Đề tài Một số kiến nghị qua việc áp dụng chế độ hợp đồng kinh tế tại chi nhánh công ty Thái Bình Dương

Thẩm quyền ký kết hợp đồng kinh tế của chi nhánh: Chi nhánh Công ty Thái Bình Dương trực thuộc công ty Thái Bình Dương và được tổ chức theo hình thức kế toán độc lập nên chi nhánh có đủ tư cách pháp nhân. Vì vậy thẩm quyền ký kết HĐKT của chi nhánh là người đại diện cho chi nhánh đó là Giám đốc. Ngoài ra Giám đốc cũng có thể uỷ quyền ký kết cho người khác theo quy định của pháp luật. - Thẩm quyền ký kết HĐKT của các đối tác: Để hợp đồng được ký kết giữa chi nhánh với các đối tác là HĐKT thì đối tác của chi nhánh phải là pháp nhân hoặc cá nhân có đăng ký kinh doanh. Khi đó người có thẩm quyền thực hiện việc ký kết HĐKT với chi nhánh là người đại diện hợp pháp của doanh nghiệp đối tác hoặc người được người đại diện hợp pháp uỷ quyền bằng văn bản.

doc56 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1057 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số kiến nghị qua việc áp dụng chế độ hợp đồng kinh tế tại chi nhánh công ty Thái Bình Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c đã thoả thuận. - Điều khoản chất lượng. - Điều khoản giá cả. Ngoài ra hợp đồng kinh tế là sự thoả thuận của các bên về viềc thiết lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ của các bên trong hoạt động kinh doanh. Do đó nội dung của hợp đồng kinh tế trước hết là những điều khoản do các bên thoả thuận. Những điều khoản mà các bên đã thoả thuận đó là phát sinh thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của ác bên tham gia thoả thuận. Xuất phát từ nguyên tắc tự do hợp đồng trong nền kinh tế thị trường, pháp luật không giới hạn các điều khoản mà các bên đã ký kết hợp đồng thoả thuận với nhau. Nói như vậy không có nghĩa là các bên thoả thuận như thế nào được, các bên có quyền thoả thuận nhưng những thoả thuận đó không được trái với pháp luật thì mới có hiệu lực và được pháp luật bảo vệ. Do đó yêu cầu đặt ra là nội dung của hợp đồng kinh tế phải hợp pháp, có khả năng thực hiện, các điều khoản của hợp đồng phải rõ ràng cụ thể. Trong trường hợp cần thiết, Nhà nước vẫn có quyền can thiệp vào nội dung của quan hệ hợp đồng. Chẳng hạn buộc các bên ký kết hợp đồng phải tuân theo những quy định bắt buộc về chất lượng sản phẩm để đảm bảo an toàncho người tiêu dùng. Như vậy, nội dung của hợp đồng kinh tế không chỉ là những điều khoản mà các bên thoả thuận mà còn có thể bao gồm cả những điều khoản mà các bên không thoả thuận nhưng theo dquy định của pháp luật các bên có nghĩa vụ thực hiện. Bởi vì quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng không chỉ phát sinh từ những điều khoản mà các bên thoả thuận mà còn có thể phát sinh từ những quy định pháp luật. Trong Thứ hai: điều khoản thường lệ, là những điều khoản đã được pháp luật ghi nhận, nếu các bên không ghi vào các văn bản hợp đồng thì coi như các bên đã mặc nhiên công nhận và có nghĩa vụ thực hiện những quy định đó. Nếu các bên thoả thuận ghi vào văn bản hợp đồng thì không được ghi trái với những điều đã quy đinh đó, nếu thoả thuận trái pháp luật thi những thoả thuận đó không có giá trị. Những quy định của pháp luật sẽ trở thành nội dung của hợp đồng kinh tế thay vào những điều khoản các bên đã thoả thuận trái đó. Do đó, các bên phải thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ quy phạm pháp luật có liên quan. Ví dụ: điều khoản về bối thường thiệt hại, về khung phạt vi phạm hợp đồng kinh tế, điều khoản về bảo hành. Trong hợp đồng có thể các bên không thoả thuận về điều khoản bảo hành nhưng bên bán vẫn có nghĩa vụ phải bảo hành nếu có quy định của Nhà nước về bảo hành sản phẩm đó. Bên bán không thể viện cớ là trong hợp đồng hai bên không thoả thuận về điều khoản bảo hành để trốn trách nhiệm bảo hành. Qua đây chúng ta càng thấy rõ hơn nội dung của hợp đồng kinh tế không chỉ bao gồm những điều khoản mà các bên đã thỏa thuận mà còn có thể bao gồm cả những điều khoản mà các bên không thoả thuận, nhưng theo quy định của Pháp luật, các bên có nghĩa vụ phải thực hiện. Trong mối quan hệ giữa các điều khoản chủ yếu và điều khoản thường lệ của hợp đồng kinh tế thì sự tồn tại của hợp đồng kinh tế không phụ thuộc vào các điều khoản thường lệ mà chỉ phụ thuộc vào các điều khoản chủ yếu. Hai bên không thoả thuận về những điều khoản thường lệ thì hợp đồng kinh tế vẫn cứ hình thành và làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên. Thứ ba: điều khoản tuỳ nghi là những điều khoản do các bên tự thoả thuận với nhau khi pháp luật cho phép. Khi một quy phạm pháp luật quy định các bên có thoả thuận về vấn đề này hay vấn đề khác thì các bên có thể thoả thuận hoặc không thoả thuận. Nếu các bên thoả thuận đó là nội dung của hợp đồng các bên phải có trách nhiệm thực hiện. Còn nếu các bên không thoả thuận thì các bên không phải thực hiện. Ví dụ: điều khoản thưởngvật chất, điều khoảm áp dụng mức phạt cụ thể khi vi phạm các điều khoản của hợp đồng trogn khung phạt mà pháp luật đã quy định. Theo pháp luật về hợp đồng kinh tế của nước ta hiện nay thì những thoả thuận về biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng (cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, bảo lãnh tài sản, thoả thuận về tiền thưởng do thực hiện tốt hợp đồng) là những điều khoản tuy nghi. Những điều khoản này chỉ trở thành nội dung hợp đồng nếu các bên trực tiếp thoả thuận với nhau. Về điều khoản thưởng do thực hiện tốt hợp đồng cần phải xem xét them. Khái niệm, “thực hiện tốt hợp đồng” theo chúng tôi là một khái niệm không có cơ sở khoa học. Thế nào là thực hiên tốt hợp đồng? Sau khi hợp đồng được ký kết và có hiệu lực các bên phải thực hiện đúng hợp đồng và nếu thực hiện đúng hợp đồng là bình thường. Còn nếu các bên thực hiện không đúng, không đầy đủ hoặc không là nghĩa vụ của các bên, do đó nó hoàn toàn là bình thường, chẳng có lý do gì để thưởng cả, còn bên nào vi phạm hợp đồng thì phải chịu trách nhiệm vật chất (phạt hợp đồng và bồi thường thiệt hại nếu có). Trong hợp đồng kinh tế, hàng hoá được trao đổi ngang giá, do đó điều khoản thưởng phạt tronh hợp đồng kinh tế là vô lý, trái với quy luật kinh tế. Bởi vì giá cả trong hợp đồng đã chịu sự tác động khách quan của quy luật giá trị và quy luật cung cầu của thị trường. Nếu cộng thêm khoản tiền thưởng nó sẽ phá vỡ quy luật trao đổi hàng hoá trên cơ sở ngang giá. Trong quan hệ hợp đồng kinh tế giữa các chủ doanh nghiệp tư nhân với nhau hoặc giữa các doanh nghiệp ngoài khu vực kinh tế quốc doanh, nếu họ thoả thuận thưởng cho nhau thì đó là việc của họ. Điều vô lý đó không ảnh hưởng đến lợi ích của ai nên pháp luật cũng không can thiệp. Nhưng trong quan hệ hợp đồng giữa các doanh nghiệp Nhà nước với nhau hoặc giữa doanh nghiệp Nhà nước với doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác thì không nên có điều khoản tuỳ nghi này. Vì sự “tuỳ nghi” đó có thể dẫn đến sự “tuỳ tiện” làm thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước. Nói tóm lại các điều khoản của hợp đồng là do các bên thoả thuận, pháp luật không hạn chế các điều khoản mà các bên thoả thuận, miễn là những thoả thuận đó không phải trái pháp luật. Pháp luật chỉ quy định những điều khoản tối thiểu phải có để chứng tỏ giữa các bên có quan hệ hợp đồng. Những điều khoản tối thiểu đó là những điều khỏan chủ yếu của hợp đồng. Tuy nhiên, về từng khía cạnh cụ thể cần có những hiểu biết và kinh nghiệm sâu sắc đặc biệt về chủ thể hợp đồng, về hình thức, về nội dung hợp đồng như tiêu đề trình bày. 5. Thủ tục ký kết hợp đồng kinh tế. Để xác lập một quan hệ hợp đồng kinh tế có hiệu lực pháp lý, các bên có thể lựa chọn một trong hai cách ký kết hợp đồng kinh tế như sau: a. Ký kết hợp đồng bằng phương pháp ký trực tiếp là cách ký đơn giản. Hợp đồng kinh tế được hình thành một cách nhanh chóng. Khi ký kết bằng cách này, đại diện hợp pháp của các bên trực tiếp gặp nhau bàn bạc, thoả thuận, thống nhất ý chí để xác định các điều khoản của hợp đồng và cùng ký vào bản hợp đồng b. Ký kết hợp đồng bằng phương pháp ký gián tiếp là cách ký kết mà trong đó các bên tiến hành gửi cho nhau các tài liệu giao dịch ( công văn, điện báo, đơn chào hàng, đơn đặt hàng ) chứa đựng nội dung cần giao dịch. Việc ký kết hợp đồng kinh tế bằng phương pháp ký gián tiếp đòi hỏi phải tuân theo trình tự nhất định, thông thường trình tự này ít nhất cũng gồm hai bước: -Bước một: Một bên lập dự thảo ( đề nghị ) hợp đồng trong đó đưa ra những yêu cầu về nội dung giao dịch ( tên hàng hoặc công việc, số lượng, chất lượng, thời gian, địa điểm, phương thức giao nhận, thời hạn thanh toán... và gửi cho bên kia ). -Bước hai: Bên nhận được đề nghị hợp đồng tiến hành trả lời cho bên đề nghị hợp đồng bằng văn bản, trong đó ghi rõ nội dung chấp nhận, nội dung không chấp nhận, những đề nghị bổ sung... Trong trường hợp ký kết theo cách ký gián tiếp, hợp đồng kinh tế được coi là hình thành và có giá trị pháp lý từ khi các bên nhận được tài liệu giao dịch thể hiện sự thoả thuận xong những điều khoản chủ yếu của hợp đồng Dù ký kết bằng phương pháp ký trực tiếp hay gián tiếp, những hợp đồng kinh tế được hình thành đều có hiệu lực pháp lý như nhau và các bên đều phải nghiêm chỉnh thực hiện các điều khoản đã cam kết. Để cho hợp đồng kinh tế có hiệu lực, việc thoả thuận của các bên phải đảm bảo những điều kiện sau: - Nội dung thoả thuận không vi phạm pháp luật; - Phải đảm bảo điều kiện chủ thể của hợp đồng; - Đại diện ký kết hợp đồng phải đúng thẩm quyền Nếu không đảm bảo một trong các điều kiện này, hợp đồng sẽ trở thành vô hiệu. Mỗi cách ký kết đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng của nó, lựa chọn cách nào là quyền của các chủ thể ký kết, song việc lựa chọn luôn luôn phải tính đến hiệu quả kinh tế, thời cơ kinh doanh. Các chủ thể cũng có thể kết hợp cả hai phương pháp ký kết để xác lập một quan hệ hợp đồng kinh tế. III. Chế độ thực hiện hợp đồng kinh tế 1. Nguyên tắc thực hiện hợp đồng kinh tế: Sau khi ký hợp đồng kinh tế và hợp đồng kinh tế có hiệu lực, các bên bị ràng buộc vào trách nhiệm thực hiện các cam kết trong hợp đồng. Mọi hành vi không thực hiện hợp đồng và thực hiện không đầy đủ đều được coi là vi phạm hợp đồng và chịu trách nhiệm vật chất. Để cho hợp đồng được thực hiện một cách đầy đủ và đúng đòi hỏi các bên phải tuân thủ các nguyên tắc sau đây: -Nguyên tắc chấp hành hiện thực: Chấp hành hiện thực hợp đồng là chấp hành đúng đói tượng hợp đồng, không được tự ý thay đổi đối tượng này bằng một đối tượng khác hoặc không được thay thế việc thực hiện nó. Nguyên tắc này đòi hỏi thoả thuận cái gì thì thực hiện đúng cái đó. -Nguyên tắc chấp hành đúng: Thực hiện hợp đồng một cách đầy đủ và chính xác tất cả các điều khoản đã thoả thuận trong hợp đồng. Theo nghĩa này, đây là nguyên tắc bao trùm, rộng hơn nguyên tắc hiện thực. Nguyên tắc chấp hành đúng đòi hỏi các bên thực hiện nghĩa vụ của mình một cách đầy đủ đúng đắn, chính xác cam kết không phân biệt điều khoản chủ yếu, điều khoản thường lệ hay tuỳ nghi. Nếu vi phạm bất cứ cam kết nào trong hợp đồng đều phải chịu trách nhiệm vật chất cho hành vi đó. -Nguyên tác hợp tác, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau trên cơ sở hai bên cùng có lợi. Nguyên tắc này đòi hỏi các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế phải hợp tác chặt chẽ, thường xuyên theo dõi giúp đỡ lẫn nhau để khắc phục khó khăn nhằm thực hiện nghiêm chỉnh các nghĩa vụ đã cam kết và ngay cả khi có tranh chấp, các bên cũng phải áp dụng phương pháp này thông qua việc hiệp thương giải quyết hậu quả của việc vi phạm hợp đồng kinh tế. Nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng trog việc phòng ngừa và giải quyết kịp thời các tranh chấp hợp đồng kinh tế nhằm bảo đảm lợi ích các bên. 2. Biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng: Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/09/1989 Nghị định số 17/HĐBT ngày 16/01/1990 của Hội đồng Bộ trưởng quy đinh chi tiết thi hành Pháp lệnh về hợp đồng kinh tế có nêu ra các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng. Thế chấp tài sản, cầm cố tài sản, bảo lãnh tài sản. Đây là những biện pháp bảo đảm mang tính chất kinh tế thường được chủ thể áp dụng. - Thế chấp tài sản: Thế chấp tài sản là dùng số động sản, bất động sản hoặc giá trị tài sản khác thuộc quyền sở hữu của mình để bảo đảm tài sản cho việc thực hiện hợp đồng kinh tế đã ký kết. Việc thế chấp tài sản phải được lập thành văn bản (văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính) và phải có sự xác nhận của cơ quan công chứng Nhà nước hoặc cơ quan có thẩm quyền đăng ký kinh doanh (trường hợp không có cơ quan công chứng) Người thế chấp tài sản có nghĩa vụ bảo đảm nguyên giá trị của tài sản thế chấp, không được chuyển dịch sở hữu hoặc chuyển giao tài sản đó cho người khác trong văn bản thế chấp còn hiệu lực. - Cầm cố tài sản: Cầm cố tài sản là trao đổi tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho người cùng quan hệ hợp đồng kinh tế để làm tin và đảm bảo tài sản trong trường hợp vi phạm hợp đồng kinh tế đã ký kết. Việc cầm cố phải đượclập thành văn bản riêng có chữ ký của các bên, có sự xác nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền như trường hợp thế chấp tài sản. Người giữ vật cầm cố có nghĩa vụ bảo đảm nguyên giá trị của vật cầm cố và không được chuyển giao vật cầm cố cho người khác trong thời gian văn bản cầm cố còn có hiệu lực. - Bảo lãnh tài sản Là sự đảm bảo bằng tài sản thuộc quyền sở hữu của người nhận bảo lãnhđể chịu trách nhiệm tài sản thay cho người được bảo lãnh khi người này vi phạm hợp đồng kinh tế đã ký kết. Người nhận bảo lãnh phải có số tài sản không ít hơn số tài sản mà người đó nhận bảo lãnh. Việc bảo lãnh tài sản phải được làm thành văn bản, có sự xác nhận về tài sản của ngân hàng nơi người bảo lãnh giao dịch của cơ quan công chứng Nhà nước hoặc cơ quan có thẩm quyền đăng ký kinh doanh (trường hợp không có cơ quan công chứng Nhà nước). Việc xử lý các tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh khi có vi phạm hợp đồng kinh tế được thực hiện cùng với việc giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế tại cơ quan có thẩm quyền. Đó là Toà án kinh tế hoặc các trung tâm Trọng tài kinh tế phi Chính phủ. So với pháp luật về hợp đồng kinh tế trước đây, Bộ luật dân sự quy định về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự một cách chặt chẽ và đầy đủ hơn. Các biện pháp đảm bảo trong Bộ luật dân sự phong phú hơn. 3. Thay đổi đình chỉ thanh lý hợp đồng kinh tế -Thay đổi hợp đồng kinh tế là việc sửa đổi, bổ sung một số điểm của nội dung của hợp đồng kinh tế ch o phù hợp với nhiệm vụ kế hoạch sản xuất kinh doanh của các bên hoặc là sự thay đổi chủ thể hợp đồng. Khi có sự chuyển giao một phần hoặc toàn bộ nhiệm vụ sản xuất kinh doanh từ một chủ thể hợp đồng kinh tế sang một pháp nhân hay cá nhân có đăng ký kinh doanh. Việc sửa đổi hợp đồng kinh tế có mục đích giúp các bên khắc phục các thiếu sót trong ký kết hợp đồng các bên gặp phải hoặc nhằm khắc phục hậu quả của nguyên nhân khách quan. hợp đồng kinh tế chỉ thay đổi khi các bên thống nhất ý chí bằng văn bản. -Đình chỉ thực hiện hợp đồng kinh tế là sự chấm dứt nửa chừng việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia trong hợp đồng kinh tế. Khi một bên vi phạm hợp đồng kinh tế và đã thừa nhận sự vi phạm đó hoặc đã được cơ quan, tổ chức, toà án có thẩm quyền kết luận là có vi phạm, bên bị vi phạm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng kinh tế đó, nếu việc tiếp tục thực hiện hợp đồng kinh tế không có lợi cho mình. Bên đương phương đình chỉ phải thông báo cho bên vi phạm biết bằng văn bản và văn bản đó phải gửi cho bên vi phạm biết trong thời gian 10 ngày, kể từ ngày bên vi phạm thừa nhận vi phạm hoặc có kết luận của cơ quan toà án có thẩm quyền. Hợp đồng kinh tế có thể bị huỷ bỏ khi các bên thoả thuận với nhau bằng văn bản. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng hợp đồng kinh tế có thể bị huỷ bỏ không phải có sự thống nhất ý chí của các bên mà do ý chí của cơ quan toà án có thẩm quyền bắt buộc. -Thanh lý hợp đồng kinh tế là hành vi của chủ thể hợp đồng kinh tế nhằm kết thúc quan hệ hợp đồng kinh tế. Đê r đạt được mục đích đó, trong quá trình thanh lý hợp đồng kinh tế các bên phải gặp nhau giải quyết những tồn đọng, đánh giá những kết quả đạt được hoặc chưa đạt được để xác định quyền và và nghĩa vụ của các bên, thanh lý hợp đồng vừa là nghĩa vụ vừa là quyền của các bên. 4. Hợp đồng kinh tế vô hiệu và xử lý hợp đồng kinh tế vô hiệu: Một hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu khi hợp đồng kinh tế đó ký kết trái với những quy định của pháp luật. Những nội dung về quyền và nghĩa vụ của các bên được xác lập trái với những quy định của pháp luật thì không có hiệu lực thực hiện. Có 2 loại hợp đồng kinh tế vô hiệu là hợp đồng kinh tế vô hiệu toàn bộ và hợp đồng kinh tế vô hiệu từng phần. Việc kết luận hợp đồng kinh tế vô hiệu toàn bộ hay từng phần thuộc thẩm quyền của toà án kinh tế. a. Hợp đồng kinh tế vô hiệu toàn bộ: Những hợp đồng kinh tế nào có một trong các nội dung sau đây thì bị coi là vô hiệu toàn bộ ngay từ khi ký hợp đồng kinh tế được hình thành. - Nội dung của hợp đồng kinh tế vi phạm điều cấm của pháp luật. Ví dụ các bên thoả thuận sản xuất, tiêu thụ hàng giả, mua bán vận chuyển hàng cấm. - Không đảm bảo tư cách chủ thể của quan hệ hợp đồng, một trong các bên đã ký kết hợp đồng không có giấy phép đăng ký kinh doanh, theo quy định của pháp luật để thực hiện công việc đã thoả thuận trong hợp đồng. Nếu pháp luật quy định để thực hiện công việc đó đòi hỏi cả hai bên phải có đăng ký kinh doanh mà một trong các bên không có đăng ký kinh doanh thì hợp đồng kinh tế đó bị coi là vô hiệu toàn bộ. Nếu pháp luật chỉ cần có một bên có đăng ký kinh doanh (ví dụ: bên bán, bên làm dịch vụ, bên nhận thầu, bên chủ phương tiện vận tải...) mà bên đó không có đăng ký kinh doanh thì hợp đồng đó cũng bị coi là vô hiệu toàn bộ. - Người ký kết hợp đồng không đúng thẩm quyền hoặc có hành vi lừa đảo. Người ký kết hợp đồng đúng thẩm quyền tức là người đó không phải là đại diện hợp pháp; không phải là người được uỷ quyền hoặc được uỷ quyền nhưng vượt quá phạm vi uỷ quyền đó. Khi người ký kết hợp đồng có hành vi lừa đảo như giả danh, giả mạo giấy tờ, chữ ký, con dấu, thì hợp đồng đó được coi là vô hiệu toàn bộ. b. Hợp đồng kinh tế vô hiệu từng phần: Những hợp đồng kinh tế có nội dung vi phạm một phần điều cấm của pháp luật nhưng không ảnh hưởng đến các phần còn lại của hợp đồng thì bị coi là vô hiệu từng phần tức là chỉ vô hiệu những phần thoả thuận trái pháp luật, còn những phần khác vẫn có hiệu lực pháp luật. Theo khoản 2 Điều 8 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định: “Hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu từng phần khi nội dung của phần đó vi phạm điều cấm của luật, nhưng không ảnh hưởng đến nội dung các phần cònlại của hợp đồng” Trong trường hợp, hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu từng phần thì các bên phải sửa đổi điều khoản trái pháp luật, khôi phục các quyền và lợi ích ban đầu, đồng thời có thể bị xử lý theo các quy định của pháp luật đối với phần vô hiệu đó. * Nguyên tắc xử lý hợp đồng kinh tế vô hiệu. Hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu khi hợp đồng đó ký kết trái với quy định của pháp luật. Đối với các hợp đồng kinh tế vô hiệu toàn bộ, dù các bên chưa thực hiện, đang thực hiện hoặc đã thực hiện xong đều bị xử lý theo quy định của pháp luật. - Nếu nội dung của hợp đồng chưa thực hiện thì các bên không được thực hiện nữa. - Nếu nội dung của hợp đồng đang thực hiện hoặc đã thực hiện xong thì bị xử lý tài sản như sau; các bên phải hoàn trả cho nhau tất cả tài sản đã nhận được từ việc thực hiện hợp đồng; thu nhập từ việc thực hiện hợp đồng thì phải nộp vào ngân sách nhà nước, thiệt hại phát sinh thì các bên phải gánh chịu. - Người ký kết hợp đồng kinh tế vô hiệu toàn bộ, người cố ý thực hiện hợp đồng kinh tế vô hiệu toàn bộ thì tuỳ theo mức độ vi phạm và bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Trường hợp hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu từng phần thì các bên phải sửa đổi các điều khoản trái pháp luật, khôi phục các quyền và lợi ích ban đầu và bị xử lý theo pháp luật đối với phần vô hiệu đó. IV. Trách nhiệm vật chất trong quan hệ hợp đồng kinh tế 1. Khái niệm và ý nghĩa của trách nhiệm vật chất Trách nhiệm vật chất là biện pháp pháp lý áp dụng cho các vi phạm hợp đồng kinh tế đã được quy định sẵn trong pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định và các văn bản khác. Điều 29 pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định: Các bên phải chịu trách nhiệm tài sản với nhau về việc không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ hợp đồng kinh tế. Bên vi phạm phải trả cho bên bị vi phạm tiền phạt vi phạm hợp đồng và trong trường hợp có thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp lệnh. Qua quy định trên người ta hiểu rõ trách nhiệm vật chất ở hai góc độ: +Dưới góc độ khách quan: Trách nhiệm vật chất trong quan hệ hợp đồng kinh tế là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh nhóm quan hệ xã hội giữa các chủ thể trong hợp đồng kinh tế phát sinh do vi phạm chế độ hợp đồng kinh tế. Theo nghĩa này, trách nhiệm vật chất chứa đựng nội dung kinh tế thể hiện ở khoản tiền phạt và tiền bồi thường thiệt hại. Đó là hậu quả vật chất bất lợi mà bên vi phạm hợp đồng phải gánh chịu. +Dưới góc độ chủ quan: Trách nhiệm vật chất được biểu hiện là sự gánh chịu những hậu quả vật chất bất lợi của bên vi phạm hợp đồng mà đã đươcj pháp luật quy định, thể hiện dưới 2 hình thức phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại. Hai hình thức này còn gọi là chế tài Trách nhiệm vật chất, bộ phận không thể thiếu được của một quy phạm pháp luật hợp đồng kinh tế. 2. Căn cứ làm phát sinh trách nhiệm vật chất Bên bị vi phạm hợp đồng kinh tế và cơ quan tài phán kinh tế chỉ có thể áp dụng trách nhiệm vật chất đối với bên vi phạm hợp đồng kinh tế khi có các căn cứ sau đây: -Có hành vi vi phạm hợp đồng kinh tế -Có thiệt hại thực tế xảy ra -Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại thực tế -Có lỗi của bên vi phạm Hành vi vi phạm hợp đồng kinh tế là các hành vi vi phạm các cam kết trong hợp đồng kinh tế. Chúng thường thể hiện dưới dạng là không thực hiện, hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các cam kết trong hợp đồng kinh tế. Để đòi bồi thường thiệt hại, bên bị vi phạm phải chứng minh được bên vi phạm đã gây ra thiệt hại cho mình. Những thiệt hại đó là thiệt hại về vật chất và thực tế tính toán được. Thiệt hại này phải chính do sự vi phạm hợp đồng gây nên hay nói cách khác nó là hậu quả của hành vi vi phạm hợp đồng kinh tế của bên vi phạm gây ra. Trong quan hệ hợp đồng kinh tế lỗi để áp dụng trách nhiệm vật chất là lỗi suy đoán nghĩa là có hành vi vi phạm hợp đồng kinh tế mà không có yếu tố khách quan tác động vào thì coi là có lỗi. Nếu hành vi vi phạm hợp đồng kinh tế đo do nguyên nhân khách quan gây ra thì ben vi phạm được miễn trách nhiệm vật chất 3. Các hình thức trách nhiệm vật chất Từ khái niệm trách nhiệm vật chất trong quan hệ hợp đồng kinh tế có thấy hình thức trách nhiệm vật chất gồm: Phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại. -Phạt vi phạm hợp đồng kinh tế là chế tài tiền lệ được xác định trước áp dụng đối với bên vi phạm hợp đồng kinh tế nhằm củng cố quan hệ hợp đồng kinh tế, nâng cao ý thức tôn trọng hợp đồng kinh tế. Phạt vi phạm hợp đồng kinh tế mang tính trừng ph ạt về mặt vật chất đối với bên vi phạm, nó là một chế tài phổ biến được áp dụng rộng rãi đối với tất cả các hành vi vi phạm hợp đồng kinh tế mà không cần phải chứng minh có hoặc chưa có thiệt hại xảy ra. Tiền phạt vi phạm hợp đồng kinh tế là một số tiền mà do bên vi phạm hợp đồng kinh tế bỏ ra cho bên bị vi phạm nằm trong khung hình phạt đã quy định cho từng loauị vi phạm hợp đồng kinh tế. Theo điều 29 pháp lệnh hợp đồng kinh tế mức phạt chung đối với các loại vi phạm hợp đồng kinh tế là từ 2% đến 12% giá trị phần hợp đồng bị vi phạm. Ngoài ra điều 13 nghị định 17HĐBT ngày 16.1.1990 quy định khung phạt riêng cho từng loại vi phạm hợp đồng. Riêng vi phạm nghĩa vụ thanh toán không áp dụng các khung hình phạt trên mà áp dụng mức lãi suất tín dụng quá hạn của ngân hangf mà không hạn chế mức độ tối đa. -Bồi thường thiệt hại là chế tài tài sản dùng để bù đắp những thiệt hại thực tế về tài sản cho bên bị thiệt hại. +Căn cứ để phát sinh bồi thường thiệt hại phải có đủ 4 căn cứ trong đó thiệt hại thực tế xảy ra không thể thiếu. +Mức bồi thường thiệt hại không được quy định sẵn, mà theo nguyên tắc thiệt hại bao nhiêu thì bồi thường bấy nhiêu. Những thiệt hại thực tế mà bên vi phạm hopự đồng phải bồi thường cho bên bị thiệt hại gồm: +Giá trị tài sản bị mất mát, hư hỏng bao gồm cả lãi phải trả cho ngân hàng, các khoản thu nhập mà lẽ ra trong điều kiện bình thường bên bị vi phạm cũng sẽ thu được. +Các chi phí để hạn chế thiệt hại do vi phạm hợp đồng mà bên vi phạm phải chịu. +Tiền phạt và tiền bồi thường thiệt hại mà bên bị vi phạm phải trả cho người thứ 3 do lỗi của bên vi phạm hợp đồng gây ra. Khoản bồi thường thiệt hại do bên bị thiệt hại được hưởng nhằm bù đắp khôi phục lại lợi ích hạch toán của bên bị thiệt hại. Vì vậy bồi thường thiệt hại không mang tính chất trừng phạt bên vi phạm hợp đồng. Chương II Thực tiễn áp dụng chế độ hợp đồng kinh tế tại chi nhánh công ty thái bình dương I. Giới thiệu chung về công ty thái bình dương Công ty Thái Bình Dương được thành lập theo Quyết định số 305/QĐ-BVN (H11) ngày 19/7/1993 của Bộ nội vụ ( nay là bộ công an) Chứng nhận đăng ký kinh doanh số: 10285 cấp ngày 28/7/1993 của trọng tài kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. Công ty Thái Bình Dương là doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân hoạt động theo chế độ hoạch toán kinh tế độc lập, có tài khoản và con dấu riêng để giao dịch, có điều lệ tổ chức và hoạt động, có bộ máy quản lý điều hành. Công ty tuân thủ các chính sách và pháp luật nhà nước Việt nam, chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh của mình, chịu sự quản lý trực tiếp của Bộ nội vụ. Phạm vi hoạt động trên cả nước. Công ty có tên giao dịch quốc tế là: PACIFIC COMPANY Trụ sở chính: 18 Phạm Ngọc Thạch Quận 3 – Thành phố Hồ Chí Minh. Chi nhánh: 37 Đường Giải Phóng – Bà Trưng – Hà nội và chi nhánh tại Đà Nẵng. Vốn kinh doanh (1-8-1993): 41 417 488 398 đ Trong đó: - Vốn ngân sách: 39 168 146 265 đ - Vốn tự bổ xung: 2 249 342 133 đ Công ty có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, được quyền liên doanh liên kết, ký kết hợp đồng kinh tế trong và ngoài nước. Công ty có tổng số cán bộ nhân viên là 90 người. Đứng đầu công ty là Giám đốc – Người tiến hành giám sát và quản lý mọi hoạt động của công ty và cũng là người chịu trách nhiệm trước bộ công an về kết quả sản xuất kinh doanh của công ty và tập thể công ty. Giám đốc Phó giám đốc I Phó giám đốc II Văn phòng phòng kế toán tài chính Phòng kế hoạch Phòng kinh doanh Phó giám đốc III Xí nghiệp xây dựng và khai thác vật liệu Xí nghiệp chế biến lương thực thực phẩm Chi nhánh phía bắc Chi nhánh miền Trung mô hình tổ chức bộ máy quản lý và hoạt động của công ty - Giám đốc là người có quyền điều hành cao nhất trong công ty, là người đại diện pháp nhân của công ty. - Các Phó giám đốc là người giúp giám đốc điều hành một hoặc một số hoạt động của công ty theo sự phân công của giám đốc và chịu trách nhiệm trước giám đốc và pháp luật về nhiệm vụ được giám đốc giao phó. Phó giám đốc công ty có thể kiêm giám đốc xí nghiệp thành viên. - Kế toán trưởng giúp giám đốc chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác kế toán thống kê của công ty - Các phòng nghiệp vụ khác: (văn phòng, phòng kế toán, phòng kinh doanh) giúp việc cho giám đốc điều hành công việc. - Hai xí nghiệp thành viên và các chi nhánh hoạt động theo hình thức hoạch toán nội bộ. Chi nhánh công ty Thái Bình Dương tại Hà nội 1. Quá trình hình thành và phát triển của chi nhánh: Được thành lập theo quyết định số 805 / QĐ - BNV (H11) ngày 12/11/1996 của Bộ trưởng Bộ nội vụ (nay là Bộ Công an). Chi nhánh hoạt động theo giấy đăng ký kinh doanh số: 306784 do Sở kế hoạch và đầu tư thành phố Hà nội cấp ngày 15 /4/ 1997. Chi nhánh có tư cách pháp nhân có con dấu riêng để giao dịch. Chi nhánh có trụ sở Tại 37 Đường Giải Phóng Quận Hai Bà Trưng – Hà Nội Với Tổng số vốn: 13 264 800 000 đ Trong đó: - Vốn cố định: 4 264 800 000 đ - Vốn lưu động: 9 000 000 000 đ Mở tài khoản VND: 361.111.001.093 tại Ngân Hàng Ngoại Thương – Hà Nội. Hoạt động chủ yếu của công ty là kinh doanh các mặt hàng như bán buôn hàng tư liệu sản xuất ( thiết bị điện tử viễn thông, văn phòng...) Thiết bị phòng cháy chữa cháy, vật liệu xây dựng. Chi nhánh Công ty có khả năng đảm nhận xây dựng các công trình xây dựng và công nghiệp, xây dựng nền móng cơ sở hạ tầng. Xây dựng hệ thống điện và hệ thống thông tin liên lạc... Được thành lập trong điều kiện đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường. Khoa học công nghệ trong và ngoài nước đang ngày càng phát triển tạo điều kiện thuận lợi cho chi nhánh công ty có chỗ đứng trong nước và từng bước vươn ra thị trường thế giới. Ban đầu chi nhánh chỉ thành lập có 10 thành viên nhưng chi nhánh đã kịp thời gấp rút ổn định tổ chức, tăng cường và củng cố lực lượng, đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ. Cho đến nay thành viên của chi nhánh công ty đã lên đến 30 người, thị trường hoạt động kinh doanh trên cả nước và đã ký kết một số hợp đồng với bạn hàng nước ngoài. Tổng số vốn kinh doanh cũng ngày càng mở rộng và trở thành công ty có bề dày kinh nghiệm và có uy tín trên thị trường. 2. Chức năng nhiệm vụ và quyền hạn của chi nhánh công ty: a- Chức năng và nhiệm vụ: Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường nên chi nhánh công ty đã mở rộng quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh với chức năng kinh doanh các mật hàng tiêu dùng thiết yếu, nhập khẩu máy móc, thiết bị thông tin liên lạc, trang thiết bị vật tư phương tiện giao thông phục vụ trong ngành... Nhiệm vụ cơ bản của chi nhánh là xây dựng kế hoạch kinh doanh ngắn hạn, dài hạn và thực hiện kế hoạch đó để đạt được mục tiêu đề ra của công ty. Cùng với nhiệm vụ quan trọng là kinh doanh đúng ngành nghề lĩnh vực, mặt hàng đã đăng ký với cơ quan có thẩm quyền. Thực hiện phân phối theo lao động, đảm bảo công bằng xã hội. Chi nhánh có trách nhiệm chấp hành đầy đủ nghiêm chỉnh các quy định quản lý cấp trênvà các cơ quan chức năng như: Thuế, an ninh, môi trường, lao động, ngân hàng....Tổ chức quản lý công ty bằng các quyết định, điều lệ, nội quy lao động và trách nhiệm vật chất. Thực hiện đúng đắn tốt các chủ trương chính sách, đường lối của Đảng, Nhà nước. Thực hiện nghiêm túc các chế định pháp luật của nhà nước. b.- Quyền hạn và nghĩa vụ: - Quyền hạn: Căn cứ vào quy định của pháp luật chi nhánh công ty có các quyền hạn sau: Quản lý, sử dụng vốn, đất đai và các tài sản khác được giao theo quy định để thực hiện các mục tiêu nhiệm vụ do Bộ công an giao. Tự chủ trong sản xuất kinh doanh, liên doanh liên kết, ký kết các hợp đồng kinh tế trong và ngoài nước. Vay vốn và huy động vốn theo quy định pháp luật. Tổ chức bộ máy quản lý theo đúng quy định của Bộ công an phù hợp với mục tiêu và nhiệm vụ được giao. Trích lập các quỹ và phân chia lợi nhuận Tuyển chọn và bố trí sử dụng đào tạo lao động hoặc huỷ bỏ hợp đồng lao động về sử dụng lao độngtheo chế độ hiện hành của nhà nước. Được hưởng các chế độ ưu đãi theo quy định của nhà nước và Bộ công an. -Nghĩa vụ: Chi nhánh công ty có những nghĩa vụ cơ bản sau Nhận và sử dụng có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn giao, sử dụng có hiệu quả đất đai và các tài sản khác để thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh do Bộ công an giao. Đăng ký sản xuất kinh doanh đúng nghành nghề đã đăng ký, chịu trách nhiệm trước Bộ công an về kết quả sản xuất kinh doanh của chi nhánh và chịu trách nhiẹem trước khách hành, trước pháp luật về sản phẩm và dịch vụ do chi nhánh thực hiện. Xây dựng kế hoạch phát triển dài hạn, kế hoạch 5 năm và hàng năm của công ty phù hợp nhiệm vụ Bộ giao và nhu cầu thị trường. Ký kết và tổ chức thực hiện các hợp đồng kinh tế đã ký kết với các đối tác. Đổi mới công nghệ, phương pháp quản lý, thường xuyên đổi mới thiết bị đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Thực hiện các nghĩa vụ đối với người lao động thoe quy định của Bộ luật lao động, đảm bảo cho người lao động tham gia quản lý, làm tốt công tác bảo hiểm xã hội, an toàn lao động. Thực hiện các quy định của nhà nước về bảo vệ môi trường, quốc phòng và an ninh quốc gia. Thực hiện chế độ báo cáo thống kê, kế toán, báo cáo định kỳ theo quy định của Nhà nước và các báo cáo khác theo yêu cầu của cơ quan quản lý. Chịu trách nhiệm về tính chính xác các báo cáo đó. Chịu sự kiểm tra của Bộ Nội vụ, tuânthủ các quy định về thanh tra của cơ quan tài chính và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Có nghĩa vụ nộp thuế và các khoản nộp ngân sách Nhà nước theo quy định của pháp luật3. Cơ cấu và tổ chức bộ máy của chi nhánh công ty Thái Bình Dương: mô hình tổ chức bộ máy quản lý của chi nhánh công ty Giám đốc Phó giám đốc Văn phòng Phòng kế toán Phòng kinh doanh Phòng vật tư Phòng kỹ thuật - Giám đốc là người đại diện hợp pháp của công ty được uỷ quyền đầy đủ về quyền hạn để điều hành hoạt động kinh doanh, có quyền hoạt động nhân danh công ty trong mọi trường hợp đẻ tổ chức kinh doanh được nhà nước cho phép. Giám đốc phải chịu trách nhiệm trước công ty và pháp luật về việc điều hành, tổ chức hoạt động của chi nhánh. Giám đốc đề ra các kế hoạch và kiểm tra việc thực hiện các công việc lớn như: Hợp đồng kinh tế, hoạch toán, kế toán, thống kê, các chính sách, chế độ thuế, lao động, bảo mật an ninh... Theo hướng dẫn của các cơ quan chức năng. - Phó giám đốc là người giúp việc cho giám đốc theo sự uỷ quền và phân công bằng văn bản. Phó giám đốc chỉ chịu trách nhiệm về phần việc được phân công, uỷ quyền. Nếu có hành vi vượt quá sự phân công uỷ quyền gây thất thoát, thiệt hại thì phải chịu trách nhiệm cá nhân trước chi nhánh và pháp luật. - Kế toán là người giúp giám đốc chỉ đạo tổ chức, thực hiện công tác kế toán, hạch toán thống kê của chi nhánh và có các quyền hạn và nhiệm vụ theo quy định của pháp luật. - Văn phòng và các phòng chuyên môn có chức năng tham mưu giúp việc cho giám đốc quản lý điều hành hoạt động kinh doanh của chi nhánh và chịu trách nhiệm trước giám đốc về kết quả hoạt động trong các lĩnh vực kinh doanh. II. Quá trình đàm phán ký kết thực hiện hợp đồng kinh tế tại chi nhánh công tyThái Bình Dương 1. Tình hình ký kết hợp đồng kinh tế a. Các loại hợp đồng kinh tế mà chi nhánh công ty ký kết Để thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh Chi nhánh đã ký kết nhiều hợp đồng kinh tế với các đối tác kinh doanh của mình bao gồm: Hợp đồng xuất nhập khẩu, Hợp đồng mua bán thiết bị vật tư. Hợp đồng xây dựng, Hợp đồng lắp đặt...Các hợp đồng kinh tế đều do phòng kinh doanh của chi nhánh thực hiện dựa trên cơ sở nhu cầu của thị trường,các đơn đặt hàng chào hàng căn cứ vào kkhả năng sản xuất kinh doanh, chức năng hoạt động kinh tế của chi nhánh.. Phong kinh doanh sẽ tiến hành điều tra, xem xét đối tác và lập báo cáo gửi tớ giám đốc,giám đốc sẽ dựa trên căn cứ báo cáo đó và quyết định có nên ký kết hợp đồng hay không - Hợp đồng nhập khẩu: chủ yếu là các thiết bị phòng cháy chữa cháy, sợi ACRINIC... - Hợp đồng xuất khẩu: chủ yếu là sản phẩm nghành dệt may - Hợp đồng mua bán vật tư: vật liệu xây dựmg, thiết bị điện... b. Thẩm quyền ký kết hợp đồng kinh tế của chi nhánh và của các đối tác: - Thẩm quyền ký kết hợp đồng kinh tế của chi nhánh: Chi nhánh Công ty Thái Bình Dương trực thuộc công ty Thái Bình Dương và được tổ chức theo hình thức kế toán độc lập nên chi nhánh có đủ tư cách pháp nhân. Vì vậy thẩm quyền ký kết HĐKT của chi nhánh là người đại diện cho chi nhánh đó là Giám đốc. Ngoài ra Giám đốc cũng có thể uỷ quyền ký kết cho người khác theo quy định của pháp luật. - Thẩm quyền ký kết HĐKT của các đối tác: Để hợp đồng được ký kết giữa chi nhánh với các đối tác là HĐKT thì đối tác của chi nhánh phải là pháp nhân hoặc cá nhân có đăng ký kinh doanh. Khi đó người có thẩm quyền thực hiện việc ký kết HĐKT với chi nhánh là người đại diện hợp pháp của doanh nghiệp đối tác hoặc người được người đại diện hợp pháp uỷ quyền bằng văn bản. c. Thủ tục ký kết hợp đồng kinh tế tại chi nhánh công ty Để có thể hình thành một hợp đồng kinh tế việc đàm phán ký kết một hợp đồng kinh tế là một bước rất cần thiết và vô cùng quan trọng, nó có ảnh hưởng đến nội dung và việc thực hiện sau này, việc đàm phán ký kết hợp đồng do hai bên tham gia bàn bạc trao đổi với nhau trên cơ sở bình đẳng 2 bên cùng có lợi. Công ty thường đàm phán trực tiếp ( hình thức ký kết trực tiếp ) đây là hình thức ký kết phù hợp với việc sản xuất kinh doanh của chi nhánh. Đàm phán để đi đến ký kết hợp đồng kinh tế tại chi nhánh công ty Thái Bình Dương có thể do chính Giám đốc đàm phán vơí đối tác. Sau khi đã đạt được các thoả thuận và các điêù khoản, điều kiện trong hợp đồng thì Giám đốc sẽ tiến hành ký kết hợp đồng kinh tế Hình thức của hợp đồng là bằng văn bản. d. Nội dung của hợp đồng kinh tế: Phần nội dung của hợp đồng kinh tế được tiến hành rất chi tiết, nhứng điềt khoản của hợp đồng được ghi đầy đủ và rõ ràng trong hợp đồng. Trong một hợp đồng kinh tế bao giờ Chi nhánh cũng quy định chi tiết những điều khoản chủ yếu của hợp đồng theo đúng pháp luật hợp đồng kinh tế: - Ngày, tháng, năm ký kết HĐKT chủ thể và đại diện hợp pháp. Tên đơn vị kinh tế. Địa chỉ: Số tài khoản tại ngân hàng giao dịch của các bên chủ thể HĐKT: Họ, tên đại diện hợp pháp của các bên chủ thể HĐKT. - Đối tượng của HĐKT: Đối với hợp đồng xây lắp và xây dựng: Nội dung công việc khối lượng và giá trị của nội dung các công việc. Đối với hợp đồng mua bán hàng hoá: Tên hàng hoá đó là những vật tư máy móc mà công ty được phép mua bántheo giấy phép kinh doanh cuả công ty. Số lượng, được ghi bằng số và bằng chữ. Đơn vị thì tuỳ theo từng loại hàng hoá. - Quy cách chất lượng: Bao giờ cũng được quy định một cách phẩm chất. Điều khoản này nói lên mặt chất của hàng hoá mua bán, là cơ sở để định giá hàng hoá. Công ty phải nêu rõ những tiêu chuẩn mà hàng hoá phải đạt được và có quy định một số dung sai có thể chấp nhận được. Bên cạch đó có điều khoản về nguồn gốc của hàng hoá và ký mã hiệu. Đặc biệt là đối với hợp đồng xây lắp và xây dựng thì có điều khoản yêu cầu kỹ thuật công việc: Có điều khoản này để công ty có thể dựa vào đó để có kế hoạch sản xuất phù hợp với từng yêu cầu cụ thể của công việc, tiến độ thi công cũng là một điều khoản trong hợp đồng này. - Giá cả: Được quy định cụ thể, được viết bằng số và bằng chữ có ghi tổng giá trị của hợp đồng, đồng tiền trong tính giá là VNĐ - Điều kiện nghiệm thu, giao nhận: + Hợp đồng mua bán: là xác định thời hạn, địa điểm giao hàng, phương thức giao hàng và thông báo giao hàng. Thời hạn giao hàng là thời hạn mà người bán phải hoàn thành nghĩa vụ giao hàng. Đối với hợp đồng mua bán của công ty, thường quy định cho người bán một thời hạn giao hàng là một ngày nhất định. Địa điểm giao hàng cũng được quy định rõ trong từng hợp đồng và tuỳ theo hợp đồng và từng loại hàng hoá mà có thể cho phép giao hàng từng đợt hoặc một lần duy nhất. + Hợp đồng xây lấp và xây dựng: Thì trong hợp đồng kinh tế quy định rõ ngày tháng năm nghiệm thu công trình, khi nghiệm thu phải có biên bản nghiệm thu công trình. - Phương thức thanh toán: Tuỳ từng loại hợp đồng mà công ty và phía đối tác lựa chọn phương thức thanh toán cho phù hợp. - Trách nhiệm cảu các bên trong hợp đồng kinh tế được ghi rõ trách nhiệm của các bên nhất là đối vơí hợp đồng xây dựng và xây lắp. - Thời hạn có hiệu lực của hợp đồng kinh tế. Ngoài những điều khoản trên, trong các hợp đồng kinh tế mà công ty ký kết thường được đưa vào những điều khoản khác cho hợp đồng thêm cụ thể, chi tiết trách sai sót xảy ra như: Phạt và bồi thường thiệt hại: nếu có tranh chấp xảy ra thì các bên tự hoà giải, nếu không được thì sẽ nhờ trọng tài kinh tế theo quy định trong hợp đồng sản xuất nhờ trung tâm trọng tài theo thoả thuận của 2 bên. 2. Cơ sở thiết lập quá trình ký kết hợp đồng kinh tế tại chi nhánh công ty Thái Bình Dương: ã Hợp đồng mua bán vật tư: -Đánh giá lúc đầu: căn cứ vào hợp đồng kinh tế đã ký kết giữa công ty và đối tác, hồ sơ thiết kế kỹ thuật...Phong kỹ thuật lập kế hoạch, biện pháp, tiến độ thi công cho từng công trình, hạng mục công trình. Vì thế cần những vật tư, vật liệu, dịch vụ cần thiết để hoàn thành công trình. Trưởng phòng kỹ thuật sẽ gửi yêu cầu về vật tư cho phòng vật tư dựa trên những yêu cầu này và tình hình vật tư hiện có ở chi nhánh.Phòng vật tư sẽ xác định được những vật tư, vật liệu mà công ty đang thiếu cho công trình. Trưởng phòng vật tư sẽ gửi những yêu cầu mua vật tư thiếu cho phòng kinh doanh để phòng kinh doanh thực hiện mua bán vật tư. Sau khi xem xét chất lượng các vật tư, tìm hiểu giá cả của vật tư, thu thập thông tin trưởng phòng kinh doanh sẽ phân tích và rút ra đánh giá. Khi đã xem xét đầy đủ kỹ lưỡng về chất lượng, giá cả thì trưởng phòng kinh doanh trình các phân tích lên giám đốc. -Đánh giá trong quá trình đi mua vật tư: Thu thập thông tin: trưởng phòng kinh doanh hay người được uỷ quyền sẽ thu thập thông tin về các chỉ tiêu sau: + Tiến độ giao hàng + Chất lượng vật tư + Số lượng vật tư * Phân tích báo cáo: Trưởng phòng kinh doanh hay người được uỷ quyền lập báo cáo về tình hình giá cả chất lượng, tiến độ và số lượng để trình lên giám đốc. Quy trình mua vật tư Theo đơn chào hàng của khách hàng Phòng kinh doanh lập hồ sơ dự thầu Soạn thảo ký kết hợp đồng Giao cho đội sản xuất thực hiện Nghiệm thu công trình Thanh lý hợp đồng 3. Quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế tại Chi nhánh Công ty Thái Bình Dương. Thực hiện hợp đồng là hành vi của các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng nhằm làm cho các điều khoản mà hai bên ký kết trở thành hiện thực. Thực hiện Hợp đồng kinh tế đã ký kết là nghĩa vụ của các đơn vị kinh tế. Các đơn vị kinh tế phải thực hiện nghiêm chỉnh những điều đã cam kết trong hợp đồng. Hợp đồng kinh tế được thực hiện xong, khi các bên hoàn thành đầy đủ các quyền và nghĩa vụ đã thoả thuận trong hợp đồng. Căn cứ vào hợp đồng đã ký kết giữa công ty và các đối tác các phòng ban chức năng sẽ tiến hành thực hiện theo đúng các điều khoản trong hợp đồng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng công ty luôn cố gắng giao đầy đủ số lượng, trọng lượng, khối lượng công việc như đã thoả thuận, trong khi giao nhận có tiến hành kiểm tra số lượng hoặc trọng lượng hàng hoá bằng các phương pháp cân, đo, đong, đếm chính xác và lập các biên bản giao nhận hàng, biên bản nghiệm thu công trình,... Thanh toán theo hợp đồng là khâu cuối cùng kết thúc quá trình thực hiện Hợp đồng kinh tế, nghĩa vụ trả tiền phải được thực hiện theo phương thức và thời hạn thanh toán đã thoả thuận. * Thực hiện hợp đồng mua bán vật tư Trước khi vật tư hàng hoá,... về bên đối tác thông báo cho giám đốc công ty biết số lượng, thời gian tiến độ giao hàng; giám đốc công ty báo bằng văn bản cho các bộ phận liên quan: Phòng kinh tế kỹ thuật, phòng kinh doanh, phòng vật tư, phòng tổ chức hành chính thực hiện. Khi vật tư hàng hoá trở về công ty thủ kho phối hợp với các phòng ban có liên quan xác định số lượng và phòng kinh tế kỹ thuật, phòng vật tư kiểm tra chất lượng vật tư hàng hoá có đúng quy cách chất lượng hay không. + Nếu đạt: Cho nhập kho + Nếu không đạt thì trao đổi với phía đối tác để tiến hành thoả thuận (có thể là cũng cho nhập kho nếu 2 bên thoả thuận được với nhau. Nếu không thoả thuận được thì không cho nhập kho và sẽ có tranh chấp Hợp đồng kinh tế). Sau khi hàng hoá nhập kho thì sẽ tiến hành thanh lý Hợp đồng kinh tế. Có biên bản thanh lý gồm đại diện các bên, số lượng, chất lượng và giá trị vật tư, sau đó tiến hành thanh toán theo phương thức thanh toán đã ký trong Hợp đồng kinh tế. Chương III một số kiến nghị qua việc áp dụng chế độ Hợp đồng kinh tế tại chi nhánh công ty thái bình dương I. Đánh giá thực trạng công tác ký kết, thực hiện hợp đồng kinh tế tại Chi nhánh. 1. Thuận lợi: Các chính sách của Đảng và Nhà nước không thay đổi. Theo Nghị quyết của Đại hội Đảng lần VIII "kiên trì chính sách đổi mới nhằm đẩy nhanh công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước". Bên cạnh đó là đội ngũ cán bộ kỹ sư có năng lực chuyên môn cao và nhờ có uy tín đối với các đối tác nên trong quá trình thực hiện ký kết và thực hiện hợp đồng của Chi nhánh diễn ra rất đơn giản và đúng pháp luật, ít khi có tranh chấp hợp đồng xẩy ra. Nếu có mâu thuẫn thì hai bên tự giải quyết bằng biện pháp thương lượng, hoà giải nên chưa có vụ tranh chấp nào phải đưa ra toà án hay trọng tài kinh tế giải quyết. 2. Khó khăn: Theo Điều 2 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế thì Hợp đồng kinh tế được ký kết giữa các bên sau đây: + Pháp nhân với pháp nhân + Pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định. Như vậy, chủ thể Hợp đồng kinh tế có sự hạn chế. Với sự phát triển của nền kinh tế như hiện nay thì quy định như trên sẽ gây khó khăn cho đơn vị sản xuất - kinh doanh trong quá trình hoạt động kinh doanh. Khi đơn vị này mặc dù đã có đủ tư cách pháp nhân, nhưng lại ký hợp đồng với những cá nhân, hộ gia đình,... không có đăng ký kinh doanh thì lại không phải đối tượng điều chỉnh của pháp luật Hợp đồng kinh tế dẫn đến rất nhiều khó khăn trong công tác hợp đồng. * Về đề nghị và chấp nhận trong Hợp đồng kinh tế: Đề nghị hợp đồng và chấp nhận đề nghị Hợp đồng kinh tế là 2 yếu tố quan trọng trong quá trình ký kết một Hợp đồng kinh tế. Không thể có hợp đồng nếu không có việc đề nghị và chấp nhận hợp đồng. Đề nghị và chấp nhận đề nghị có ý nghĩa quan trọng. Vì vậy các bước này của quá trình hình thành hợp đồng cần phải đặc biệt lưu ý. Trong pháp lệnh Hợp đồng kinh tế, bước đề nghị hợp đồng và bước chấp nhận hợp đồng không được quy định rõ. Đây là một tồn tại lớn của pháp lệnh Hợp đồng kinh tế mà chúng ta cần phải khắc phục. Điều 11 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế chỉ quy định là Hợp đồng kinh tế hình thành và có hiệu lực pháp lý từ thời điểm các bên ký kết vào văn bản hoặc từ khi các bên nhận được tài liệu thể hiện sự thoả thuận về tất cả các điều khoản của hợp đồng. Quy định này rõ ràng chưa thấy hết sự phức tạp của việc ký kết Hợp đồng kinh tế và chưa trú trọng đến yếu tố thoả thuận, một nguyên tắc nền tảng của pháp luật về hợp đồng. Trong khi ký kết một Hợp đồng kinh tế nếu các bên thoả thời điểm hợp đồng có hiệu lực chậm hơn khi áp dụng quy định này thì thoả thuận của các bên không có giá trị vì Hợp đồng kinh tế đã hình thành và có hiệu lực pháp lý từ thời điểm các bên đã ký kết vào văn bản hoặc từ khi các bên nhận được tài liệu giao dịch thể hiện sự thoả thuận về tất cả những điều khoản chủ yếu của Hợp đồng kinh tế. II. Hướng sửa đổi bổ xung Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế * Về chủ thể: Theo điều 2 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế thì việc quy định bắt buộc một bên phải có tư cách pháp nhân trong quan hệ Hợp đồng kinh tế là không phù hợp với thực tiễn, bởi cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có rất nhiều chủ thể kinh doanh mới ra đời. Mặt khác bên cạnh những chủ thể kinh doanh truyền thống có tư cách pháp nhân như doanh nghiệp Nhà nước, Hợp tác xã,... còn có những chủ thể kinh doanh không có tư cách pháp nhân như: Doanh nghiệp tư nhân, người kinh doanh dưới vốn pháp định, hộ kinh tế gia đình,... Tất cả các chủ thể kinh doanh này phải hoàn toàn bình đẳng với nhau trong quan hệ pháp luật nên trong Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế cần sửa đổi không nên quy định cứng nhắc một bên chủ thể trong quan hệ hợp đồng phải là pháp nhân mà chỉ nên quy định: Hợp đồng kinh tế là hợp đồng được ký kết giữa các chủ thể kinh doanh. Với quy định này Nhà nước sẽ tạo điều kiện cho nền kinh tế quốc dân hoạt động linh hoạt hơn, đem lại hiệu quả cao hơn, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. * Về hình thức: Trong cơ chế thị trường hết sức năng động, quyết định cứng nhắc về hình thức hợp đồng sẽ không phù hợp, nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi mà công nghệ thông tin học đã và đang là phương tiện để các bên giao kết hợp đồng thương mại. Việc pháp luật hợp đồng kinh tế quy định hợp đồng kinh tế phải được ký kết bằng văn bản, thì một số hợp đồng kinh tế được quy định là phải ký bằng văn bản. Hợp đồng kinh tế có thể ký bằng văn bản hợp đồng: hợp đồng mẫu, thư điện tử, fax truyền tin hoặc bằng tài liệu giao dịch, mà các bên tham gia quan hệ hợp đồng tự chọn hình thức của hợp đồng kinh tế, trừ một số hợp đồng kinh tế mà pháp luật quy định phải ký kết bằng văn bản. Pháp luật hợp đồng kinh tế nên để các bên tham gia quan hệ hợp đồng lựa chọn hình thức của hợp đồng kinh tế, trừ một số hợp đồng kinh tế mà pháp luật quy định phải ký kết bằng văn bản những hợp đồng này thường có giá trị lớn mang tính chất quan trọng, có ý nghĩa đặc biệt đối với các bên, có ý nghĩa đối với Nhà nước, như hợp đồng nhận thầu trong xây dựng cơ bản. * Về thẩm quyền ký: Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế ngày 25/9/1989 đã quy định về vấn đề người đại diện và uỷ quyền. Tuy nhiên các quy định này chưa chặt chẽ tạo ra nhiều khe hở và trong nhiều trường hợp làm cho các bên tham gia ký kết Hợp đồng kinh tế dễ trốn tránh trách nhiệm của mình. Do vậy để khắc phục những thiếu sót của điều 9 pháp lệnh hợp đồng kinh tế. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế cần có những quy định ràng buộc trách nhiệm của người đại diện trong việc ký kết Hợp đồng kinh tế bao gồm trách nhiệm tài sản, trách nhiệm hành chính, trách nhiệm hình sự để có thể ngăn chặn những tiêu cực có thể xẩy ra. Vấn đề này để cho phù hợp với các quy định của Bộ luật dân sự Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế còn phải quy định thêm về thủ tục uỷ quyền ký kết Hợp đồng kinh tế như người đại diện theo pháp luật của pháp nhân, cá nhân có đăng ký kinh doanh khi uỷ quyền cho người khác phải làm giấy uỷ quyền theo quy định của Bộ luật dân sự. Kết luận Trong những năm qua, Chi nhánh công ty Thái Bình Dương đã tạo dựng được mối quan hệ bạn hàng với nhiều doanh nghiệp và đã tạo được uy tín tốt. Hàng năm Chi nhánh đã đóng góp một số lượng lớn thu nhập vào ngân sách Nhà nước. Trong quá trình hoạt động, Chi nhánh liên tục phát triển và đã góp phần vào việc xây dựng nền kinh tế đất nước trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Ký kết hợp đồng kinh tế giữa Chi nhánh với các khách hàng đã và đang được coi là một công tác có tính trọng tâm trong hoạt động sản xuất kinh doanh của Chi nhánh. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của mình Chi nhánh đã có nhiều cố gắng trong việc cải tiến công tác này cho phù hợp với pháp luật kinh doanh và mặt hàng kinh doanh. Trong bài viết của mình, em đã làm một số vấn đề lý luận chung về ký kết thực hiện Hợp đồng kinh tế và thực tế áp dụng tại Chi nhánh. Em đã mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của việc ký kết thực hiện Hợp đồng kinh tế ở nước ta nói chung và hy vọng được góp phần vào việc tiếp tục hoàn thiện công tác Hợp đồng kinh tế tại Chi nhánh Công ty nói riêng. Tuy đã cố gắng nghiên cứu và viết nhưng do khối lượng công việc quá lớn, thời gian có hạn nên gặp nhiều thiếu sót mong các thầy cô góp ý kiến để việc nghiên cứu đề tài này của em có cơ hội được hoàn thiện hơn. Cuối cùng một lần nữa em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Đinh Hoài Nam, các thầy cô giáo trong bộ môn Luật trường ĐH KTQD và toàn thể Chi nhánh Công ty Thái Bình Dương đã giúp em trong quá trình thực hiện và hoàn thành bài viết. Tài liệu tham khảo 1. Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế (25/9/1989) 2. Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế (16/3/1994) 3. Hợp đồng kinh tế và các hình thức giải quyết tranh chấp kinh tế. (NXB Đồng Nai) 4. Những nội dung cơ bản của Luật kinh tế (NXB Thống kê) 5. Bộ Luật dân sự (28/10/1995). 6. Giáo trình Luật Kinh tế. 7. Thông tin chuyên đề (Viện nghiên cứu Khoa học pháp lý Bộ Tư pháp). 8. Tạp chí Luật (Đại học Luật Hà Nội). 9. Tạp chí Nhà nước và pháp luật (Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật).

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docI0048.doc
Tài liệu liên quan