Đề tài Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4& 5

I. ĐẶT VẤN ĐỀ Ở cấp Tiểu học, khi dạy môn Tiếng Việt chủ yếu tập trung rèn cho học sinh bốn kĩ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết. Các kĩ năng đó được thực hiện bắt đầu từ lớp 1 đến lớp 5 và nâng dần từ thấp đến cao. Riêng kĩ năng đọc gồm có nhiều phương diện như: đọc thầm, đọc lướt, đọc thành tiếng, đọc hiểu, đọc diễn cảm, trong đó phương diện đọc diễn cảm là khó nhất đối với học sinh Tiểu học. Bởi lẽ, đọc diễn cảm là một hình thức đọc có tính đặc thù, nhằm rèn luyện kĩ năng đọc và cảm thụ văn học cho học sinh. Khi đọc diễn cảm, người đọc chuyển văn bản “viết” thành văn bản “âm thanh” một cách trung thực, nhằm truyền đến cho người nghe không chỉ nội dung thông tin mà còn cảm nhận được giá trị nội dung cũng như giá trị nghệ thuật của văn bản. Một người đọc diễn cảm tốt tức là người đó đã truyền thụ được một phần nội dung và cảm xúc của bài đọc tới người nghe mà chưa cần đến giảng giải. Đối với học sinh, khi đọc diễn cảm các bài đọc trong chương trình, các em sẽ được tiếp thu với ngôn ngữ nghệ thuật và cảm thụ cái hay, cái đẹp của văn chương. Như vậy, đọc diễn cảm không chỉ đơn thuần thuộc phạm trù ngôn ngữ mà còn thuộc về cả phạm trù văn học, phạm trù nghệ thuật và thẩm mỹ. Với nhiều năm giảng dạy các môn học của lớp 4 và 5, tôi thấy trong phân môn Tập đọc có nhiều dạng bài, nhiều thể loại văn bản khác nhau. Các thể loại văn bản đó rất đa dạng, phong phú nhưng cũng rất gần gũi với các em học sinh thuộc lứa tuổi. Vậy làm thế nào để giúp các em hiểu được nội dung, ý nghĩa của từng loại văn bản và phản ánh một cách trung thực, đầy đủ thông qua giọng đọc là một vấn đề mà chúng ta- những người làm công tác giáo dục đã và đang quan tâm. Đặc biệt năm học này, Ngành Giáo dục cũng đã chú trọng việc đọc diễn cảm của giáo viên và đã tổ chức Hội thi “Giáo viên đọc diễn cảm” ở các cấp. Đây là một hoạt động chuyên môn rất bổ ích nhằm giúp cho mỗi giáo viên tự xác định được : Vì sao cần phải rèn đọc diễn cảm cho học sinh trong giờ Tập đọc? Khi rèn đọc diễn cảm cần chú trọng vấn đề gì ? Cách rèn như thế nào ? Trong quá trình giảng dạy, mặc dù bản thân tôi đã thường xuyên thực hiện nhiều biện pháp rèn đọc diễn cảm cho các em song đôi lúc vẫn còn lúng túng. Tôi luôn băn khoăn, suy nghĩ làm thế nào để giúp các em đọc đúng, đọc hay để hiểu rõ cái hay, cái đẹp của từng bài. Xuất phát từ nhiều lí do như trên kết hợp với kinh nghiệm của bản thân, năm học này tôi xin được trình bày “Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4& 5” nhằm nâng cao chất lượng đọc diễn cảm trong học sinh nói chung. I. ĐẶT VẤN ĐỀ II. THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN * Về phía giáo viên: * Về phía học sinh: III. QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN 1. Cơ sở thực hiện 2. Các giải pháp tiến hành 2.1. Yêu cầu học sinh đọc to, đọc đúng, lưu loát và nắm được nội dung, ý nghĩa các bài đọc 2.2. Hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm 2.3. Tổ chức các hình thức rèn đọc diễn cảm cho học sinh V/ BÀI HỌC KINH NGHIỆM 1/ Đối với giáo viên 2/ Đối với học sinh VI/ NHỮNG ĐỀ XUẤT VÀ KIẾN NGHỊ

doc12 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 8229 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4& 5, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. ĐẶT VẤN ĐỀ Ở cấp Tiểu học, khi dạy môn Tiếng Việt chủ yếu tập trung rèn cho học sinh bốn kĩ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết. Các kĩ năng đó được thực hiện bắt đầu từ lớp 1 đến lớp 5 và nâng dần từ thấp đến cao. Riêng kĩ năng đọc gồm có nhiều phương diện như: đọc thầm, đọc lướt, đọc thành tiếng, đọc hiểu, đọc diễn cảm, trong đó phương diện đọc diễn cảm là khó nhất đối với học sinh Tiểu học. Bởi lẽ, đọc diễn cảm là một hình thức đọc có tính đặc thù, nhằm rèn luyện kĩ năng đọc và cảm thụ văn học cho học sinh. Khi đọc diễn cảm, người đọc chuyển văn bản “viết” thành văn bản “âm thanh” một cách trung thực, nhằm truyền đến cho người nghe không chỉ nội dung thông tin mà còn cảm nhận được giá trị nội dung cũng như giá trị nghệ thuật của văn bản. Một người đọc diễn cảm tốt tức là người đó đã truyền thụ được một phần nội dung và cảm xúc của bài đọc tới người nghe mà chưa cần đến giảng giải. Đối với học sinh, khi đọc diễn cảm các bài đọc trong chương trình, các em sẽ được tiếp thu với ngôn ngữ nghệ thuật và cảm thụ cái hay, cái đẹp của văn chương. Như vậy, đọc diễn cảm không chỉ đơn thuần thuộc phạm trù ngôn ngữ mà còn thuộc về cả phạm trù văn học, phạm trù nghệ thuật và thẩm mỹ. Với nhiều năm giảng dạy các môn học của lớp 4 và 5, tôi thấy trong phân môn Tập đọc có nhiều dạng bài, nhiều thể loại văn bản khác nhau. Các thể loại văn bản đó rất đa dạng, phong phú nhưng cũng rất gần gũi với các em học sinh thuộc lứa tuổi. Vậy làm thế nào để giúp các em hiểu được nội dung, ý nghĩa của từng loại văn bản và phản ánh một cách trung thực, đầy đủ thông qua giọng đọc là một vấn đề mà chúng ta- những người làm công tác giáo dục đã và đang quan tâm. Đặc biệt năm học này, Ngành Giáo dục cũng đã chú trọng việc đọc diễn cảm của giáo viên và đã tổ chức Hội thi “Giáo viên đọc diễn cảm” ở các cấp. Đây là một hoạt động chuyên môn rất bổ ích nhằm giúp cho mỗi giáo viên tự xác định được : Vì sao cần phải rèn đọc diễn cảm cho học sinh trong giờ Tập đọc? Khi rèn đọc diễn cảm cần chú trọng vấn đề gì ? Cách rèn như thế nào ? Trong quá trình giảng dạy, mặc dù bản thân tôi đã thường xuyên thực hiện nhiều biện pháp rèn đọc diễn cảm cho các em song đôi lúc vẫn còn lúng túng. Tôi luôn băn khoăn, suy nghĩ làm thế nào để giúp các em đọc đúng, đọc hay để hiểu rõ cái hay, cái đẹp của từng bài. Xuất phát từ nhiều lí do như trên kết hợp với kinh nghiệm của bản thân, năm học này tôi xin được trình bày “Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4& 5” nhằm nâng cao chất lượng đọc diễn cảm trong học sinh nói chung. II. THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN * Về phía giáo viên: Trước đây, phân môn Tập đọc của môn Tiếng Việt ở chương trình cũ vẫn còn đề cao quá mức về cảm thụ văn học nên một số giáo viên đã biến tiết Tập đọc thành giờ giảng văn. Trong tiết học, giáo viên quá lạm dụng phần tìm hiểu bài, giảng giải là chính còn học sinh chỉ nghe, ít có thời gian để luyện đọc; hậu quả là có một số em học hết chương trình Tiểu học mà vẫn chưa đọc thông thạo. Song ở chương trình tiếng Việt Tiểu học mới hiện nay, nội dung các bài đọc trong sách giáo khoa tương đối phù hợp với nhận thức của học sinh, các bài đọc được sắp xếp khá lôgic, chặt chẽ theo từng chủ điểm, đa dạng các thể loại và nội dung phong phú ; hơn nữa giáo viên đã nắm được Chuẩn cần đạt về kĩ năng đọc và hiểu của học sinh. Vì thế, trong quá trình dạy phân môn Tập đọc thì người giáo viên đã hướng dẫn các em thực hiện khá nhịp nhàng giữa các hoạt động. - Thực tế, trong nhiều năm giảng dạy các lớp khối 4 và 5, tôi thấy kĩ năng đọc của học sinh giữa các lớp chưa đồng đều. Đa số các em chỉ mới đọc đúng, số học sinh biết đọc diễn cảm còn rất ít (thậm chí nhiều em chưa biết cách đọc diễn cảm hoặc còn xem nhẹ hoạt động này); số học sinh đọc chưa lưu loát và sai lỗi vẫn còn. - Đa số các bài đọc lớp 4 ; 5 tương đối dài mà thời gian một tiết học quá ít nên hầu như giáo viên chỉ mới dừng lại ở luyện đọc đúng cho các em, bước hướng dẫn các em đọc diễn cảm còn ít. Chính vì thế, việc yêu cầu các em tham gia thể hiện đọc diễn cảm trước lớp chỉ thực hiện được ở một số học sinh khá, giỏi. - Bản thân giọng nói của bản thân hơi nặng và đôi khi bị ảnh hưởng của thời tiết nên giọng đọc của tôi chưa được hay. * Về phía học sinh: - Nhận thức của học sinh về tầm quan trọng của môn học chưa đúng, các em thích học môn Toán hơn môn Tiếng Việt nên nhiều em còn ngại đọc bài và chưa có ý thức tự rèn đọc diễn cảm mà chỉ mới mang tính chất chiếu lệ, đối phó. - Do vốn từ ngữ của các em còn quá ít ỏi, chưa hiểu hết nghĩa các từ, cụm từ trong bài đọc nên dẫn đến khi đọc bài, các em ngắt nghỉ không đúng chỗ, nhiều lúc gây hiểu sai ý nghĩa của câu văn hay bài thơ. - Giọng đọc của học sinh còn nhỏ ; Nhiều em chưa nắm được nội dung của bài đọc nên khi đọc, tôi thấy các em chưa bộc lộ được cảm xúc của bài đọc qua giọng đọc hoặc nếu có thì chỉ mang tính chất bắt chước giáo viên hoặc bạn bè. - Do ảnh hưởng của tiếng địa phương và cách phát âm của mỗi em khác nhau nên các em đọc còn sai các từ ngữ, sai nội dung ý nghĩa của văn bản. III. QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN 1. Cơ sở thực hiện - Học sinh lớp 4; 5 trường Tiểu học Krông Ana trong các năm học từ 2005 - nay; Học sinh lớp 4D và 5A năm học 2009- 2010. - SGK và SGV Tiếng Việt 4; 5. - Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng các môn học ở Tiểu học lớp 4, 5. - Dạy và học môn Tiếng Việt ở Tiểu học theo chương trình mới – NXB Giáo dục. - Luyện tập về cảm thụ văn học ở Tiểu học- NXB Giáo dục. - Dạy văn cho học sinh Tiểu học- NXB Giáo dục. - Thông qua các tiết chuyên đề ở tổ, trường; dự giờ đồng chí đồng nghiệp và kinh nghiệm giảng dạy của bản thân trong nhiều năm qua. 2. Các giải pháp tiến hành Xuất phát từ các nguyên nhân trên, hàng năm trong quá trình giảng dạy, bản thân tôi đã thực hiện một số giải pháp nhằm rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho các em lớp 4&5. Cụ thể : cứ vào đầu mỗi năm học, sau khi nhận lớp và ổn định tổ chức lớp xong, tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng hai môn Toán, Tiếng Việt để nắm được chất lượng đại trà từng môn của từng lớp ; sau đó tôi tiếp tục đưa ra một đoạn văn ngắn yêu cầu các em đọc để khảo sát kĩ năng đọc của từng học sinh. Kết quả khảo sát đầu năm học 2009 – 2010 là : Thời gian kiểm tra Đọc chưa lưu loát Đọc đúng Đọc hay (có diễn cảm ) Lớp 5A Lớp 4D Lớp 5A Lớp 4D Lớp 5A Lớp 4D SL % SL % SL % SL % SL % SL % KSCLđầu năm 6 23,1 5 14,3 17 65,4 25 71,4 3 11,5 5 14,3 Dựa vào kết quả khảo sát trên, tôi đã phân loại các đối tượng đọc gồm : * Đối tượng 1 : Những học sinh đọc đúng, đọc hay (đọc diễn cảm). * Đối tượng 2 : Những học sinh đọc đúng song chưa diễn cảm. * Đối tượng 3 : Những học sinh đọc chưa lưu loát và còn chậm. Sau khi phân loại học sinh, tôi đã có kế hoạch bồi giỏi, phụ yếu về kĩ năng đọc cho các em trong các tiết học, đặc biệt trong giờ Tập đọc. Vậy để rèn cho các em có kĩ năng đọc diễn cảm tốt, tôi đã tiến hành các bước như sau : 2.1. Yêu cầu học sinh đọc to, đọc đúng, lưu loát và nắm được nội dung, ý nghĩa các bài đọc Muốn đọc diễn cảm một tác phẩm trước hết đòi hỏi các em cần phải biết đọc đúng, đọc to, lưu loát và nắm được nội dung, ý nghĩa của tác phẩm đó. Vì khi đọc đúng, các em sẽ phát âm chính xác các từ ngữ, biết ngắt nghỉ giọng đúng chỗ trong từng câu, từng đoạn để giúp người nghe hiểu đúng nghĩa các từ ngữ cũng như các câu văn của bài đọc; Còn khi các em nắm được nội dung, ý nghĩa bài đọc sẽ giúp các em biết nhấn giọng các từ ngữ biểu cảm và tự xác định được giọng đọc phù hợp cho từng đoạn hay cả bài đọc đó. Hơn nữa, có hiểu thấu đáo nội dung và ý nghĩa của bài đọc thì các em mới có những cảm xúc thực để truyền đạt được những tâm tư tình cảm hay ý đồ của tác giả được ẩn chứa trong từng câu, từng chữ của bài đọc đến với người nghe. Vì thế, đây là một yếu tố rất quan trọng, là cơ sở ban đầu của việc rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho các em. + Việc giúp các em luyện đọc đúng, đọc to và lưu loát tôi thực hiện chủ yếu ở bước luyện đọc. Trong quá trình đọc, tôi thường gọi các em thuộc đối tượng 1 và 2 đọc trước; sau đó yêu cầu các em tiếp tục giúp đỡ, kèm cặp các bạn đọc còn chậm, chưa lưu loát tiến đến đọc đúng và lưu loát hơn. + Việc giúp các em nắm nội dung, ý nghĩa của bài đọc được tiến hành chủ yếu ở bước tìm hiểu bài. Sau khi hướng dẫn các em khai thác nội dung các câu hỏi trong sách giáo khoa, tôi đã nêu thêm một vài câu hỏi mở để giúp các em hiểu sâu sắc hơn về ý nghĩa của bài đọc đó. 2.2. Hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm Đọc diễn cảm (còn gọi là đọc hay) là một hình thức bộc lộ cảm thụ văn bản. Qua đọc diễn cảm, người giáo viên sẽ đo được mức độ cảm thụ của học sinh. Vì thế có thể nói: “Đọc diễn cảm là một kĩ xảo của quá trình đọc.” Luyện đọc diễn cảm cho học sinh tức là hướng dẫn cho các em khi đọc biết cách thể hiện ngữ điệu, trường độ, cao độ qua giọng đọc của mình. Muốn thể hiện tốt giọng đọc diễn cảm cho một bài đọc hay một đoạn trong bài đọc thì người giáo viên cần căn cứ vào nội dung, phong cách bài đọc để dẫn dắt, gợi mở học sinh tìm ra cách đọc và tập thể hiện bằng giọng đọc của chính mình. Thông thường, ở lớp 4 và 5, bước đọc diễn cảm được thực hiện sau bước tìm hiểu bài và không đòi hỏi học sinh phải thực hiện đọc cả bài mà chỉ yêu cầu đọc diễn cảm 1- 2 đoạn trong bài đọc. Vì thế, sau khi các em tìm hiểu bài xong, tôi đã tiến hành luyện đọc diễn cảm cho các em theo quy trình : + Đọc nối tiếp từng đoạn trong bài. + Giới thiệu đoạn đọc diễn cảm (thường là những đoạn tiêu biểu và khó đọc nhất trong bài đọc) + Đọc mẫu (giáo viên hoặc học sinh giỏi, khá) + Yêu cầu học sinh nêu giọng đọc phù hợp cho đoạn trên. + Luyện đọc diễn cảm theo nhóm. + Tổ chức thi đọc diễn cảm trước lớp. Với quy trình trên, tôi thường giao việc cụ thể cho từng đối tượng HS như sau : - Với các em thuộc đối tượng 1 (những HS đọc hay) : Tự đọc để phát hiện cách đọc; nêu giọng đọc phù hợp nhất và tiến hành đọc diễn cảm đoạn đó. - Với các em thuộc đối tượng 2 (những HS đọc đúng) : Nêu chỗ ngắt nghỉ giọng cho câu văn (đặc biệt trong câu văn dài) hay nhịp điệu của dòng thơ, câu thơ ; nêu các từ ngữ cần nhấn giọng để bước đầu biết đọc diễn cảm. - Với các em thuộc đối tượng 3 (những HS đọc chưa lưu loát, còn chậm) : Đọc đúng các từ ngữ thường phát âm sai, nêu được một số từ ngữ cần nhấn giọng để luyện đọc trôi chảy (trường hợp này chỉ dừng lại ở luyện đọc đúng, không yêu cầu đọc diễn cảm). Thực tế, không phải bài nào tìm hiểu bài xong mới tiến hành luyện đọc diễn cảm mà tùy theo từng bài và tùy từng đối tượng học sinh, tôi có thể hướng dẫn các em thể hiện đọc diễn cảm ngay từ bắt đầu luyện đọc đoạn. Điều này rất tốt, tạo hứng thú trong quá trình học tập của học sinh. Ví dụ: + Khi dạy bài “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” (Tiếng Việt 4- tập 2, trang 71) Trước hết tôi gọi một em đọc toàn bài thơ, yêu cầu các em dưới lớp theo dõi và nhận xét nhịp điệu, sắc thái của bài thơ này (nhanh hay chậm, vui tươi hay buồn rầu, hóm hỉnh hay gay gắt), rồi yêu cầu các em dựa vào nội dung của bài thơ để xác định giọng đọc phù hợp. Sau khi học sinh nêu, tôi bổ sung thêm và hướng dẫn các em nhấn giọng ở các từ gợi tả trong bài. Qua đó, tôi thấy đa số các em biết thể hiện giọng đọc diễn cảm cho toàn bài thơ ngay từ lúc bắt đầu bước vào phần luyện đọc đúng với giọng vui, hóm hỉnh nhằm toát lên được tinh thần dũng cảm, lạc quan, coi thường khó khăn, gian khổ của các chiến sĩ lái xe trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Với cách làm như trên, khi chuyển sang bước luyện đọc diễn cảm, các em sẽ chủ động hơn trong việc đọc diễn cảm từng đoạn của bài thơ và không chỉ những học sinh giỏi, khá biết đọc diễn cảm mà một số em học sinh trung bình cũng có thể bước đầu biết đọc diễn cảm. Trong chương trình Tập đọc, yếu tố đọc diễn cảm đối với lớp 4 chỉ yêu cầu ở mức độ vừa phải (tức là chỉ bước đầu biết đọc diễn cảm) ; còn đối với lớp 5 thì yếu tố này đòi hỏi ở mức độ cao hơn như : biết đọc diễn cảm đoạn văn, đoạn thơ dễ nhớ trong bài ; biết đọc diễn cảm bài văn phù hợp với nội dung và tính cách nhân vật ; biết đọc diễn cảm bài thơ, ngắt giọng đúng nhịp thơ. Vậy: Có phải bài đọc nào cũng hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm không ? Giọng đọc mẫu của giáo viên có ảnh hưởng gì đến việc hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm ? - Không phải bài đọc nào cũng thực hiện đọc diễn cảm. Đối với văn bản nghệ thuật thì mới hướng dẫn đọc diễn cảm, còn đối với các văn bản khác thì chỉ hướng dẫn luyện đọc lại. Đồng thời, trong thực tế, không phải giáo viên nào cũng biết đọc diễn cảm nên giọng đọc mẫu của giáo viên có ý nghĩa rất quan trọng trong việc hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm, nó không những giúp các em cảm nhận được ngay từ đầu cái hay, cái đẹp của tác phẩm mà còn tạo hứng thú trong suốt giờ học của các em. Chính vì thế, khi dạy, tôi yêu cầu các em xác định bài đọc đó có phải là văn bản nghệ thuật hay không ? Còn khi tiến hành đọc diễn cảm, tôi luôn nhắc các em phải biết thể hiện rõ ngữ điệu, trường độ, cao độ của giọng đọc trong từng bài. Đối với mỗi bài đọc, tôi luôn khuyến khích các em tự trình bày giọng đọc hay nhất thông qua ngữ điệu, độ to nhỏ, trầm bổng hay nhanh chậm của âm thanh, câu, từ. - Trong quá trình soạn bài, tôi đã phân loại các văn bản nghê thuật trong chương trình Tập đọc lớp 4 & 5 thành 3 thể loại cơ bản sau : (1) Văn xuôi. (2) Thơ. (3) Truyện ; kịch. Ở mỗi thể loại, tôi hướng dẫn cách đọc diễn cảm khác nhau. Cụ thể : a, Đối với văn xuôi Hướng dẫn các em xác định về sắc thái giọng đọc, biết lựa chọn cách ngắt nghỉ giọng và nêu được những chỗ cần nhấn giọng phù hợp trong từng câu của đoạn. Tuỳ theo nội dung từng câu hay của cả đoạn để lựa chọn các yếu tố trên sao cho phù hợp, từ đó các em sẽ tự điều chỉnh được giọng đọc của bản thân khi đọc. Ngoài việc khai thác các câu hỏi trong sách giáo khoa, tôi còn cho các em tìm hiểu thêm về giá trị nghệ thuật trong đoạn cần đọc diễn cảm để các em dễ dàng tìm đúng giọng đọc cho đoạn đó. Ví dụ: Khi dạy bài “Mùa thảo quả” ( Tiếng Việt 5 - tập 1, trang 113) Ở bước tìm hiểu bài, sau khi các em đã khai thác xong hệ thống câu hỏi trong SGK, tôi nêu thêm một số câu hỏi dành cho HS khá, giỏi giúp các em tìm hiểu về giá trị nghệ thuật có trong đoạn cuối để thấy hết vẻ đẹp đặc biệt của thảo quả khi chín. + Đoạn cuối bài, tác giả đã sử dụng những biện pháp nghệ thuật gì để miêu tả thảo quả khi chín ? ( so sánh và nhân hoá) + Hãy nêu những hình ảnh so sánh và nhân hoá đó. (So sánh là những chùm thảo quả đỏ chon chót như chứa lửa, chứa nắng ; thảo quả như những đốm lửa hồng ; Nhân hoá là rừng say ngây và ấm nóng) + Để miêu tả thảo quả khi chín, tác giả đã dùng những giác quan nào ? (thị giác và khứu giác) + Đoạn này ý nói lên điều gì ? (Vẻ đẹp đặc biệt của thảo quả khi chín) Vì đoạn cuối có nhiều câu văn hay, thể hiện nội dung trọng tâm của bài văn và có độ dài dài nhất trong ba đoạn nên tôi chọn đoạn 3 để hướng dẫn các em đọc diễn cảm. Tôi tiến hành như sau : - Gọi HS đọc nối tiếp toàn bài văn. - 3 HS đọc nối tiếp ; Cả lớp đọc thầm - Giới thiệu đoạn đọc diễn cảm (đoạn 3) Treo bảng phụ và gọi HS đọc mẫu. - 1 HS đọc to (HS khá, giỏi); Lớp theo dõi. + Để đọc hay đoạn này, em cần đọc với - Nêu các từ cần nhấn giọng, chỗ ngắt hơi giọng như thế nào ? sau các cụm từ (ĐT2 + 3) ; nêu giọng đọc phù hợp nhất cho đoạn (ĐT1). - Thống nhất giọng đọc cho đoạn này : đọc - Chú ý lắng nghe. với giọng nhẹ nhàng, cảm hứng ca ngợi và nhấn giọng các từ gợi tả, gợi cảm. (có thể đọc mẫu lại ) - Luyện đọc diễn cảm theo nhóm. - Đọc theo nhóm đôi (2’) - Tổ chức thi đọc diễn cảm trước lớp - 3- 4 HS thi đọc ( theo từng cặp cùng nhóm đối tượng đọc); Dưới lớp nhận xét và bình chọn bạn đọc hay nhất => Nhận xét, ghi điểm ; Tuyên dương HS. . Cụ thể đoạn này đọc như sau : Sự sống cứ tiếp tục trong âm thầm, hoa thảo quả nảy dưới gốc cây kín đáo và lặng lẽ. Ngày qua, trong sương thu ẩm ướt và mưa rây bụi mùa đông, những chùm hoa khép miệng bắt đầu kết trái. Thảo quả/ chín dần. Dưới đáy rừng, tựa như đột ngột, bỗng rực lên những chùm thảo quả đỏ chon chót, như chứa lửa, chứa nắng. Rừng ngập hương thơm. Rừng sáng như có lửa hắt lên từ dưới đáy rừng. Rừng say ngây và ấm nóng. Thảo quả như những đốm lửa hồng, ngày qua ngày/ lại thắp thêm nhiều ngọn mới, nhấp nháy/ vui mắt. b, Đối với thơ Ngoài sắc thái giọng đọc và cách nhấn giọng, tôi thường hướng dẫn các em biết lựa chọn nhịp điệu cho từng dòng thơ, câu thơ trong các khổ thơ. Tuỳ theo nội dung của từng bài để tôi hướng dẫn các em đọc diễn cảm. Ngoài việc chọn một đoạn tiêu biểu để hướng dẫn các em đọc diễn cảm, tôi còn cho các em tự chọn và luyện đọc đoạn thơ mà các em yêu thích để tạo hứng thú, sự thoải mái và tránh bị gò ép khi học tập ; đồng thời phát huy tính tích cực, sáng tạo trong học sinh. Ví dụ: Dạy bài “Tre Việt Nam” (TV4- tập 1, trang 41) Vì bài này độ dài của các đoạn gần bằng nhau nên sau khi tìm hiểu bài xong, tôi hỏi: + Bài thơ này có mấy đoạn ? + 4 đoạn - Gọi HS đọc nối tiếp bài thơ. - 4 HS đọc, mỗi em 1 đoạn. + Em thích nhất là đoạn nào ? Vì sao ? + 3- 4 HS nêu kết hợp giải thích. - Tổ chức luyện đọc diễn cảm. - Đọc diễn cảm đoạn đã chọn theo một trong ( nhắc HS chú ý chỗ nhấn giọng, nhịp các hình thức sau : thơ, giọng đọc phù hợp với đoạn đã chọn) . Đọc cá nhân. . Đọc theo nhóm ngẫu nhiên trong tổ. . Đọc theo nhóm ngẫu nhiên trong lớp. - Tổ chức thi đọc diễn cảm kết hợp đọc + 2 - 3 HS (hoặc nhóm) thi đọc đoạn. thuộc lòng trước lớp. + 1- 2 em đọc thuộc lòng cả bài. - Dưới lớp bình chọn bạn đọc hay nhất. => NX, ghi điểm; Tuyên dương. (VD : Đoạn 4 của bài thơ cần đọc với giọng ca ngợi ; nhấn giọng ở các từ khẳng định và những từ mang rõ sắc thái cảm xúc như sau : ... Nòi tre đâu chịu mọc cong Chưa lên đã nhọn như chông / lạ thường. Lưng trần phơi nắng / phơi sương Có manh áo cộc, cũng nhường cho con. Măng non là búp măng non Đã mang dáng thẳng / thân tròn của tre. Năm qua đi, tháng qua đi Tre già măng mọc / có gì lạ đâu. Mai sau, Mai sau, Mai sau, Đất xanh/ tre mãi/ xanh màu tre xanh.) - Đối với các bài thơ thuộc thể thơ tự do, nhịp thơ không ổn định nên tôi luôn nhắc các em phải dựa vào ý thơ giữa các dòng để ngắt đúng nhịp từng dòng thơ hoặc đọc theo cách vắt dòng (tức là đọc liền mạch với các dòng sau) Ví dụ: Khi dạy bài “Hạt gạo làng ta” (Tiếng Việt 5- tập 1) Tôi chọn 2 khổ thơ đầu để yêu cầu các em luyện đọc diễn cảm. Sau khi các em đã nêu được giọng đọc và các từ ngữ cần nhấn giọng thì tôi hướng dẫn các em đọc vắt dòng cuối các dòng 2,4,6 (ở khổ thơ 1) và cuối các dòng 4,6 (ở khổ thơ 2). Cụ thể: Hạt gạo làng ta/ Hạt gạo làng ta/ Có vị phù sa Có bão tháng bảy/ Của sông Kinh Thầy/ Có mưa tháng ba/ Có hương sen thơm Giọt mồ hôi sa Trong hồ nước đầy/ Những trưa tháng sáu/ Có lời mẹ hát Nước như ai nấu Ngọt bùi đắng cay…/ Chết cả cá cờ / Cua ngoi lên bờ/ Mẹ em xuống cấy…/ c, Đối với truyện- kịch - Với thể loại này, khi hướng dẫn đọc diễn cảm thì trước hết tôi giúp các em phân biệt rõ giữa lời kể và lời các nhân vật, giữa lời các nhân vật với nhau; phân biệt nhân vật chính - phụ để các em thể hiện tốt lời nói, ngữ điệu theo từng tuyến nhân vật nhằm tăng giá trị biểu cảm của tác phẩm. Đồng thời, tổ chức đọc diễn cảm theo cách phân vai kết hợp với sự phụ trợ của nét mặt, ánh mắt, điệu bộ, cử chỉ,…cho từng nhân vật. Vì vậy, trong quá trình rèn đọc, tôi yêu cầu các em nhấn giọng các từ ngữ biểu cảm, nhận biết được tính cách của từng nhân vật,…để xác định giọng đọc phù hợp với từng nhân vật trong câu chuyện hay đoạn kịch. - Khi tổ chức đọc diễn cảm loại bài này, tôi đã kết hợp gọi cả ba đối tượng học sinh cùng tham gia đọc, như: + Đối tượng 1 và 2 (những HS đọc đúng, đọc hay) : các em nhập vai những nhân vật có tính cách mạnh mẽ ; vai người dẫn chuyện hay những vai có lời thoại dài, cần thể hiện nhiều cảm xúc. + Đối tượng 3 (những HS đọc chưa lưu loát và còn chậm): các em nhập vai một số nhân vật có tính cách trầm, nhẹ nhàng hoặc những vai có lời thoại ngắn, đơn giản nhằm tạo hứng thú học tập cho các em và giúp các em có cơ hội được bộc lộ, từ đó các em sẽ cố gắng rèn đọc dần dần ở những bài sau. Ví dụ: Dạy bài “Lòng dân” (Tiếng Việt 5- tập 1, trang 24) * Luyện đọc : - Tổ chức cho các em đọc nối tiếp từng đoạn hay toàn bộ đoạn kịch theo phân vai. Khi các em đọc lời đối thoại các nhân vật trong đoạn kịch thì tôi nhắc các em cần phải: + Phân biệt tên nhân vật với lời nói của nhân vật và lời chú thích về thái độ, hành động của nhân vật. + Thể hiện đúng tình cảm, thái độ của các nhân vật qua lời nói và tình huống kịch. - Yêu cầu các em nêu giọng đọc phù hợp với từng nhân vật. Cụ thể : . Giọng của Cai và lính khi nói với Dì Năm : ở đoạn 1 thì hống hách, hung dữ và xấc xược; còn ở đoạn 5 lúc thì dịu giọng để mua chuộc, dụ dỗ, lúc thì hống hách để doạ dẫm, lúc thì ngọt ngào xin ăn. . Giọng của dì Năm : đoạn đầu tự nhiên; đoạn sau nhẹ nhàng, khéo léo. . Giọng của cán bộ : bình tĩnh, thông minh. . Giọng của An : thật thà, hồn nhiên và ngây thơ. - Hướng dẫn các em cách đọc diễn cảm đoạn kịch theo phân vai. * Đọc diễn cảm : - Yêu cầu đọc diễn cảm theo nhóm + Đọc từng đoạn. + Từng tốp học sinh đọc ; Lớp nhận xét. + Đọc toàn bộ đoạn kịch. + 6 em đọc (ĐT1 và 2 : vai dì Năm, chú cán bộ, cai và người dẫn chuyện ; ĐT3 : vai An và lính) - Tổ chức thi đọc diễn cảm trước lớp. - Đọc theo phân vai (1 – 2 nhóm) - Lớp NX và bình chọn bạn thể hiện hay nhất. => NX, tuyên dương. Như vậy, để rèn cho các em đọc diễn cảm có hiệu quả, trong các giờ Tập đọc tôi luôn cho các em xác định bài đọc đó thuộc thể loại nào, từ đó các em sẽ định dạng cho mình về cách thể hiện cảm xúc đối với bài đọc đó một cách tốt nhất, góp phần nâng cao năng lực cảm thụ văn học cho các em. Hơn nữa, vì thời gian luyện đọc diễn cảm trong giờ Tập đọc rất ít nên để đáp ứng cho nhiều đối tượng học sinh được đọc diễn cảm, tôi đã tiến hành tổ chức cho các em luyện đọc thêm các tiết Tăng cường tiếng Việt (buổi chiều) hoặc trong thời gian bồi dưỡng, phụ đạo cho các em ở các tiết học. 2.3. Bồi dưỡng vốn sống cho học sinh Thực tế các lớp tôi dạy, đa số các em đọc tương đối lưu loát các bài đọc trong sách giáo khoa cũng như các văn bản khác song do sự trải nghiệm thực tế còn hạn chế và vốn sống còn ít ỏi nên các em khó thể hiện thành công một bài đọc theo yêu cầu một cách chủ động và sâu sắc. Ví dụ: Khi dạy bài “Quang cảnh làng mạc ngày mùa” (Tiếng Việt 5- tập 1) Đa số các em học sinh của trường tôi là con cán bộ công chức, ít làm ruộng. Nếu như các em chưa một lần được về quê hoặc về vùng nông thôn, chưa được ngắm cảnh đồng quê vào vụ gặt trong một ngày thu đẹp trời thì các em khó có thể cảm nhận được hết vẻ đẹp trù phú, ấm no, thanh bình mà nhộn nhịp của ngày mùa. Trong bài đọc trên tả một vẻ đẹp trù phú, sống động nơi làng quê với những màu vàng rất khác nhau : vàng xuộm của cánh đồng, vàng hoe của nắng trời mùa thu, vàng lịm của những quả xoan chín mọng, vàng mượt của những chú chó, chú gà béo tốt…Tất cả những chi tiết đó các em đều cảm nhận qua lời giảng và giọng đọc của tôi thể hiện lại mà không hề biết bản thân mình đúng hay sai. Vì thế, trong quá trình dạy, tôi yêu cầu các em luôn phải cố gắng đặt mình vào hoàn cảnh của nhân vật, hoà mình vào cảnh vật để cảm nhận hết cái tình của tác phẩm. Ngoài ra, tôi nhắc các em tìm đọc thêm sách, báo, chuyện; tích cực tham gia các cuộc thi do nhà trường và Liên đội tổ chức; hoặc đi tham quan du lịch, dã ngoại cùng với gia đình trong các dịp hè, dịp tết hay các ngày lễ, ngày nghỉ cuối tuần,…để bản thân các em được tiếp xúc, hiểu biết nhiều về thế giới bên ngoài nhằm tăng thêm vốn sống thực tiễn cho các em, từ đó các em tiếp thu bài một cách chủ động, hứng thú, không mơ hồ và đạt hiệu quả cao. 2.4. Tổ chức các hình thức rèn đọc diễn cảm cho học sinh Đối với học sinh Tiểu học, bất kì học môn học nào hoặc tham gia một phong trào gì đó thì tâm lí các em đều thích được bộc lộ, thích khen và luôn có tính thi đua. Vì thế, trong quá trình lên lớp, để giúp các em luyện đọc diễn cảm có hiệu quả, đảm bảo thời gian và tạo cho tất cả các em đều có cơ hội bộc lộ khả năng của chính mình, tôi đã thường xuyên tổ chức các hình thức đọc diễn cảm khác nhau. Và tuỳ theo từng bài, từng thể loại để tổ chức cho các em đọc diễn cảm một đoạn hay cả bài. Cụ thể : * Văn xuôi và thơ : - Đối với những bài mà giữa các đoạn có độ dài, độ khó tương đương nhau thì tôi có thể cho các em tự chọn đoạn theo ý thích để luyện đọc diễn cảm. Trong quá trình luyện đọc, tôi thường tổ chức hình thức đọc cá nhân hoặc đọc theo nhóm ngẫu nhiên có cùng đoạn đọc. - Đối với các bài có đoạn dễ - đoạn khó; đoạn ngắn - đoạn dài thì tôi sẽ ấn định đoạn cần luyện đọc diễn cảm cho các em (thường là đoạn tiêu biểu nhất trong bài). Trường hợp này tôi thường tổ chức các hình thức đọc giống như quy trình nêu trên, gồm : cá nhân đọc mẫu, đọc theo nhóm đôi, thi đọc trước lớp. Nếu em học sinh đó đọc mẫu chưa đạt yêu cầu thì tôi sẽ đọc lại đoạn đó để định hướng cho tất cả các em có giọng đọc đúng và phù hợp với đoạn trên. * Truyện - Kịch : Nếu nội dung của câu chuyện, đoạn kịch đó ngắn thì tôi hướng dẫn các em luyện đọc cả bài. Ngược lại câu chuyện, đoạn kịch đó dài thì tôi chọn đoạn có lời thoại hay, nhiều câu văn dài, khó để hướng dẫn các em đọc diễn cảm và tổ chức hình thức đọc theo phân vai. Tuy nhiên không phải bài tập đọc nào cũng tổ chức đọc diễn cảm sau khi các em đã luyện đọc đúng và tìm hiểu bài. Có những bài tôi đã định hướng cách đọc diễn cảm cho các em ngay ở phần luyện đọc đúng (như ví dụ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”; “Lòng dân” nêu trên). Qua các hình thức tổ chức trên nhằm phát huy tính độc lập (đọc cá nhân), tính hợp tác (đọc theo nhóm, đọc theo phân vai) và tính thi đua (thi đọc trước lớp) trong học sinh ; đồng thời giúp tôi phân loại các đối tượng đọc một cách dễ dàng, từ đó tôi tiếp tục có kế hoạch bồi dưỡng, giúp các em học ngày càng tiến bộ nhằm nâng cao chất lượng đọc diễn cảm nói riêng và chất lượng giảng dạy nói chung. IV/ KẾT QUẢ Với các giải pháp trên, tôi đã thực hiện khá linh hoạt và có rất nhiều khả thi trong những năm qua. Riêng đối với năm học này, tôi vẫn tiếp tục áp dụng cho hai lớp đang dạy (4D và 5A). Sau hơn một học kì, với những kinh nghiệm và sự cố gắng nổ lực của bản thân, tôi thấy chất lượng đọc diễn cảm của các em đã có sự tiến bộ rõ rệt và đạt được kết quả đáng khích lệ. Cụ thể : Thời gian kiểm tra Đọc chưa lưu loát Đọc đúng Đọc hay (có diễn cảm ) Lớp 5A Lớp 4D Lớp 5A Lớp 4D Lớp 5A Lớp 4D SL % SL % SL % SL % SL % SL % KSCLđầu năm 6 23,1 5 14,3 17 65,4 25 71,4 3 11,5 5 14,3 Giữa học kì I 2 7,7 3 8,6 19 73,1 25 71,4 5 19,2 7 20 Cuối học kì I / / / / 19 73,1 24 68,6 7 26,9 11 31,4 V/ BÀI HỌC KINH NGHIỆM Qua thực tiễn giảng dạy nhiều năm, bản thân tôi nhận thấy rằng để giúp các em đọc đúng, đọc hay (có diễn cảm ) thì đòi hỏi cần thực hiện tốt một số yêu cầu sau: 1/ Đối với giáo viên - Nắm được Chuẩn kiến thức, kĩ năng yêu cầu đối với học sinh của từng khối lớp. - Xác định được mục tiêu môn học và xây dựng kế hoạch bài học phù hợp với các đối tượng học sinh. - Đầu năm cần khảo sát chất lượng đọc của học sinh để phân loại và có kế hoạch bồi giỏi, phụ yếu cho các em trong các giờ học Tập đọc. - Phân loại các bài đọc theo từng thể loại để hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm. - Đọc mẫu được tất cả các bài đọc trong chương trình học ; nghiên cứu kĩ trước nội dung của từng bài đọc để tìm ra cách đọc hay nhất. - Yêu cầu học sinh phát hiện giọng đọc phù hợp cho từng đoạn hay cả bài đọc để các em chủ động thể hiện đọc diễn cảm tốt (không làm thay cho học sinh). - Hướng dẫn các em nắm vững nội dung và giá trị nghệ thuật của bài đọc nhằm giúp các em thấy được cái hay, cái đẹp trong mỗi bài đọc đó. - Khi học sinh đọc, giáo viên luôn quan tâm đến ngữ điệu, nhịp điệu, trường độ, cao độ và âm sắc giọng đọc trong từng câu, từng đoạn cụ thể nhằm giúp các em thể hiện tốt cảm xúc cho từng bài đọc. - Tổ chức phối hợp các hình thức luyện đọc diễn cảm phong phú, đa dạng mang tính học mà chơi, chơi mà học nhằm phát huy tính thi đua, tính nêu gương,... trong học sinh. - Phối kết hợp với cha mẹ học sinh thường xuyên bồi dưỡng kĩ năng sống cho các em thông qua trải nghiệm thực tế nhằm giúp các em hiểu thêm về vốn từ ngữ trong tiếng Việt, từ đó các em hiểu sâu sắc hơn về thế giới xung quanh bên ngoài để các em luôn có những cảm xúc nhạy bén và thể hiện các bài đọc một cách tốt nhất. 2/ Đối với học sinh - Phải thường xuyên rèn kĩ năng đọc để đọc đúng, đọc to và lưu loát các bài đọc. - Phải nắm được nội dung của từng bài đọc để cảm nhận được cái hay, cái đẹp trong bài đọc ; Biết chủ động tìm giọng đọc phù hợp cho từng đoạn hoặc cả bài, từ đó các em sẽ đọc tốt và bộc lộ được cảm xúc của mình qua bài đọc. - Phải xem việc đọc diễn cảm là yêu cầu không thể thiếu trong giờ Tập đọc. Vì thế, các em phải có thói quen tự rèn đọc diễn cảm không những chỉ ở các tiết học trên lớp mà còn áp dụng cả việc tự học ở nhà. - Phải yêu thích môn học và luôn có hứng thú trong các tiết học ; Biết đọc diễn cảm không những ở các bài của phân môn Tập đọc mà còn áp dụng với các bài học trong các phân môn của môn Tiếng Việt và một số môn học khác (như : Đạo đức, phân môn Lịch sử). - Thường xuyên có ý thức đọc thêm sách, báo, truyện,... để tăng thêm sự hiểu biết cho bản thân, từ đó nâng cao khả năng bộc lộ của mình khi đọc bài. VI/ NHỮNG ĐỀ XUẤT VÀ KIẾN NGHỊ - Tiếp tục nghiên cứu, trao đổi đề tài này nhằm giúp giáo viên thực hiện có hiệu quả việc rèn đọc diễn cảm cho học sinh trong nhiều đơn vị; đồng thời giúp tôi bổ sung, hoàn thiện đề tài này. - Các cấp thường xuyên tổ chức cuộc thi đọc diễn cảm không những chỉ đối với trong giáo viên mà còn thực hiện cả trong học sinh nhằm nâng cao chất lượng đọc của học sinh và chất lượng giảng dạy của giáo viên. Kết luận: Trong trường Tiểu học, việc rèn đọc diễn cảm cho học sinh là điều hết sức cần thiết, nó mang lại hiệu quả cao trong quá trình học tập của các em. Đối với giáo viên, việc đọc diễn cảm lại càng có ý nghĩa quan trọng bởi nó giúp các giáo viên truyền thụ tác phẩm văn học tốt hơn, từ đó mang lại cho học sinh sự cảm nhận về bài đọc cũng tốt hơn. Hay nói cách khác: Năng lực đọc diễn cảm chính là một trong những “thước đo tay nghề” đối với giáo viên Tiểu học. Trên đây là một vài kinh nghiệm ít ỏi của bản thân trong việc Rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4 và 5 mà tôi đã rút ra được từ thực tế giảng dạy song không sao tránh khỏi những khiếm khuyết. Rất mong các đồng chí góp ý thêm cho bản kinh nghiệm của tôi được đầy đủ và hoàn thiện hơn, giúp tôi thực hiện ngày càng có hiệu quả hơn nữa trong việc rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh nói riêng và cũng như góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh nói chung. Buôn Trấp, ngày 10 tháng 01 năm 2010 Người viết Đinh Thị Minh Phượng XÁC NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG CHẤM SKKN CẤP TRƯỜNG ........................................................................................................................................... ........................................................................................................................................... ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................ XÁC NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG CHẤM SKKN CÁC CẤP ........................................................................................................................................... ........................................................................................................................................... ............................................................................................................................................ ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................ ........................................................................................................................................... ........................................................................................................................................... ............................................................................................................................................ ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................ ........................................................................................................................................... ........................................................................................................................................... ............................................................................................................................................ ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................ ........................................................................................................................................... ........................................................................................................................................... ............................................................................................................................................ ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................ ........................................................................................................................................... ........................................................................................................................................... ............................................................................................................................................ ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................ ........................................................................................................................................... ...........................................................................................................................................

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTiengviet_Dinhthiminhphuong_THKrongana.doc
  • pptTiengviet_Dinhthiminhphuong_THKrongana.ppt
Tài liệu liên quan