Đề tài Một số kiến nghị để khai thác quan hệ kinh tế Việt Nam Apec có hiệu quả

Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương là diễn đàn đối thoại tư vấn kinh tế của các thành viên. Với các nguyên tắc để thực hiện mục tiêu tự do hoá, thuận lợi hóa thương mại và đầu tư. APEC thực sự là cánh cửa mở ra các cơ hội hội nhập quốc tế cho nền kinh tế Việt Nam. Trong quá trình thực hiện hợp tác kinh tế với APEC Việt Nam cần phát huy tối đa sức mạnh bản thân để khai thác triệt để lợi ích của quá trình hội nhập, nghiên cứu rút kinh nghiệm từ những tiến bộ kinh tế, của các thành viênkhác, khắc phục những điểm còn yếu của kinh tế Việt Nam. Hợp tác kinh tế Việt Nam - APEC phải trên cơ sở bình đẳng bảo vệ chủ quyền quốc gia. Để thực hiện điều đó chúng ta cần tăng cường hợp tác song phương, đa phương với APEC, tham gia thực hiện các mục tiêu kinh tế của tổ chức một cách linh hoạt kết hợp thực hiện các mục tiêu chung các thành viên khác với cải cách kinh tế trong nước, kích thích phát triển các ngành có lợi thế so sánh, dần dần làm thăng bằng cán cân thương mại giữa Việt Nam và các nước APEC, Việt Nam cần hợp tác với các thành viên khác xây dựng chiến lược phát triển kinh tế vùng, kiến thiết một quy chế pháp lý để điều chỉnh các hoạt động hợp tác đảm bảo được quyền lợi của các bên. Hiện nay cơ chế hợp tác của APEC còn tương đối lỏng lẻo và nhiệm vụ của các thành viên trong đó Việt Nam là tăng cường, đoàn kết khu vực, xây dựng APEC thành một tổ chức có cơ cấu chặt chẽ, có sự ràng buộc pháp lý hơn nữa để tạo điều kiện thực hiện tốt các mục tiêu do APEC đặt ra: Đến đây khi hoàn thành bản chuyên đề này, em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới nhà trường, các thầy cô giáo, tới PTS. Nguyễn Thường Lạng tới các bạn những người đã giúp đỡ em trong quá trình học tập, trang bị cho em những kiến thức đầu tiên về kinh tế quốc tế, tạo cơ sở khoa học thực sự cho hoạt động công tác của em trong tương lai.

doc72 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1261 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số kiến nghị để khai thác quan hệ kinh tế Việt Nam Apec có hiệu quả, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chiều hướng phát triển của kinh tế Việt Nam, Chính phủ úc đã thực hiện việc tiếp xúc giữa giới kinh doanh úc với Việt Nam và là một trong những nước đầu tiên tận dụng được chính sách mở cửa của ta. Thương mại hai nước tăng từ 6,1 triệu USD năm 1984 lên gần 50 triệu USD năm 1990. Do có thị trường ít dần nên úc mở rộng đầu tư và hướng vào thị trường khổng lồ hơn 70 triệu dân của ta. Tháng 6/1990 hai nước đã ký hiệp định Thương mại và hợp tác kinh tế và nhịp độ Thương mại giữa hai nước tăng lên rõ rệt: Năm 1992 366 triệu USD; 1994: 390 triệu USD; 10/1991 bãi bỏ lệnh cấm buôn bán với Việt Nam nối lại viện trợ trực tiếp 85 triệu USD cho Việt Nam giai đoạn 1992 - 1995 và một loạt các hiệp định hỗ trợ hợp tác kinh tế được ký kết v.v... Việt Nam thường xuát siêu sang úc. Việt Nam thường xuất sang úc các mặt hàng nông sản mỹ nghệ v.v... trong đó gạo được xuất từ Việt Nam qua úc tới nước thứ ba và nhập về máy móc thiết bị, nguyên liệu (sắt, thép, nhôm), hoá chất v.v... Quan hệ thương mại hai nước ngày càng thuận lợi cho hoạt động cải cách hành chính và tiếp cận thị trường của nhau, hợp tác cùng thực hiện kinh doanh dựa vào thế mạnh của nhau (VD: Việt Nam chế biến len của úc ,tại Khánh Hoà hiện có một dự án nuôi bò do công ty Wallco Đông nam á của úc liên doanh với Vissan Việt nam để xuất thịt và bò giống của úc ra nước ngoài trị giá nhiều triệu USD..) Hiện nay úc đang tăng cường đầu tư vào Việt Nam trong các lĩnh vực viễn thông, tin học, khai mỏ, đánh cá, du lịch - dịch vụ v.v... Tuy nhiên họ chưa phải là nước đầu tư lớn vào Việt Nam (đứng thứ 10) tới tháng 12/1995 họ mới có khoảng 47 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký là gần 700 triệu USD nhưng các dự án của úc tương đối lớn và có hiệu suất vốn thực hiện trên số đăng ký tương đối cao, hiệu quả hoạt động tốt. Trong tương lai quan hệ này còn nhiều tiềm năng phát triển, do đó đòi hỏi cả hai bên phải thực hiện các hợp tác có tính đột phá để khai thác hết tiềm năng, lợi ích kinh tế có thể đem lại. 3.7-/ Hợp tác kinh tế Việt Nam - Bruney Trước 1992 quan hệ kinh tế Việt Nam - Bruney chưa có gì đáng kể, sau chuyến thăm Bruney của thủ tướng Võ Văn Kiệt năm 1992 coi như chuyến khai thông quan hệ hợp tác kinh tế giữa hai nước và đặc biệt là việc Việt Nam gia nhập ASEAN, năm 1995 đã là động lực thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa hai nước. Là hai quốc gia có trữ lượng dầu khí lớn cả hai nước có sự cộng tác đặc biệt trong lĩnh vực này. Bruney là nước có bước đi khá sớm và đạt được nhiều hiệu quả trong công nghiệp dầu khí, hiện nay đầu tư của Bruney vào ngành dầu khí, cơ sở hạ tầng đã được cấp phép với hơn 20 dự án. Bruney là quốc gia phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu nông sản mà đây lại là thế mạnh của ta. Do vậy, thị trường Bruney hứa hẹn nhiều cơ hội cho nền kinh tế nông nghiệp của Việt Nam. 3.8-/ Quan hệ hợp tác kinh tế Việt Nam- Inđônêxia. Sau năm 1995 quan hệ thương mại và đầu tư giữa hai nước đã có sự gia tăng đáng kể, Inđônêxia với sức mạnh kinh tế sau nhiều năm mở cửa đã trở thành một đối tác kinh tế quan trọng của Việt Nam. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước tăng từ 70 triệu USD/1990 lên 220 triệu USD/1993: 250 triệu USD/1994 và khoảng 400 triệu USD/1995 và trở thành bạn hàng lớn thứ hai của Việt Nam trong ASEAN sau Xingapo. Cán cân thương mại giữa Việt Nam và Inđônêxia luôn nghiêng về phía Inđônêxia. Tuy nhiên, số thăng dư thương mại này đang có xu hướng giảm dần từ 133,5 triệu USD năm 1993 xuống còn 100 triệu USD năm 1995. Inđônêxia xuất sang Việt Nam chủ yếu là phân bón( chiếm 34% tổng số hàng xuất từ Inđônêxia sang Việt Nam); các mặt hàng bột giấy, xe gắn máy, đồ hộp của Inđônesia cũng có một thị phần lớn tại Việt Nam. Cơ cấu hàng xuất khẩu của ta sang Indonesia chủ yếu là nông sản; thị trường Indonesia còn là nơi trung chuyển, cầu nối để phát triển các sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam sang các thị trường khác (VD: Công ty Prima Conmexindo mua gạo, tỏi, đậu, cà phê, chè của Việt Nam sau đó bán sang Châu Âu, Trung Đông v.v...) Về đầu tư từ năm 1990 đã có dự án đầu tư của Indonesia tại Việt Nam trong một số lĩnh vực quan trọng như: Ngân hàng, bay dịch vụ cho dầu khí. Hiện nay, Indonesia đứng thứ 18 trong số các nhà đầu tư vào Việt Nam với 13 dự án, tổng số vốn đầu tư lên tới 284,37 triệu USD Indonesia chủ yếu đầu tư vào các lĩnh vực như: khách sạn, mì chính, sợi, gỗ; vận tải thuỷ và thuốc lá. Trên thực tế với tiềm năng kinh tế của mình so với hai nước đầu tư lớn vào Việt Nam trong khu vực là Thái Lan và Malaysia, thì Indonesia không hề thua kém nhưng hoạt động đầu tư vào Việt Nam lại chưa đáng với thực tế của bạn. Tuy nhiên đầu tư của Indonesia và Việt Nam là khu an toàn (tỷ lệ đổ bể chỉ là 8% so với 25% của Thái Lan). Triển vọng đầu tư của Indonesia vào Việt Nam còn rất lớn, đây là cơ hội để phát triển nền kinh tế Việt Nam. 3.9-/ Quan hệ kinh tế Việt Nam - Philippine Việt Nam có quan hệ ngoại giao với Philippine từ năm 1976 qua một thời gian dài quan hệ này bị ảnh hưởng bởi các tác động chính trị nên có bước thăng trầm khác nhau. Từ khi Việt Nam trở thành thành viên của ASEAN 7/1995, quan hệ giữa hai nước đặc biệt là các quan hệ kinh tế được đẩy mạnh. Philippine cam kết ủng hộ giúp Việt Nam về kinh nghiệm quản lý kinh tế, đào tạo cán bộ, chế biến sản phẩm dừa và mong muốn học tập từ Việt Nam những kinh nghiệm trong những vấn đề kinh tế mà ta đã đạt được. Rất nhiều các văn bản pháp lý có tính chất song phương được hai bên ký kết làm cơ sở pháp luật cho hoạt động hợp tác kinh tế như: Hiệp ước phát triển và bảo hộ đầu tư, Hiệp ước thành lập Uỷ ban hỗn hợp về hợp tác kinh tế (JCEC); nghị định thư Thương mại xuất - nhập khẩu hàng hoá dịch vụ (1994) v.v... Tổng kim ngạch buôn bán giữa hai nước tăng từ 42,3 triệu USD/1992 lên gần 140 triệu USD/1995. Tới giữa năm 1996 theo Bộ Kế hoạch Đầu tư Việt Nam, Philippine có 12 dự án có hiệu lực với tổng vốn đầu tư là 178,86 triệu USD. Việt Nam xuất sang Philippine các sản phẩm nông nghiệp, than, cao su và nhập khẩu từ Philippine các hàng hoá phục vụ nông nghiệp, vật liệu xây dựng, dược liệu y tế. 3.10-/ Hợp tác kinh tế Việt Nam - Singapore. Quan hệ kinh tế này được duy trì cả trong thời điểm hai bên có những bất đồng về chính trị, trên nguyên tắc cùng có lợi, cả hai phía đã tìm mọi cách để bắt tay hợp tác, nhất là hợp tác kinh tế. Việt Nam và Singapore đã ký nhiều văn kiện kinh tế làm cơ sở cho hoạt động trao đổi, hợp tác. Thương mại hai chiều ngày càng được mở rộng, kim ngạch Thương mại hai chiều đạt khoảng hơn 1 tỷ USD mỗi năm (Singapore là bạn hàng lớn thứ hai của Việt Nam sau Nhật Bản). Việt Nam xuất sang Singapore nông sản, thuỷ sản, quần áo may sẵn v.v... và nhập khẩu về Việt Nam, xăng dầu, hoá chất, hàng điện máy v.v...Với cơ cấu Thương mại đó, đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải tìm hiểu xác định nhu cầu của thị trường Singapore nhằm xuất khẩu các mặt hàng, có giá trị cao, tăng kim ngạch xuất khẩu, giảm chênh lệch cán cấn Thương mại. Singapore hiện nay đứng thứ 4 trong số các nhà đầu tư vào Việt Nam với 33 dự án tổng vốn 965 triệu USD cho các lĩnh vực khách sạn, văn phòng, nhà cho thuê, 58 dự án với tổng vốn 757 triệu USD trong các dự án về cong nghiệp về xây dựng số còn lại nằm ở một số lĩnh vực khác. Hiện nay với hơn 120 dự án, tổng vốn gần 2 tỷ USD trong đó có 725 triệu USD cho các dự án xây dựng, Singapore thực sự là chỉ đầu tư có vai trò quan trọng của Việt Nam. Quan hệ này có ý nghĩa trong cả tương lai cần thiết và phải thực hiện không gián đoạn (4/1998 có gần 6 tỷ USD). 3.11-/ Quan hệ kinh tế Việt Nam - Malaysia. Trong ASEAN Malaysia là bạn hàng lớn thứ hai của Việt Nam sau Singapore. Mặc dù có quan hệ ngoại giao với Việt Nam từ năm 1973, nhưng chỉ tới sau 1986 quan hệ kinh tế hai bên mới có sự khởi sắc (sau khi giải quyết vấn đề người tỵ nạn Việt Nam ở Malaysia và một số vấn đề khác). Với xu thế này kim ngạch buôn bán giữa hai nước tăng trung bình 20% năm. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hai nước năm 1991 là 87 triệu USD, 1992 tăng lên 134 triệu USD, tới 1995 tăng vọt với 350 triệu USD, (cán cân Thương mại năm 1992 nghiêng về phía ta và năm 1993 thì ngược lại). Việt Nam xuất sang Malaysia chủ yếu là nông sản, đồ gốm, sứ, đồ gỗ v.v... Đặc biệt Malaysia thoả thuận sẽ nhận nguồn gạo, được cung ứng đều đặn từ Việt Nam. Hàng xuất khẩu từ Malaysia vào Việt Nam gồm: hàng điện tử, dầu thực vật, hoá chất dẻo, vật liệu xây dựng, cacao và một số hàng tiêu dùng khác. Về đầu tư của Malaysia vào nước ta có sự tăng tiến đáng kể. Năm 1990 Malaysia mới đầu tư vào Việt Nam 0,1 triệu USD thì tới tháng 5 năm 1996 nước này đã đứng thứ 7 trong số các nhà đầu tư vào Việt Nam với 47 dự án, tổng vốn 94.849.254 USD và chủ yếu trong các lĩnh vực Việt Nam mong muốn (công nghiệp nhẹ gần 44% số dự án, 69% vốn đầu tư vào công nghiệp nặng, đầu tư xây dựng khu chế xuất nhà máy lọc dầu, nước sạch v.v...) Hầu hết các dự án của Malaysia là dưới hình thức 100% vốn nước ngoài hoặc liên doanh với Việt Nam đều triển khai đúng tiến độ, có hiệu quả và nhiều dự án đã đi vào hoạt động. Có thể nói quan hệ hợp tác kinh tế Việt Nam - Malaysia có rất nhiều cơ hội để phát triển, khả năng mở rộng hợp tác trên những lĩnh vực kinh tế mới đang trong tầm tay và đầy tính khả thi. 3.12-/ Hợp tác kinh tế Việt Nam - Thái Lan. Hiện nay Thái Lan đầu tư vào Việt Nam với hơn 60 dự án, tổng vốn đầu tư lên tới gần 450 triệu USD. Gần đây Thái Lan có 1 dự án đầu tư của tập đoàn SAS xây dựng khu đô thị Vân Trì - Hà Nội rộng 300 ha với mức vốn dự kiến ước khoảng 1 tỷ USD. Thái Lan chủ yếu đầu tư vào các dự án vừa và nhỏ, tham gia đầu tư vào các ngành công nghiệp chế tạo và dịch vụ kinh doanh. Các doanh nghiệp Thái Lan đầu tư vào Việt Nam tuy chịu tỷ lệ rủi ro cao (25% đổ vỡ) nhưng lại thu được hiệu quả kinh tế lớn (Ví dụ Công ty Việt Nam Live Stock Breeding đã kinh doanh có lãi với tổng thu đạt 461 VND - là Công ty Thái Lan làm ăn tốt nhất ở Việt Nam năm 1998) Quan hệ Thương mại hai chiều tăng lên nhanh chóng từ 70 triệu USD năm 1990 lên 500 triệu USD năm 1995. Thái Lan nhập từ Việt Nam các nguyên liệu thô chưa chế biến là chủ yếu và xuất sang ta hàng gia dụng gây khó khăn không ít cho nền sản xuất trong nước của ta. Trong quan hệ này tuy quy mô buôn bán có tăng nhưng tốc độ tăng trưởng xuất khẩu từ Việt Nam sang Thái Lan còn chậm dẫn đến tình trạng Việt Nam nhập siêu đối với Thái Lan vẫn bị duy trì gây khó khăn cho điều chỉnh cán cân Thương mại. Mặt khác, hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Thái Lan chỉ chiếm 1,5 - 2,5% tổng khối lượng xuất khẩu của Việt Nam (con số này của Thái Lan là 1%). Điều này chứng tỏ sự liên kết kinh tế của hai nước và mức độ phụ thuộc thị trường lẫn nhau còn lỏng lẻo. Vì vậy trên cơ sở nghiên cứu thị trường đề cao những giải pháp giải quyết. Cả hai nước phải tích cực cải cách, nâng cao tầm quan trọng của hai nền kinh tế, thúc đẩy mậu dịch và đầu tư giữa hai bên. * Trên đây là khái quát về các quan hệ kinh tế của Việt Nam với một số thành viên APEC là bạn hàng lâu dài và tiềm năng của Việt Nam. Các đối tác này nằm trong điều kiện thuận lợi để Việt Nam có thể tiếp tục hợp tác kinh tế và mở rộng thị trường mới. Tuy nhiên, trong APEC còn một số thành viên mà quan hệ thương mại đầu tư với họ chưa được khai thác đúng mức (VD: Canada; ChiLê) đúng với sức mạnh kinh tế của họ. Mặt khác cần phải quay lại hợp tác và đẩy mạnh quan hệ kinh tế với Nga, 1 thị trường mà ta đã khá quen biết. Mở rộng thị trường với các thành viên APEC mà ta hầu như chưa có quan hệ kinh tế (VD: Pêru) để có thể tiến tới hợp tác một cách toàn diện với toàn bộ các thành viên APEC phục vụ cho mục đích của ta và mục tiêu chúng của cả diễn đàn. 4-/ Việt Nam tham gia APEC Là một hành động đúng đắn, phù hợp với chủ trương của Đảng, đường lối cải cách kinh tế mở cửa của Việt Nam và phù hợp với xu thế chung của thế giới. APEC đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam, chiếm 80% kim ngạch ngoại thương, 76% đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và 50% viện trợ ODA vào Việt Nam. Thị trường APEC là nguồn cung cấp kỹ thuật vốn của công nghệ, có tính cạnh tranh cao. Vì thế Việt Nam cần tranh thủ các lợi thế này khi tham gia APEC. Tuy nhiên tham gia APEC không chỉ đem lại toàn thuận lợi cho kinh tế nước ta, bên cạnh đó còn có rất nhiều khó khăn mà chúng ta phải vượt qua. a-/ Các lợi ích có thể có khi tham gia APEC + Tham gia APEC là bước đi cơ bản để Việt Nam gia nhập WTO. Vì APEC giống WT ở chỗ đều nhằm thúc đẩy tự do hoá Thương mại, nhưng khác ở chỗ hoạt động của APEC có tính tự nguyện, không có cơ chế giải quyết tranh chấp, phạm vi hợp tác rộng và sâu hơn. (cả kinh tế và kỹ thuật). Khi tham gia hai tổ chức này nếu không đạt được mục tiêu của Việt Nam ở tổ chức này thì ta có thể vận dụng cơ chế của tổ chức kia để giải quyết. Việt Nam tham gia ASEAN APEC; WTO theo một tiến trình tạo điều kiện để Việt Nam có thể mở rộng hơn nữa quan hệ với các nước và khu vực khác nâng cao vị thế của ta trong quan hệ quốc tế, nhất là trong đàm phán đa phương về những lợi ích của ta. Đó là môi trường quốc tế quan trọng của chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo phương trâm dựa vào sức mình là chính tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế, xây dựng kinh tế mở hội nhập kinh tế quốc tế. + APEC là thị trường rộng lớn với 44% dân số thế giới, bao gồm trong đó một số thị trường lớn như: Nhật Bản, Trung Quốc, Mỹ... Thực sự là thị trường lớn cho việc tiêu thụ hàng hoá Việt Nam, nhiều nền kinh tế trong APEC còn là nguồn vốn, viện trợ chính thức cho Việt Nam và là nguồn chuyển giao công nghệ quan trọng. Tham gia APEC Việt Nam có điều kiện tốt để thực hiện việc mở rộng với các nền kinh tế thành viên Việt Nam tham gia vào các nền kinh tế thành viên Việt Nam tham gia vào APEC để hưởng các thuận lợi chung của các khu vực không phải để có những ưu đĩa đặc quyền. Những lợi ích chung có được ở đây là nhờ APEC thúc đẩy tự do hoá Thương mại và đầu tư với nội dung hạ thấp tiến tới dỡ bỏ hàng rào mậu dịch và phi mậu dịch (quan thuế, phi quan thuế) nhằm tạo điều kiện lưu chuyển thuận lợi và tự do cho sự chuyển lưu hàng hoá và dịch vụ trong khu vực. Tham gia APEC được hưởng các thuận lợi và tự do cho sự chuyển lưu hàng hoá và dịch vụ trong khu vực. Tham gia APEC được hưởng các thuận lợi chung đó chúng ta có thể thâm nhập vào thị trường các thành viên, tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp, mở rộng hợp tác kinh tế, tận dụng lợi thế so sánh để cạnh tranh và từ đó đẩy mạnh kinh tế trong nước, giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội và phát triển đất nước. Thông qua cơ chế hợp tác về khoa học kỹ thuật trong APEC chúng ta có thể tranh thủ được nhiều nguồn thông tin, học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến, tranh thủ các nguồn vốn kết hợp với khoa học và công nghệ hiện đại để phát triển sản xuất trong nước. Đó là cách để rút ngắn khoảng cách và tận dụng tri thức nhân loại. + Tham gia APEC, Việt Nam tham gia vào các cơ chế, các chương trình tự do hoá Thương mại và đầu tư trong khu vực. Điều này sẽ thúc đẩy quá trình điều chính đổi mới cơ chế chính sách, luật lệ và thực tiễn hoạt động kinh tế của nước ta, làm cho chúng năng động, hấp dẫn, cởi mở phù hợp với luật pháp quốc tế và các quy định của các tổ chức kinh tế, Thương mại đa phương. Nói cách khác, đó là tác nhân bên ngoài tạo động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới đất nước về mọi mặt trước hết là cải cách kinh tế và hành chính, tạo cho ta đủ sức mạnh tham gia vào cạnh trạnh quốc tế. Tham gia vào APEC các doanh nghiệp của chúng ta có điều kiện tiếp cận các thị trường lớn hơn trong APEC như Mỹ, Nhật, Trung Quốc .... Một cách bình đẳng đồng thời sẽ tạo vị thế mới cho Việt Nam để mở rộng hơn nữa buôn bán với EU và các khu vực khác trên thế giới. Hơn nữa, Việt Nam tham gia APEC còn tạo sức ép và động lực để các doanh nghiệp Việt Nam đổi mới toàn diện, nâng cao chất lượng hàng hoá, hạ giá thành để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế trên thị trường quốc tế. + Là thành viên ASEAN, AFTA, PECC, Việt Nam tham gia APEC sẽ tạo điều kiện để tiếp tục con đường đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ từng bước hội nhập vào khu vực và thế giới. Có thể coi đây là một bước tiến quan trọng liên quan tới cuộc đấu tranh cho một môi trường quốc tế thuận lợi để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Do thế lực của APEC ngày càng trở nên quan trọng có vị trí then chốt trong hợp tác khu vực, đồng thời đang có xu hướng vươn lên đóng vai trò quan trọng trong nền chính trị khu vực và toàn cầu, cho nền Việt Nam tham gia APEC sẽ tăng cường vị thế chính trị nước ta ở khu vực cũng như trên trường quốc tế, nhất là trong đàm phán đa phương về những vấn đề lợi ích của ta. Trên đây là những lợi ích kinh tế, chính trị mà Việt Nam có thể có khi tham gia APEC, song đó mới chỉ là khả năng. Việc tận dụng các lợi thế đó đến đâu phụ thuộc vào sự chuẩn bị, phát huy nội lực của nước ta để vượt qua những khó khăn của quá trình hội nhập. b-/ Những khó khăn cần phải khắc phục. Những khó khăn đối với Việt Nam khi tham gia APEC đều bắt nguồn từ sự chênh lệch về trình độ phát triển so với các nước thành viên khác, nhất là với các nước phát triển như Mỹ, úc, Nhật, Canada, và các nước NIE Đông á. Tuy sau một số năm tiến hành mở cửa Việt Nam đã nâng cao được đời sống nhân dân và củng cố được sức mạnh kinh tế của đất nước thêm một bước nhưng về cơ bản nước ta vẫn là một nước đang phát triển, có thu nhập thấp (thu nhập theo đầu người thuộc mức thấp nhất thế giới) và đang trong quá trình chuyển đổi kinh tế sang cơ chế thị trường. Vì những đặc điểm này nên nước ta gặp không ít khó khăn cần phải vượt qua để hội nhập kinh tế khu vực và thế giới có hiệu quả. + Các khó khăn do sự bất cập về cơ chế kinh tế. Hầu hết các nền kinh tế trong APEC đã vận hành theo cơ chế thị trường từ nhiều thập kỷ qua. Trong khi đó chúng ta mới có hơn 10 năm thực hiện cơ chế kinh tế này. Cho nên, nền kinh tế thị trường còn sơ khai, thị trường chưa phát triển, chính sách kinh tế chưa đồng bộ, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện. Chính những điểm đó là khác biệt và bất cập so với APEC. Chẳng hạn việc dành cho nhau quy chế tối huệ quốc (MFN) và đãi ngộ quốc gia (NT) trong quan hệ quốc tế là thông lệ phổ biến thì cho đến nay trong hệ thống luật Thương mại và đầu tư của chúng ta vẫn chưa có quy chế rõ ràng về vấn đề này. Việc tham gia APEC đòi hỏi chúng ta phải điều chỉnh đồng bộ và phù hợp các lĩnh vực trên, trên cơ sở đó có thể thực hiện các thoả thuận và mục tiêu của APEC, đó cngx là cơ sở để ta giành được các lợi ích trong khuôn khổ APEC và thực tế cho thấy chúng ta đã thực hiện nhiều hoạt động để điều chỉnh và đổi mới: trong lĩnh vực này. Nhưng cần phải có nhiều nỗ lực hơn nữa thì mới đưa Việt Nam thoát khỏi những khó khăn đó để đáp ứng được các yêu cầu của APEC. + Những khó khăn do sức cạnh tranh còn yếu. Tham gia vào APEC, Việt Nam tham gia vào một khuôn khổ hợp tác cạnh tranh quyết liệt. Do các hạn chế, nên chương trình tự do hoá Thương mại và đầu tư của APEC có thể dẫn tới những khó khăn phức tạp tạm thời về một số lợi ích kinh tế của ta. Trong khuôn khổ APEC các nước đã cam kết mở cửa thị trường nội địa của mình một cách tự nguyện theo các kế hoạch hành động riêng (IAP) đã được hội nghị cấp cao APEC thông qua nhằm tiến tới mục tiêu tự do hoá Thương mại và đầu tư của APEC vào năm 2010 và 2020. Với các biện pháp hạ thấp tiến tới bỏ dần các hàng rào thuế quan và phi thuế quan cho hàng hoá dịch vụ và đầu tư sẽ mở cửa cho các thành viên khác thâm nhập vào thị trường của Việt Nam. Trong khi đó nền kinh tế trong nước lại về sức cạnh tranh, thị trường nội địa, theo đó có thể thuộc về nước ngoài, các ngành sản xuất trong nước đi tới khả năng chết yểu, giảm khả năng thu ngân sách qua thuế của Nhà nước. Những khó khăn trong việc giành giật thị phần của các doanh nghiệp Việt Nam cả trong lẫn ngoài nước càng gay gắt hơn khi xem xét tương quan giữa các đối tác kinh tế trong khu vực. Hầu hết các thành viên APEC đều xác định xuất khẩu là chiến lược để phát triển kinh tế nên việc giành giật thị trường được họ thực hiện ráo diết. Việc có dành được thị trường nay không phụ thuộc rất nhiều vào tính năng động của doanh nghiệp Việt Nam, việc nắm bắt thời cơ và thay đổi sản xuất sẽ biến khó khăn thành lợi thế, tạo sức bật mới cho kinh tế nước ta. + Những khó khăn do sự yếu kém trong tiếp nhận các nguồn vốn và công nghệ: Luồng FDI và công nghệ chuyển giao vào Việt Nam là động lực tích cực để phát triển kinh tế. Bên cạnh đó nó cũng là một trong những yếu tố dẫn tới nhập siêu ở nước ta. Khi đưa các thiết bị đầu tư vào Việt Nam dưới hình thức được Nhà nước Việt Nam khuyến khích nhập khẩu các nhà đầu tư APEC nói riêng và thế giới nói chung mang vào Việt Nam các công nghệ lạc hậu, thậm chí còn tồi tệ hơn công nghệ của ta với giá cắt cổ, vô hình chung họ biến nước ta thành bãi rác chứa đựng công nghệ phế thải của họ, gây ô nhiễm môi trường, làm giảm khả năng cạnh tranh của các sản phẩm Việt Nam trên thế giới. Về vốn năm 1996 ta nhập 2 tỷ USD đầu tư FDI nhưng chỉ xuất được 780 triệu USD nhập siêu tới 1,220 tỷ USD. Những tháng đầu năm 1997 tình hình còn tồi tệ hơn với việc nhập siêu tới 600 triệu USD (xuất 160 triệu USD). Gia nhập APEC chúng ta phải tuân thủ các thoả thuận về tự do hoá các luồng đầu tư. Nếu không quản lý chặt chẽ, đổi mới cơ chế đầu tư và quản lý xuất nhập khẩu hàng hoá của các dự án có vốn đầu tư nước ngoài thì chúng ta rất dễ bị thua thiệt, có nguy cơ biến thành một con nợ nước ngoài chồng chất hoặc trở thành thị trường xuất khẩu ô nhiễm môi trường của các nước APEC. + Khó khăn do đội ngũ cán bộ. Khi tham gia APEC chúng ta thếu một đội ngũ cán bộ có năng lực để đảm đương các công việc phức tạp của quá trình gia nhập APEC và tham gia các hoạt động của tổ chức. Đội ngũ cán bộ của ta hiện nay có số lượng đông nhưng thực tế những người có đủ khả năng tham gia hợp tác lại rất ít. Việc đào tạo cán bộ để tham gia hợp tác quốc tế tốn rất nhiều thời gian và tài chính. Tuy nhiên trong quá trình hội nhập ASEAN (AFTA chúng ta đã dần tích luỹ được kinh nghiệm và đã xây dựng được một đội ngũ cán bộ có trình độ. Vấn đề cần giải quyết nữa là chúng ta quá thiếu cán bộ và thiếu hụt về tài chính để tham gia các cuộc họp của APEC (khoảng 200 cuộc họp hàng năm). Trước những khó khăn nêu trên cần có sự tháo gỡ ở tầm vĩ mô và vi mô, khơi dậy ý chí của giới doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả lãnh đạo và có nhận thức đúng về quá trình hội nhập bên cạnh đó cần phải bảo vệ mạnh mẽ quyền lợi của đất nước, của dân tộc thì mới có thể tận dụng lợi ích và vượt qua những khó khăn đó. III-/ Hợp tác kinh tế APEC - EU. Trong hoạt động kinh tế của mình APEC không chỉ có quan hệ với các tổ chức kinh tế của khu vực, các nền kinh tế thành viên mà còn có quan hệ với các thị trường lớn khác trên thế giới. Bạn hàng lớn của APEC ngoài khu vực phải kể tới EU với tư cách là đối tác lớn nhất về kinh tế ngoài khuôn khổ tổ chức của APEC. 1-/ Thực trạng hợp tác giữa EU và APEC. - Từ trước khi xuất hiện APEC năm 1988, Châu á đã có mối quan hệ hợp tác kinh tế mạnh với EU nhất là khi Đông á trở thành khu vực phát triển kinh tế năng động nhất trên thế giới.Từ năm1950 đến 1990, tỷ trọng của khu vực Đông á gồm: Nhật Bản, Hàn quốc,Trung quốc, Đài loan và các nước ASEAN trong tổng sản lượng toàn thế cầu đã tăng hơn hai lần lên tới 21% và trong cùng thời gian này thị phần của họ trong cơ cấu thương mại toàn cầu cũng tăng tới 22%.Hiện nay, Đông á đóng góp vào thương mại toàn cầu nhiều hơn cả Mỹ .Nếu coi EU là một khối thống nhất thì 6 trong 9 nền kinh tế xuất khẩu nhiều nhất tới EU là các nước Đông á và hiên nay Đông á chiếm khoảng 30% trong tỷ trọng xuất khẩu của toàn thế giới. Bảng 1 - Xuất khẩu giữa các khu vực năm 1965- 1995. Xuất khẩu Giá trị (tỷ USD) Tỷ trọng (%) Đến Từ Đông á NAFTA EU Phần còn lại của TQ Tổng giá trị xuất khẩu Đông á NAFTA EU Phần còn lại của TQ Tổng số Năm 1965 Đông á 0,0 3,8 2,1 3,8 9,7 0,0 39,6 21,3 39,1 100,0 EU 1,8 7,2 0,0 21,4 30,4 5,9 23,7 0,0 70,5 100,0 Năm 1995 Đông á 0,0 118,1 190,2 180,5 688,8 0,0 46,2 27,6 26,2 100,0 EU 161,4 154,4 0,0 441,0 756,9 21,3 20,4 0,0 58,3 100,0 Nguồn: Theo báo cáo số 25, tháng 3/98 của phòng kinh tế trung tâm nghiên cứu úc - Nhật, thuộc đại học tổng hợp Australia. Cùng với sự gia tăng nhanh chóng tốc độ tăng trưởng của Đông á, các quan hệ Thương mại giữa Đông á và EU ngày càng được củng cố và phát triển. Bảng 1 cho thấy tỷ trọng của Đông á trong tổng xuất khẩu của 15 nước tăng từ 6% năm 1965 lên tới 21% năm 1995. Cũng trong thời gian này, tỷ trọng của EU trong tổng giá trị xuất khẩu của Đông á cũng tăng lên từ 21,3% năm 1965 lên tới 27,6% năm 1995. Cơ cấu xuất khẩu của Đông á sang EU đã thay đổi từ xuất khẩu nguyên liệu sang EU, dần dần đã bắt đầu xuất khẩu các sản phẩm hàng hoá qua chế biến. Tỷ trọng hàng chế biến trong xuất khẩu của ASEAN sang EU đã tăng từ 70% năm 1990 lên 80% năm 1994. Mười năm trở lại đây dòng Thương mại và đầu tư giữa EU và Đông á đã tăng lên đáng kể. Thực tế tổng giá trị Thương mại giữa EU và Đông á đã lớn hơn so với Bắc Mỹ. Các quan hệ Thương mại song phương này đóng vai trò quan trọng đối với mỗi khu vực, đồng thời nó tác động mạnh tới nền kinh tế thế giới, làm thay đổi vị trí các trung tâm kinh tế lớn trên phạm vi toàn cầu. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ hiện nay đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới quan hệ kinh tế Thương mại giữa hai bên. Mặt khác các chương trình cải cách kinh tế vĩ mô, tự do hoá và mở rộng Thương mại đầy ấn tượng trước đó của khu vực Châu á - Thái Bình Dương đang bị thác thức bởi sự suy giảm mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế. Tuy gặp một số sự bất ổn định trong các nền kinh tế khu vực và phải gánh chịu những tác động của khủng hoảng nhưng hầu hết các nền kinh tế ở Đông á và khu vực Châu á - Thái Bình Dương đã không phản ứng theo xu hướng bảo hộ và tới giờ họ vẫn luôn giữ vững định hướng cải cách Thương mại và các chương trình nghị sự Thương mại của APEC vẫn được tiến hành cùng với các nước thành viên. Các chương trình nghị sự này còn được mở rộng ra cả các vấn đề về hợp tác tài chính khu vực và cải cách thị trường tài chính. 2-/ Những chính sách và giải pháp để thúc đẩy tiến trình hợp tác. - Trước xu hướng phát triển mạnh của APEC, EU đã phải điều chỉnh và tăng cường mở rộng quan hệ với APEC. Điều này được thể hiện tại Hội nghị thượng đỉnh các nguyên thủ quốc gia (ASEM) của 15 nước EU và 10 nước Châu á tổ chức lần đầu tại Băng Cốc vào năm 1996, mở ra một thời kỳ hợp tác mới giữa hai khu vực. Tiến trình ASEM ra đời đã hình thành nên một khuôn khổ hợp tác mới có tính đa phương, tập trung vào các vấn đề mà cả hai khu vực cùng quan tâm. Những định hướng hợp tác chính là: - Tăng cường đẩy mạnh hơn nữa tiến trình trao đổi Thương mại và đầu tư giữa hai khu vực mục tiêu của ASEM nhằm đơn giản hơn nữa trong đầu tư và mở ra xu hướng tự do Thương mại. ASEM cam kết tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi để gia tăng dòng vốn đầu tư hai chiều á - Âu, tạo ra các chương trình khuyến khích đầu tư giữa các nước thành viên, cải thiện chính sách và cơ chế, quy định về đầu tư trong khu vực. Trong Thương mại ASEM nhất trí cùng nhau tạo cơ sở để hiểu biết lẫn nhau giữa các thành viên trong lĩnh vực buôn bán và tìm hiểu thị trường có các biện pháp làm minh bạch rõ ràng đối với chính sách thông tin về Thương mại nhằm gia tăng các cơ hội kinh doanh giữa hai khu vực. Bên cạnh đó tiến trình ASEM còn cam kết sẽ giảm bớt các hàng rào mậu dịch và phi mậu dịch, đơn giản hoá thủ tục hải quan, tránh sự bóp méo thị trường để các nước có thể tham gia thị trường một cách tốt hơn, trên cơ sở đó sẽ khuyến khích hơn nữa các dòng Thương mại giữa hai khu vực. Một xu hướng nữa trong tiến trình ASEM là xúc tiến hợp tác tương hỗ giữa các doanh nghiệp trong khu vực tư nhân (trọng điểm là các doanh nghiệp vừa và nhỏ). Diễn đàn doanh nghiệp á - Âu đã ra đời trong khuôn khổ của chương trình này và được tổ chức định kỳ hàng năm nhằm tăng cường trao đổi ý kiến giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong các lĩnh vực kinh doanh Thương mại và đầu tư. Ngoài ra tiến trình ASEM cũng nhất trí trong việc tăng cường hơn nữa quá trình chuyển giao khoa học công nghệ giữa hai khu vực đặc biệt ưu tiên trong các lĩnh vực như: nông nghiệp, công nghệ thông tin và viễn thông. Trong tiến trình hợp tác APEC - EU vấn đề hợp tác phát triển nhân lực cũng được chú ý, quan tâm. Tóm lại, quan hệ hợp tác APEC - EU còn có nhiều tiềm năng và triển vọng để phát triển. Với chiều hướng các quan hệ hiện tại cho thấy trong tương lai hiệu quả kinh tế do nó đem lại sẽ có tính quyết định đối với sự thịnh vượng của cả hai khu vực. Chương III Châu á - Thái Bình Dương chiều hướng phát triển trong tương lai và một số kiến nghị xây dựng nhằm thực hiện có hiệu quả quan hệ kinh tế Việt Nam APEC Hai chục năm qua kinh tế APEC nói riêng và toàn bộ nền kinh tế Châu á - Thái Bình Dương nói chung có những bước tiến dài mà trong đó Đông á là trọng tâm của sự phát triển đó. Tương lai của Châu á - Thái Bình Dương phụ thuộc nhiều vào sự tăng trưởng thần kỳ của nền kinh tế Đông á. Đông á với diện tích trải dài từ Bắc xuống Nam bờ Tây Thái Bình Dương gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Việt Nam vv...Theo thống kê của ADB, 20 văm qua tỷ lệ tăng trưởng kinh tế của cả khu vực Đông á là 8% vượt xa mức 4,3% của các nước đang phát triển và 3% của các nước phát triển. Trong đó Trung Quốc là 8,6%. Thái Lan, Malaixia, Inđonexia, Philippin là 6,8% và Việt Nam liên tục đạt mức tăng trưởng 8%. Sự trấn hưng kinh tế Đông á đã xác định nó là trọng tâm, là động lực và là tương lai cho toàn bộ Châu á - Thái Bình Dương. I-/ Chiều hướng phát triển kinh tế Đông á thời gian tới, 1-/ Sự tăng trưởng của nền kinh tế Đông á: Xuất phát từ những nhân tố đã tạo nên sự phát triển của kinh tế Đông á trong hai ba thập kỷ qua, xu hướng toàn cầu hoá đời sống kinh tế và tập đoàn kinh tế khu vực và khả năng phục hồi kinh tế của các nên kinh tế mạnh của khu vực sau khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á 1997 - 1998. Chúng ta có thể tiên đoán được kinh tế Đông á sẽ tiếp tục phát triển thịnh vượng, vẫn thuộc khu vực phát triển kinh tế sôi động nhất thế giới. Tương lai đó thực sự tới với Đông á bởi vì ở khu vực này bao gồn các nền kinh tế năng động, có sự thích ứng cao và trong quá trình hợp tác kinh tế sự bổ xung lẫn nhau trong khu vực đã tạo ra cho khu vực này những điều kiện phát triển thuận lợi (Ví dụ: Nước Anh phải mất 58 năm để tiến hành công nghiệp hoá từ năm 1780, mới tăng gấp đôi được thu nhập đầu người thì Nhật Bản chỉ mất 34 năm từ 1885 và Inđonexia chỉ mất 17 năm kể từ 1968 và con số này còn ít hơn khi tính tới Hàn Quốc 11 năm, Trung Quốc 10 năm vv...) Các yếu tố để phát triển và duy trì sự tăng trưởng Đông á đều đáp ứng được (vốn, lao động, công nghệ, tài nguyên vv...). Với dân số chiếm 1/3 dân số thế giới, lực lượng lao động của khu vực này rất đông đảo, Đông á có nguồn vốn lớn do hầu hết các nền kinh tế trong khu vực đều có mức tích luỹ và tiết kiệm cao. (Ví dụ: Tỷ lệ tích luỹ trong GDP của Trung Quốc là khoảng 35%, của Thái Lan, Malaixia, Philippin, Inđonexia lf gần 30% vv...)Nguồn tài nguyên phong phú của Đông á tạo thuận lợi để phát triển quan trọng để duy trì và tiếp tục tăng trưởng và tận dụng công nghệ mới, đầu tư hiệu quả cho giáo dục, đào tạo và nghiên cứu. 2-/ Tăng nhanh tính tự chủ trong phát triển kinh tế khu vực Đông á. Sức mạnh kinh tế của Đông á sẽ tăng nhanh, nó được thể hiện qua hoạt động nâng cao tỷ lệ buôn bán trong khu vực, sự sôi động của hoạt động đầu tư quốc tế trong khu vực thông qua quá trình chuyển dịch và nâng cấp cơ cấu sản xuất, xây dựng kết cấu hạ tầng của các quốc gia trong khu vực, sự phụ thuộc của Đông á và thị trường Nhật Bản và Mỹ yếu đi mà ngược lại 2 thị trường này lại ngày càng phụ thuộc và các nước Đông á. Xu hướng này được xuất hiện do gần đây các nền kinh tế Đông á đều thực hiện chính sách buôn bán đa phương, đẩy mạnh buôn bán với các nước và khu vực láng giềng (tỷ trọng buôn bán nội bộ của Đông á tăng từ 31% trong giữa thập niên 80 trên 40%. Cùng với sự ra đời của AFTA và phát triển của AFTA buôn bán nội bộ khu vực sẽ có vị trí cao hơn. Sự phát triển kinh tế của các nước ASEAN và ANIE (Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Xingapo) làm Đông á không chỉ nhận nguồn FDI từ Nhật và Mỹ mà nguồn vốn từ các nước kinh tế mới nổi này sẽ dần lấn át các nguồn vốn cũ. Thật vậy nếu năm 1986 trong tổng FDI của Đông á, Mỹ và Nhật Bản chiếm hơn một nửa thì tỷ trọng này vào năm 1992 giảm suống còn 1/5 và ngược lại phần của các ANIES tăng lên 3/5.(ở Việt Nam trong những năm gần đây các ANIES đều thay nhau dẫn đầu về đầu tư FDI) 3-/ Đặc điểm tận dụng lợi thế đi sau trong phát triển kinh tế. Trên cơ sở thực tế phát triển của kinh tế Đông á, chúng ta thấy nổi bật hình thế nối tiếp của các nền kinh tế mở cửa ở những cung bậc khác nhau, có khả năng bổ xung và hỗ trợ tích cực lẫn nhau. Mô hình nối tiếp này được mô tả bằng Nhật Bản là nền kinh tế dẫn đầu sau đó là các ANIES , ASEAN và Trung Quốc đều là những thị trường khổng lồ, thể hiện tiềm năng và sức mạnh kinh tế Đông á. Trong khi đó các ANIES đang trên đà phát triển thành các nước và khu vực phát triển và các nước ASEAN cùng cố trở thành các ANIES Tốc độ phát triển hàng năm của các ANIES và ASEAN4 (ASEAN4 : Thái Lan, Malaixia, Inđonexia, Philippin) 1990 1991 1992 1993 1994 1995 ANIES ASEAN4 ANIES Và ASEAN4 6,9 8,1 7,3 7,4 6,6 7,1 5,6 6,2 5,8 6,1 6,7 6,3 7,4 7,5 7,4 7,0 7,9 7,3 Đơn vị % Việc ASEAN mở rộng thành 10 nước và đẩy nhanh thực hiện AFTA sẽ biến Đông Nam á thành thị trường rộng lớn, ảnh hưởng kinh tế của ASEAN với Đông á mạnh lên nhiều lần vì quy mô và tiềm năng của ASEAN lớn hơn nhiều so với các ANIES trước đây (chỉ 5 nước Inđonexia, Việt Nam, Philippin, Malaixia, Thái Lan đã có hơn 400 triệu dân và diện tích gấp 24 lần các ANIES , có các nguồn tài nguyên phong phú) và khi họ trở thành các NIEs thì ảnh hưởng của họ tới toàn Đông á sẽ mạnh hơn nhiều các ANIES trước đây. Công cuộc cải cách, mở cửa của Trung Quốc trong hơn 20 năm qua biến đại lục này thành thị trường hàng hoá và tư phản lớn nhất nhì thế giới, với sức mạnh kinh tế đứng thứ 4 toàn cầu và đây cũng là 1 cực ảnh hưởng tới kinh tế Đông á (mạnh hơn cả ASEAN). Vị trí này có được do Trung Quốc là thị trường hơn 1 tỷ dân gấp 3 lần ASEAN, diện tích đất đai cũng gấp 3 lần. Nếu Trung Quốc giữ được tốc độ tăng trưởng kinh tế 8,25% từ 1991 tới 2010 thì và năm 2010 GDP sẽ đạt hơn 8600 tỷ nhân dân tệ, 1,46 tỷ người Trung Quốc và 2010 sẽ có GDP bình quân 6000 tệ và sức mua, quy mô buôn bán của Trung Quốc chỉ đứng sau Mỹ và Nhật Bản. Với sức mạnh kinh tế ấy chắc chắn sẽ ảnh hưởng lớn tới kinh tế khu vực Đông á. 4-/ Triển vọng nhất thể hoá kinh tế Đông á Đông á hiện nay phát triển do các nước trong khu vực có sự sáng tạo ra thị trường mở, thông qua giao lưu hàng hoá, dịch vụ, tư bản, kỹ thuật trên nguyên tắc tự do buôn bán thông qua phát triển ổn định các quan hệ kinh tế trong nội bộ khu vực với nhau và thông qua sự tăng trưởng vượt bậc FDI. So với EU và AFTA, Đông á vẫn chưa hình thành được 1 thị trường chung lấy hiệp nghị giữANIES các chính phủ làm nền tảng quan hệ ở trạng thái lỏng lẻo này của Đông á đang bị thách thức bởi các tập đoàn kinh tế khu vực như NAFTA và EU. Để khắc phục tình trạng đó Đông á đã bắt đầu quan tâm tới chiều hướng nhất thể hoá kinh tế. Quá trình này có thể diễn ra ở từng khu vực nhỏ rồi tiến tới toàn khu vực. Hiện nay, đã có AFTA và trong tương lai với ASEAN 10, AFTA sẽ trở thành khu mậu dịch tự do Đông Nam á. Trong tương lai khu vực hợp tác kinh tế Đông - Bắc á có thể ra đời và hoạt động trong khuôn khổ APEC. Việc ra đời khu vực kinh tế Đông - Bắc á cùng hợp tác với NAFTA và AFTA sẽ thúc đẩy sự phát triển hợp tác kinh tế giữANIES các nước trong khu vực này( APEC sẽ có 3 tổ chức kinh tế hoạt động hợp tác trong khuôn khổ của diễn đàn) Vậy 1 thị trường chung Đông á có thể phát triển sớm trên cơ sở nhưng những điều kiện trong khu vực và thế giới và bản thân nó chưa phải và chưa thể là 1 tổ chức liên minh kinh tế - tiền tệ như EU, nó mới chỉ là hình thức nâng cao hơn sự hợp tác kinh tế phù hợp với quan hệ kinh tế hiện tại dựa trên cơ sở hiệp định giữa các chính phủ. Thị trường chung Đông á sẽ bắt đầu từ 1 số nước hạn chế với 1 số mục tiêu hạn chế, từng bước mở rộng, nâng cao thành một tổ chức nhất thể hoá kinh tế toàn khu vực (nó khác với thị trường chung Thái Bình Dương, một tổ chức quá rộng của APEC do Mỹ khởi xướng thành lập) 5-/ Từ động lực APEC tới tương lai hợp tác kinh tế APEC Các quan hệ kinh tế APEC trên cơ sở động lực mạnh mẽ của kinh tế Đông á và các khu vực khác sẽ có một tương lai đầy lạc quan. Trong một hai thập kỷ tới, nền kinh tế APEC thuận lợi hoá, tự do hoá đầu tư và tương mại sẽ được hình thành. Thương mại giữa các thị trường mở thành viên APEC được đẩy mạnh trên cơ sở việc dỡ bỏ các rào cản kinh tế. Nguồn đầu tư và viện trợ được chuyển dịch dễ ràng từ nền kinh tế này sang nền kinh tế khác. Có các kinh tế theo hướng bổ xung lẫn nhau giữa các thành viên APEC được triển khai có hiệu quả trên cơ sở các quan hệ kinh tế phát triển, vấn đề hợp tác khu vực về khoa học và công nghệ cũng được đẩy mạnh. Tính đối thoại hợp tác giữa các thành viên của diễn đàn ngày càng được thể hiện rõ và diễn đàn này sẽ thực sự là cầu nối để phát triển các quan hệ kinh tế và khoa học giữa các thành viên nhằm đạt tới sự phồn vinh về kinh tế ổn định về chính trị của toàn bộ khu vực Châu á - Thái Bình Dương. II-/ Một số kiến nghị để khai thác quan hệ kinh tế Việt Nam - APEC có hiệu quả. 1-/ Về xây dựng pháp luật Trước các khó khăn gặp phải trong quá trình hội nhập kinh tế APEC. Điều cần thiết nhất là Việt Nam phải có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, giữa các ngành pháp luật phải có sự tương hỗ nhằm tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung và hợp tác kinh tế APEC nói riêng, trên cơ sở đó bảo vệ quyền lợi của toàn dân. Việc xây dựng nội luật là công việc thuộc về chủ quyền tối cao của Việt Nam nhưng cần phải có sự tương hợp giữa nội luật và luật quốc tế và thông lệ quốc tế trong thương mại. Mục tiêu hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế là tạo ra một hành lang pháp lý rộng rãi, cởi mở tạo tính hấp dẫn để thu hút các đối tác kinh tế nước ngoài. Sự hấp dẫn này là điều các chủ thể kinh tế mong đợi nhất. Hiên nay, điều cần thiết phải đưa các văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ kinh tế lên thành các hình thức văn bản có tính chất pháp lý cao hơn và có hiệu lực pháp lý hơn. (Ví dụ: Đưa một số pháp lệnh điều chỉnh các quan hệ kinh tế thành pháp luật và đạo luật,...). Điểm đáng chú ý trong việc xây dựng pháp luật là cần tránh sự chồng chéo thẩm quyền giải quyết và phạm vi điều chỉnh, lưu ý tới tập quán quốc tế nhưng không dễ dãi tới mức gần như không có sự điều chỉnh. 2-/ Về thi hành và tuân thủ pháp luật: Song song với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật cần phải có một cơ chế thi hành áp dụng luật vào thực tế và nâng cao ý thức pháp luật của các chủ thể kinh tế trong nước, quốc tế, của toàn dân. Hiện nay hệ thống pháp luật của Việt Nam tuy chưa đạt sự hoàn hảo nhưng nếu được thi hành và tuân thủ nghiêm chỉnh thì nó sẽ hạn chế được rất nhiều tiêu cực và thiệt hại cho nền kinh tế quốc dân. Gần đây việc thi hành pháp luật một cách tuỳ tiện của các cán bộ có trách nhiệm đã gây tổn hại nghiêm trọng tới kinh tế trong nước, tạo cơ hội cho hàng ngoại chiếm lĩnh thị phần chèn ép các ngành sản xuất trong nước đã yếu càng yếu hơn (Ví dụ: các cán bộ thị trường, thuế một số tỉnh giáp biên giới Campuchia thu lệ phí buôn lậu, tạo điều kiện cho xe máy và nhiều hàng hoá khác trốn thuế ào ạt tuồn vào Việt Nam, hay hải quan một số tỉnh cố tình làm trái pháp luật để Tân Trường Sanh đưa hàng điện tử trốn thuế đè bẹp hàng trong nước, làm thiệt hại nghiêm trọng cho nguồn thu ngân sách Nhà nước,... và nhiều ví dụ khác). ở yếu tố con người, cụ thể là cán bộ các ngành chức năng đóng vai trò quan trọng, cần nâng cao tinh thần dân tộc, vì lợi ích quốc gia của các cán bộ Nhà nước có trách nhiệm bảo vệ pháp luật. Muốn vậy cần quan tâm giáo dục nâng tri thức và ý thức pháp luật cho họ, mặt khác cải thiện đời sống của cán bộ bảo vệ pháp luật. Về mặt tuân thủ pháp luật của chính các thành phần kinh tế trong nước còn nhiều điểm phải cải thiện. Hiện nay, vì lợi ích cục bộ của ngành, của cá nhân, đơn vị những người có trách nhiệm trong quan hệ kinh tế quốc tế đã phớt lờ lợi ích quốc gia, trực tiếp hay gián tiếp tiếp tay cho đối tác nước ngoài phá hoại kinh tế trong nước, tha hoá đội ngũ cán bộ nhà nước để trục lợi vô hình chung họ đã làm giảm sức mạnh, lợi thế so sánh và các tiêu đề để Việt Nam tham gia hội nhập quốc tế trong kinh tế. Vậy cần nâng cao ý thức của toàn dân trong việc tuân thủ pháp luật, trừng phạt nghiêm khắc những kẻ coi thường pháp luật, bán rẻ lợi ích của đất nước và dân tộc. ở đây phải ngăn chặn và giáo dục, quản lý chặt trẽ các đối tác nước ngoài, giám sát việc tuân theo pháp luật Việt Nam của họ để có những điều chỉnh kịp thời. 3/ Thực hiện các cải cách về thuế hải quan và các thủ tục hành chính khác cho phù hợp với tiến trình hội nhập. a-/ Cải cách chế độ thuế quan: Cần cải cách thuế quan theo bước đảm bảo được ổn định thu phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước bằng mức thuế hấp dẫn, tăng cường và thúc đẩy sản xuất xuất khẩu. Việc cải cách thuế quan phù hợp với chế độ của khu vực và khả năng quản lý thuế. Bên cạnh đó cần cải cách theo hướng đơn giản hoá các mức thuế xuất, giảm những thuế xuất cao, mở rộng diện tích chịu thuế. Thực hiện hoạt động tích cực giám sát, kiểm tra đối với các khoản thu nhập, hàng hoá trong hợp tác kinh tế quốc tế để đảm bảo tấn thu các khoản thuế, bổ xung tốt vào vào ngân sách Nhà nước. Điều cần nhất ở đấy là trang bị tốt kiến thức về hạch toán kinh tế cho cán bộ để có sự hiểu biết về kinh doanh, tránh sơ suất, bỏ sót trong công tác điều tra thuế. Đối với các thủ tục hành chính hiện nay còn nhiều khê nặng trong quan liêu giấy tờ. Các thủ tục chồng chéo lên nhau thiếu tính tương hỗ và thông suốt. Các nhà đầu tư rất ngại khi tiếp xúc với các thủ tục hành chính của ta. Tuy đã thực hiện thí điểm một cửa trong một vài năm gần đây nhưng hiệu quả chưa được như mong muốn. Sự lòng vòng của thủ tục sẽ đem lại sự phiền hà và tạo ra sự sách nhiễu và tham nhũng làm giảm nhiệt tình của các đối tác khi thực hiện hợp tác kinh tế ở Việt Nam. Trước mắt cần đơn giản hoá các thủ tục và giảm thời gian giải quyết các vấn đề liên quan đến Thương mại và đầu tư. Về vấn đề hải quan, hiện nay đang là tiêu điểm của dư luận. Cơ chế kiểm tra của hải quan còn nhiều sơ hở, tạo ra lỗ hổng để cho kẻ có cơ hội trục lợi, lũng đoạn kinh tế Việt Nam. Hoạt động của hải quan còn chưa theo kịp tốc độ lưu thông hàng hoá và Thương mại trong nước và quốc tế. Hậu quả là gây tồn đọng tại cửa khẩu một khối lượng lớn các tư liệu sản xuất và tiêu dùng do công tác kiểm hóa và cấp phép còn chậm và do thủ tục và sự tắc trách và cơ hội của cán bộ hải quan. Vì vậy, đổi mới công tác hải quan là trong những cải cách đầu tiên để hoà nhập vào APEC và kinh tế thế giới. 4-/ Các kiến nghị về các cải cách kinh tế a-/ Yêu cầu nâng cao tính cạnh tranh của thị trường nội địa. Khi mở cửa thị trường chúng ta vấp phải sự cạnh tranh của hàng hoá của các thành viên khác trong tổ chức và quốc tế ngay trên ttj trong nước và khi xuất khẩu hàng hoá đó lại phải chịu sự cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Trước sự cạnh tranh quyết liệt ta cần củng cố nội lực, nâng cao sức cạnh tranh của các ngành sản xuất và của nền kinh tế, giáo dục ý thức tiêu dùng hàng hoá nội địa. Để thực hiện điều đó cần tăng thị phần xuất khẩu của Việt Nam trong APEC thông qua một loạt các hoạt động như: nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành, cải tiến mẫu mã, nâng cao năng suất và hiệu quả sản xuất và cơ cấu lại mặt hàng xuất khẩu theo hướng xuất khẩu thành phẩm, xây dựng các nguồn hàng và chân hàng mới để đảm bảo cung cấp ổn định cho thị trường, đẩy mạnh tiếp thị hàng hoá Việt Nam, tạo độ tin cậy cho các đối tác nước ngoài đối với các doanh nghiệp trong nước và cơ bản là chống được việc buôn lậu hàng hoá vào Việt Nam. Việt Nam tham gia APEC trong điều kiện cạnh tranh gay gắt về thương mại và đầu tư trong khu vực và toàn cầu nền sản xuất non trẻ, do vậy phải có những bước đi thích hợp, kết hợp tự do hoá, thuận lợi hoá thương mại có kiểm soát và bảo hộ đúng mức nên công nghiệp non trẻ. Bởi vì nếu không có sự bảo vệ này khi thực hiện tháo rỡ hàng rào thương mại, hạ thấp và xoá bỏ các mức thuế thì nền sản xuất nước yếu hơn (như Việt Nam) trong quan hệ hợp tác kinh tế APEC sẽ bị sụp đổ. b-/ Kiến nghị cải cách hoạt động đầu tư và trao đổi công nghệ. Khi đầu tư vốn vào Việt Nam các nhà đầu tư nước ngoài thường có vốn thực hiện thấp hơn nhiều so với vốn đăng ký. Do vậy việc vay nợ là tất yếu, đầu tư kém hiệu quả có thể gây tình trạng nợ nần với nước ngoài (nếu vay vốn nước ngoài) hoặc làm thất thoát tiền của của Nhà nước (nếu vay của tổ chức tài chính trong nước, cần có quy định về các chi phí sản xuất, tránh tình trạng thua lỗ cho phía Việt Nam (ví dụ liên doanh Cô ca Cô la Chương Dương sau 6 tháng hoạt động, cho chi phí quảng cáo quá cao, sản phẩm bán thấp hơn giá trị thực đã lỗ tới 10 tỷ VND và phía Việt Nam buộc phải bán lại phần sở hữu của mình cho nước ngoài do không chịu nổi phàn lỗ phải gánh và không có thêm tiền bỏ vào liên doanh. Hiện nay các nhà đầu tư nước ngoài còn cảm thấy bất hợp lý về vai trò của đối tác Việt Nam. Trong liên doanh khi họ có những quyền phủ quyết không tương xứng với phần vốn của Việt Nam trong doanh nghiệp. Mặt khác cần thẩm định kỹ càngcác dự án đầu tư để đảm bảo tính khả thi tránh sự cấp phép cho những dự án có nguy cơ đổ vỡ cao ít thực tế, khi không triển khai được như dự án sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọn đối với đời sống người lao động và cơ cấu kinh tế của vùng dược đầu tư. ( ví dụ: sự bỏ ngang của Đài Loan với dự án trồng chuối trị giá 33 triệu USD sau 1-2 năm triển khai gây điêu đứng cho người nông dân). Các nhà quản lý vốn đầu tư Việt nam tham gia hợp tác liên doanh cần tỉnh táo, sử dụng nguồn vốn được giao có hiệu quả, bảo toàn được vốn. Khắc phục được những khó khăn và thực hiện được tứng biện páp quản lý tài chính. Để khắc phục tình trạng nhập khẩu công nghệ lạc hậu cần nâng cao vai trò của các cơ quan thẩm định có liên quan, cập nhật kiến thức về công nghệ cho cán bộ trực tiếp nghiên cứu thiết bị, đảm bảo thu mua công nghệ phù hợp với trình độ sản xuất của ta. 5-/ Yếu tố con người : Tất cả các biện pháp nhằm thúc đẩy thương mại, tăng cường hiệu quả hợp tác quốc tế muốn thực hiện được đều phải do các cán bộ và doanh nhân tiếp xúc với thị trường quốc tế. Tăng kinh phí để các bộ ngành hữu quan cử nhân viên, cán bộ tham gia các cuộc gặp mặt , hội họp trong APEC và các khối kinh tế khác tạo điều kiện để bảo vệ quyền lợi của Việt nam trên rường quốc tế va giới thiệu cho bạn bè về thế mạnh kinh tế cũng như cơ hội hợp tác tại Việt Nam. 6-/ Một số biện pháp hỗ trợ của Nhà nước đối với các doanh nghiệp. Tham gia APEC các doanh nghiệp Việt Nam là những ngời chịu sức ép đầu tiên. Các doanh nghiệp Việt Nam mới thoát khỏi cơ chế bao cấp đang gặp nhiều bỡ ngỡ khi bước vào nền kinh tế thị trường. Vì có cần thiết là phải có sự hỗ trợ của Nhà nước để tạo ra một sức manh đằng saucác doanh nghiệp nhằm đối chọi lại sức ép cạnh tranh của các nền kinh tế khu vực và thế giới. Nhà nước phả có biện pháp ngăn ngừa cạnh tranh không lành mạnh ngược đãi đối với hàng hoá dịch vụ và doanh nghiệp Việt Nam. - Cải cách về thị trường không chỉ do phía Việt Nam thực hiện mà cần đấu tranh để các thành viên khác trong APEC cùng phải mở cửa và tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào thị trường của họ. - Hỗ trợ đúng mức các doanh nghiệp Việt Nam thông qua một số biện pháp tích cực như tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại dưới nhiều hình thức dùng các công cụ tài trợ gián tiếp như tổ chức hệ thống thông tin, hỗ trợ tuyên truyền quảng cáo, can thiệp giải quyết vấn đề phát sinh xâm phạm quyền lợi hợp pháp do phía quốc tế. - Tạo thuận lợi về môi trường kinh doanh và thủ tục để doanh nghiệp Việt Nam nhanh chóng khai thác được lợi thế của quá trình hội nhập. - Đặc biệt Nhà nước cần đầu tư thông qua đào tạo và coi đây là chiến lược trong phát triển nhằm tạo ra một đội ngũ doanh nghiệp, thương nhân có bản lĩnh, tri thức khi tham gia cạnh tranh kinh tế quốc tế. Kết luận Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương là diễn đàn đối thoại tư vấn kinh tế của các thành viên. Với các nguyên tắc để thực hiện mục tiêu tự do hoá, thuận lợi hóa thương mại và đầu tư. APEC thực sự là cánh cửa mở ra các cơ hội hội nhập quốc tế cho nền kinh tế Việt Nam. Trong quá trình thực hiện hợp tác kinh tế với APEC Việt Nam cần phát huy tối đa sức mạnh bản thân để khai thác triệt để lợi ích của quá trình hội nhập, nghiên cứu rút kinh nghiệm từ những tiến bộ kinh tế, của các thành viênkhác, khắc phục những điểm còn yếu của kinh tế Việt Nam. Hợp tác kinh tế Việt Nam - APEC phải trên cơ sở bình đẳng bảo vệ chủ quyền quốc gia. Để thực hiện điều đó chúng ta cần tăng cường hợp tác song phương, đa phương với APEC, tham gia thực hiện các mục tiêu kinh tế của tổ chức một cách linh hoạt kết hợp thực hiện các mục tiêu chung các thành viên khác với cải cách kinh tế trong nước, kích thích phát triển các ngành có lợi thế so sánh, dần dần làm thăng bằng cán cân thương mại giữa Việt Nam và các nước APEC, Việt Nam cần hợp tác với các thành viên khác xây dựng chiến lược phát triển kinh tế vùng, kiến thiết một quy chế pháp lý để điều chỉnh các hoạt động hợp tác đảm bảo được quyền lợi của các bên. Hiện nay cơ chế hợp tác của APEC còn tương đối lỏng lẻo và nhiệm vụ của các thành viên trong đó Việt Nam là tăng cường, đoàn kết khu vực, xây dựng APEC thành một tổ chức có cơ cấu chặt chẽ, có sự ràng buộc pháp lý hơn nữa để tạo điều kiện thực hiện tốt các mục tiêu do APEC đặt ra: Đến đây khi hoàn thành bản chuyên đề này, em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới nhà trường, các thầy cô giáo, tới PTS. Nguyễn Thường Lạng tới các bạn những người đã giúp đỡ em trong quá trình học tập, trang bị cho em những kiến thức đầu tiên về kinh tế quốc tế, tạo cơ sở khoa học thực sự cho hoạt động công tác của em trong tương lai... Trong bản chuyên đề này còn rất nhiều khiếm khuyết hy vọng rằng sẽ nhận được sự góp ý của thầy cô và các bạn. Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docR0013.doc
Tài liệu liên quan