Đề tài Một số giải pháp về nâng cao hiệu quả tổ chức hoạt động hội chợ triển lãm tại Trung tâm Hội chợ Triển lãm Việt Nam

Tôi chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình và chu đáo của thầy giáo cùng sự giúp đỡ của các thầy cô trong Khoa và các cô chú trong phòng Hội chợ Triển lãm thuộc Trung tâm Hội chợ Triển lãm Việt Nam đã tạo điều kiện để tôi hoàn thành luận văn này.

doc70 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1423 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp về nâng cao hiệu quả tổ chức hoạt động hội chợ triển lãm tại Trung tâm Hội chợ Triển lãm Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g tầng 2 nhà A1 (tối thiểu 30m2) + Công ty Việt Nam: 250.000đ/m2 + Cty liên doanh và NK: 80 USD/m2 - Đất trống ngoài trời (tối thiểu30 m2) + Công ty Việt Nam: 100.000đ/m2 + Cty liên doanh và NK: 40 USD/m2 + Thu từ các hoạt động dịch vụ khác. Biểu 9: Kết cấu doanh thu của Trung tâm Đơn vị: Triệu đồng Năm Tổng doanh thu Từ hội chợ triển lãm Tỷ trọng % Từ các dịch vụ khác Tỷ trọng % 1996 14.632 13.000 89% 1.632 11% 1997 14.698 11.240 75% 3.458 25% 1998 20.471 14.300 70% 6.171 30% 1999 22.173 15.160 68% 7.013 32% Nhìn vào số liệu bảng trên dễ nhận thấy trong cơ cấu doanh thu, nguồn thu từ các dịch vụ khác tăng đều từ năm 1996 (11%) đến năm 1999 (32%), nguồn thu từ hội chợ triển lãm lại giảm dần. Tuy nhiên tỷ trọng lớn vẫn nghiêng về hoạt động hội chợ triển lãm. Điều đó chứng tỏ xu hướng mở rộng phạm vi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp banừg việc tận dụng những lợi thế sẵn có để mở rộng các dịch vụ. Tổng doanh thu năm 1999 tăng so với năm 1996 là 7.550 triệu đồng, số tương đối tăng là 52 %, năm 1999 so với năm 1998 tăng 1.702 triệu đồng, số tương đối tăng là 8%. - Chi phí năm 1999 so với năm 1996 tăng 8.686 triệu đồng số tương đối là 80%, so với năm 1998 tăng 1.315 triệu đồng hay 7%. Khoản chi phí tăng chủ yếu là do Trung tâm đầu tư hàng tỷ đồng mua trang thiết bị giàn dựng mới của Đức từ năm 1997, khoản khấu hao tính vào chi phí là cao. - Lợi nhận của Trung tâm trong những năm gần đây là giảm, năm 1996 là 3.742 triệu đồng, các năm 1997, 1998, 1999 lại thấp hơn là do: + ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ thế giới và khu vực năm 1997, 1998 và tốc độ tăng trưởng nền kinh tế Việt Nam năm 1999 chững lại làm số lượng công ty nước ngoài tham gia vào các cuộc hội chợ triển lãm giảm, mà giá cho thuê và cung cấp dịch vụ đối với các công ty nước ngoài cao hơn các công ty trong nước, trong khi giá thành đầu vào gần như bằng nhau. + Trung tâm đầu tư hàng tỷ đồng mua trang thiết bị giàn dựng mới của Đức, giá thành gian hàng tăng đáng kể nhưng giá cho thuê hầu như không tăng vì vậy lợi nhuận cũng giảm theo. + Giá điện nước cũng liên tục tăng trong 3 năm qua. - Tổng nộp ngân sách bao gồm: Thuế đất, thuế doanh thu, thuế lợi tức được nộp theo các năm như sau: + Năm 1996: 3,130 tỷ + Năm 1997: 3,230 tỷ + Năm 1998: 3,6178 tỷ + Năm 1999: 3,456 tỷ - Thu nhập bình quân đầu người trong 4 năm gần đây tăng đều, đảm bảo đời sống vật chất tinh thần người lao động. Năm 1999 so với năm 1990 tăng khoảng 5 lần so với năm 1996 tăng 518.000đ so với năm 1998 tăng 98.000đ. Khoản thu nhập của nhân viên gồm: lương cơ bản và thưởng hàng tháng, các khoản thu nhập làm ngoài giờ. - Nguyên giá TSCĐ năm 1999 so với năm 1996 tăng 3,988 tỷ, số tương đối là 24%, so với năm 1998 tăng 1,138 tỷ hay 6% chủ yếu là do đầu tư mua sắm trang thiết bị giàn dựng, nâng cấp các phòng trưng bày. 2. Đánh giá hiệu quả hoạt động thông qua một số chỉ tiêu về hiệu quả kinh doanh. 2.1. Theo nhóm chỉ tiêu khả năng sinh lời của doanh nghiệp Biểu 10: Chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh lời kinh doanh Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm Năm Năm 98/97 99/98 1997 1998 1999 Mức % Mức % Doanh thu 14698 20741 22173 5773 139 1702 108 Lợi nhuận 2325 2219 2604 -106 95,4 395 117 Vốn kinh doanh 14359 15176 17678 817 105 2502 116 Doanh thu / vốn kd 1,024 1,349 1,254 0,325 132 -0,095 93 Khả năng sinh lời vốn kd 0,162 0,146 0,147 -0,016 90 0,001 100.7 Tỷ số lợi nhuận biên tế 0,158 0,108 0,117 -0,05 68,5 0,009 108 - Doanh thu của Trung tâm tăng qua các năm. Cụ thể năm 1998 tăng so với năm 1997 là 5.773 triệu đồng, số tương đối tăng 39%. Năm 1999 tăng so với năm 1998 là 1.702 triệu đồng hay tăng 8%. - Lợi nhuận của Trung tâm năm 1998 giảm so với năm 1997 là 106 triệu đồng số tương đối là giảm 4,6%. Sang năm 1999 lợi nhuận tăng so với năm 1998 là 385 triệu đồng hay tăng 17%. - Phần vốn kinh doanh tăng qua các năm. Xét về góc độ tăng ta có thể nói hoạt động của Trung tâm tương đối tốt, nhưng nếu xét tổng lợi nhuận thu được hàng năm thì thực sự hoạt động kinh doanh của Trung tâm chưa cao. - Vòng quay của vốn kinh doanh năm 1998 tăng so với năm 1997 là 0,3253 triệu đồng. Năm 1999 giảm so với năm 1998 là 0,0946 triệu đồng nhưng vẫn tăng nếu so với năm 1997. Điều này chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh chưa cao. Trong khi vốn kinh doanh tăng qua các năm thì doanh thu của Trung tâm tăng chậm. Trung tâm cần phải xem xét lại phương án kinh doanh của mình để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. - Khả năng sinh lời vốn kinh doanh cho chúng ta thấy hiệu quả của việc quản lý trong việc sử dụng tổng vốn kinh doanh. Số liệu trong bảng cho ta thấy khả năng sinh lời vốn kinh doanh của Trung tâm năm 1998 giảm so với năm 1997 là 0,0157 triệu đồng và năm 1999 tăng so với năm 1998 là 0,0011 triệu đồng nhưng vẫn giảm so với năm 1997. Nguyên nhân là do lợi nhuận của Trung tâm có xu hướng giảm qua các năm gần đây trong khi vốn kinh doanh tăng đều qua các năm, thể hiện hiệu quả quản lý trong việc sử dụng vốn chưa cao. Trung tâm cần có những biện pháp quản lý chặt chẽ việc thu chi, sử dụng nguồn vốn hiệu quả hơn nữa để làm tăng khả năng sinh lời vốn kinh doanh. - Tỷ số lợi nhuận biên tế gắn liền với hoạt động của Trung tâm. Năm 1997 một đồng doanh thu có 0,1582 đồng lợi nhuận, năm 1998 có 0,1084 đồng lợi nhuận, năm 1999 có 0,1174 đồng lợi nhuận. Như vậy khả năng sinh lời của Trung tâm từ hoạt động hội chợ triển lãm có xu hướng giảm điều này thể hiện chiến lược thương mại của Trung tâm cần phải điều chỉnh lại cho phù hợp. Trung tâm cần có những biện pháp hoàn thiện quy trình nghiệp vụ hội chợ triển lãm, mở rộng quy mô các cuộc hội chợ triển lãm nhằm thu hút khách hàng, phát triển các loại hình hội chợ triển lãm trở nên đa dạng, từ đó làm tăng doanh thu đồng thời quản lý chặt chẽ các nguồn chi làm giảm chi phí để tăng lợi nhuận. 2.2. Theo nhóm chỉ tiêu hiệu quả sử dụng tài sản cố định. Biểu 11: Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng TSCĐ Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm Năm Năm 98/97 99/98 1997 1998 1999 Mức % Mức % Doanh thu 14698 20741 22173 5773 139 1702 108 Lợi nhuận 2325 2219 2604 -106 95 395 117 - Tổng Tài Sản + Vốn lưu động + TSCĐ 24917 7019 17898 26476 7269 19207 27199 6854 20345 1559 250 1309 106 104 107 723 -415 1138 103 94,3 106 Sức sx của vốn lưu động 2,09 2,8 3,2 - - - - Sức sinh lời vốn lưu động 0,33 0,3 0,37 - - - - Vòng quay vốn lưu động 2,09 2,8 3,2 Sức sản xuất của TSCĐ 0,821 1,079 1,089 - - - - Sức sinhlời của TSCĐ 0,129 0,115 0,128 - - - - Suất hao phí TSCĐ 1,217 0,93 0,92 - - - - Tỷ suất tự tài trợ 0,8 0,79 0.86 - - - - Tỷ suất đầu tư 0,72 0,73 0,74 - - - - Hệ số quay vòng của TS 0,6 0,8 0,8 - - - - - Vốn lưu động của Trung tâm năm 1998 tăng 250 triệu đồng so với năm 1997, năm 1999 giảm 415 triệu đồng so với năm 1998. - Số vòng quay vốn lưu động tăng qua các năm 1997, 1998 và 1999 là 2,09; 2,8 và 3,2 vòng chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động được nâng cao qua các năm nhưng sức sinh lời của vốn lưu động còn rất thấp. - Giá trị TSCĐ của Trung tâm năm1998 tăng 1309 triệu đồng so với năm 1998, năm 1999 tăng 1138 triệu đồng so với năm 1998, tỷ suất đầu tư qua các năm là 0,72; 0,73 và 0,74. Điều này cho thấy rõ TSCĐ có vai trò quan trọng trong cơ cấu Tài sản của Trung tâm và nó được liên tục đầu tư nhằm nâng cao năng lực sản xuất. - Sức sản xuất của TSCĐ cho biết một đồng nguyên giá TSCĐ đem lại 0,821 đồng doanh thu năm 1997, 1,079 đồng doanh thu năm 1998 và 1,098 đồng doanh thu năm 1999. Đối với hoạt động tổ chức hội chợ triển lãm của Trung tâm thì yếu tố TSCĐ mang ý nghĩa rất quan trọng, các nhà trưng bày, hệ thống giàn dựng, kho bãi... là một yếu tố ảnh hưởng lớn đến doanh thu. Chính vì vậy sức sản xuất của TSCĐ đánh giá hiệu quả của TSCĐ được đầu tư, thể hiện qua doanh thu sinh ra từ TSCĐ được đầu tư đó. Như vậy hiệu quả sử dụng TSCĐ của Trung tâm không cao mặc dù đã được đầu tư làm tăng giá trị TSCĐ qua mỗi năm. Việc sử dụng TSCĐ như thế nào cho hiệu quả, đem lại được doanh thu cao, là việc mà Trung tâm cần chú trọng hơn trong công tác quản lý và khai thác sử dụng cơ sở hạ tầng, thiết bị hiện có như mở thêm các dịch vụ trong khoảng thời gian rỗi giữa các kỳ hội chợ triển lãm. - Sức sinh lời của TSCĐ cho biết một đồng TSCĐ làm ra 0,129 đồng lợi nhuận năm 1997 với suất hao phí là 1,217, 0,115 đồng năm 1998 và 0,128 đồng lợi nhuận năm 1999 suất hao phí là 0,93 và 0,92. - Tổng tài sản của Trung tâm năm 1998 tăng 1559 triệu đồng so với năm 1997, năm 1999 tăng 723 triệu đồng so với năm 1998. Tài sản của Trung tâm tăng qua các năm chủ yếu là do Trung tâm đã chú trọng đầu tư vào TSCĐ. Nhìn về góc độ tăng của TSCĐ là tốt, nhưng nếu xét tổng lợi nhuận thu được hàng năm so với tổng tài sản đầu tư thì thực sự chưa hiệu quả. Vòng quay của tài sản còn thấp. 2.3. Theo nhóm chỉ tiêu hiệu quả sử dụng lao động. Biểu 12: Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng lao động Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm Năm Năm 98/97 99/98 1997 1998 1999 Mức % Mức % Doanh thu 14698 20741 22173 5773 139 1702 108 Lợi nhuận 2325 2219 2604 -106 95,4 395 117 Doanh thu bq tính cho một lao động 93,62 124 131,2 30,44 133 7,14 106 Lợi nhuận bq tính cho một lao động 14,8 13,45 15,4 -1,35 90,8 1,958 115 - Doanh thu bình quân tính cho một lao động của Trung tâm năm 1998 tăng 30,44 triệu đồng so với năm 1997 hay tăng 33%, năm 1999 tăng 7,14 triệu so với năm 1998 hay tăng 6%. Điều này thể hiện khả năng đóng góp sức lao động vào hoạt động tổ chức hội chợ triển lãm và đem lại doanh thu cho Trung tâm là tốt. Trung tâm cần có những biện pháp nâng cao đời sống vật chất của nhân viên trong Trung tâm nhằm nâng cao năng suất cũng như chất lượng công tác cho mỗi nhân viên - Lợi nhuận bình quân tính cho một lao động cho thấy mỗi một lao động đem lại lợi nhuận cho Trung tâm năm 1997 là 14,8 triệu đồng, năm 1998 giảm so với năm 1997 là 1,35 triệu đồng, năm 1999 tăng 15% hay tăng 1,958 triệu đồng so với năm 1998. 2.4. Các chỉ số về mức tăng trưởng Cho thấy khả năng duy trì vị trí kinh tế của Trung tâm trong mức tăng trưởng của nghành. Chỉ tiêu Năm 1996 Năm 1997 Năm 1998 Năm 1999 Tổng doanh thu 14632 14698 20471 22173 Tổng lợi nhuận 3742 2325 2219 2604 Biểu đồ 2: Phản ánh mức độ và tốc độ tăng trưởng doanh thu của Trung tâm từ năm 1996-1999. Biểu đồ 3: Phản ánh mức độ và tốc độ tăng trưởng lợi nhuận của Trung tâm từ năm 1996-1999 3. Đánh giá tổng hợp qua phân tích hoạt động của Trung tâm. Từ thực trạng phân tích hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như hoạt động tổ chức các cuộc hội chợ triển lãm, tôi xin lưu ý một số vấn đề sau đối với Trung tâm: 3.1. Nguồn lực nhân sự - Trung tâm có một đội ngũ cán bộ, công nhân viên có nghiệp vụ chuyên môn và bề dày kinh nghiệm tổ chức nhều hội chợ triển lãm có uy tín lớn. Cán bộ nhân viên có tinh thần làm việc hăng hái, nhiệt tình công tác, chịu khó học hỏi, năng động sáng tạo, có sự đoàn kết nội bộ chặt chẽ, có kỷ luật, trình độ học vấn (trên 40% cán bộ nhân viên có trình độ đại học và sau đại học, 60% cán bộ có trình độ cao đẳng, trung cấp...). Đội ngũ quản trị viên có hàng chục năm kinh nghiệm và được qua đào tạo chuyên môn của mình. Đây là một lợi thế của Trung tâm trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên lực lượng cán bộ nhân viên của Trung tâm chưa thật sự có chất lượng đồng đều thích ứng với từng chức năng nhiệm vụ. Nhiều cán bộ lãnh đạo các phòng ban có kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm lâu năm trong nghề nhưng còn thiếu về ngoại ngữ, kiến thức về quản lý kinh tế. Có thể đây là lý do giải thích tại sao trong công tác tổ chức hội chợ triển lãm của Trung tâm rất tốt nhưng hiệu quả kinh tế đem lại chưa cao. 3.2. Nguồn lực cơ sở vật chất. - Trung tâm có một vị trí thuận lợi, nằm ở trung tâm của thủ đô Hà Nội với diện tích rộng 70.000 m2, có cơ sở hạ tầng, giao thông thuận tiện là một lợi thế mà không phải doanh nghiệp nào cũng có được. - Cơ sở vật chất của Trung tâm hiện nay có thể đáp ứng được nhu cầu tổ chức các cuộc hội chợ triển lãm quốc gia và quốc tế, nhưng để phù hợp với nhu cầu phát triển trong tương lai đòi hỏi Trung tâm phải có kế hoạch xây dựng tu bổ phù hợp. Thực trạng cơ sở vật chất còn ngèo nàn, các công trình xây dựng nhà trưng bày không đồng nhất dẫn đến tình trạng thường xuyên phải tu bổ nâng cấp theo yêu cầu từng giai đoạn, tốn rất nhiều chi phí. - Hệ thống máy điều hoà nhiệt độ trong các nhà trưng bày, kể cả nhà A1 là nhà trưng bày lớn nhất đều chưa có. Xe vận tải và xe cầu hàng chưa có một chiếc nào, khi cần phải đi thuê. - Trung tâm cần mạnh dạn đầu tư nhằm tăng cường nguồn lực cơ sở vật chất kỹ thuật cho phù hợp với xu thế công nghệ mới, nâng cao chất lượng dịch vụ thích ứng với nhu cầu ngày càng gia tăng của khách hàng từ đó có thể tận dụng được lợi thế về vị trí địa lý. 3.3. Hệ thống quản lý Trong thời gian qua, Trung tâm đã có những bước thay đổi quan trọng trong cơ chế quản lý và bộ máy quản lý của mình. Trước đây Trung tâm chỉ có hai bộ phận trực tiếp tham gia vào việc tổ chức các cuộc hội chợ triển lãm đó là bộ phận trong nước và bộ phận quốc tế. Nhưng hiện nay Trung tâm đã phân chia thành nhiều bộ phận, mỗi bộ phận đảm nhiệm công việc cụ thể như: Bộ phận phụ trách dàn dựng các gian hàng, bộ phận tổ chức dịch vụ, bộ phận tài chính-kế toán, bộ phận hội chợ triển lãm...Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Trung tâm được xắp xếp lại một cách khá hợp lý. Tuy nhiên Trung tâm cần tiếp tục bổ sung chức năng nhiệm vụ hoàn chỉnh hơn nữa cho từng bộ phận, nên sáp nhập một số bộ phận có cùng chức năng nhiệm vụ làm cho bộ máy gọn nhẹ có tính kinh tế. * Tồn tại cần khắc phục: + Quản lý chặt chẽ và tiết kiệm các chi phí quản lý + Thành lập hẳn một bộ phận Marketing giúp Trung tâm năng động hơn trong việc nghiên cứu thị trường, thu thập thông tin và khai phá thị trường mới. + Đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ, phân tích và đánh giá thị trường thường xuyên cho phép Trung tâm điều chỉnh được chính sách giá, chính sách yểm trợ, rà soát và đánh giá thực trạng chất lượng sản phẩm dịch vụ, phát hiện những đối thủ mới xâm nhập, phát hiện những khách hàng có xu hướng rời bỏ Trung tâm. 3.4. Quản lý và sử dụng tài sản TSLĐ của Trung tâm có xu hướng giảm theo thời gian, Năm 1999 giảm 5,7% so với năm 1998 hay giảm 415 triệu đồng. Điều này làm giảm khả năng thanh toán và có thể có thể dẫn đến sự thiếu hụt về tài chính, sẽ hạn chế sự phát triển của Trung tâm. Đồng thời nó cũng có thể làm cho Trung tâm phải thay đổi các điều kiện giảm giá, chiết khấu và ưu đãi cho các khách hàng quen thuộc của Trung tâm theo chiều hướng không có lợi. TSCĐ được Trung tâm chú trọng đầu tư trong những năm qua nhưng thực sự hiệu quả sử dụng TSCĐ chưa cao, điều đó thể hiện ở khả năng sinh lời từ TSCĐ của Trung tâm còn thấp qua những năm 1997,1998,1999 là 0,124; 0,1158; 0,136 triệu đồng. *Biện pháp khắc phục + áp dụng phương pháp khấu hao hợp lý nhất vừa phải đảm bảo giá thành sản phẩm dịch vụ vừa phải đồng thời đảm bảo tốc độ quay vòng của tài sản. + Đề ra các chính sách tiết kiệm triệt để, kết hợp với việc thực hiện các chính sách này ở mọi giác độ, cấp độ. + Tăng cường chính sách thu hồi các khoản nợ một cách hữu hiệu nhất nhằm tăng số vòng quay của các khoản phải thu và giảm số ngày của vòng quay các khoản phải thu. + Đẩy mạnh công tác quản lý + Tận dụng tối đa mọi nguồn lực đồng thời có một phương thức chiếm dụng vốn hợp lý. + Chỉ vay vốn đầu tư vào các dự án bắt buộc đầu tư hay các dự án khả thi đầu tư vào cơ sở hạ tầng đem lại hiệu quả kinh tế, với lãi suất có thể chấp nhận được. 3.5. Nâng cao hiệu quả kinh doanh Doanh thu của Trung tâm tăng qua các năm 1996, 1997, 1998, 1999 lần lượt tăng là 2%, 39%, 9% (so sánh năm sau với năm trước) thể hiện mức độ tăng trưởng cao của Trung tâm. Tuy nhiên nhìn về giác độ doanh lợi thu được thì hiệu quả kinh doanh của Trung tâm không thật sự như vậy: Tỷ số lợi nhuận biên tế của Trung tâm qua các năm là 0,25; 0,16; 0,11; 0,12. Chính vì vậy, để nâng cao hiệu quả kinh doanh Trung tâm cần phải làm tăng lợi nhuận cao hơn nữa để tái đầu tư phát triển. Trung tâm cần có sự so sánh các chỉ số tăng trưởng của mình với mức trung bình của nghành, đặc biệt là so sánh với các doanh nghiệp nằm trong tốp dẫn đầu trong nghành nhằm đánh giá được thực trạng tăng trưởng của mình. - Việc nâng cao hiệu quả kinh doanh cần phải có những giải pháp: + Cải thiện năng lực hoạt động (tăng số dư lợi nhuận) + Cải thiện hiệu quả hoạt hoạt động (tăng vòng quay của vốn) + Kết hợp năng lực và hiệu quả * Một số giải pháp cụ thể: - Để tăng doanh thu: + Khai thác triệt để và có hiệu quả cơ sở vật chất hiện có bằng việc tăng số lượng tổ chức các cuộc hội chợ triển lãm, tăng số lượng khách tham gia trong một cuộc hội chợ triển lãm bằng những ưu đãi cho khách hàng. + Nâng cao chất lượng các cuộc hội chợ triển lãm vừa để thu hút khách hàng, vừa bán thêm được các dịch vụ khác. + Tìm hiểu và mở rộng thị trường để tăng số lượng các cuộc hội chợ triển lãm tại Trung tâm và các địa phương khác như Nam Định, Lạng Sơn, Hạ Long, Vinh, Hải dương... - Giảm chi phí đầu vào: + Quản lý chặt chẽ hơn việc chi tiêu trong cơ quan. + áp dụng phương thức khấu hao hợp lý hơn. + Nâng cao hiệu quả làm việc của cán bộ nhân viên trong và ngoài giờ. Giảm một số lao động thừa trong một số các phòng chức năng 4. Đánh giá về thị trường của Trung tâm và phương hướng phát triển trong thời gian tới. 4.1. Thị trường hiện tại - Về trong nước: Hiện nay, các hội chợ triển lãm trong nước chỉ được phòng tiến hành ở hai thành phố chính là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh mặc dù nhu cầu về hội chợ triển lãm ở các khu vực khác trong cả nước là rất lớn. Trong khi đó, Trung tâm có văn phòng đại diện được đặt ở một số khu đô thị lớn như: Tp. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Cần Thơ, Hải phòng và có một mạng lưới cộng tác viên ở hầu hết các tỉnh trên toàn quốc, một ưu tthế lớn để tổ chức thành công hội chợ triển lãm ở các địa phương này. Đặc biệt, trong một vài năm gần đây nhu cầu về hội chợ triển lãm có quy mô lớn tổ chức ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh có xu hướng giảm trong khi nhu cầu về các hội chợ triển lãm có quy mô vừa và nhỏ, mang tính chuyên đề cao tại các địa phương khác nhau lại tăng. Chẳng hạn, rất nhiều hội chợ triển lãm được tổ chức ở Cần Thơ, Đà Nẵng thu hút đông đảo các doanh nghiệp trong, ngoài nước và khách tham quan. Do vậy Trung tâm cần phối hợp chặt chẽ với các chi nhánh, văn phòng nhằm tổ chức các cuộc hội chợ triển lãm ở các địa phương có tiềm năng. - Về thị trường nước ngoài: Hiện nay, việc tổ chức và tham gia hội chợ triển lãm ở nước ngoài của Trung tâm chủ yếu thực hiện ở một số thị trường quen thuộc như: Singapo, Nhật, Lào, Trung quốc, Đức, Nga...Nhiều thị trường nhập khẩu quan trọng của Việt Nam bị bỏ sót do kinh phí hạn hẹp, Trung tâm phụ thuộc rất nhiều vào các nguồn tài trợ từ phía nước ngoài khi tham gia hoặc tổ chức cuộc hội chợ triển lãm ở nước ngoài. Có nhiều thị trường tiềm năng nhưng Trung tâm không thể tham gia vì không nhận được sự hỗ trợ về kinh phí. Chính vì vậy, việc mở rộng thị trường ở nước ngoài cũng đi đôi với việc xây dựng một cơ chế tài chính linh hoạt nhằm tạo tiềm lực trong việc tham gia tổ chức hội chợ triển lãm ở nước ngoài, tăng cường tìm kiếm các nguồn tài trợ từ các tổ chức có quan hệ để hỗ trợ tốt nhất các mục tiêu đề ra. 4.2. Định hướng chung về phát triển thị trường của Trung tâm. - Đối với thị trường trong nước: Hiện nay, khách hàng của Trung tâm chủ yếu vẫn là các doanh nghiệp trong nước tập trung chủ yếu tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh, thành đồng bằng Bắc bộ. Thị trường các tỉnh phía Nam như Đồng bằng sông Cửu Long, vùng Cao nguyên, các tỉnh miền Trung và vùng núi phía Bắc sẽ được quan tâm và tăng cường khai thác, phố hợp tổ chức hàng năm. Để làm được điều này đòi hỏi Trung tâm phải năng động hơn nữa trong việc khai phá các thị trường tiềm năng. - Đối với thị trường nước ngoài: Đây là thị trường vô cùng rộng lớn bao gồm các nước đang có đầu tư vào Việt Nam và một số nước có quan hệ xuất nhập khẩu như: Các nước trong Liên minh Châu Âu, các nước trong khối ASEAN, Mỹ, Nhật bản, Trung quốc, Hàn quốc, Đài loan, Australia v.v...Hiện tại, Trung tâm đã có một số khách hàng quen thuộc trong số này, nhưng còn quá ít so với tiềm năng có thể đạt tới. Trong thời gian tới các khu vực này vẫn là thị trường mục tiêu, cần thắt chặt hơn nữa mối quan hệ vốn có đồng thời phát triển và mở rộng các mối quan hệ mới với các tổ chức hoạt động xúc tiến. Ngoài ra, Trung tâm còn có thể mở rộng thị trường sang khu vực Bắc Mỹ như Brazil, Canada, Argentina, Châu phi và vùng Nam á. Phần thứ ba Kiến nghị một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động của Trung tâm Hội chợ Triển lãm Việt Nam. I. Phương hướng và quan điểm phat triển của Trung tâm Hội chợ Triển lãm Việt Nam trong thời gian tới Trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, hoạt động hội chợ triển lãm ngày càng chứng tỏ vai trò không thể thiếu được của mình đối với một doanh nghiệp và nền kinh tế nói chung, hoạt động này ngày càng phát triển và trong tương lai gần cùng với quá trình CNH-HĐH, phải trở thành một nghành công nghiệp dịch vụ có công nghệ và trình độ chuyên môn hoá cao như các nước tiên tiến trên thế giới. Trước mắt và trong những năm tiếp theo Trung tâm phấn đấu xây dựng và phát triển thành một Trung tâm quốc gia và quốc tế ngang tầm với các Trung tâm Hội chợ Triển lãm khu vực châu á và thế giới. Hoạt động của Trung tâm có tính chất tổng hợp về kinh tế, khoa học kỹ thuật, giao lưu thương mại và văn hoá xã hội nhằm thông tin kinh tế và thương mại đối nội và đối ngoại, giới thiệu đầu tư và đáp ứng các nhu cầu về văn hoá xã hội cho nhân dân thủ đô và cả nước. Trung tâm là đơn vị tổ chức và thực hiện các cuộc hội chợ triển lãm có chất lượng cao, hiệu quả lớn với nội dung kinh tế, kỹ thuật và thương mại, quốc gia và quốc tế, tổng hợp, chuyên nghành và đa nghành ở Việt Nam và của Việt Nam ra nước ngoài. Đi liền với các cuộc hội chợ triển lãm là các cuộc hội thảo, hội nghị trao đổi về kinh tế, kỹ thuật thương mại và đầu tư nhằm khuyến khích phát triển kinh tế, khoa học kỹ thuật và thu hút đầu tư. Trung tâm là đầu mối quốc gia và quốc tế, về thông tin kinh tế, khoa học kỹ thuật, văn hoá xã hội và quảng cáo trong nước và quốc tế, đồng thời là Trung tâm các hội nghị quốc gia và quốc tế tại Hà Nội. Ngoài ra Trung tâm Hội chợ Triển lãm Việt Nam còn phải trở thành một Trung tâm hoạt động văn hoá nghệ thuật, tuyên truyền các vấn đề về chính trị xã hội, an ninh quốc phòng của Đảng và Nhà nước, là nơi hội tụ liên kết các hoạt động kinh tế-văn hoá-xã hội của các tổ chức phi chính phủ ở cấp trung ương. Trung tâm cần phấn đấu để xứng đáng là Trung tâm thương mại quốc tế, đầu mối giao dịch và phát triển thương mại thu hút đầu tư và các hoạt động dịch vụ khác đi liền với chức năng này. Trong thời gian tới, Trung tâm phải tổ chức và thực hiện tốt các hội chợ định kỳ hàng năm, khai thác thị trường để tổ chức và thực hiện xen kẽ các hội chợ chuyên nghành, chuyên đề quốc gia và quốc tế khác. Trung tâm cần mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế trong nước nhằm nâng cao hiệu quả của việc khai thác hạ tầng cơ sở vật chất kỹ thuật của khu hội chợ triển lãm, nâng cấp các cơ sở này nhanh chóng tạo động lực của Trung tâm để có thể xâm nhập mạnh hơn vào thị trường quốc tế, tạo điều kiện để thực hiện hợp tác và cạnh tranh trên thương trường quốc tế của hoạt động hội chợ triển lãm Việt Nam và của Trung tâm nói riêng, tăng cường quy mô và khả năng thực hiện các hội chợ triển lãm quốc tế nhằm tạo điều kiện tốt hơn đáp ứng yêu cầu của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh Việt Nam muốn xúc tiến với thị trường quốc tế, thúc đẩy sản xuất và xúc tiến thương mại của họ và của quốc gia, khai thác có hiệu quả hơn các nhà trưng bày, tạo thế ổn định và phát triển của Trung tâm bảo đảm hiệu quả hoạt động hội chợ triển lãm trong nước và cạnh tranh quốc tế. Trung tâm còn phải mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, xúc tiến quá trình liên doanh với các tổ chức nước ngoài có vốn đầu tư vào Trung tâm nhằm: Khẩn trương hoàn thành đề án và trình Chính Phủ phê duyệt hợp tác kinh doanh đầu tư nước ngoài để xây dựng lại Trung tâm Hội chợ Triển lãm Việt Nam thành một Trung tâm quốc gia, quốc tế về hội chợ triển lãm, về thương mại, về thông tin tổng hợp, hhội thảo và hội nghị với những công trình như các nhà trưng bày triển lãm hiện đại, khu cho thuê các văn phòng đại diện trong nước và nước ngoài, Trung tâm thương mại và dịch vụ về hội thảo hội nghị quốc gia, quốc tế, thông tin và quảng cáo, văn hoá nghệ thuật và giải trí cùng khu làm việc của Trung tâm. Tổ chức và phối hợp tổ chức với các tổ chức khác để tổ chức thêm nhiều hội chợ triển lãm ở nước ngoài. Trung tâm cần nhanh chóng xúc tiến xây dựng Hiệp hội hội chợ-triển lãm Việt Nam và trong đó Trung tâm Hội chợ Triển lãm Việt Nam là một cấu thành quan trọng có ý nghĩa quốc gia và quốc tế của hiệp hội. II. kiến nghị một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động của Trung tâm Hội chợ Triển lãm Việt Nam 1. Xúc tiến việc nghiên cứu thị trường và quảng cáo 1.1. Hoàn thiện công tác nghiên cứu thị trường của Trung tâm Hội chợ Triển lãm Việt Nam. Nghiên cứu thị trường là một khâu quan trọng trong quá trình kinh doanh của bất kỳ một doanh nghiệp kinh doanh nào, nó cung cấp những thông tin đầy đủ chuẩn xác giúp nhà quản trị đưa ra những quyết định đúng đắn. Đối với Trung tâm Hội chợ Triển lãm Việt Nam,việc nghiên cứu thị trường là để phục vụ cho việc xây dựng kế hoạch tổ chức các cuộc hội chợ triển lãm quốc gia và quốc tế đạt hiệu quả cao và phát triển mạnh mẽ vững vàng. * Nghiên cứu sơ bộ: Đây là bước đầu tiên của quá trình nghiên cứu thị trường, có đánh giá những vấn đề ban đầu của nhu cầu thị trường. + Đối với thị trường trong nước: Nghiên cứu nhu cầu, số lượng cơ cấu các loại hình doanh nghiệp có nhu cầu quảng cáo trưng bày sản phẩm, giới thiệu công nghệ, hợp tác đầu tư...Xem xét khả năng xu thế và giá cả dịch vụ hội chợ triển lãm trong nước. Hiện nay tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh nhu cầu về hội chợ triển lãm có phần giảm, Trung tâm nên hướng hoạt động tổ chức của mình về các địa phương, tỉnh, thành phố nơi có tiềm năng phát triển kinh tế như: Lạng Sơn nơi diễn ra các hoạt động kinh tế rất sôi nổi giữa Trung Quốc và Việt Nam; Thành phố Nam Định, Quảng Ninh, Vinh, Hải phòng, Hải Dương, tốc độ phát triển kinh tế khá ổn định, nhu cầu giao lưu hợp tác sẽ cao. Khi tổ chức hội chợ triển lãm tại các địa phương này sẽ thu hút được các doanh nghiệp vừa và nhỏ không có điều kiện tham gia hội chợ triển lãm tại các thành phố lớn. + Đối với thị trường nước ngoài: Trung tâm cần tập trung nghiên cứu vào các thị trường xuất nhập khẩu quan trọng đối với Việt Nam hiện nay như Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Trung Quốc, Nga, Pháp, Thái Lan, Đức. Thông qua các nguồn tin từ các tổ chức quốc tế như: Trung tâm thương mại quốc tế (ITC), Thời báo tài chính, Bản tin Reuter về các loại mặt hàng...từ đó thống kê, phân tích đánh giá giúp cho Trung tâm có cái nhìn bao quát về dung lượng thị trường, khách hàng... * Nghiên cứu thăm dò thị trường: Sau khi có những nguồn dữ kiện, đánh giá ban đầu về thị trường, Trung tâm cần tiến hành nghiên cứu thăm dò thị trường. Như việc lấy những ý tưởng khả thi, tên gọi hội chợ, nội dung, mục đích tổ chức...Trung tâm có thể phát phiếu thăm dò các doanh nghiệp, lấy ý kiến khách hàng về những vấn đề nêu trên, từ đó đưa ra được những nhận định ban đầu về nhu cầu thị trường. * Nghiên cứu phân định: Mục tiêu của nghiên cứu là nhằm phân định một cách đầy đủ, rõ ràng về mọi khía cạnh như: Thời gian và địa điểm tổ chức như thế nào cho hợp lý, Thu thập các thông tin về thị trường hàng hoá và các thông tin khác có liên quan như: tốc độ phát triển kinh tế, sở thích thị hiếu tiêu dùng, lối sống, văn hoá...để xử lý và đây là nguồn cung cấp thông tin cho khách hàng sau này khi mời họ tham gia. Công tác này đòi hỏi Trung tâm phải nghiên cứu kỹ lưỡng, có thể thành lập cho mình một bộ phận thông tin có tính chất thường xuyên và chủ động, đồng thời dựa trên các mối quan hệ với các cục, vụ, viện nghiên cứu kinh tế kỹ thuật để đảm bảo cho việc thu thập và xử lý thông tin một cách chính xác. * Nghiên cứu mô tả: Nội dung của nghiên cứu mô tả có quan hệ mật thiết đến các nghiên cứu trước vì cần phải lượng hoá các công việc cụ thể về cuộc hội chợ triển lãm sẽ được tổ chức như quy mô tổ chức, số lượng các doanh nghiệp và lên danh sách các doanh nghiệp có khả năng tham dự để tiến hành mời khách cho phù hợp voứi tên gọi, nội dung và mục đích của cuộc hội chợ triển lãm dự định sẽ tổ chức. * Nghiên cứu phân đoạn thị trường: Mục tiêu của quá trình này là xác định và định vị được nhóm khách hàng trên thị trường dựa trên các tiêu thức phân đoạn thị trường. Có thể dựa trên nhiều tiêu thức khác nhau như: Theo tiêu thức địa lý phân đoạn thị trường trong nước và nước ngoài; Theo tiêu thức thứ hạng ưu tiên phân chia ra thị trường trọng điểm và không trọng điểm...Để từ đó có những chính sách thị trường hợp lý. Ví dụ như việc phân đoạn thị trường theo tiêu thức thứ hạng ưu tiên, Trung tâm cần có chính sách đặc biệt trong việc đối xử với thị trường trọng điểm. Đây là khu vực thị trường mà tại đó Trung tâm có thể phát huy tối đa thế mạnh và khả năng của mình. Do vậy lợi nhuận đem lại từ phần thị trường này là khoản không thể bị suy giảm. Đối với thị trường trọng điểm Trung tâm cần phải giữ và xâm nhập sâu hơn, có chính sách ưu tiên về giá cả lẫn thời gian và chất lượng phục vụ. Trong thị trường trọng điểm chia ra thành các loại khách hàng sau: + Khách hàng truyền thống: Có mối quan hệ kinh doanh sâu sắc, họ thường xuyên tham gia những hội chợ triển lãm do Trung tâm tổ chức, họ là đội ngũ nòng cốt tạo nên sự thành công của cuộc hội chợ triển lãm và cũng góp phần lôi kéo bạn hàng cùng tham gia. Cần có những chính sách ưu đãi làm họ vừa lòng như giảm giá cho thuê gian hàng, ưu tiên sắp xếp gian hàng ở vị trí thuận lợi... + Khách hàng không truyền thống: Là những khách hàng đã tham gia một số cuộc hội chợ triển lãm do Trung tâm tổ chức nhưng không thường xuyên. Họ dễ bị lôi kéo bởi đối thủ cạnh tranh vì vậy cần có những biện pháp gây uy tín ngày càng lớn đoói với họ từ những khâu làm thủ tục đăng ký đưa đón khách, tư vấn vận chuyển hàng hoá...chính sự nhiệt tình này có thể lôi kéo họ tham dự trong những lần hội chợ tiếp theo. Đối với thị trường không trọng điểm, là nơi Trung tâm khó phát huy được thế mạnh của mình ngay lúc này (Thị trường các tỉnh miền Nam, thị trường một số nước Châu Âu, Châu mỹ...). Khu vực thị trường không trọng điểm này cần được quan tâm đúng mức theo khả năng của Trung tâm. 1.2. Hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động quảng cáo. Trung tâm Hội chợ Triển lãm Việt Nam cần tích cực tiến hành quảng bá cho vị thế của mình nhằm giới thiệu về tổ chức kinh doanh của Trung tâm, đề cao uy tín, chất lượng tổ chức các cuộc hội chợ triển lãm nhằm thu hút ngày càng nhiều khách trong nước và nước ngoài tham gia. Trung tâm nên kết hợp một cách khoa học hợp lý giữa quảng cáo cứng và quảng cáo "mềm" tạo ra những biện pháp hữu hiệu. - Các biện pháp đối với thị trường trong nước: + Tăng cường quảng cáo về Trung tâm trên các phương tiện thông tin đại chúng, xuất bản các ấn phẩm, Catalogue về Trung tâm và các hoạt động của mình. + Nâng cao chất lượng tổ chức hội chợ triển lãm. + Tổ chức tốt và khai thác có hiệu quả hơn các văn phòng đại diện và hệ thống cộng tác viên bằng chế độ cụ thể. + Củng cố và phát triển mối quan hệ với khách hàng truyền thống. - Đối với thị trường quốc tế: + Duy trì và phát huy mối quan hệ đối với khách quen. + Mở rộng các mối quan hệ với Tham tán, Đại sứ quán của ta ở nước ngoài, từ đó Trung tâm sẽ có được những đầu mối truyền tải thông tin về Trung tâm, khuyếch trương được mình tại thị trường quốc tế, từ đó có thể tìm được các đối tác cùng phối hợp tổ chức các cuộc hội chợ triển lãm của nước ngoài tại Việt Nam và ta có thể phối hợp với bạn để tổ chức các cuộc triển lãm của Việt Nam tại nước ngoài. + Quan hệ và tăng cường sự hợp tác với Hiệp hội hội chợ triển lãm quốc tế và các nhà tổ chức lớn trên toàn thế giới. + Nâng cao chất lượng tổ chức, hiện đại hoá cơ sở hạ tầng tiến tới tiêu chuẩn hoá quốc tế về các điều kiện tổ chức của Trung tâm. Ngoài ra, Trung tâm cần chú trọng hơn trong việc thông tin quảng cáo về hội chợ triển lãm cho khách tham quan, vì sự thành công của các cuộc hội chợ triển lãm phụ thuộc vào lượng lớn khách tham quan. Nếu lượng khách tham quan đông thì đó là thành công lớn của hội chợ. Ngược lại, cho dù hội chợ được tổ chức đẹp, hấp dẫn đến đâu mà lượng khách tham quan ít thì đó cũng là thất bại thảm hại không những đối với đơn vị tổ chức mà đặc biệt là đối với các doanh nghiệp tham dự. Chính vì vậy, để hội chợ triển lãm có thể gặt hái được nhiều thành công thì Trung tâm cần tổ chức một bộ phận riêng chịu trách nhiệm về thông tin quảng cáo cho hội chợ triển lãm. Trước khi khai mạc, Trung tâm cần bố trí các băng dezon, bảng biển, nêu rõ chủ đề hội chợ, địa điểm, thời gian ở các trục đường chính, đông người qua lại trước thời gian khai mạc 10 ngày như ở đường Bà Triệu, đường Giảng Võ, bờ Hồ, cầu chu Gia lâm...; đăng tin trên các báo Hà nội mới, thương mại, kinh tế...trước thời gian triển lãm khoảng 10-15 ngày; quảng cáo trên đài truyền hình Việt Nam khoảng 5-10 giây, trước khi khai mạc khoảng 7-10 ngày. Làm tốt công tác này là Trung tâm đã góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng của hội chợ triển lãm, thu hút thêm các doanh nghiệp tham gia, quảng bá không nhỏ cho uy tín tổ chức của mình. 2. Hoàn thiện quy trình tổ chức hội chợ triển lãm và phát triển các loại hình hội chợ triển lãm 2.1. Hoàn thiện về quy trình tổ chức hội chợ triển lãm. Một trong những mục tiêu quan trọng bậc nhất của Trung tâm là nâng cao chất lượng tổ chức các cuộc hội chợ triển lãm, trong đó việc hoàn thiện quy trình tổ chức tiến tới trình độ chuyên môn hoá các khâu trong quy trình, cụ thể là: - Hoàn thiện các khâu chuẩn bị: + Để có một đề án tốt đảm bảo hội chợ triển lãm thành công tốt đẹp, trước hết phải có lượng thông tin đầy đủ, thực tế và chính xác về thị trường do đó cần phải hoàn thiện khâu thu thập thông tin bằng cách sủ dụng các biện pháp khai thác và các phương tiện thông tin liên lạc hiện đại hiệu quả, đặc biệt là việc sử dụng công nghệ thông tin và khai thác lợi thế của mạng Internet. + Khi in phát thư mời cho khách Trung tâm cần lưu ý, cung cấp các thông tin về các loại hàng hoá cấm trưng bày, cấm bán tại hội chợ, các loại hàng hoá cấm quảng cáo và các vấn đề thuế quan (được quy định cụ thể ở điều 192, 200 Luật Thương mại Việt Nam). + Cần chú ý trong công tác mời khách tham gia bởi đây là giai đoạn then chốt trong quá trình tổ chức. Trung tâm phải lựa chọn các doanh nghiệp có lĩnh vực kinh doanh phù hợp với chủ đề hội chợ. Cần phải có kế hoạch mời khách sớm cho mỗi hội chợ triển lãm và thường xuyên kiểm tra kết quả vận động, xử lý kịp thời các yêu cầu của khách. + Khi tham dự hội chợ triển lãm không chỉ đơn thuần là đặt một gian hàng là những người quan tâm sẽ đến thăm gian hàng. Trong mỗi cuộc hội chợ triển lãm có hàng trăm gian hàng trưng bày nhiều loại hàng hoá khác nhau, mặt khác khách vào hội chợ thường bị chi phối bởi cách bày biện bố trí gian hàng, bày biện bố trí độc đáo thì số lượng khách tham quan tìm hiểu càng nhiều. Vì thế, Trung tâm nên lập ra một tiểu ban chuyên chịu trách nhiệm hỗ trợ cố vấn cho vấn đề trang trí gian hàng của các đơn vị tham dự - Hoàn thiện các khâu trong hội chợ bao gồm: + Trong các cuộc hội chợ triển lãm thường diễn ra các hoạt động khen thưởng các doanh nghiệp hay mặt hàng tham gia. Đây là một loại hình khuyến khích người tham dự. Khi xét thưởng các sản phẩm cần phải có sự tham gia đánh giá của các chuyên gia đánh giá trong lĩnh vực đó. Việc này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng hội chợ triển lãm, làm tăng số lượng doanh nghiệp tham gia, bởi lẽ khi họ tham gia cùng với sự cố gắng dành huy chương cũng chính là họ tiến hành việc khẳng định vị trí của sản phẩm cũng như uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. + Tổ chức các dịch vụ: Cần tăng cường hoàn thiện các dịch vụ như giải quyết tốt chỗ ăn ở, phiên dịch, thuê thêm trang thiết bị...cho khách hàng tham gia. + Tổ chức các hoạt động thương mại, quảng cáo, tiếp thị, biểu diễn văn hoá nghệ thuật, hội nghị, hội thảo. + Tuỳ theo tính chất cuộc hội chợ triển lãm được tổ chức, Trung tâm có thể giới hạn hay không việc tham quan của công chúng. Điều này giúp các doanh nghiệp trưng bày hàng hoá phân loại các đối tượng tham quan để có biện pháp đón tiếp tốt hơn. + Trung tâm cần bố trí một bộ phận trực tiếp giải quyết các yêu cầu thắc mắc của các nhà trưng bày trong thời gian diễn ra hội chợ triển lãm. Tăng cường hơn nữa việc giữ gìn vệ sinh, an ninh trong khu vực triển lãm. + Để phục vụ tốt hơn khách tham quan, cần có sơ đồ chi tiết về các gian hàng trong hội chợ để phát cho khách tham quan. Các hoạt động của các doanh nghiệp cần được phản ánh qua các bản tin hàng ngày phát cho khách tham quan. Các bản tin này sẽ cung cấp cho khách những thông tin về các hoạt động mà các doanh nghiệp sẽ tiến hành trong thời gian hội chợ triển lãm. - Hoàn thiện các khâu sau hội chợ: + Trung tâm cần xúc tiến giải quyết các thủ tục hải quan, thuế quan...để đưa hàng ra khỏi khu vực triển lãm. Tổ chức buổi chiêu đãi chính thức các doanh nghiệp tham gia, thăm dò phản ứng, nhận xét của các doanh nghiệp về công tác tổ chức của Trung tâm, các thuận lợi và khó khăn của các doanh nghiệp trong tiến trình tham gia, các kiến nghị của các doanh nghiệp...Tập hợp các thông tin này để xây dựng báo cáo kết quả hội chợ triển lãm. + Ngay trước khi kết thúc hội chợ triển lãm Trung tâm cần gửi Catalogue hay các ấn phẩm để mời các doanh nghiệp tham gia các hội chợ triển lãm mà Trung tâm sẽ tổ chức sau này. 2.2. Phát triển các loại hình hội chợ triển lãm. Cùng với việc hoàn thiện các khâu tổ chức, Trung tâm cần tăng cường mở rộng thị trường bằng cách phát triển các loại hình hội chợ triển lãm khác. Trong điều kiện kinh tế thị trường với nhiều loại hình doanh nghiệp, từ kinh tế quốc doanh, liên doanh, công ty TNHH, hợp tác xã, kinh tế tư nhân, công ty cổ phần với nhiều hình thức hợp tác trong nhiều lĩnh vực kinh tế khác nhau, tạo điều kiện cho Trung tâm có thể mở rộng thị trường đó là: + Đối với trong nước: Tổ chức các cuộc hội chợ triển lãm tại các địa phương, các hội chợ triển lãm về các lĩnh vực kinh tế mới hình thành hoặc bắt đầu phát triển ở Việt Nam như các ngành nghề nông nghiệp, thuỷ sản; các mặt hàng chú trọng vào xuất khẩu như may mặc, thêu ren, thủ công mỹ nghệ... + Đối với quốc tế: Kết hợp với hoạt động tư vấn cho các nhà đầu tư vào Việt Nam, hợp tác chặt chẽ với các nhà tổ chức có uy tín trong khu vực và thế giới để tổ chức các hội chợ triển lãm tại Việt Nam và ở nước ngoài như: triển lãm hàng Việt Nam tại Misk (CH Bêlaus); Hội chợ triển lãm hàng Việt Nam chất lượng và hội nhập tại Đức, Australia... 3. Tăng cường, nâng cao hiệu quả sử dụng và từng bước hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật của Trung tâm. Cơ sở vật chất kỹ thuật là điều kiện quan trọng để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh được phát triển thuận lợi. Đối với Trung tâm Hội chợ Triển lãm Việt Nam, cơ sở vật chất kỹ thuật bao gồm: nhà xưởng, phương tiện thiết bị chuyên dùng cho các hoạt động nghiệp vụ tổ chức và phục vụ hội chợ triển lãm. Hiện nay, Trung tâm đã có một cơ sở vật chất kỹ thuật phương tiện tương đối khá: Có diện tích trưng bày triển lãm rộng, hệ thống giàn dựng được trang bị tốt, ban đầu có thể thực hiện được việc tổ chức những cuộc hội chợ triển lãm lớn của quốc gia và quốc tế. Tuy nhiên nhịp độ phát triển kinh tế của đất nước ngày càng mạnh mẽ nên việc xây dựng một Trung tâm Hội chợ Triển lãm có tầm cỡ quốc tế là một điều cần thiết, cần có một chiến lược quy hoạch Trung tâm để xây dựng một Trung tâm Hội chợ Triển lãm mới trên mặt bằng diện tích hiện có. Công việc trước mắt của Trung tâm hiện nay là mở rộng hơn các khu trưng bày, có những trang bị hiện đại mới đáp ứng yêu cầu của tình hình phát triển, tổ chức các cuộc hội chợ triển lãm lớn hơn có tầm cỡ quốc tế: - Nâng cao trình độ công nghệ và thiết bị kỹ thuật trong công tác vệ sinh môi trường theo hướng văn minh, hiện đại hoá. Trong các cuộc hội chợ triển lãm có kế hoạch và biện pháp đặc biệt làm vệ sinh thường xuyên trong các nhà trưng bày, khu dịch vụ bán hàng trên toàn bộ địa bàn Trung tâm, đảm bảo điều kiện người đông vẫn giữ sạch sẽ, văn minh lịch sự. Kiến trúc phong cảnh mỹ thuật hài hoà trên toàn bộ địa bàn, tổ chức trồng cây cảnh, trồng hoa, cắt tỉa, tạo bộ mặt đẹp lịch sự trong hội chợ. - Tiếp tục trang bị, đổi mới và hiện đại hoá các thiết bị, phương tiện, dụng cụ: Những thiết bị thông tin văn phòng, hệ thống máy điều hoà nhiệt độ trong các gian trưng bày, phương tiện bốc dỡ vận chuyển hàng hoá. - Thu hồi các khu vực cho thuê bán hàng dài hạn xung quanh Trung tâm để quy hoạch thành khu để xe kho hàng. Trong tương lai, Trung tâm cần có kế hoạch gọi vốn đầu tư trong và ngoài nước vào việc xây dựng lại Trung tâm Hội chợ Triển lãm Việt Nam trên toàn diện tích khu vực như: - Xây dựng đần các khu trưng bày sao cho tổng thể là một khu liên hoàn các nhà trưng bày nối tiếp nhau, chia theo khu vực, nghành hàng... - Xây dựng được một khu khách sạn nhà hàng với khoảng 100 phòng với trang thiết bị hiện đại, tầng hầm để xe, thuận tiện cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước đến tham dự. - Xây dựng khu hoạt động dịch vụ vui chơi giải trí, hội thảo, hội nghị, hoạt động văn hoá nghệ thuật, văn phòng làm việc... Tạo điều kiện để Trung tâm trở thành một doanh nghiệp của Nhà nước hoạt động trong lĩnh vực hội chợ triển lãm có tầm cỡ quốc tế. 4. Công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng người lao động. Trong những năm qua, từ chỗ chưa có kinh nghiệm chuyên môn tổ chức các cuộc hội chợ triển lãm trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt là tổ chức các cuộc triển lãm lớn có khách quốc tế tham gia và các cuộc hội chợ chuyên đề quốc tế, Trung tâm đã có một đội ngũ cán bộ công nhân viên có chuyên môn tương đối hoàn chỉnh, có kinh nghiệm nghiệp vụ tổ chức nhưng chất lượng chưa đồng đều, chưa đủ để đáp ứng yêu cầu phát triển của Trung tâm trong tương lai. Vì vậy việc bồi dưỡng, nâng cao chất lượng của người lao động là vấn đề Trung tâm cần quan tâm trong thời gian tới. Nói đến chất lượng của người lao động ta thấy cần phải quan tâm đến tinh thần, ý trí quyết tâm, kiến thức năng lực nghiệp vụ và sức khoẻ của cán bộ công nhân viên. Do đó Trung tâm cần chú ý làm tốt hai việc: Tạo động lực trong lao động, bồi dưỡng kiến thức năng lực nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ công nhân viên trong Trung tâm. - Về tạo động lực trong lao động: Để tạo động lực mạnh mẽ trong lao động, Trung tâm cần dùng nhiều phương pháp khác nhau trong đó đặc biệt là phương pháp kích thích lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần của người lao động: + Nâng cao thu nhập mỗi thành viên trong Trung tâm, thiết lập các chức danh cho từng cán bộ, giảm biên chế những người không đủ trình độ và năng lực công tác trong tình hình mới. + Có biện pháp phân chi thu nhập rõ ràng, phù hợp trên nguyên tắc làm nhiều hưởng nhiều, có chính sách thưởng xứng đáng cho những người có sáng kiến, làm việc có hiệu quả cao, mang lại nhiều lợi nhuận cho Trung tâm và phạt những cá nhân làm việc thiếu trách nhiệm không hoàn thành nhiệm vụ được giao. + Trung tâm cố gắng thực hiện nhiều hơn nữa những phúc lợi xã hội đối với người lao động như: Dịch vụ giải trí, tham quan, nghỉ mát, hỗ trợ về nhà ở, đi lại, chăm sóc y tế, hỗ trợ ốm đau tai nạn... + Tạo môi trường tâm sinh lý thuận lợi cho quá trình loa động để làm giảm mức độ căng thẳng, mệt mỏi tạo bầu không khí đoàn kết tương trợ lẫn nhau trong công việc. - Về đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ: Trung tâm cần có sự đầu tư và kế hoạch đào tạo bồi dưỡng và phát triển nhân sự về kiến thức, năng lực chuyên môn, đáp ứng nhu cầu trước mắt và lâu dài: + Đối với cán bộ lãnh đạo, ngoài tính năng động, nhạy bén trong kinh doanh cần phải có trình độ quản lý vững chắc, biết phân tích và phán đoán tình hình dựa trên lượng thông tin thu thập được trên thị trường để dưa ra những biện pháp và chính sách thích hợp trong việc lãnh đạo và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, có kiến thức về kinh doanh thương mại quốc tế và trình độ ngoại ngữ. + Đối với cán bộ cấp phòng, là những người trực tiếp quản lý điều hành hoạt động của các bộ phận chức năng, xây dựng các phương án kinh doanh, đề xuất các giải pháp lên ban giám đốc phải là những người có trình độ quản lý, kiến thức trong lĩnh vực đảm trách, nhạy bén năng động và nhiệt tình. Vì vậy phải trẻ hoá đội ngũ, tuyển dụng những người đã có đào tạo cơ bản, gửi đi học tập và đào tạo ở nước ngoài, nâng cao trình độ ngoại ngữ... + Đối với công nhân viên, những người trực tiếp thự thi các nhiệm vụ cụ thể trong hoạt động kinh doanh của Trung tâm phải là đội ngũ trẻ, có ngoại ngữ và nghiệp vụ hội chợ triển lãm, đào tạo và nâng cao trình độ hiểu biết về kinh doanh thương mại, thương mại quốc tế. - Về phương pháp đào tạo: Trung tâm có thể sử dụng nhiều biện pháp đào tạo, bồi dưỡng khác nhau: + Phát động phong trào tự bồi dưỡng kiến thức bản thân trong cán bộ, công nhân viên của Trung tâm. + Mở các lớp ngắn hạn tại Trung tâm về quy trình công nghệ, các kinh nghiệm đã được tổng kết. + Đào tạo, bổ túc nghiệp vụ chuyên môn trong từng tổ, nhóm, bộ phận công tác. + Cử cán bộ nhân viên đi học các lớp tại chức, chính quy ở các trường đại học. + Tuyển chọn những cán bộ trẻ có năng lực gửi đi đào tạo chuyên môn tổ chức tại nước ngoài. + Cử các đoàn đi học hỏi kinh nghiệm, tham quan ngắn hạn các Tổ chức Hội chợ triển lãm lớn trên thế giới. III. Kiến nghị đối với các cơ quan chủ quản lĩnh vực hội chợ triển lãm Hiện nay do có quá nhiều cơ quan có chức năng tổ chức hội chợ triển lãm có tính chất tự phát, độc lập với nhau không theo một kế hoạch thống nhất chung nên trong một số trường hợp nảy sinh sụ chồng chéo, cạnh tranh, giành giật khách hàng tham gia hội chợ triển lãm. Nói một cách khác là có quá nhiều cơ quan tổ chức và quản lý nhưng lại không có được một đầu mối tổ chức, giúp đỡ tổ chức hoặc lập nên một kế hoặch thống nhất cho các nhà tổ chức hội chợ triển lãm nhằm đem lại hiệu quả trong công tác tổ chức hội chợ triển lãm nói chung. Trung tâm Hội chợ Triển lãm Việt Nam nằm dưới sự quản lý của Bộ văn hoá thông tin nhưng trong các cuộc hội chợ triển lãm thương mại thì vẫn phải chịu thêm sự quản lý của Bộ thương mại đôi khi gây ra những điểm không thống nhất gây ra khó khăn cho các nhà tổ chức hội chợ triển lãm. Điều này đòi hỏi các cơ quan chủ quản phải có sự quy định thống nhất trong quản lý phù hơp với từng lĩnh vực hoạt động của Trung tâm. Mặt khác mọi sự quản lý của các cơ quan chủ quản chỉ nên mang tính quản lý nhà nước và là đơn vị bảo trợ cho các cuộc hội chợ triển lãm, để cho các cơ quan chuyên môn chủ động trong công tác tổ chức nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao trong cơ chế thị trường. Hiện nay hoạt động hội chợ triển lãm thương mại của Việt Nam đã vươn rộng ra các thị trường nước ngoài chính vì vậy mà nhiều công ty, tổ chức kinh tế của nước ngoài muốn tham gia hội chợ triển lãm ở Việt Nam và các doanh nghiệp Việt Nam muốn tham gia hội chợ triển lãm ở nước ngoài nhưng vấn đề còn tồn tại gây khó khăn cho nhà tổ chức là chính sách xuất nhập khẩu đối với hàng đem tới và hàng đem đi tham dự hội chợ triển lãm chưa được nhất quán và thuận tiện. Nhà nước cũng nên khuyến khích cho lĩnh vực hoạt động này phát triển thông qua một hệ thống thuế xuất nhập khẩu áp dụng riêng cho hàng hoá tham dự hội chợ triển lãm. Chẳng hạn như Nhà nước có thể miễn thuế doanh thu đối với hàng hoá bán trong hội chợ triển lãm thương mại. Xoá bỏ thuế nhập khẩu đối với các tài liệu quảng cáo. Giảm được phần nào về thuế nghĩa là giảm chi phí cho khách hàng tham dự hội chợ triển lãm và là một trong những yếu tố thu hút khách. Nhà nước cũng cần có các biện pháp hỗ trợ trực tiếp cho các đơn vị tổ chức hội chợ triển lãm trong việc tổ chức các cuộc hội chợ triển lãm có tính tuyên truyền như y tế, giáo dục...và các cuộc hội chợ triển lãm có chủ đề phù hợp với định hướng phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước. Kết luận Trong đề tài này tôi đã nêu lên một số vấn đề lý luận và thực tiễn đối với công nghệ tổ chức hội chợ triển lãm tại Trung tâm Hội chợ Triển lãm Việt Nam. Dựa trên cơ sở lý luận trong kinh doanh, quan điểm về đổi mới kinh tế trong các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay và những thành công tồn tại của Trung tâm, tôi mạnh dạn có một số ý kiến đề xuất để nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Để hoàn thiện hơn nữa đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới còn nhiều vấn đề cần phải nghiên cứu, nhận thức sâu sắc và có thực thi nhằm tiến tới công nghiệp hoá nghành hội chợ triển lãm góp phần thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển. Đây là những vấn đề phức tạp, yêu cầu phải có kiến thức khoa học đầy đủ, những kinh nghiệm thực tiễn và không thể thực hiện một sớm một chiều. Tôi hy vọng rằng với những lợi thế về địa điểm, kinh nghiệm nhiều năm trong lĩnh vực này và một đội ngũ những người lao động đang trẻ hoá có trình độ, sức khoẻ và nhiệt tình, Trung tâm Hội chợ Triển lãm Việt Nam sẽ tìm cho mình một con đường phát triển phù hợp nhất để trở thành một Trung tâm Hội chợ Triển lãm tầm cỡ quốc tế trong những năm đầu thế kỷ 21. Tôi chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình và chu đáo của thầy giáo cùng sự giúp đỡ của các thầy cô trong Khoa và các cô chú trong phòng Hội chợ Triển lãm thuộc Trung tâm Hội chợ Triển lãm Việt Nam đã tạo điều kiện để tôi hoàn thành luận văn này. Tài liệu tham khảo 1. Kinh tế thương mại - Giáo trình Đại học Kinh tế Quốc dân. 2. Luật thương mại - Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia 3. Một số báo Thương mại. 4. Thương mại dịch vụ trong sự nghiệp CNH-HĐH Đại học KTQD. 5. Marketing Thương mại - Đại học Thương mại 6. Quanr trị doanh nghiệp - Nguyễn Hải Sản 7. Phân tích tài chính doanh nghiệp 8. Chiến lược và kế hoạch phát triển doanh nghiệp 9. Báo cáo tổng kết của Trung tâm Hội chợ Triển lãm Việt Nam. 10. Một số tài liệu, sách báo khác... mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docF0026.doc