả, thua lỗ liên tục từ năm 1995 đến nay. Tổng công ty hoạt động tốt đã giúp cho đời sống của cán bộ công nhân viên cũng như của người trồng chè không ngừng được cải thiện và đóng góp cho ngân sách Nhà nước ngày càng tăng. * Tổng công ty là đơn vị thực hiện cổ phần hoá sớm nhất. Khi nhà nước có quyết định cổ phần hoá một số đơn vị quốc doanh vào những năm 1997, 1998 thì tại Tổng công ty chè, CPH trong nông nghiệp đã được tiến hành từ 10 năm trước đây. Đó chính là việc giao vườn chè cho người công nhân trong thời gian dài (25 - 30 năm) bắt đầu được thực hiện từ năm 1986 trên cơ sở vận dụng nghị quyết 10/BTC và nghị định 169/HĐBT. Hình thức khoán đã thực sự tạo ra động lực mới cho sự phát triển ở khu vực sản xuất nguyên liệu, người lao động thực sự làm chủ vườn chè, làm chủ sản xuất kinh doanh, làm chủ thành quả lao động của mình, nên họ đã phấn khởi chăm lo sản xuất và có trách nhiệm hơn với công việc. Nhờ có năng suất bình quân và sản lượng của m ột số đơn vị đã có những thay đổi theo hướng tích cực. * Tổng công ty là đơn vị đầu tiên đưa ra hình thức hội đồng bí thư để phối hợp hoạt động giữa Đảng bộ Tổng công ty với Đảng bộ địa phương. Vì Tổng công ty bao gồm nhiều thành viên ở các địa phương khác nhau. Bí thư Đảng uỷ Tổng công ty phụ trách đảng viên ở Tổng công ty, trong khi đảng viên ở cơ sở lại thuộc phạm vi phụ trách của đảng bộ địa phương. Vì vậy, hội đồng bí thư ra đời đã tạo điều kiện cho các bí thư gặp gỡ trao đổi, thực hiện tốt vai trò lãnh đạo của Đảng ở Tổng công ty. * Năm 1988, Hiệp hội chè Việt Nam được thành lập với Tổng công ty (lúc đó còn là Liên hiệp các xí nghiệp công nông nghiệp chè Việt Nam) làm nòng cốt. Hiệp hội có nhiệm vụ "liên kết rộng rãi các thành phần kinh tế tham gia sản xuất - chế biến - xuất nhập khẩu và dịch vụ chè từ Trung ương đến địa phương, kinh tế trong và ngoài quốc doanh để thực hiện mục tiêu đổi mới mà Đảng và Nhà nước giao cho ngành chè, trọng tâm là tăng cường XK, góp phần xây dựng trung du và miền núi ngày càng vững mạnh" (Báo cáo hoạt động 10 năm của Hiệp hội chè Việt Nam). Đến nay, Hiệp hội đã có nhiều hoạt động đóng góp cho ngành chè và trở thành người đại diện cho lợi ích người trồng chè trong cả nước. 2. Những hạn chế còn tồn tại - Trong sản xuất nguyên liệu: Năng suất bình quân thấp do tổ chức sản xuất sai lầm trong nhiều năm. Một thời gian dài trước đây, chè được phát triển tràn lan theo kiểu rải mành mành, tập trung vào quảng canh. Bộ giống chè nghèo, không có giống tốt, giống đặc sản. Việc quản lý chăm sóc kém, mất khoảng nhiều do đầu tư không đủ, quy trình kỹ thuật chưa được thực hiện nghiêm túc, không thâm canh ngay từ đầu. Cộng với việc khai thác quá mạnh làm cây chè chóng cạn kiệt, rút ngắn chu kỳ kinh doanh, sớm phải thanh lý. Dùng nhiều phân vô cơ làm đất bị nghèo dinh dưỡng, độ pH tăng cao. Vườn chè thiếu hay không có cây bóng mát do nhận thức sai lầm rằng đây là nơi trú ngụ của sâu bệnh nên đã cho chặt. Thiếu cây bóng mát làm cho đất bị xói mòn, mực nước ngầm xuống thấp, chè bị héo vào những tháng nóng. Vườn chè không được quan tâm đồng đều. Thậm chí ngay trong một xí nghiệp, có vườn chè tốt có vườn lại rất xấu. Có vườn được đầu tư đúng mức, canh tác đúng quy trình có thể đạt năng suất 15 - 20 tấn/ha. Có vườn bị buông lỏng, khoán trắng chỉ khai thác, không đầu tư làm năng suất chỉ còn 1,6 tấn/ha. Đặc biệt, nhiều vườn chè dân xung quanh cơ sở chế biến chưa được quan tâm một cách đầy đủ, có trợ giá nhưng nông dân vẫn không đủ vốn đầu tư. Chè trồng trên dốc nhiều, lại không có hệ thống tưới nước đầy đủ. - Chất lượng sản phẩm kém. Nhiều đánh giá cho rằng chất lượng của ta chỉ đạt mức trung bình so với thế giới. Chất lượng thấp làm giảm năng lực cạnh tranh, kéo giá chè XK xuống thấp hơn hẳn giá chè thế giới. Trong các yếu tố ảnh hưởng xấu tới chất lượng, nổi lên những yếu tố sau: + Công nghệ: Chỉ một số ít nhà máy mới xây dựng bằng thiết bị công nghệ của ấn Độ là tương đối hoàn chỉnh. Còn phần lớn là các nhà máy công nghệ Liên Xô (cũ) đến nay đã xuống cấp hay nâng cấp chắp vá bằng các phụ tùng trong nước nên không đảm bảo tính đồng bộ của dây chuyền sản xuất chèđen theo tiêu chuẩn. Một số đơn vị đã đầu tư bổ sung thêm máy héo, máy vò, máy sấy để nâng công suất nhà máy nhưng khâu bảo quản chè búp tươi, phòng lên men, phòng sàng chưa được nâng cấp tương xứng nên công suất các công đoạn mất cân đối, chè bị ùn tắc cục bộ dẫn đến chè bị ôi ngay trước khi đưa vào máy héo hoặc chua thiu trong quá trình lên men. Sự không đồng bộ của dây chuyền dễ dẫn đến cắt xén quy trình từng công đoạn trong quá trình sản xuất và chất lượng sản phẩm cũng giảm theo. + Con người: Cùng với sự yếu kém về công nghệ, thiếu cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề cũng như nguyên nhân làm chất lượng chè thấp. Đội ngũ cán bộ kỹ thuật có trình độ đại học và trên đại học ngày càng thưa thớt, nhiều đơn vị chè lớn không có kỹ sư chế biến, thậm chí thiếu cả cán bộ chế biến có trình độ trung cấp. Công nhân lành nghề được đào tạo những năm 60 - 70 nay dần đã về hưu, thay thế là thế hệ công nhân trẻ thiếu kinh nghiệm và tay nghề thấp. Do thiếu cán bộ có trình độ đại học nên việc bồi dưỡng và nâng cao tay nghề cho công nhân cũng hạn chế. + Quản lý: Vẫn còn nhiều đơn vị vì lợi ích cục bộ, chỉ chạy theo số lượng cốt hoàn thành kế hoạch mà không có trách nhiệm với người tiêu dùng, không quan tâm duy trì và cải tiên, làm cho chất lượng sa sút ảnh hưởng tới chất lượng chung của Tổng công ty. Đây là hậu quả của cơ chế cũ. Ngành chè ra đời và phát triển trong thời kỳ hệ thống XHCN còn vững mạnh. Ta đã nhận được thiết bị chế biến qua con đường viện trợ không hoàn lại hay trên cơ sở hợp tác ưu đãi. Phần lớn chè được xuất dưới dạng bán thành phẩm. Sản phẩm sản xuất ra dù có chất lượng hay không đều có thị trường tiêu thụ ổn định. Sản xuất đến đâu bán hết đến đó do được bao cấp cả đầu ra. Chính cơ chế này đã gây ra sự trì trệ và thói quen coi thường chất lượng ở một số cán bộ. Điều này đã thực sự làm cho tiêu thụ chè nói riêng và hàng hoá Việt Nam nói chung bị "sốc" khi khối XHCN sụp đổ, thị trường cũ đột ngột co hẹp, buộc phải vươn ra các thị trường mới mà chất lượng mới chính là yếu tố cạnh tranh để sống còn. - Tuy Tổng công ty đã mở ra nhiều thị trường mới nhưng chưa có bạn hàng thực sự lâu dài, thậm chí còn bị mất thị trường chè vàng ở Hồng Kông. Nguyê nhân là do: Sản phẩm còn đơn điệu về chủng loại, mẫu mã, bao bì, ta chủ yếu xuất chè có kích thước và kiểu dáng tự nhiên. Trong khi người tiêu dùng đặc biệt người tiêu dùng ở các nước tư bản lại ưa thích sản phẩm tiện dụng và cho phép tiết kiệm thời gian. Chưa hình thành hệ thống phân phối trực tiếp ở nước ngoài. Ngay cả ở các thị trường truyền thống, các thị trường lớn như Nga, I rắc... cũng vẫn phải bán qua các nhà nhập khẩu của họ. XK phải qua nhiều khâu trung gian vòng vèo (do cơ chế trả nợ). Với vai trò nhỏ bé trên thị trường thế giới và tình hình chất lượng như hiện nay, chúng ta chưa có khả năng áp dụng nhiều chính sách giá như giá tấn công, giá hớt váng, chiến tranh giá cả... XK vẫn kiểu cầm chừng, gặp khách thoả thuận được giá bán, nên yêu cầu chủ yếu với giá xuất khẩu là đủ bù đắp chi phí và có lãi chứ chưa sử dụng được giá như một công cụ cạnh tranh. Chi phí dành cho các hoạt động xúc tiến, yểm trợ còn thấp. Các hình thức quảng cáo còn nghèo nàn - đây là nhược điểm chung của các doanh nghiệp Việt Nam. Công tác tiếp thị yếu, chưa có một đội ngũ tiếp thị chuyên môn. Vẫn theo quan điểm marketing truyền thống, coi trọng khâu tiêu thụ. Đã có các dây chuyền công nghệ như vậy, đã sản xuất ra các sản phẩm như vậy, vấn đề phải quan tâm là tìm đầu ra. Chính vì vậy chưa thực sự có được vị trí trên thị trường thế giới. - Tất cả những hạn chế trên còn có chung một nguyên nhân là tổ chức quản lý của ngành chè chưa được hợp lý. Các đơn vị sản xuất chè còn manh mún, phân tán , còn phân biệt năng nề giữa trung ương và địa phương. Cơ cấu chưa ổn định, Tổng công ty mới được thành lập trong thời gian ngắn nhưng đang có sự xáo trộn do việc chuyển đổi một số đơn vị từ Trung ương sang địa phương. Nhìn chung, các nhà sản xuất và kinh doanh chè trong cả nước chưa tập trung về một mối để tạo nên sức mạnh tổng hợp, để cạnh tranh được trên thị trường quốc tế. 3. Các nguyên nhân khách quan. * Khó khăn cho sản xuất chè: Những người trồng chè ngoài thuế sử dụng đất nông nghiệp còn phải nộp phí quản lý, khấu hao vườn chè, bảo hiểm, xã hội..., có thể lên tới 33% tổng sản lượng khoán, mức đóng góp này là quá nặng nề. Trong khi đó, điều kiện canh tác chè lại khó khăn hơn nhiều so với các loại cây trồng khác. Hơn nữa, chè chủ yếu được trông và chế biến ở vùng trung du và miền núi, nên hạ tầng cơ sở vùng chè còn rất thiếu và yếu. Các doanh nghiệp sản xuất chè phải gánh chịu nhiều chi phí mang tính chất công ích xã hội cho cả vùng như: đường sá, cầu cống, nhà trẻ, bệnh viện... làm giá thành sản xuất bị đẩy lên rất cao. Điều này gây không ít khó khăn cho việc sản xuất kinh doanh chè. Bên cạnh đó, chưa có chính sách đầu tư, tín dụng thoả đáng, đầu tư cho chè chỉ chiếm 1,26% trong tổng đầu tư của Nhà nước cho 3 cây trồng là chè, cao su và cà phê. * Khó khăn cho XK chè: - Cũng như với xuất khẩu nói chung, hiện nay tuy đã có những dịch vụ hỗ trợ XK song các dịch vụ này chưa thực sự phát huy tác dụng. Dịch vụ thông tin về thị trường, giá cả, đối thủ cạnh tranh... của các cơ quan Nhà nước thuộc các Bộ, ngành TW, các đại diện thương mại của ta ở nước ngoài hay của phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam không đáng kể. Chủ yếu là phải tự tìm kiếm qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua sách báo về những chuyến đi thực tế. Mặc dù, năm 1995, cả nước có tới 15 đơn vị tổ chức hội chợ triển lãm, 55 đơn vị quảng cáo trong nước và 15 văn phòng đại diện nước ngoài, cùng với 20 thương vụ Việt Nam ở nước ngoài và các vụ hợp tác quốc tế, trung tâm thông tin của các Bộ... cung cấp các dịch vụ này. Nhưng doanh nghiệp phần lớn vẫn phải dùng "tờ rơi" hay "truyền miệng" nhờ các cán bộ tranh thủ những chuyến công tác nước ngoài để giới thiệu về sản phẩm. Các hình thức panô, áp phích, quảng cáo trên phương tiện thông tin đại chúng ít được sử dụng. Dịch vụ giám định vẫn chưa đủ uy tín để khách hàng nước ngoài công nhận giấy chứng nhận chất lượng của ta do trang thiết bị còn thủ công, trình độ nhân viên giám thị còn thấp. Cả nước có 50 công ty luật trong nước và nước ngoài, 200 trung tâm tư vấn, 42 chi nhánh nước ngoài thực hiện các dịch vụ pháp luật như cung cấp thông tin về thuế, hướng dẫn thủ tục lập hợp đồng, giải quyết tranh chấp... Tuy phát triển về số lượng, nhưng chất lượng còn hạn chế do thiếu kinh nghiệm và do các doanh nghiệp của ta chưa có thói quen sử dụng loại dịch vụ này. - Việc nhà nước mở rộng quyền kinh doanh đối ngoại cho các chủ thể kinh tế là một biểu hiện của tự do hoá thương mại với mục đích tạo ra sự cạnh tranh để cùng phát triển. Trước đây chỉ những chủ thể nào có số vốn đăng ký trên 200 nghìn USD mới được cấp giấy phép kinh doanh XNK, nhưng sau QĐ55/TTg (3/98), tất cả các doanh nghiệp được tham gia trực tiếp vào hoạt động XK mà không cần bất kỳ điều kiện gì ngoài việc tự đăng ký mã số của mình tại hải quan. QĐ này đã làm số đối thủ cạnh tranh tăng lên đáng kể, làmc ho hoạt động XK sôi nổi hơn nhưng cũng khó quản lý hơn. Nhiều doanh nghiệp không đủ khả năng vẫn đua nhau XK, tranh mua tranh bán dẫn đến việc XK với giá thấp hoặc xuất cả hàng chất lượng kém làm ảnh hưởng tới uy tín của Việt nam trên thị trường thế giới. Thực tế như vậy cộng với sự thiếu vắng các biện pháp xúc tiến thương mại hiệu quả là nguyên nhân làm cho năng lực cạnh tranh của ta kém, giá hàng XK của ta thấp, thị trường không ổn định. - Còn nhiều tồn tại trong công tác hải quan. Các thủ tục hải quan tuy đã được đơn giản đi nhưng người XK vẫn gặp nhiều phiền phức bởi thái độ quan liêu của các nhân viên hải quan. Các nhân viên hải quan thường thiếu tinh thần hợp tác, không hướng dẫn đầy đủ việc lập và xuất trình chứng từ hải quan rồi viện cớ chứng từ chưa đầy đủ, chưa hợp lệ để không thông qua. Các nhà xuất khẩu đã kêu rất nhiều về vấn đề này nhưng vẫn chưa thấy có biến chuyển. Chương III: GiảI pháp cơ bản thúc đẩy xuất khẩu chè của Tổng công ty . I. mục tiêu, phương hướng trong thời gian tới. 1. Định hướng của Nhà nước cho sản xuất và XK chè đến năm 2010. 1.1. Một số mục tiêu: Phát triển sản xuất chè để phục vụ đủ nhu cầu trong nước và tăng kim ngạch XK lên khoảng 200 triệu USD/năm. Phát triển chè ở nơi có điều kiện, ưu tiên phát triển ở các tỉnh miền núi phía Bắc, từ năm 2000 - 2005, xây dựng thêm 3 vườn chè chuyên canh tập trung với năng suất và chất lượng cao tại Mộc Châu (Sơn La), Phong Thổ (Lai Châu), Than Uyên (Lào Cai). Nâng cao đời sống, giải quyết việc làm cho khoảng 1 triệu lao động. Biểu 6: Các chỉ tiêu phát triển chè cả nước. 1999 2000 2005 2010 Diện tích chè cả nước (ha) 77.142 81.692 104.000 104.000 Diện tích chè kinh doanh (ha) 70.192 70.192 92.500 104.000 Diện tích chè trồng mới( ha) 4.350 4.550 2.800 - NS bình quân (tấn tươi/ha) 3,82 4,23 6,1 7,5 Sản lượng búp tươi (tấn) 268.200 297.600 490.000 665.000 Sản lượng chè khô (tấn) 59.600 66.000 108.000 147.000 Sản lượng XK (tấn) 37.000 42.000 78.000 110.000 Kim ngạch XK (triệu USD) 50 60 120 200 Nguồn: Kế hoạch sản xuất chè 1999 - 2000 và định hướng phát triển chè đến 2005 - 2010 (Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn). 1.2. Những phương hướng cụ thể: 1.2.1. Về sản xuất nông nghiệp: Quy hoạch vùng nguyên liệu, tập trung phát triển chè tại 8 tỉnh phía Bắc: Sơn La, Lai Châu, Hà Giang, Tuyên Quang, Yên Bái, Lài Cai, Thái Nguyên, Phú Thọ, Lâm Đồng. Viện nghiên cứu chè hỗ trợ các đơn vị nhân giống và đưa nhanh các giống có năng suất cao, chất lượng tốt vào các vườn chè để cải tiến chất lượng chè xuất khẩu. tăng tỷ lệ giống mới có chất lượng cao trong cơ cấu nguyên liệu. Cải tạo đất bằng cách bón phân hữu cơ tổng hợp phù hợp với loại đất. Đưa công cụ vào canh tác nông nghiệp tại các đơn vị của Tổng công ty rồi phổ biến rông ra. Trong 2 năm 1999 - 2000 đầu tư 34,41 tỷ đồng tưới cho các vườn chè tập trung có điều kiện về nguồn nước ở 9 tỉnh. 1.2.2. Về sản xuất công nghiệp: Đầu tư cải tạo nâng cấp 20% số cơ sở chế biến công nghiệp trong năm 1999 - 2000. Xây dựng thêm 180 nhà máy chế biến công suất 12 tấn/ngày. Đầu tư xây dựng nhà máy cơ khí chè công suất 350 - 500 tấn/năm để chế tạo phụ tùng và thiết bị lẻ phục vụ cho sửa chữa, nâng cấp các nhà máy cũ. Đơn vị: Tỷ đồng Biểu 7: Nhu cầu vốn đầu tư 1999 - 2000 2001 - 2005 2006- 2010 Tổng vốn Tổng vốn từng đoạn 792,202 3640,320 970,800 5.403,322 Đầu tư cho công nghiệp 555,987 1508,410 43,150 2.207,547 Đầu tư cho nông nghiệp 236,215 2131,910 927,650 3295,775 Nguồn: Kế hoach XK chè 1999 - 2000 và định hướng phát triển chè đến 2005 - 2010 (Bộ NN & PTNT). 1.2.3. Về xuất khẩu: Tiếp tục giữ vững thị trường XK hiện có mở ra các thị trường mới bằng việc sản xuất tiêu thụ sản phẩm có chất lượng cao, giá cả hợp lý. Đa dạng hoá sản phẩm tổng hợp có chè và khai thác triệt để các sản phẩm từ đất chè. 1.2.4. Về con người: Nhu cầu đến năm 2010 là 1000 kỹ sư nông nghiệp và 9000 kỹ sư chế biến. Vì vậy phải đào tạo bổ sung 360 người, bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý cho 216 người, tập huấn khuyến nông cho 200.000 người. 1.2.5. Trách nhiệm của Tổng công ty chè Việt Nam: Nắm vững thị trường XK để hướng ra người sản xuất làm ra các sản phẩm hợp thị hiếu người tiêu dùng. Giữ vững và phát triển bạn hàng. Bao tiêu toàn bộ sản phẩm, nhận uỷ thác và tạo điều kiện cho các đơn vị trực tiếp XK. thường xuyên cung cấp các thông tin mới nhất về KHKT, tình hình sản xuất, tiêu thụ chè ở các khu vực và trên Thế giới để người làm chè có cách xử lý sản phẩm của mình, đảm bảo sản xuất có lợi nhất. Cung cấp máy móc, thiết bị, phụ tùng thay thế, các qui trình, quy phạm công - nông nghiệp, những sáng kiến, phát minh về chè. Phụ trách công tác nghiên cứu KHKT và phổ biến kết quả nghiên cứu cho người làm chè. Cung cấp 100% các loại giống chè mới và tốt cho các địa phương. Tìm các nguồn vốn để hỗ trợ hay đầu tư một phần cho người làm chè. ứng trước thiết bị cho các vùng có khó khăn và thu hồi bằng sản phẩm. Tổ chức chế biến sản phẩm từ chè búp tươi hoặc tinh chế chè khô để nâng giá của sản phẩm tạo thêm lợi nhuận đầu tư cho phát triển chè. Đào tạo cán bộ kỹ thuật và công nhân tay nghề cao cung cấp cho các cơ sở, các vùng chè trong cả nước. Làm đầu mối hợp tác quốc tế để thu hút vốn, thiết bị, công nghệ vào ngành chè. 2. Mục tiêu của Tổng công ty. 2.1. Các mục tiêu. Biểu 8: Các chỉ tiêu phát triển chè của Tổng công ty đến 2010. Đến 2000 Đến 2010 Diện tích chè (nghìn ha) 8,15 10,00 Diện tích chè kinh doanh (nghìn ha) 6,61 10,00 Năng suất bình quân (tấn tươi/ha) 7,5 10,0 Sản lượng chè búp tươi (nghìn tấn) 112 180 Tổng sản phẩm chè khô (nghìn tấn) 25 40 Sản lượng chè xuất khẩu (nghìn tấn) 15 25 Tổng giá trị sản phẩm chè (tỷ đồng) 932,3 1.986 Kim ngạch xuất khẩu chè (USD) 30 65 Thu nhập của người lao động (nghìn đồng/tháng) 500 1.000 Nguồn: Chương trình phát triển sản xuất kinh doanh-Tổng công ty chè Việt Nam 2.2. Các giải pháp cơ bản. 2.2.1. Về sản xuất nông nghiệp: Thâm canh diện tích chè hiện có. Tiếp tục trồng đủ cây bóng mát, cây phân xanh trên toàn bộ diện tích chè. cày đất làm cỏ, bón phân chuồng, phân hữu cơ vi sinh đạt 5 tấn/ha/năm. Tiến hành thu mua chè búp tươi với giá 1600 - 1800 đồng/kg. Nhân nhanh các giống có năng suất cao, chất lượng tốt như: 777, LĐP1, LĐP2, Shan... Trồng mới chọn loại đất tốt, thực hiện quy trình làm đất như của Nhật Bản, trồng giống đặc sản và thâm canh ngay từ đầu để đạt năng suất 12 - 18 tấn/ha. 2.2.2. Về sản suất công nghiệp: Bổ xung dàn héo tự nhiên, hiện đại hoá máy vò, các phòng lên men, thay bộ phận phun ẩm bằng phun sương. Hiện đại hoá khâu hút bụi, lò nhiệt. Xây dựng mới 20 nhà máy với tổng công suất 360 tấn/ngày, công suất tối đa 12 tấn/ngày với phía Bắc và 24 tấn/ ngày với phía Nam. Xây dựng, bổ xung và hoàn chỉnh công nghệ chế biến các loại chè. Nghiên cứu quy trình bảo quản để giữ chất lượng và không làm tăng độ ẩm chè. Biểu 9: Nhu cầu vốn đầu tư. (Đơn vị: tỷ đồng) 1999 - 2000 2001 - 2010 Tổng số Tổng số vốn từng giai đoạn 178,13 553,58 731,71 Đầu tư cho công nghiệp 100,66 363,15 463,81 Đầu tư cho nông nghiệp 77,47 190,43 267,90 Nguồn: Chương trình phát triển sản xuất kinh doanh-Tổng công ty chè Việt Nam 2.2.3. Về xuất khẩu: Đa dạng hoá và tạo ra sản phẩm có chất lượng cao. Củng cố thị trường Trung Cận Đông, hàng năm có thể nhập của ta tới 50 tấn chè đen. Khôi phục lại thị trường Đông Âu và Nga, hàng năm có thể nhập từ 30 - 50 nghìn tấn: Châu Âu: 10 -15 nghìn tấn/năm. Thâm nhập vào các thị trường mới như Châu á: 10 - 15 nghìn tấn/năm, Châu Phi: 5 - 8 nghìn tấn/năm. Tăng cường các hình thức hợp tác theo kiểu: Bạn ứng tiền trước, công nghệ, thiết bị, và thu sản phẩm. Thành lập các trung tâm kiểm tra chất lượng có đủ năng lực để kiểm tra sản phẩm trước khi đưa ra thị trường XN. II. Một số giải pháp thúc đẩy XK chè của Tổng công ty chè Việt Nam. 1. Nhóm các giải pháp vi mô. 1.1. Về quản lý chất lượng. Trong thời gian trước mắt, Tổng công ty phối hợp với các đơn vị tập trung thực hiện các biện pháp sau: Kiên quyết chỉ đạo hái đúng qui trình, khi mua chè búp tươi chỉ mua chè chất lượng cao và thống nhất giá mua theo đúng tiêu chuẩn cấp. Tạo mức độ chêch lệch lớn giữa giá mua chè ở các cấp khác nhau. Không mua chè chất lượng thấp. Xây dựng tiêu chuẩn công nghệ và vệ sinh thực phẩm cho dây chuyền chế biến chè đen XK. Trên cơ sở này, thành lập ban kiểm tra, thanh tra để đánh giá chất lượng các xưởng nhỏ. Nếu thấy không đủ tiêu chuẩn, kiến nghị với tỉnh cho đình chỉ hoạt động. áp dụng qui trình đốn hái thích hợp và cơ chế giá thu mua linh hoạt để lượng chè búp tươi không vượt quá công suất nhà máy chế biến trong nhiều ngày. Xây dựng các dự án bổ xung nhà máy ở các vùng nguyên liệu lớn và địa hình chia cắt để giải quyết hết nguyên liệu và giảm thời gian vận chuyển. Tăng số lần thu mua và vận chuyển chè búp tươi sao cho chè hái đến đâu được vận chuyển kịp thời về nhà máy đến đó. Yêu cầu nhân viên thu mua sắp xếp khối chè trong thùng xe theo đúng qui định, đảm bảo chè về đến nhà máy vẫn giữ nguyên chất lượng. Giải quyết triệt để hiện tượng cắt xén qui trình ở các nhà máy. Có thể áp dụng phương pháp quản lý J.I.T. Phương pháp này sẽ đảm bảo đưa nguyên liệu vào dây chuyền đúng lúc, làm cho quá trình sản xuất thông suốt, bán thành phẩm ở mỗi khâu không còn ùn tắc, giảm được ôi thiu. Xoá bỏ hẳn chế độ bảo quản chè trên nền nhà chờ héo bằng cách xây dựng dàn héo, kết hơpự với máy héo, đảm bảo chè về đến nhà máy có thể héo được ngay. Về lâu dài, Tổng công ty cần có sự thay đổi lớn trong quản lý chất lượng thể hiện ở những mặt sau: - Xây dựng hệ thống chất lượng thống nhất, hướng tới ISO - 9000. Hệ thống chất lượng có thể do nhiều cấp quản lý, nhưng phải thống nhất về phương pháp kiểm tra, giám sát, về tiêu chuẩn chất lượng và phải đạt trình độ nhất định. - Các đơn vị phải giáo dục cho toàn bộ nhân viên ý thức tôn trọng chất lượng, thưởng cho bộ phận nào có sản phẩm chất lượng cao, phạt các bộ phận chưa đáp ứng tiêu chuẩn. Sử dụng thống kê để giám sát chất lượng ngay từ quá trình sản xuất. Xây dựng hệ thống kiểm tra, đánh giá và cải tiến chất lượng nội bộ nhằm sản xuất chè theo đúng tiêu chuẩn. - Phối hợp giữa bộ phận kiểm tra chất lượng của các đơn vị với Trung tâm Công nghệ và KCS của Tổng công ty để hỗ trợ và thống nhất với nhau nhằm không chỉ phát hiện khuyết tật sản phẩm ngay từ công đoạn sản xuất đầu tiên mà còn đảm bảo được chất lượng đồng bộ trong toàn Tổng công ty. - Xây dựng các vườn chè tập trung dưới sự chỉ đạo của xí nghiệp. Sản xuất chè có đặc điểm là mọi sai sót trong khâu nông nghiệp như bón phân, thu hái, phân thuốc trừ sâu... đều có ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm cuối cùng. Nhưng lại rất khó kiểm tra chất lượng nguyên liệu một cách đầy đủ, chính xác để phát hiện ra những sai sót này khi thu mua. Thường chỉ phát hiện được những khuyết tật khi đã có sản phẩm và không thể sửa chữa. Vì vậy để tạo ra sản phẩm có chất lượng phải thực hiện đúng qui trình thậm trí ngay từ khâu làm đất để chuẩn bị trồng chè. Điều này chỉ có thể thực hiện được nếu có sự chỉ đạo tập trung và kiểm tra thường xuyên của các xí nghiệp. Giám đốc các xí nghiệp nên tập trung vào các vấn đề sau: Kết hợp với viện nghiên cứu chè để làm cuộc cách mạng về giống. Để rút ngắn thời gian tuyển chọn, khảo nghiệm giống, nên tiếp tục nhập nội các giống chè tốt từ các nước đã có truyền thống về trồng và chế biến chè như ấn Độ, Nhật Bản... Mỗi xí nghiệp hoàn thành một vườn giống để đồng thời cùng trồng thử các giống này. Trên cơ sở xem xét khả năng thích nghi với các điều kiện thổ nhưỡng và khí hậu khác nhau, tiến hành tuyển chọn và lai tạo tại chỗ, nhằm tạo ra giống thích nghi theo vùng. Các xí nghiệp phải có sự đánh giá đúng mức tầm quan trọng của giống vì cây chè là cây lâu năm, giống có ảnh hưởng suốt cả chu kỳ kinh tế, và chúng ta không dễ dàng thay thế giống chè mới như các giống cây ngắn ngày khác vì vốn để trồng một nương chè rất lớn và thời gian để tạo ra một nương chè đưa vào kinh doanh là rất dài. Phổ biến và giám sát việc thực hiện các kỹ thuật canh tác của nông dân. Kỹ thuật canh tác bao gồm một hệ thống các biện pháp kỹ thuật để thâm canh như tăng mật độ trồng chè để che phủ đất, chống cỏ dại và xói mòn, áp dụng phương pháp tạo hình đồi chè để tăng năng suất, bảo vệ đất. Chỉ đạo bón phân có cơ cấu thích hợp với từng loại đất, bón phân theo đúng qui trình, tăng lượng phân hữu có và phân vi sinh để tăng độ phì cho đất. Trồng cây bóng mát để khắc phục nắng nóng mùa hè, đồng thời tạo lượng phân xanh khi cây rụng lá. Phòng trừ sâu bệnh theo phương pháp tổng hợp IPM không để lại dư lượng độc chất trong sản phẩm. Nghiên cứu và thể nghiệm phương pháp sử dụng các loại côn trùng, ký sinh, côn trùng ăn thịt, vi khuẩn... để diệt trừ sâu bệnhmà đã được nhiều nước áp dụng có kết quả. - Cải tạo và nâng cấp các nhà máy chế biến. Hiện nay, ta đang sử dụng rộng rãi thiết bị công nghệ chè đen của Liên Xô cũ và ấn Độ. Dây chuyền sản xuất của Liên Xô cho phép cơ giới hoá cao nhưng công nghệ đã lỗi thời tới gần nửa thế kỷ. Ngược lại dây chuyền chế biến của ấn Độ công nghệ mới có nhiều ưu điểm nhưng mức độ cơ giới hoá không cao. Trong thời gian tới, khi ta chưa đủ điều kiện tài chính để đổi mới công nghệ ở tất cả các nhà máy cùng một lúc, thì kết hợp ưu điểm của hai loại công nghệ cũng là một giải pháp tình thế cho phép ta cải tạo các nhà máy hiện có, đưa chúng ta khỏi tình trạng lạc hậu hiện nay. Riêng đối với các xưởng chè nhỏ phải cải tạo theo hướng công nghệ ấn Độ, đặc biệt ở khâu héo và lên men. áp dụng thử một số kỹ thuật mới như: Kết hợp mò mở với vò ép để làm tăng độ dập tế bào, rút ngắn thời gian vò và lên men, giảm tỷ lệ chua thiu, tạo hình cánh chè xoắn chặt hơn. Thay quá trình lên men độc lập điều tiết không khí toàn phần hiện nay bằng hệ thống lên men nhiều tầng để điều tiết không khí một cánh chủ động hơn. Xây dựng hệ thống chứa chè thành phẩm có điều tiết nhiệt và độ ẩm để giữ cho chè luôn có thuỷ phần ổn định. Với các nhà máy mới, phải trang bị công nghệ hiện đại ngay từ đầu. Thà rằng chỉ đầu tư xây ít nhà máy với dây chuyền tiên tiến và đồng bộ còn hơn đầu tư tràn lan, số lượng thì nhiều nhưng chất lượng lại thấp. Định hướng đầu tư là trang bị máy móc, kỹ thuật sản xuất của ấn Độ, Srilanca, Trung Quốc cho sản xuất chè đen và của Đài Loan, Trung Quốc, Nhật Bản cho sản xuất chè xanh. 1.2. Về công tác thị trường. Tuy thị trường quốc tế về chè bị cạnh tranh gay gắt, xu hướng trong mấy năm gần đây cung đều lớn hơn cầu, nhưng thực tế cho thấy, riêng cầu về chè Việt Nam thì vẫn lớn hơn nhiều so với khả năng cung cấp của chúng ta. Xuất khẩu chè của Việt Nam mới chỉ đạt 2% tổn XK thế giới, năm cao nhất (1997 cũng chỉ đạt 3%. Trên thị trường Trung Đông, tổng sản phẩm XK của cả nước năm 1996 vẫn chưa đủ đáp ứng ở mức trung bình nhu cầu của thị trường. XK chè sang Nga vẫn chỉ đưnứg hàng thứ 6 trong 15 nước Châu á và còn xa mới thoả mãn được nhu cầu tiêu thụ. Như vậy, cơ hội thị trường đối với chè của ta vẫn còn nhiều. Nhưng không có nghĩa là chúng ta đã có thị trường ổn định như thời bao cấp, vì thói quen tiêu dùng chè Việt Nam không phải là bất biến, nếu ta không giải quyết tốt vấn đề thị trường, khách hàng có thể dễ dàng chuyển sang dùng chè của các đối thủ cạnh tranh khác. Để làm tốt công tác thị trường, lãnh đạo Tổng công ty phải thay đổi quan điểm theo hướng marketing hiện đại, đặt nghiên cứu nhu cầu lên hàng đầu, nghiên cứu và dự đoán nhu cầu trước rồi rồi mới sản xuất để thoả mãn nhu cầu đó, nghĩa là phải luôn luôn tâm niệm "Bán những gì thị trường cần chứ không phải bán những gì mà mình có". Trong thời gian tới, Tổng công ty nên tổ chúc một đội ngũchuyên gia marketing thành thạo để xây dựng và thực hiện chiến lược marketing hiệu quả gồm: 1.2.1. Về sản phẩm: Thị hiếu tiêu thụ trên thị trường chè hiện nay rất đa dạng, chủ yếu là các loại chè đóng gói (chiếm 80% lượng chè tiêu thụ). Người tiêu dùng Mỹ đang ưa chuộng các loại chè ướp lạnh (chiếm 30% tổng nhu cầu) và chè uống liền. ở Indonexia, tỷ lệ chè đóng chai đã tăng 11,7% trong những năm 1991 - 1995, chiếm 28% thị trường nước giải khát. ở Nhật Bản, chè đóng lon đã được tiêu thụ với một lượng đáng kể (chiếm 20 % và là nhân tố chính làm cho tổng nhu cầu tiêu thụ chè của Nhật tăng...) Ngày nay, trên thế giới đang có xu hướng coi trọng sức khoẻ và bảo vệ môi trường, gắn việc tiêu dùng (nhất là thực phẩm và đồ uống) với việc bảo vệ sức khoẻ. Vìi Vậy, chiến lược phổ biến trong kinh doanh chè hiện nay là đa dạng hoá sản phẩm chè và chú trọng tới các công cụ chữa bệnh của chè. ngày càng xuất hiện nhiều loại chè thuốc như: chè sâm, chè thanh nhiệt, chè giảm cafein, chè thảo dược... Tổng công ty nên có một chính sách phát triển sản phẩm theo hướng trên và xác định cụ thể: loại chè nào ta có thể bắt chước? Bắt chước ở mức độ nào? Loại chè nào có thể cải tiến bắng cách ướp hương, thêm một số công dụng, hay thay đổi mẫu mã? Với tiềm năng chất đất, khí hậu và nguồn dược liệu quý, ta có thể nghiên cứu, sáng tạo ra loại sản phẩm mới nào? Trong các cách phát triển sản phẩm này, sáng taoh ra sản phẩm mới là cách tốn chi phí, thời gian, công sức nhất, đễ gặp rủi ro nhất, nhưng cũng chính là cách đem lại kết quả khả quan và lâu bền nhất. Đặc biệt trong thời gian này, khi ngành chè đang có kế hoạch trồng mới chè với nhiều loại giống mới thì khả năng sáng tạo sản phẩm mới càng có nhiều cơ hội trở thành hiện thực. Vấn đề bao gói cũng rất quan trọng vì nó là một trong các yếu tố cấu thành nên sản phẩm thực tế. Nhất là bao bì cho đồ ăn uống hàng ngày phải thật đảm bảo các yêu cầu về: vệ sinh, tinhgs cân đối và tính tiện dụng. Về vệ sinh, hầu hết các nước đều có những yêu cầu nghiêm ngặt đối với chất lượng bao bì, độ kín, diệt khuẩn... thậm chí ở Nhật, người tiêu dùng sẽ không mua các loại bánh kẹo, hàng nông sản chỉ vì không có giấy chống ẩm. Về tính cân đối, lượng chè đóng gói trong một gói phải được tính toán cho phù hợp với thói quen tiêu dùng (chỉ vưà dủ pha 1 ấm, hoặc nếu đóng gói to cũng chỉ nên đủ dùng trong thời gian ngắn vì chè để lâu sẽ rất dễ mốc hay mất mùi). Về tính tiện dụng (sự dễ dàng trong việc sử dụng sản phẩm). chè có thể được đóng gói trong các túi lọc để người dùng không phải đổ bã, mép túi chè nên có 1 đường xẻ nhở để dễ bóc (Việc này tưởng nhỏ, không đáng quan tâm, nhưng thực tế đã có rất nhiều người tiêu dùng khó chịu khi phải tìm kéo cắt hay dùng răng cắn túi chè ...). 1.2.2. Về phân phối: Nên thiết lập các chi nhánh ở nước ngoài. Trước mắt nếu chưa đủ điều kiện, chỉ cần mỗi khu vực (Trung Cận Đông, Nga), ta đặt một đại diện ở nước có khối lượng giao dịch lớn nhất. Cùng với các đại diện này, có thể mở các phòng trà để giới thiệu về chè và phong tục uống chè của Việt Nam, đồng thời trương biển quảng cáo và phổ biến các sản phẩm của Tổng công ty. Khi XK chè của Việt Nam phát triển mạnh, sẽ tiến tới mở rộng hệ thống phân phối sang các thị trường để tiến hành phân phối trực tiếp cho các nhà buôn chè ở thị trường đó. ở các nước có lượng tiêu thụ nhỏ hơn nên sử dụng các mạng lưới phân phối có sẵn trên thị trường. Tiến dẫn từ chỗ áp dụng chiến lược phân phối rộng (chỉ cốt XK được nhiều như hiên nay) tới chỗ áp dụng chiến lược phân phối chọn lọc, chọn 1 số nhà nhập khẩu có uy tín, giữ quan hệ tốt để dảm bảo được bạn hàng lâu dài ổn định. Chính sách phân phối phải đảm bảo yêu cầu đưa hàng đến với người tiêu dùng đúng mặt hàng, đúng nơi, đúng lúc với chi phí thấp. 1.2.3. Về chiến lược xúc tiến yểm trợ: Nên sử dụng phối hợp chiến lược kéo và chiến lược đẩy. Để kéo khách hàng về phía mình, phải tăng cường hơn nữa các hoạt động tuyên truyền, quảng cáo, vì trong kinh doanh không có chuyện "hữu xạ tự nhiên hương". Nguồn tài chính dành cho quảng cáo của ta còn eo hẹp, nên vấn đề đặt ra không phải là quảng cáo nhiều mà là quảng cáo có chất lượng, để lại ấn tượng trong lòng người tiêu dùng. Quảng cáo cho sản phẩm chè phải chú ý tới các vấn đề sau: Chè là đồ uống chủ yếu phục vụ nhu cầu giải khát của người lớn (thanh niên, người cao tuổi). Người mua có thể là chủ của các cửa hàng giải khát hay các bà nội trợ. Nên lựa chọn kiểu quảng cáo nghiêm túc, quảng cáo trên báo, trong siêu thị, trong các chương trình truyền hình gia đình hay sử dụng chính các chủ quán giải khát đó. Thị trường của ta phần lớn là các nước Trung cận Đông, các nước Châu á và SNG vốn là những nước có nền văn hoá khá bảo thủ, nhiều phong tục tập quán riêng, nhiều điều cấm kỵ. Bởi vậy, khi xây dựng nội dung quảng cáo phải rất cẩn thận về hình ảnh, về tục ngữ... vì nhiều khi hàng hoá bị tẩy chay chỉ tại quảng cáo có những vi phạm nhỏ về văn hóa. Lưu ý nên bật nhữung tác dụng tốt cho sức khoẻ mà sản phẩm của ta có để đánh vào thị hiếu đã phân tích ở trên, gắn hình ảnh chè của ta với hình ảnh thảo dược phương đông vốn nổi tiếng với tính lành và hiệu quả. - Về giá cả: hiện nay và ngay cả sau này, ta vẫn không có điều kiện áp dụng các chính sách giá để cạnh tranh vì một số lý do sau: Chè không phải là hàng tiêu dùng xa sỉ nên độ co dãn của cầu so với giá là thấp. Hơn nữa yếu tố cạnh tranh hiện nay là chất lượng chứ không phải là giá cả, trong khi chất lượng của ta còn quá kém. Thứ 2, sản lượng sản xuất và XK của ta còn rất bé nhỏ so với Thế giới, nên ta vẫn phải theo giá của các nước XNK chủ yếu khác. Thứ 3, năng lực sản xuất của ta còn hạn chế, giá thành sản phẩm còn cao, không cho phép hạn giá để cạnh tranh. Bởi vậy, chính sách giá trước mắt chỉ nhằm định ra được một mức giá hợp lý, thống nhất, kèm theo một phương thức thanh toán thuận lợi, hấp dẫn.. 1.3. Về nguồn hàng: Với đặc thù của một DNNN lớn, lại hoạt động trong một ngành được Nhà nước giao nhiệm vụ góp phần phát triển kinh tế miền núi, vùng sâu, vùng xa, việc quản trị nguồn hàng của Tổng công ty không chỉ nhằm đảm bảo đủ nguồn hàng XK mà còn phải phát triển được vùng nguyên liệu, phát triển được sản xuất ở các đơn vị thành viên. Quan hệ giữa Tổng công ty với các nhà cung cấp trong ngành trong thời gian tới vẫn là quan hệ hợp tác, hỗ trợ, nên tổ chức quản lý nguồn hàng theo hướng sau: 1.3.1. Liên kết giữa các khâu trong quá trình sản xuất kinh doanh trên cơ sở hai bên cùng có lợi. Tổng công ty đã có những thành công đáng kể trong việc tạo ra các mối liên kết này trong phạm vi quản lý của mình, nên tiếp tục duy trì và củng cố. Gắn hơn nữa lợi ích người sản xuất nông nghiệp với lợi ích của sản xuất công nghiệp và XK. KNXK tăng phải kéo théo năng lực sản suất ở các đơn vị sản xuất tăng và đời sống người trồng chè được cải thiện. Bên cạnh đó, từng bước thống nhất lợi ích giữa các đơn vị thuộc Tổng công ty và các đơn vị khác trong cùng một địa bàn (ở vùng chè lớn hay trên toàn tỉnh) nhằm loại bỏ yếu tố cạnh tranh không lành mạnh, gây phương hại tới lợi ích chung. Gắn sản xuất với thị trường, phổ biến khoa học kỹ thuật để dần dần công nghiệp hóa - hiện đại hoá nông nghiệp. Tạo nên sự phối hợp thống nhất từ khâu sản xuất nông nghiệp tới tận khâu lưu thông để làm sản phẩm luôn đáp ứng được thị hiếu người tiêu dùng. 1.3.2. Về quan hệ giữa các đơn vị với nguồn nhiên liệu. Ông Tổng giám đốc đã ví các doanh nghiệp chè như những "Nhà nước nhỏ" thực hiện chức năng điều tiết thị trường , phân phối lại thu nhập, tạo động lực cho quá trình xây dựng các vùng nguyên liệu tập trung. Hiện nay khi đồi chè đã được giao khoán cho người lao động, họ có quyền thế chấp, chuyển nhượng, thừa kế. Do đó, sản xuất nguyên liệu phân tán hơn, doanh nghiệp không còn dễ dàng can thiệp vào việc và chăm sóc chè bằng các chỉ thị, mệnh lệnh như trước đây nữa. Đễ thực hiện được vai trò "Nhà nước nhỏ", công cụ của các daonh nghiệp bây giờ là một chính sách giá mua nguyên liệu ổn định và có tính cạnh tranh, cùng với những định hướng sản xuất, những hỗ trợ về mặt vốn kỹ thuật... sao cho người trồng chrf có thể thu được lợi nhuận lớn nhất từ tài sản được giao. Tiếp tục với hình thức khoán vườn, đấu thầu, bán đồi chè ... làm cơ sở để tiến hành CPH rông rãi hơn khi người lao động có đủ thu nhập và có khả năng tăng vốn để góp cổ phần. Với các cơ sở chế biến công nghiệp, có thể áp dụng hình thức khoán sản lượng, khoán chất lượng, đấu thầu thiết bị, hoá giá tài sản, tạo điều kiện cho công nhân mua cổ phiếu băng các hình thức ưu đãi như: cho trả chậm, lãi suất thấp... Giải quyết triệt để tình trạng buông lỏng, khoán trắng. Ngoài việc cung cấp giống, phân bón... còn phải kiểm tra, đôn đốc để người lao động thực hiện đúng quy trình canh tác. Phát hiện và xử lý kịp thời các sai phạm, kể cả dùng các biện pháp mạnh như thu lại đất chè. Khuyến khích phát triển các mô hình trang trại và tiểu trang trại. Có thể tham khảo một số công thức đã có kết quả như (5+10+4) (với trang trại) và (2+3+5) (với tiểu trang trại). Nghĩa là: chè cà phê, các cây công nghiệp khác chiếm 2 - 5 ha, rừng khoanh nuôi chiếm 3 - 10 ha, nuôi 4 loại gia súc (trâu, bò, lợn dê, hươu,...). Xoá bỏ thế độc canh, thực hiện đa dạng cây, con, hoa màu để phân tán rủi ro. 1.3.3. Về quan hệ giữa Tổng công ty và các đơn vị. Các đơn vị thành viên giao hàng cho Tổng công ty trên cơ sở kế hoạch năm. Nếu giao chỉ tiêu cho các đơn vị không đúng với khả năng của họ và sai sót đó không được phát hiện kịp thời thì việc mua hàng XK sé rơi vào thế bị động. Vì vậy, để đảm bảo đủ hàng xuất, Tổng công ty có thể áp dụng hai phương pháp sau đây để theo dõi nguồn hàng. - Nghiên cứu khả năng sản xuất, tiêu thụ của từng mặt hàng. Dùng phương thức này, người ta làm phiếu theo dõi đối với từng mặt hàng. Phiếu theo dõi mặt hàng x Yêu cầu của khách hàng Nguồn hàng đã có quan hệ Nguồn hàng chưa có quan hệ Số lượng Giá trị Tên người cung cấp Số lượng Giá trị Tên người cung cấp Số lượng Giá trị Phương pháp này cho phép ta nắm được cung cầu với từng mặt hàng XK của ta. Nhưng để tìm hiểu cụ thể tình hình sản xuất của từng cơ sở thì phải sử dụng phưương pháp thứ hai. - Nghiên cứu năng lực sản xuất và cung ứng của từng đơn vị. Năng lực này thể hiện qua các chỉ tiêu, số lượng và chất lượng hàng cung ứng hàng năm, giá thành, tình hình trang thiết bị, trình độ kỹ thuật... 2. Nhóm các giải pháp vĩ mô. 2.1. Chính sách đầu tư. Để giảm bớt gánh nặng công ích cho các doanh nghiệp chè ỏ trung du, miền núi, Nhà nước nên tăng cường đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng và các công trình phúc lợi. Trước mắt tập trung vào các nhu cầu bức thiết nhất: Đường điện, giao thông, thuỷ lợi (Hệ thông đập giữ nước, hệ thống tưới tự chảy), cho vùng chè nguyên liệu. Nhiều nhà máy đã có dự án làm đường, tưới nước cho chè nhưng vẫn chưa có vốn để biến các sự án đó thành hiện thực. Tiếp tục thực hiện các chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài đầu tư vào vùng sâu, vùng xa. Nếu chưa đủ tác dụng, có thể thực hiện thêm một số ưu đãi như trợ giá, trợ cước để tạo " cú huých " ban đầu. Riêng với đầu tư nước ngoài, nên khoanh vùng ưư tiên cung cấp nguyên liệu cho các doanh nghiệp liên doanh và áp dụng các chế ddộ như doanh nghiệp trong nước (nhất là giá điện) để họ yên tâm đầu tư vào vùng nguyên liệu. Để có được các vùng nguyên liệu tập trung với cơ cấu giống hợp lí cho chế biến nông nghiệp, Nhà nước nên cho phép thành lập các doanh nghiệp chuyên làm nhiệm vụ khai hoang – trồng mới - chăm sóc chè ở giai đoạn đầu. Các doanh nghiệp này đứng ra vay vốn theo các dự án đã được Nhà nước phê chuẩn để trồng chè tập trung, khi các vường chè đi vào giai đoạn kinh doanh thì bán lại cho các hộ gia đình. 2.2. Chính sách tín dụng. Chè là mặt hàng XK có giá trị và mang lại hiệu quả xã hội cao nhưng người làm chè vẫn còn nghèo và gặp nhiều khó khăn về vốn. Vì vậy Nhà nước cần có những chính sách tín dụng thích hợp để hỗ trợ vốn và tạo điều kiện thuận lợi ch nhười làm chè. Như đã tính toán ở trên, nhu cầu vốn đầu tư cho hệ công nghiệp và nông nghiệp trong thời gian tới để đạt được các mục tiêu đề ra cho năm 2000 - 2010 là rất lớn. Để đáp ứng nhu cầu này, Nhà nước phải có chính sách cho vay vốn cụ thể như sau : Nông nghiệp : Cho vay vốn thâm canh chè trong 12 tháng với lãi suất ưu đãi 0,7 % / tháng, định mức 3 triệu đồng / ha. Cho vay phục hồi chè ( cải tạo vườn chè xấu ) trong 3 năm, lãi suất 0,81 % / tháng, năm thứ tư trả cả gốc lẫn lãi. Cho vay trồng chè theo chu kỳ kinh tế của 5 cây chè là 20 năm, lãi suất 0,81%, ân hạn trồng trong 7 năm đầu (không phải trả lãi vì đây là giai đoạn kiến thiết cơ bản của cây chè); từ năm thứ 8 trở đi, doanh nghiệp có nghĩa vụ hoàn trả cả gốc và lãi đều trong 12 năm. Định mức vay 35 triệu đồng / ha. Cho vay lồng ghép nhiều chương rtrình để các doanh nghiệp kết hợp lãi suất vay như : chương trình 120 - chương trình cai nghiện - chương trình xoá đói giảm nghèo Đồng thời khi xây dựng các chương trình này, Nhà nước cần quan tâm tới thời hạn vay khả thi chứ không chỉ lãi suất. Vì vậy trên thực tế đã có những nguồn vốn với lãi suất ưu đãi nhưng thời gian cho vay lại quá ngắn không kịp tạo nguồn trả nợ . Ví dụ : Chương trình 327/CT cho vay trồng chè định mức hỗ trợ 2,5 triệu đồng / ha, không lãi, cực kỳ ưu đãi, nhưng thời hạn vay chỉ có 3 năm nên dân nghèo khó thực hiện. Công nghiệp : Cho vay vốn ODA để đổi mới thiết bị công nghệ, xây dựng nhà máy mới với công nghệ hiện đại ngay từ đầu. Cho vay trong vòng 10 năm , ân hạn 3 năm đầu, hoàn trả vốn và lãi phát sinh trong 7 năm tiếp theo với lãi suất 0,81% / tháng. 2.3. Chính sách tài chính . 2.3.1. Thuế : Miễn thuế sử dụng đất 5 năm cho các diện tích chè phục hồi và 12 năm cho các diện tích chè trồng mới trên đất dốc từ 7 độ trở lên. Miễn thu 100% thuế nhập khẩu với thiết bị máy móc chế biến chè và phụ tùng đặc chủng của các máy móc này trong một số năm ( khoảng 5 năm từ 1999 - 2004) để tạo điều kiện hiện đại hoá ngành chè. Những sản phẩm nhờ kinh doanh đa dạng mà có sẽ được miễn các loại thuế trong 5 năm đầu, kể từ khi được thương mại hoá, để khuyến khích khai thác mặt hàng mói, bổ sung vốn cho kinh doanh chè. Chỉ thu nhập doanh nghiệp của các nhà sản xuất chè 15% thay vì 35% như hiện nay. Phần lợi nhuận vượt kế hoạch Nhà nước được giữ lại 100% để bổ sung quỹ khen thưởng phúc lợi và quỹ nghiên cứu phát triển. 2.3.2. Trích lập quỹ : Nhà nước cho phép sử dụng các khoản thu từ thanh lý tài sản cố định để bổ sung quỹ phát triển sản xuất và quỹ phát triển ngoại thương. Cho thành lập riêng quỹ bình ổn giá để ổn định giá mua chè búp tươi cho nông dân, giữ cho giá này luôn tương đương với giá thóc. Quỹ này còn dùng để dự trữ một lượng chè hợp lý nhằm giữ giá chè xuất khẩu. Để hình thành quỹ, các hộ gia đình và các doanh nghiệp sẽ góp một khoản tương đương 5% giá thành , coi như chi phí và đưa vào giá thành. Nhà nước sẽ hỗ một phần bằng cách chi ngân sách và cho trích lại khoảng 5% trị giá các hợp đồng trả nợ chè của Chính phủ (khi ký được giá XK cao). 2.4. Chính sách với con người : Chỉ áp dụng mức bảo hiểm xã hội 8% cho người làm nông nghiệp và 12% cho những người làm công nghiệp. Những người công tác ở vùng chè được ưu tiên các chế độ và được hưởng các chế độ lương cao hơn so với cấp bậc và chức vụ tương đương ở miền đồng bằng và thành phố. Những cán bộ mới được điều lên vùng chè được hưởng cao hơn hai bậc lương so với thành phố. Nhà nước cần quan tâm hơn tới phúc lợi công cộng ở miền núi như giáo dục, y tế ... các chế độ chính sách đối với giáo viên, cán bộ y tế ở các nông trường chè. Về lâu dài, không chỉ đầu tư hạ tầng cơ sở để phục vụ cho sản xuất chè mà còn cả hạ tầng cơ sở phục vụ cho sinh hoạt của người dân ở các vùng chè như trường học, bệnh viện, công viên 2.5. Quản lý chất lượng cấp Nhà nước. Hiện nay chưa có tổ chức nào chịu trách nhiệm trước Nhà nước về quản lý chất lượng chè XK việc cấp chứng nhận chất lượng chè XK vẫn còn nhiều kẽ hở, sản phẩm chất lượng rất kém, rất xấu vẫn được đưa ra thị trường làm giảm uy tín chè Việt Nam. Do vậy, cần thống nhất quản lý ngành về chất lượng bao gồm: Giao cho Hiệp hội chè Việt Nam thay mặt Nhà Nước quản lý chặt chất lượng XK bởi vì hiệp hội chè Việt Nam là người đại diện hợp pháp và duy nhất của người làm chè trong cả nước. Hiệp hội sẽ phối hợp với Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng, trung tâm KCS của Tổng công ty chè và các bộ phận chất lượng ở các dơn vị để làm tốt nhiệm vụ của mình. Ban hành và thống nhất tiêu chuẩn một nhà máy chế biến chè xuất khẩu để làm cơ sở cho các ngành, các cấp trong việc cấp giấy phép thành lập xí nghiệp. Ban hành tiêu chuẩn hoá về giống, giống nào trồng ở vùng nào với cơ cấu nào là thích hợp nhất. Thực hiện thanh tra và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm các qui định về chất lượng XK, kiên quyết không cho thông quan hàng XK kém chất lượng. 2.6. Hoàn thiện và ổn dịnh các cơ chế điều hành xuất nhập khẩu . 2.6.1. Tăng cường vai trò của các đại diện thương mại của Việt Nam ở nước ngoài. Chúng ta nên học tập kinh nghiệm của một số nước XK lớn như Mỹ, Nhật Bản trong lĩnh vực này. Hàng hoá của họ có thể thâm nhập ở hầu hết các thị trường trên Thế giới không chỉ nhờ yếu tố chất lượng mà còn do nhiều yếu tố khác, trong đó không thể không kể đến mạng lưới cơ quan Kinh tế - Thương mại ở nước ngoài được quan tâm và hoạt động cực kỳ có hiệu quả. Các cơ quan này thực hiện các chức năng thông tin và trung gian vì lợi ích của các nhà XK. Đặc biệt là thu thập thông tin về thị trường nước sở tại về các điều kiện buôn bán, phong tục tập quán, cách thức làm ăn, các công ty có khả năng hợp tác để lập một ngân hàng dữ liệu chuyển về trong nước. Ngoài ra, còn giúp đỡ các nhà xuất khẩu mở chi nhánh ở nước ngoài, lập chương trình cho các đoàn đàm phán xuất khẩu gặp gỡ các bạn hàng tiềm năng, các cơ quan xúc tiến thương mại ở các nước sở tại. Thậm chí vơí các bạn hàng lớn có nhiều cơ hội hợp tác, cơ quan Thương mại có thể tổ chức cho họ những chuyến đi tới nước mình để tận mắt tìm hiểu và phát triển quan hệ thương mại. Nói như vậy không có nghĩa là các đại diện thương mại của ta cũng phải thực hiện đầy đủ từng ấy chức năng, bơỉ vì nếu so với Mỹ, Nhật thì ta còn quá ít kinh nghiệm về thương mại quốc tế và thua xa về tiềm lực kinh tế. Tuy nhiên, các đại diện thương mại của ta không thể chỉ thực hiện mãi các nhiệm vụ chung chung như hiện nay. Để các cơ quan thương mại thực sự vào cuộc, Nhà nước nên có các biện pháp : Cử cán bộ thực sự có trình độ về kinh tế và nhanh nhạy trong việc nắm bắt thông tin, có thể xem xét lựa chọn một số nhà xuất khẩu có kinh nghiệm trên cơ sở thi tuyển chứ không phải theo chế độ bổ nhiệm như hiện nay. Có thể thành lập riêng đại diện thương mại ở các vùng kinh doanh lớn chứ không nhất thiết phỉ gắn liền với cơ quan đại diện ngoại giao. Định kỳ, Bộ thương mại đánh giá hoạt động của các cơ quan, nếu thị trường nào không đạt chỉ tiêu thì đại diện thương mại ở đó sẽ phải chịu trách nhiệm giải thích lý do và đề xuất các biện pháp đẩy mạnh XK vào thị trường này. 2.6.2. Cải thiện về công tác hải quan: Nếu chúng ta khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất thật nhiều hàng xuất khẩu bằng cách tạo ra thật nhiều ưu đãi, nhưng lại không làm tốt công tác hải quan, để hàng mắc lại ở các cửa khẩu thì khác nào cố đổ gạo ra khỏi bao nhưng lại thắt chặt miệng bao. Vì vậy, để thực hiện khuyến khích theo đúng nghĩa, cần có một thay đổi trong lĩnh vực hải quan như: Đơn giản hoá các chứng từ và thủ tục xuất khẩu. Ban hành văn bản quy định chi tiết các chứng từ và thủ tục này để tránh việc nhân viên hải quan lợi dụng những thiếu sót nhỏ để sách nhiễu doanh nghiệp, tiến hành thanh tra và kiên quyết xử lý các trường hợp tiêu cực. 2.6.3. Phối hợp các biện pháp tài chính, tín dụng để hỗ trợ XK như: Đảm bảo tín dụng XK, cấp tín dụng XK, trợ cấp XK, công cụ tỷ giá hối đoái và các chính sách miễn giảm thuế. Từ trước đến nay, Nhà nước mới chỉ tập trung vào các biện pháp hỗ trợ nhà XK trong nước, tức là hỗ trợ người bán. nhưng theo các nhà kinh tế thì biện pháp khuyến khích người tiêu dùng ở đây là các nhà nhập khẩu bao giờ cũng có tác dụng hơn. Và trên thực tế, đã có rất nhiều nước áp dụng hình thức này mà cho vay vốn ODA giữa các quốc gia chính là một ví dụ. Trong điều kiện ngoại thương và vận tải đường biển của ta phát triển chưa mạnh, việc khuyến khích trực tiếp các doanh nghiệp nước ngoài nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam là con đường ngắn và hiệu quả nhất. Cụ thể là cho nước ngoài vay tiền với lãi suất ưu đãi kèm điều kiện họ phải mua hàng của mình, lập thành quỹ bảo lãnh XK để nhà XK Việt Nam cấp tín dụng hàng hoá cho nhà nhập khẩu nước ngoài với lãi suất ưu đãi Kết luận Xuất khẩu đã , đang và sẽ tiếp tục được Đảng và Nhà nước đặt vào vị trí trung tâm làm đòn bẩy chủ lực cho phát triển kinh tế - Xã hội. Đẩy mạnh xuất khẩu trở thành nhiệm vụ chiến lược của quốc gia trong suốt thời kỳ HĐH - CNH đất nước. Đây là nhiệm vụ quan trọng đòi hỏi sự cố gắng nỗ lực của Đảng, Nhà nước, của tất cả các Bộ, ngành và đặc biệt là các công ty tham gia hoạt động xuất khẩu. Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn, Nhưng Tổng công ty chè Việt Nam cũng đã tự khẳng định mình trong những năm qua, với hướng đi mới của mình Tổng công ty đã giải quyết được công ăn việc làm cho người lao động. Rất nhiều người trồng chè đã đi lên và g iàu có nhờ làm chè và dưới sự lãnh đạo của Đảng và chính phủ, trực tiếp là Bộ NN - PTNT. Tổng công ty chè đã nỗ lực phấn đấu không ngừng nhằm xúc tiến được xuất khẩu chè trên thị trường thế giới, giải quyết những tồn tại để vươn lên ngang tầm với các ngành nông sản khác để cùng nhau thực hiênj công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Tôi tin tưởng rằng với những mục tiêu và giải pháp mà Tổng công ty đã và đang thực hiện, chắc chắc rằng Tổng công ty sẽ đứng vững và gặt hái được nhiều thành tựu, phấn đấu từ năm 2000 thực sự vững mạnh và đi lên. Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình: "Kinh tế thương mại". 1997 PGS.TS Nguyễn Duy Bột PGS.TS Đặng Đình Đào 2. Giáo trình: Quản trị doanh nghiệp TM - 1998 PGS. TS Hoàng Minh Đường TS. Nguyễn Thừa Lộc 3. Giáo trình "Quản trị doanh nghiệp thương mại" dành cho cao học TS. Nguyễn Xuân Quang; TS. Nguyễn Thừa Lộc. 4. Giáo trình "Quản trị kinh doanh TM Quốc tế" 1997 PGS.TS Nguyễn Chí Thành 5. Báo cáo: Đầu tư, thời báo kinh tế, doanh nghiệp.... 6. Báo: Kinh tế và Khoa học kỹ thuật chè - Hiệp Hội chè. 7. Tài liệu và các bản báo cáo của Tổng công ty Chè Việt Nam.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc3906.doc
Tài liệu liên quan