Qua nghiên cứu tuần hoàn, chu chuyển của tư bản và ý nghĩa cơ bản của nó đối với việc nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đã giúp cho chúng ta có cách nhìn toàn diện hơn về thực trạng kinh tế Việt Nam, vấn đề quay vòng vốn, sử dụng vốn và vấn đề năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, chỉ bằng cách hội nhập và phát triển mới có thể nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên trường quốc tế. Nước ta đang có nguy cơ tụt hậu về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh gay gắt, khốc liệt do đó đẩy mạnh huy động vốn, sử dụng vốn, đẩy mạnh cạnh tranh là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với nền kinh tế nước ta. Để có thể tăng trưởng vững mạnh, nền kinh tế nước ta phải sớm chuyển sang giai đoạn cất cánh, phải xây dựng chiến lược phát triển hợp lý, đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, hợp tác quốc tế, nâng cao vị thế của doanh nghiệp Việt Nam trên trường quốc tế.
60 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1659 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số nghiên cứu về tuần hoàn và chu chuyển tư bản và việc áp dụng lý thuyết này vào việc nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt nam trong điều kiện hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c kinh tế ở thời điểm hiện nay mạnh hơn và có chung với nước ta cơ cấu về xuất khẩu và thị trường xuất khẩu mục tiêu. Hai nước tạo thành nhóm ở tốp dưới trong nhóm tham gia AFTA và trong tổng số các nước vùng lãnh thổ được xem xét trong bản báo cáo hàng năm với năng lực cạnh tranh trung bình cách nhau 5 bậc. Điều này làm cuộc chạy đua giữa các nước với nhau và giữa các nước tham gia AFTA ngày càng gia tăng trong điều kiện thời hạn thực hiện đầy đủ cam kết AFTA đến gần thời hạn của Việt Nam vào năm 2006.
Trung Quốc là một đối thủ cạnh tranh tiềm tàng, trực tiếp với Việt Nam, cũng như các nước trong khu vực Đông Nam á, có năng lực cạnh tranh quốc gia được cải liên tục và có khoảng cách ngày càng xa với Việt Nam: chỉ số GCI năm 2002 của Trung Quốc xếp thứ 33/80 nước, tăng 6 bậc so với năm 2001 (39/75 nước) và chỉ số MICI đứng thứ 38/80 nước tăng 5 bậc so với năm 2001 (43/75 nước).
3.2.2. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có thể hiểu là khả năng tồn tại duy trì, hay gia tăng lợi nhuận, thị phần trên thị trường của các sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp. Giữa năng lực cạnh tranh quốc gia và năng lực cạnh tranh doanh nghiệp có quan hệ chặt chẽ, nhân quả với nhau. Về tổng thể số lượng các doanh nghiệp Việt Nam tăng nhanh trong những năm gần đây nhưng nhìn chung có quy mô nỏ và tiềm lực yếu. Thực vậy, cả nước hiện có 97,8% tổng số doanh nghiệp có quy mô dưới 300 lao động và 96,6% tổng số doanh nghiệp có quy mô lớn dưới 10 tỉ đồng, vốn thực tế sử dụng bình quân một doanh nghiệp khoảng 18 tỉ đồng (tương đương 1,2 triệu USD) - hầu hết là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Doanh nghiệp có quy mô lớn chỉ chiếm vài phần trăm, riêng loại có 1000 lao động trở lên chiếm 0,6% và loại có vốn 5 tỷ đồng trở lên chiếm 0,4% tổng số doanh nghiệp. Với tiềm lực đó sẽ rất khó khăn cho các doanh nghiệp khi tham gia cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế. Điều này được chứng minh qua hai nhóm chỉ tiêu đánh giá chính sau.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh của hầu hết các doanh nghiệp ở mức thấp (bảng 2) nên việc tích luỹ để phát triển và phòng chống rủi ro cũng thấp.
Bảng 2: Một số chỉ tiêu về hiệu quả sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp
Chỉ tiêu hoạt động
Kết quả
Doanh nghiệp
Nhà nước
Tập thể
Tư nhân
Có vố ĐTNN
1. Tỷ suất lợi nhuận/vốn (%)
5.45
4.41
4.06
5.51
8.87
Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu (%)
5.28
4.23
3.39
0.85
13.15
Nộp ngân sách/doanh thu (%)
8.42
8.81
3.02
2.98
14.42
Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam, số 23 ngày 22/02/2002.
Khả năng chiếm lĩnh thị trường của đa số các doanh nghiệp còn yếu. Ví dụ đối với các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp (xem bảng 3): (1) Khả năng chiếm lĩnh thị trường nội địa: 26,9% giành được ưu thế chiếm lĩnh thị trường; 58,8% chiếm lĩnh được thị trường nhưng chưa vững chắc; 14,3% hoàng toàn không có khả năng cạnh tranh ngay trên thị trường trong nước; (2) Khả năng xuất khẩu của doanh nghiệp 25% đã xuất khẩu, 13,7% có triển vọng sẽ xuất khẩu và 62,5% hoàn toàn không có khả năng xuất khẩu.
Bảng 3: Tỉ lệ doanh nghiệp công nghiệp phân theo khả năng chiếm lĩnh thị trường trong nước và xuất khẩu (năm 1998)
Toàn ngành công nghiệp
Chia ra %
Khai thác
Chế biến
Sản xuất năng lượng
Tổng số
1. Khả năng chiếm lĩnh: thị trường nội địa
- Giành được ưu thế
- Chưa vững chắc
- Có khả năng cạnh tranh
100,0
26,9
58,8
14,3
100,0
28,9
59,2
11,9
100,0
26,3
59,2
24,3
100,0
85,2
13,6
2,5
2. Khả năng xuất khẩu
- Đã xuất khẩu
- Triển vọng xuất khẩu
- Không có khả năng xuất khẩu
23,8
13,7
62,5
15,9
14,4
69,7
24,3
13,8
61,9
2,5
1,2
96,3
Nguồn: Tổng cục thống kê - tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam 10 năm 1991 - 2000.
3.3. Thực trạng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế
3.3.1. Trước hết phải để lĩnh vực xuất khẩu hàng hoá
Phần lớn hàng xuất khẩu của Việt Nam có sức cạnh tranh yếu. Đối với nhóm hàng nông lâm, thuỷ sản do khâu giống kỹ thuật, canh tác - nhất là khâu sau thu hoạch, bảo quản, chế biến còn yếu nên tốc độ tăng trưởng giảm. Riêng đối với mặt hàng thủ công nghiệp như dệt may, da giày, điện tử, hàng thủ công mỹ nghệ do trang thiết bị, nguyên vật liệu thiếu nên năng suất của nhiều doanh nghiệp thấp, giá thành cao, chất lượng sản phẩm chưa tốt nên sức cạnh tranh kém. Năm 2002, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Nhật Bản và EU bị suy giảm mạnh. Trong quý I/2003 khả năng xuất khẩu hàng dệt may sang hai thị trường lớn này giảm 25%.
Tuy nhiên, tỉ lệ hàng chế biến xuất khẩu có xu hướng tăng dần lên. song hiện nay tỉ lệ xuất khẩu hàng thô và sơ chế vẫn là chủ yếu, chiếm tới gần 60% tổng kim ngạch xuất khẩu. Năm 2001, kinh tế tăng trưởng 6,8% nhưng xuất khẩu chỉ tăng 4,5%. Sở dĩ xuất khẩu chỉ đạt như vậy vì trình độ công nghệ của các doanh nghiệp, của các ngành kinh tế còn thấp kém, hình thức xuất khẩu của các mặt hàng chỉ là gia công lắp ghép nên xuất khẩu không thể tạo ra xu thế cạnh tranh của các doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay.
3.3.2. Chi phí đầu vào sản xuất của các doanh nghiệp còn lơn
Trong nông nghiệp, chi phí sản xuất còn chiếm đến 40% giá trị sản xuất. Các phương thức canh tác còn lạc hậu, giống cây trồng, vật nuôi có chất lượng và năng suất lao động, thiết bị chế biến còn lạc hậu, làm cho chi phí sản xuất cao. Khi giảm thuế thu nhập khẩu và dỡ bỏ các hàng rào thuế quan sẽ hạn chế rất lớn khả năng cạnh tranh so với hàng nhập khẩu. Chắc chắn sẽ có những doanh nghiệp, những ngành sản xuất trong nông nghiệp bị thu hẹp. Quy mô, thậm chí không tồn tại nếu ngay từ bây giờ không nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.
Trong công nghiệp, chi phí sản xuất của nhiều sản phẩm còn cao, chiếm bình quân vào khoảng 70% giá trị sản xuất. Giá thành một số sản phẩm như xi măng, thép, giấy, vải, phân bón, hoá chất cơ bản đương... đều cao hơn giá thành sản phẩm cùng loại của các nước trong khu vực.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này chủ yếu tồn tại do yếu kém ở nhiều khâu. Trước hết là trình độ công nghệ và trang thiết bị của nền kinh tế còn thấp, các thiết bị công nghệ lạc hậu trung bình chiếm đến 60-70% lạc hậu hơn các nước trong khu vực 2-3 thế hệ. Trình độ tay nghề công nhân còn thấp vì vậy năng suất lao động thấp hơn nhiều so với các nước tiên tiến (của ngành thép thấp hơn 10-15 lần; ngành dệt, sợi 2-5 lần). Chi phí dịch vụ còn cao. Theo điều tra của các tổ chức quốc tế và phản ánh của doanh nghiệp, chi phí đầu vào Việt Nam được đánh giá cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực như cước điện thoại, viễn thông, chi phí giao thông vận tải, cảng biển, giá các sản phẩm độc quyền như xi măng, điện nước... Cụ thể là cước viễn thông quốc tế hơn từ 30-50%, giá điện cao hơn Myanma, Thái Lan, Singapore, Inđônêxia, Lào khoảng trên 45%; chi phí vận tải đường biển container cao hơn từ 40-50%. Các mức phí và lệ phí hàng hải tại các cảng ở Sài Gòn còn cao hơn vài lần so với cảng biển tại Bang Kok, Manila, Jakata. Chi phí nguyên vật liệu đầu vào nhìn chung là cao do chủ yếu nhập khẩu, chất lượng nguyên liệu sản xuất trong nước kém, không ổn định. Về mặt quản lý, các doanh nghiệp chưa quan tâm tìm giải pháp giảm thấp chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản xuất để tham gia hội nhập có hiệu quả, vẫn có tư tưởng trông chờ vào Nhà nước về cấp vốn, lãi suất, bù lỗ, miễn giảm thuế, mặc dù năm 2003 đã đến thời hạn cắt giảm thuế theo Hiệp định AFTA. Việc đầu tư nghiên cứu phát triển thương hiệu còn quá ít (chưa đến 1% doanh thu). Công tác xúc tiến thị trường tiếp thị còn lúng túng, ít được đầu tư và nhìn nhận đúng vai trò của nó.
Giá thành sản xuất của nhiều sản phẩm công nghiệp chủ yếu của nước ta còn cao hơn chuẩn mực quốc tế, dẫn đến giá bán xuất xưởng cao hơn hẳn giá sản phẩm cùng loại nhập khẩu. Do đó, các ngành công nghiệp này phải sống dựa hoàn toàn vào bảo hộ mậu dịch và chính bảo hộ mậu dịch lại thúc đẩy đầu tư trong nước và nước ngoài một cách sai lệch vào các ngành công nghiệp này. việc đầu tư trùng lặp tràn lan, đầu tư không hiệu quả không chỉ là sự lãng phí nguồn lực một lần mà còn để lại những di hại lâu dài về kinh tế - xã hội đối với các địa phương. Hơn nữa các khoản đầu tư thường không tính đồng bộ đến khả năng cạnh tranh quốc tế để có bước đi thích hợp. Tình hình này không chỉ ngăn trở quá trình hội nhập của nước ta vào nền kinh tế thế giới mà còn gây thiệt thòi trực tiếp cho người tiêu dùng và các dự án đầu tư, nhất là đối với các dự án đầu từ cho các sản phẩm hướng về xuất khẩu. Hơn nữa, nguồn lực đầu tư cho xã hội không được sử dụng tối ưu mà bị tích tụ vào một số khu vực mà lợi thế so sánh không phải là cao nhất.
3.3.3. Hệ thống chính sách ngân hàng của ta còn yếu
Hệ thống chính sách tài chính tiền tệ chưa năng động. Các nguồn thu vào ngân sách còn chứa đựng những yếu tố bất ổn định nhất là các khoản thu từ thuế xuất nhập giảm xuống sẽ làm cho mức thâm hụt càng lớn so với nhu cầu cần có để giải quyết đồng bộ các vấn đề kinh tế - xã hội. Tỉ lệ thâm nhập của tín dụng vào nền kinh tế còn rất thấp và không đủ sức yểm trợ cho sự phát triển của nền kinh tế. Trình độ thẩm định dự án của hệ thống ngân hàng còn yếu, còn dựa quá nhiều vào thế chấp, ý kiến bảo lãnh hoặc chỉ đạo của các cấp chính quyền. Ngân hàng vừa không huy động được hữu hiệu nguồn lực trong dân, vừa không sử dụng hiệu quả nguồn lực đã huy động được. Nếu không tập trung củng cố và nâng cấp vượt bậc hệ thống tài chính ngân hàng, các nguồn lực nội tại của nền kinh tế sẽ bị tắc nghẽn và nền kinh tế nước ta không đủ lực để thực sự vươn lên. Lãi suất cao hay thấp không phải là vấn đề chính yếu trong nền kinh tế đang phát triển mà trình độ thẩm định dự án và sự thông suốt, minh bạch của quá trình cho vay đóng vai trò quyết định. Hiện nay ta có xu thế dùng áp đặt hành chính để hạ lãi suất ngân hàng hơn là thúc đẩy ngân hàng cải cách nâng cao chất lượng hoạt động để đáp ứng nhạy bén và trung thực hơn các yêu cầu của thị trường.
3.3.4. Trình độ trang thiết bị và công nghệ lạc hậu
Thực trạng công nghệ trong một số ngành công nghệ đang là vấn đề đáng lo ngại hạn chế năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Cụ thể là trình độ công nghệ và thiết bị của ngành điện tử còn thấp hơn so với các nước trong khu vực khoảng từ 15-20 năm, phần lớn các thiết bị công nghệ của ngành cơ khí đã qua sử dụng trên 20 năm, lạc hậu về kỹ thuật, độ chính xác kém, quy trình sản xuất khép kín thiếu sự chuyên môn hoá. Phần lớn thiết bị công nghệ sản xuất giấy in báo, giấy bao bì lạc hầu từ 3-5 thập kỉ. Công nghệ lạc hậu được đầu tư từ vài chục năm trước với quy mô nhỏ trong ngành thép chỉ chiếm khoảng 53% sản lượng toàn ngành, công nghệ trung bình chiếm khoảng 16% và công nghệ tiên tiến chiếm 31%. Trình độ công nghệ và thiết bị sản xuất các loại hoá chất cơ bản hiện tại rất lạc hậu và có quy mô nhỏ từ vài trăm tấn đến hàng trăm tấn/năm. Máy móc và công nghệ sản xuất phân bón hầu hết lạc hậu đã sử dụng trên 25-30 năm. Các nhà máy sợi, dệt, nhuộm trong ngành dệt may mới thay thế được khoảng 30% công nghệ và thiết bị hiện đại còn lại khoảng 70% công nghệ thiết bị đã sử dụng trên 20 năm, hầu như khấu hao hết. Vấn đề chuyển giao công nghệ còn nhiều hạn chế, khảo sát ở 90 doanh nghiệp có 147 công nghệ được chuyển giao cho thấy chất lượng vào hiệu quả chuyển giao côn nghệ còn nhiều hạn chế do thiếu sự lựa chọn công nghệ tối ưu và trình độ công nghệ chưa phù hợp. Có thể đánh giá chung trình độ công nghệ và trang thiết bị sản xuất của ngành công nghiệp ở nước ta ở mức trung bình yếu so với các nước phát triển. Điều đó làm giảm sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp khi tham gia hội nhập.
Trước thực trạng trên đổi mới công nghệ là yêu cầu cấp bách. Song theo các nguồn báo cáo điều tra từ các nguồn khác nhau, các doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ ở mức thấp. Chi phí đổi mới công nghệ chỉ khoảng 0,2-0,3 doanh thu, so với mức 5% ở ấn Độ, 10% ở Hàn Quốc. Tại thành phố Hồ Chí Minh, các doanh nghiệp quốc doanh chỉ đầu tư khoảng 10 triệu USD/năm so với doanh nghiệp ngoài quốc doanh đầu tư khoảng 15-200 triệu USD/năm và doanh nghiệp đầu tư nước ngoài khoảng 1200 USD/năm. Trong số công nghệ mới được áp dụng, 95-99,95% là công nghệ nhập khẩu từ nước ngoài, khối hợp tác xã hầu như không có khả năng đổi mới công nghệ do thiếu vốn đầu tư, thiếu vốn đào tạo và những trở ngại khác.
Mục tiêu khiêm tốn đổi mới công nghệ 10%/năm của thành phố Hồ Chí Minh chưa thực hiện được. Tình hình đổi mới công nghệ ở một số doanh nghiệp Nhà nước Trung ương còn khá hơn nhờ có sự thúc đẩy của các bộ, ngành và trợ giúp tài chính của ngân hàng. Nhiều tiến bộ công nghệ đã được chuyển giao trong các ngành xây dựng cầu, đường, công nghệ dệt, may, thực phẩm... góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cũng như sản phẩm và dịch vụ. Nhìn chung, các doanh nghiệp Nhà nước địa phương có nguồn vốn quá nhỏ bé, làm ăn ít có lãi nên khả năng đổi mới công nghệ thấp. Trong khối doanh nghiệp tư nhân, một số doanh nghiệp lớn kinh doanh có lãi huy động được nhiều vốn đã liên tục đổi mới công nghệ một cách đáng kể và có kết quả đang trân trọng như dệt Thái Tuấn, gạch Đồng Tâm, giày dép Bit's, bánh kẹo Kinh Đo, Minh Quý, Kim Anh, Cafatex trong chế biến hải sản. bên cạnh đó phần lớn các doanh nghiệp tư nhân trong số 100000 doanh nghiệp đã đăng kí còn quá nhỏ, công nghệ lạc hậu ít có khả năng đổi mới. Trong số các trang trại kinh doanh nuôi trồng thuỷ sản lớn đã có một số trang trại áp dụng công nghệ sinh học mới nuôi trồng hiện đại song tỉ lệ còn chưa cao. Khoảng 10 triệu hộ nông dân đang có nhu cầu lớn chuyển dịch cơ cấu đổi mới giống và công nghệ song ít vốn, khó tiếp cận được tín dụng nên rất cần có vai trò của Nhà nước trong đổi mới công nghệ.
Về phía Nhà nước, kinh phí đầu tư cho đổi mới công nghệ còn thấp. Bảng 4 cho thấy vốn đầu tư cho phát triển hoạt động khoa học và công nghệ thấp, chiếm khoảng 0,5% giá trị tổng sản phẩm trong nước (hoặc dưới 2% tổng chi NSNN) tỉ lệ này thấp so với nhu cầu thực tế và so với bình quân của các khu vực.
Bảng 4: Vốn đầu tư cho khoa học, công nghệ và môi trường của Nhà nước
Năm
GDP theo giá so sánh năm 1994
(tỷ đồng)
Vốn đầu tư phát triển cho khoa học công nghệ
(tỷ đồng)
Tỉ lệ vốn đầu tư phát triển KH&CN so với GDP
(%)
1999
256.272
1221,2
0,48
2000
273.666
1433,3
0,52
2001
292.376
1518,6
0,52
ước 2002
312.959
1670,5
0,53
Nguồn: Niên giám thống kê năm 2001.
Nguyên nhân của thực trạng đổi mới công nghệ trên từ điều tra của JICA và CIEM năm 1999 cho thấy do:
Thứ nhất, các doanh nghiệp chưa có chiến lực kinh doanh, chưa nghiên cứu thị trường, chưa hiểu khách hàng của mình là ai, yêu cầu của họ như thế nào. Chính vì yếu kém này mà doanh nghiệp chưa biết các đối thủ cạnh tranh, chưa biết mình đứng ở vị trí nào trong thương trường, chưa cảm thấy sức ép cạnh tranh trong và ngoài nước.
Thứ hai, doanh nghiệp cũng không biết về công nghệ thích hợp để đáp ứng yêu cầu khách hàng. Trong rất nhiều trường hợp doanh nghiệp không am hiểu thị trường công nghệ nên đã mua một số trang thiết bị hiện đại (và quá tốn kém) nhưng không tương thích với thiết bị của nhà máy và vượt qua yêu cầu của khách hàng. Nhưng mua sắm không cần thiết như vậy gây ra không ít thất bại trong đầu tư.
Thứ ba là chưa có thị trường vốn trung hạn để cấp vốn cho nhu cầu đầu tư. Đặc biệt các quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ đầu tư khoa học công nghệ chưa hoạt động đã cản trở hai bên doanh nghiệp và các nhà khoa học gặp nhau.
Thứ tư là thủ tục đầu tư còn quá phiền hà, mất nhiều thời gian và tiền bạc làm nản lòng nhiều giám đốc doanh nghiệp. Các cơ quan ngôn luận đã lên tiếng về nhiều trường hợp vận dụng quy định tuỳ tiện, gây cản trở nghiêm trọng cho quá trình đầu tư như: thủ tục đấu thầu, giấy phép nhập công nghệ, áp giá nhập khẩu hải quan (xé lẻ các thiết bị toàn bộ thành các máy lẻ để thu thuế nhập khẩu...).
Thứ năm là một bộ phận người lao động không ủng hộ đổi mới vì lo bị mất việc.
Cuối cùng là vị thế độc quyền hay được ưu ái khiến doanh nghiệp có thể bằng cách khác vẫn kiếm được lợi nhuận nên không ít doanh nghiệp đã chọn con đường ít trở ngại nhất là kinh doanh mà không cần đổi mới công nghệ.
Có thể đưa ra ví dụ điển hình nguyên nhân cản trở đổi mới công nghệ trong khu vực doanh nghiệp Nhà nước.
Thiếu hiểu biết vê thị trường
Nghiên cứu nhu cầu thị trường và tiếp thị đều yếu
Thiếu hiểu biết về công nghệ thích hợp
Không nghiên cứu có hệ thống về công nghệ thích hợp với yêu cầu thị trường
Chưa có thị trường vốn trung và dài hạn
Doanh nghiệp Nhà nước ít có khả năng lựa chọn về nguồn vốn, phụ thuộc vào vốn của ngân hàng
Thủ tục đầu tư phát triển phức tạp mất thời gian
Thủ tục đòi hỏi quá nhiều cấp xét duyệt mất thời gian, công sức, tiền bạc.
Một bộ phận người lao động không ủng hộ
Số người lao động lớn tuổi, ít được đào tạo, e ngại không tiếp cận được với công nghệ mới
Lãnh đạo doanh nghiệp thiếu quyết tâm
Do không phải chịu sức ép của cạnh tranh nên lãnh đạo doanh nghiệp Nhà nước không cần phải đổi mới công nghệ
3.3.5. Chất lượng và năng suất lao động thấp
Trong nông nghiệp và khu vực nông thôn, năng suất lao động còn quá thấp. Hiện nay, kinh tế nông nghiệp và nông thôn Việt Nam dựa trên gần 12 triệu hộ nông dân đảm nhận, quy mô nhỏ bé, phương diện canh tác lạc hậu, năng suất thấp, chất lượng và hiệu quả thấp, sức cạnh tranh về nông sản hàng hoá trên thị trường kém. Lực lượng lao động ở nông thôn dồi dào nhưng đội ngũ lao động có tri thức còn mỏng, mới sử dụng khoảng 75% quỹ thời gian. Đất nông nghiệp bị chia cắt manh mún đang trở thành gánh nặng lớn trong quá trình CNH-HĐH nông nghiệp.
Trong công nghiệp, trình độ tay nghề chưa thể đáp ứng được yêu cầu và đòi hỏi của quá trình phát triển và là một nguyên nhân quan trọng hạn chế khả năng đổi mới công nghệ, đổi mới quy trình sản xuất và quản lý ở các doanh nghiệp. Hiện nay, có khoảng 73% lực lượng lao động công nghiệp không có trình độ chuyên môn kĩ thuật. Tỉ lệ đại học/trung cấp/công nhân kỹ thuật của Việt Nam là 1/1,5/2,5 trong khi của thế giới là 1/2,5/3,5. Công tác đào tạo lại chưa được quan tâm đúng mức, thiếu quy hoạch dài hạn, cộng với việc sử dụng đã ngộ chưa thoả đáng.
3.3.6. Bộ máy quản lý kém hiệu quả
ở các doanh nghiệp, bộ máy quản lý còn cồng kềnh, thường chiếm từ 6-9% tổng số lao động của doanh nghiệp, trong khi các nước trong khu vực chỉ chiếm 3-4%. Chi phí quản lý trong nhiều ngành thường chiếm từ 5-8% giá thành là khá cao. Mặt khác do quy định của Nhà nước nên nhiều vị trí trong bộ máy không kiêm nhiệm được và kém linh hoạt. Đáng chú ý là tổ chức lao động ở nhiều doanh nghiệp chưa hợp lý và khoa học, biên chế quá lớn (đặc biệt là đội ngũ gián tiếp), chức năng và nhiệm vụ không rõ ràng, kỷ luật lao động chưa nghiêm làm cho năng suất và hiệu quả thấp. Các nhà quản trị doanh nghiệp Việt Nam chưa coi trọng và quan tâm thực sự đến công tác hoạch định và chiến lược kinh doanh, chưa đánh giá đúng tầm quan trọng của việc xây dựng và phát triển thương hiệu sản phẩm, kinh nghiệm cạnh tranh còn yếu.
3.3.7. Thiết chế kinh tế còn mang nặng tính tập trung
Khu vực kinh tế dân doanh chưa được khuyến khích thoả đáng, trong nhiều lĩnh vực, nhiều khu vực vẫn chưa tìm thấy được sự phối hợp đồng bộ giữa các chính sách vĩ mô với các vấn đề của các doanh nghiệp dân doanh. Tiến trình cải cách doanh nghiệp Nhà nước diễn ra còn chậm. Mặc dù thời gian gần đây sự thông thoáng thể hiện rõ qua việc thực hiện luật doanh nghiệp mới nhưng hệ thống doanh nghiệp dân doanh đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn chưa được sự hỗ trợ thích đáng từ phía Nhà nước.
3.3.8. Rào cản kinh tế
Trong bối cảnh khó khăn chung nền kinh tế khu vực và thế giới năm 2002, tốc độ tăng trưởng GDP của nước ta cao thứ hai ở châu á, sau Trung Quốc (7,7%) và ở mức tăng cao so với tốc độ GDP bình quân của các nước đang phát triển (4,2%), và là năm có mức lạm phát dương 4%, sau nhiều năm nền kinh tế phát triển ở trạng thái tiểu phát(*) Nguồn thời báo Kinh tế Việt Nam - Kinh tế 2002 - 2003 Việt Nam - Thế giới * tức cứ 6,6 đồng vốn đầu tư mới làm ra được 1 đồng tăng thêm của GDP
.
Mặc dù có tốc độ tăng trưởng GDP cao nhưng hiệu quả tổng hợp giữa đầu tư và tăng trưởng - biểu hiện bằng hệ số ICOR trong giai đoạn 2000-2002 là chưa thoả đáng (hệ số trung bình là 6,6% tức là cứ 6,6 đồng vốn đầu tư mới làm ra được 1 đồng tăng thêm của GDP (xem bảng 5). Nguyên nhân chính là do tình trạng lựa chọn cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, tình trạng thất thoát và lãng phí còn phổ biến, chưa quan tâm thực sự đến hiệu quả và lợi ích lâu dài của dự án, làm ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng bền vững của nền kinh tế và các doanh nghiệp.
Bảng 5: Hệ số ICOR Việt Nam qua các giai đoạn 1998 - 2002 (giá so sánh)
Năm
Tỉ trọng vốn đầu tư phát triển trong GDP (%)
Tốc độ tăng trưởng kinh tế (%)
Hệ số
ICOR
1995
33
9,54
3,5
1998
37
5,76
6,4
1999
39
4,77
8,2
2000
40
6,79
5,9
2001
42
6,84
6,0
Ước 2002
44
7,04
6,3
Nguồn: Niên giám thống kê 2001 và Thời báo KTVN 2002-2003:
Việt Nam - Thế giới.
Chi phí đầu vào cao là những yếu tố giảm lợi nhuận của doanh nghiệp nhiều nguyên nhân là do: cơ sở hạ tầng quốc gia chưa được yêu cầu cho sự phát triển của doanh nghiệp, lãnh suất ngân hàng quá cao trong khi đó huy động ở thị trường vốn lại khó khăn. thực tế lãi vay ngân hàng đã trở thành một khoản chi phí lớn của doanh nghiệp làm cho lợi nhuận còn lại ít, tốc độ tích luỹ không đáp ứng được nhu cầu phát triển và phòng chống rủi ro.
3.3.9. Thiếu thông tin thị trường
Thiếu thông tin thị trường và không đủ khả năng thu thập xử lí thông tin là những rào cản rất lớn đối với doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin. Theo phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam thì chỉ có 84% doanh nghiệp trong điều tra trả lời là có nhận được thông tin về hội nhập, 16% doanh nghiệp chưa có hiểu biết chung về quy trình hội nhập, trong đó 24% không có thông tin về lịch trình cắt giảm thuế trong khuôn khổ AFTA, APEC, 34% không có thông tin về hội nhập WTO, 50% không có thông tin về các bước chuẩn bị thực hiện thương mại Việt - Mỹ, tỉ lệ doanh nghiệp hiểu về tiến trình hội nhập còn thấp hơn rất nhiều(*) Nguồn: Tạp chí Cộng sản số 625 tháng 10/2001
.
Kết quả điều tra cũng cho thấy có 5 cản trở chính đối với các doanh nghiệp trong việc thu nhập thông tin thị trường là: tiềm lực tài chính chưa đáp ứng yêu cầu về thông tin; khó khăn trong việc chấp nhận chi phí ngoài quy định để mua thông tin; khó thu thập thông tin về đối thủ cạnh tranh; khả năng thu thập thông tin và khản năng phân tích, xử lí thông tin còn hạn chế.
Thị trường xuất khẩu chủ yếu của các doanh nghiệp Việt Nam (chiếm đến 50-70% trong số gia tăng xuất khẩu hàng năm) là Nhật Bản, Trung Quốc, Hoa Kỳ, EU. Các thị trường này rất khó tính về yếu tố chất lượng sản phẩm và bảo vệ môi trường. Đây là thị trường mục tiêu của các nước như Trung Quốc, ASEAN nên yêu cầu về cạnh tranh rất gay gắt. Việc phụ thuộc nhiều vào một số thị trường chính làm tăng rủi ro, giảm lợi nhuận thu được và giá cả xuất khẩu của hàng hoá Việt Nam.
Như vậy, nếu doanh nghiệp không biết tiếp cận nhanh với thông tin thị trường và khách hàng thì sẽ mất rất nhiều cơ hội.
3.3.10. Vân đề xây dựng thương hiệu
Nền kinh tế Việt Nam đang từng bước hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới trong đó hoạt động xuất khẩu hàng hoá đưa hàng hoá Việt Nam ra nước ngoài và ngay cả việc tạo dựng thế mạnh tên tuổi để đứng vững trên thị trường trong nước là cực kỳ quan trọng. Và đây không chỉ là một công việc thuần tuý mang tính chất kinh doanh giải quyết vấn đề thời thượng hiện nay là thương hiệu mà nhằm mục đích xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp xây dựng hình ảnh, củng cố hình ảnh sản phẩm cho các doanh nghiệp. Hiện nay nhiều người thừa nhận rằng khi kinh tế đất nước càng phát triển và hội nhập thì vai trò của nhãn hiệu một trong những đối tượng quan trọng nhất của sở hữu công nghiệp, ngày càng có tầm quan trọng và nâng cao, thậm chí nhẫn hiệu đối với một doanh nghiệp đã trở thành biểu tượng kinh doanh trên thị trường trong và ngoài nước. Nhiều nhãn hiệu có uy tín song chưa được nhiều người biết đến và nhiều nhãn hiệu có uy tín bị một số doanh nghiệp đánh cắp gian lận ở nước ngoài.
Qua số liệu thống kê của cục sở hữu công nghiệp Việt Nam từ 1982-2001 đã cấp 39510 giấy chứng nhận đăng kí nhãn hiệu hàng hoá trong đó nhãn hiệu hàng hoá của doanh nghiệp Việt Nam là 16846(43%) còn lại 22664(57%) là của doanh nghiệp nước ngoài. Con số đó cho thấy việc đăng kí bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá của doanh nghiệp Việt Nam còn quá ít so với thực tế. Điều đó chứng tỏ doanh nghiệp Việt Nam chưa chủ động xây dựng thương hiệu. Tuy nhiên hiện nay tại thị trường Việt Nam nhiều doanh nghiệp đã xây dựng thành công thương hiệu sản phẩm của mình: Kinh Đo, Biti's, Viglacera... điều quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là cần phải mở rộng thị trường xuất khẩu thông qua việc nghiên cứu thị trường để xây dựng mạng lưới phân phố hàng, kể cả lựa chọn và chỉ định đại lý.
3.3.11. Vấn đề tiếp thị
Cuộc sống hiện đại, con người nảy sinh nhiều nhu cầu và ngày càng có nhiều sản phẩm mới ra đời để đáp ứng những nhu cầu đó. Trong môi trường mà sự cạnh tranh ngày một gia tăng, để tồn tại và chiến thắng, các doanh nghiệp phải làm cho khách hàng chú ý đến sản phẩm của mình và nảy sinh nhu cầu mua sắm, tiêu dùng. Muốn vậy, công cụ mà doanh nghiệp không thể thiếu được khi muốn thu hút khách hàng đó là tiếp thị. Nếu cho rằng việc các công ty cần phải xây dựng được một nhãn hiệu mạnh để cạnh tranh là điều vô cùng quan trọng thì có lẽ phải đương đầu ngay với một thách thức lớn làm thế nào để xây dựng được một nhãn hiệu mạnh. ở nước ta quảng cáo qua các kênh truyền thông đại chúng từ lâu đã được coi là phần cốt lõi trong chiến dịch quảng cáo truyền thông nhằm xây dựng nhãn hiệu. Tuy nhiên cùng với sự lớn mạnh của hoạt động quảng cáo tiếp thị tiêu chuẩn này đang tỏ ra có nhiều hạn chế. Các chi phí quảng cáo truyền thông đại chúng đặc biệt là quảng cáo truyền hình đang tăng lên rất cao. Hình thức tiếp thị khá phổ biến của nước ta là nhân viên tiếp thị mang sản phẩm đến tận nhà và giới thiệu sản phẩm. Tuy nhiên hình thức này có nhược điểm là không được khách hàng cảm tình vì sự xuất hiện đột ngột của nhân viên tiếp thị và gây phiền nhiễu. Nhiều khách hàng có cảm giác không tin tưởng vào sản phẩm và nhân viên vì tâm lý bị lừa đảo do không rõ lai lịch của nhân viên công ty.
3.3.12. Khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam
Mặt hàng không có khả năng cạnh tranh: sản phẩm giấy in báo, giấy viết thuộc loại không có khả năng cạnh tranh tham gia hội nhập. Nguyên nhân là do giá thành sản xuất luôn luôn cao hơn giá bán trên thị trường trong nước và cùng loại nhập khẩu. Kết quả kinh doanh 2001 sản phẩm giấy in báo của công ty Tân Mai lỗ 10,409 triệu đồng. Năm 2002 dự kiến lỗ 17,9 triệu đồng. Năm 2003 dự kiến khi thời gian hội nhập giá bán giảm còn 6900 đồng/tấn (năm 2002 giá bán là 7800 đồng/tấn) thì trung bình mỗi tấn giấy Tân Mai chịu lỗ 17,5 triệu đồng. Các sản phẩm mía đường của Việt Nam cũng chịu chung số phận. Hiện nay Việt Nam có 44 nhà máy sản xuất mía, đường trong đó 31 nhà máy đang bị lỗ với số lỗ luỹ kế lên tới 1232 tỷ đồng do giá thành sản xuất quá cao so với giá bán trên thị trường. Cụ thể là giá đường trắng trên thị trường là 4700 đ/kg thì giá thành sản xuất của nhà máy đường Kiên Giang là hơn 13000đ/kg, Sóc Trăng 7016đ/kg, Quảng Nam là 11493đ/kg, Bình Thuận 10075đ/kg. Nguyên nhân giá thành cao là do thiết bị công nghệ sản xuất lạc hậu dẫn đến tỉ lệ thu hồi đương thấp, tỉ lệ phế phẩm cao. Tỉ lệ thu hội đường của nhà máy đường Việt Nam là 14,2 tấn mía/tấn đường, Thái Lan là 9,3 tấn mía/tấn đường, Philipin 13 tấn mía/tấn đường. Sản phẩm ván dăm, ván sợi mới sản xuất ở Việt Nam do các nhà máy đầu tư toàn bộ bằng nguồn vốn vay nên giá trị sản xuất tương đối cao so với sản phẩm tương tự sản xuất tại các nước trong khu vực.
Nhóm mặt hàng cạnh tranh có điều kiện: Các sản phẩm thuộc nhóm này rất đa dạng thuộc các ngành nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, xi măng, kính xây dựng, gạch lát nền, bưu chính viễn thông, hàng không. Sản phẩm này có đặc điểm chung là tiềm năng nguyên vật liệu trong nước chưa khai thác hết hoặc giá thành sản xuất của sản phẩm còn cao, chất lượng chưa ổn định. Theo số liệu của công ty gạch lát Hà Nội năm 2002 thì cứ mỗi m2 gạch lát công ty lãi 2095 đồng nhưng 2003 sẽ lỗ 3694 và dự kiến năm 2004 sẽ lỗ gần 13000đ/m2.
Nhóm mặt hàng đã có khả năng cạnh tranh phần lớn là những sản phẩm nông sản, khoáng sản chưa qua chế biến có được lợi thế thiên nhiên, giá trị gia tăng thấp, gạo, cà phê, hạt tiêu. tuy nhiên đối với mặt hàng này khi tham gia hội nhập sẽ chịu áp lực cạnh tranh lớn do chưa có thương hiệu, kiểu dáng riêng, chưa tạo được vệ tinh cung cấp nguyên liệu nên giá thành sản xuất còn rất cao, không ổn định, phụ thuộc nhiều bên ngoài. Hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam tuy có kỹ thuật truyền thống tinh xảo nhưng chất lượng không đồng đều, năng lực sản xuất thực sự chưa đáp ứng được lô hàng lớn. Sản phẩm may của Việt Nam hiện được đánh giá có nhiều thế mạnh do giá nhân công rẻ nhưng lại tập trung vào gia công. Do vậy khi tham gia hội nhập sẽ phải chịu sức ép sản phẩm dệt may của Trung Quốc.
Tóm lại, chúng ta nói nhiều đến nguy cơ tụt hậu của nền kinh tế, coi đó như mối đe doạ lớn của thời đại. Nguy cơ tụt hậu có nguồn gốc trực tiếp từ khả năng cạnh tranh kém của nền kinh tế. Bởi vậy coi việc nghiên cứu nâng cao khả năng cạnh tranh nền kinh tế như nhiệm vụ bao trùm trung tâm của mọi chiến lược, chính sách phát triển. Bản thân phạm trù phát triển bền vững sẽ chỉ còn là hình thức nếu khả năng cạnh tranh không được cải thiện. Hiện tại chúng ta không đủ nguồn lực thúc đẩy toàn diện năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nên phải xây dựng nó theo cách phù hợp nhất với hoàn cảnh. Đã đến lúc phải có một lộ trình khoa học cho việc nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, trong đó xác định bằng được các công việc trong tâm cho từng thời kì cụ thể. Không thể dàn trải và càng không thể chung chung, trừu tượng trong các chính sách phát triển kinh tế. Kinh nghiệm thay thế nhập khẩu hướng mạnh vào xuất khẩu và một số nước ở châu á áp dụng thành công chỉ là bài học đáng tham khảo chứ không thể sao chép vì hoàn cảnh của các nước này khi đó khác nhiều so với chung ta hiện nay. Chúng ta sẽ khó khăn hơn, đòi hỏi sự sáng tạo cao hơn lúc nào hết. Chúng tôi cho rằng cần có hội đồng chuyên gia gồm các nhà chuyên môn, các nhà khoa học, các nhà chính sách với sự trợ giúp của các chuyên gia quốc tế và khu vực để hoạch định lộ trình ưu tiên cho việc phát triển các ngành, các hàng hoá dịch vụ mũi nhọn để nâng cao khả năng cạnh tranh. Cần áp dụng các phương pháp và công cụ định lượng thay thế cho kiểu định tính, chung chung trong nghiên cứu lộ tình phát triển. Loại bỏ lợi ích, ích kỉ cá nhân, cục bộ trong các quyết sách kinh tế lớn bằng các phương pháp khoa học, khách quan. Chúng tôi cho rằng, đã đến lúc phải giải các bài toán cạnh tranh bằng các thuật toán định lượng phức tạp chứa không thể và không chỉ thông qua các dự toán định tính, duy ý chí của một nhóm người, từng ngành riêng biệt. Bởi vì, nếu không có công cụ khoa học thì sự thoả hiệp, sự phát triển dàn trải như hiện nay sẽ lại xuất hiện và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế của chúng ta lại tiếp tục bị nhấn chìm.
3.4. Một số giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
*về phía doanh nghiệp:
3.4.1. Xây dựng chiến lược kinh doanh
Về chiến lược công nghệ: để nâng cao năng lực cạnh tranh các doanh nghiệp cần nhanh chóng đổi mới công nghệ, đây là vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu. Điểm lưu ý trong quá trình đổi mới công nghệ là không phải cứ công nghệ cao, hiện đại mới tốt, vấn đề ở chỗ doanh nghiệp phải lựa chọn cho mình công nghệ phù hợp với điều kiện sản xuất, trình độ tay nghề của người lao động nhằm tối ưu hoá việc kết hợp các nguồn lực để đạt hiệu quả cao, từ đó mới có điều kiện để tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm. Chiến lược đổi mới công nghệ của doanh nghiệp chỉ có thể thực hiện nhanh chóng và hiệu quả khi doanh nghiệp xem đây là một khâu đột phá có tính chất cách mạng và sẵn sàng trả thù lao xứng đáng cho các phát minh sáng chế có giá trị thực tiễn. Để chiến lược công nghệ có hiệu quả đẩy mạnh hơn nữa thì sự liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp, các trường đại học và các viện nghiên cứu.
Về chiến lược tài chính: công khai hoá và minh bạch hoạt động tài chính cần được xem là điểm xuất của chiến lược tài chính. Qua đó doanh nghiệp biết được hiệu quả, thực trang của đồng vốn.
Về chiến lược phát triển nguồn nhân lực cần được đặc biệt coi trọng. Trong thời gian tới cần đầu tư cho đào tạo vào đào tạo lại, nâng tỉ lệ lao động qua đào tạo lên tới 30% số lao động hiện có. Trong đó chú trọng đào tạo nghề công nghệ cao. Hỗ trợ kinh phí giải quyết lao động dôi dư trong quá trình sắp xếp doanh nghiệp Nhà nước đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao nhằm giảm bớt gánh nặng cho doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần chú trọng lựa chọn người có đủ năng lực phẩm chất, đạo đức và tài năng vào các vị trí chủ chốt của doanh nghiệp là khâu đột phá trong chiến lược sử dụng con người thông qua cơ chế tuyển chọn nghiêm túc.
Về chiến lược tiếp thị: các doanh nghiệp phải dự báo được biến động của quan hệ cung cầu về sản phẩm và khả năng tăng, giảm của thị trường trong nước và quốc tế. Khai thác được lới thế của mình so với các đối thủ cạnh tranh, dự báo xu hướng tiêu dùng của khách hàng. Các doanh nghiệp cần phải thực hiện các tiêu chuẩn ISO9002, quan tâm hơn nữa đến vòng đời sản phẩm để nâng cao uy tín của thương hiệu sản phẩm trên thị trường. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế vấn đề thông tin có ý nghĩa cực kì quan trọng để hạn chế những mặt tiêu cực của cơ chế cạnh tranh. Theo hướng đó các doanh nghiệp cần hợp tác với nhau và giữa chúng sẽ có mối quan hệ tương tác với nhau trong tiến trình phát triển. Chủ trương kết hợp này có thể mở ra thị trường thế giới. qua đó tranh thủ được vốn công nghệ hiện đại và kinh nghiệm thương trường của người nước ngoài. Chủ động hội nhập là tăng sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá, đồng thời có ý nghĩa là tự động tìm kiếm thị trường mới, tất nhiên là phải thực hiện nghiêm chỉnh cam kết quốc tế.
3.4.2. Gia tăng làm lượng trí tuệ
Cần lưu ý một điều rằng chúng ta bán cái thế giới cần mua chứ không phải thế giới mua những gì chúng ta bán. Do đó, tính cạnh tranh quyết liệt để chiếm lĩnh thị phần sản phẩm trên thị trường đòi hỏi rất cao về chất lượng sản phẩm và vòng đời sản phẩm. Kinh tế thế giới hiện nay với một thực trạng là sức cung về sản phẩm thường vượt quá cầu vì thế sản phẩm hàng hoá muốn tiêu thụ được phải luôn có xu hướng ngày càng rẻ, mẫu mã đẹp và có tính sáng tạo, nhất là kinh tế thế giới đang chuyển sang một dạng mới - kinh tế tri thức, có ý nghĩa là hàm lượng trí tuệ chiếm tỉ trọng cao trong giá thành sản phẩm. Trong bối cảnh như vậy, chúng ta cần vươn lên hơn nữa để tạo ra sản phẩm Việt Nam có chỗ đứng trên thị trường.
3.4.3. Nâng cao sức cạnh tranh của từng mặt hàng
Muốn mặt hàng có sức cạnh tranh cao thì phải quan tâm đến 3 yếu tố chủ yếu: giá thành hạ, chất lượng tốt, mẫu mã phù hợp.
+ Giá thành sản phẩm của doanh nghiệp thấp hơn giá bán sản phẩm cùng loại là một yếu tố quan trọng trong cạnh tranh. Để có giá bán hạ thì doanh nghiệp phải sử dụng nhiều biện pháp để giảm chi phí đầu vào, chi phí nguyên vật liệu, chi phí tiền lương, chi phí quản lí...
+ Chất lượng mặt hàng cũng là yếu tố để nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường. Chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp liên quan trực tiếp đến chất lượng của nguyên vật liệu sử dụng để chế tạo sản phẩm, đến công nghệ sản xuất và trình độ tay nghề cả người lao động.
+ Mẫu mã của mặt hàng phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng sẽ tạo được lợi thế cạnh tranh trên thị trường. Để có mẫu mã đẹp, phù hợp với các doanh nghiệp cần đầu tư thích đáng cho công tác tìm hiểu thị hiếu khách hàng và nghiên cứu đổi mới mẫu mã cho phù hợp với từng thị trường
3.4.4. Liên kết và hợp tác
Trong quá trình cạnh tranh giữa các doanh nghiệp với nhau không có nghĩa là chối bỏ sự hợp tác cần xem đấy là biện pháp quan trọng để hạn chế những mặt tiêu cực của cơ chế cạnh tranh,theo hướng đó các doanh nghiệp cần hợp tác với nhau và giữa chúng sẽ có mối quan hệ tương tác với nhau trong tiến trình phát triển.Chủ trương kết hợp này có thể mở ra thị trường thế giới.Qua đó tranh thủ được vốn công nghệ hiện đại và kinh nghiệm thương trường của người nước ngoài.Chủ động hội nhập làm tăng sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá,đồng thời cũng có nghĩa là tự động tìm kiếm thị trường mới tất nhiên phải thực hiện nghiêm chỉnh các cam kết quôc tế.
3.4.5. Gia tăng hàm lượng trí tuệ
Cần lưu ý một điều rằng chúng ta phải bán cái thế giới cần mua chứ không phải thế giới phải mua những gì mà chúng ta bán.Do đó tính cạnh tranh quyết liệt để chiếm lĩnh thị phần sản phẩm trên thị trường đòi hỏi rất cao về chất lượng sản phẩm và vòng đời sản phẩm.Kinh tế thế giới hiện nay với một thực trạng sức cung về sản phẩm thường vượt quá cầu vì thế sản phẩm hàng hoá muốn tiêu thụ được phải luôn có xu hướng ngày càng rẻ, mẫu mã đẹp và có tính sáng tạo, nhất là kinh tế thế giới đang chuyển sang một dạng mới- kinh tế tri thức, có nghĩa là hàm lượng trí tuệ chiếm tỷ trọng cao trong giá thành sản phẩm.Trong bối cảnh như vậy, chúng ta cần vươn lên hơn nữa để tạo ra sản phẩm Việt Nam có chỗ đứng trên thị trường thế giới
* Về phía nhà nước:
3.4.6. Cơ cấu lại doanh nghiệp
Hội nhập và cạnh tranh là hai mặt của một tiến trình toàn cầu hoá kinh tế quốc tế, xét bên trong một nền kinh tế thì sự cạnh tranh của các doanh nghiệp với nhau được xem như là yếu tố nội sinh. Cạnh tranh tác động đến doanh nghiệp trên hai phương diện gây áp lực và tạo động lực. Trong nền kinh tế thị trường nó tạo ra sức ép còn mạnh hơn cả pháp luật, cũng cần nói thêm rằng cạnh tranh chắc chắn sẽ làm cho nhiều doanh nghiệp bị phá sản nhưng nó cũng là tiền đề cho sự đổi mới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Điểm mấu chốt của việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam là cơ cấu lại và tăng cường năng lực cạnh tranh của khu vực doanh nghiệp, trong đó có vai trò quan trọng của khu vực doanh nghiệp Nhà nước. Vì khu vực này nắm giữ phần lớn tài sản quốc gia, nguồn lao động kỹ thuật, tài nguyên và giữ vai trò chủ đạo trong các thành phần kinh tế. Đổi mới doanh nghiệp Nhà nước cần tập trung vào đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp, tạo lập khuôn khổ pháp lý để tiến hành công ty hoá các doanh nghiệp Nhà nước, đẩy mạnh cổ phần hoá, tăng cường giám sát tài chính của các doanh nghiệp Nhà nước, xây dựng một số công ty mạnh theo hướng tập đoàn kinh tế, thực hiện biện pháp đa dạng hoá, chuyển đổi sở hữu nâng cao hiệu quả, phân định rõ quyền của chủ sở hữu Nhà nước và quyền của pháp nhân doanh nghiệp. Chấm dứt bao cấp dưới mọi hình thức cho các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh.
3.4.7. Củng cố hệ thống ngân hàng để đảm bảo cung cấp đủ vốn cho doanh nghiệp
Cần tiếp túc cải cách hệ thống ngân hàng theo hướng: cải thiện khuôn khổ, pháp luật, các quy định của cơ quan có thẩm quyền và thực hiện chế độ giám sát có hiệu quả để đảm bảo an toàn cho các hoạt động của hệ thống ngân hàng. Đặc biệt quan tâm đến công tác phân loại và trích lạp dự phòng bù đắp các khoản cho vay thất thoát. Thiết lập cơ sở pháp lý để hỗ trợ cho các khoản vay không có khả năng chi trả và bán các tài sản thế chấp cần thanh lý, tạo môi trường bình đẳng cho tất cả các ngân hàng. Cơ cấu là ngân hàng quốc doanh và ngân hàng cổ phần. Đây là khối ngân hàng có quy mô lớn, là yếu tố cốt lõi để đạt mục tiêu chiến lược của hệ thống ngân hàng nước ta.
3.4.8. Kiến tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, bình đẳng
Hoàn thiện môi trường kinh doanh nhằm đáp ứng yêu cầu "minh bạch, rõ ràng, công khai và phù hợp với thông lệ quốc tê". Tạo lập môi trường kinh doanh lành mạnh, xây dựng khuôn khổ chính sách, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiền hành cơ cấu lại sản xuất có hiệu quả, tăng tính cạnh tranh. Hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh Giá nhằm thực hiện kiểm soát chi phí, kiểm soát độc quyền, hạn chế độc quyền của các doanh nghiệp bằng các biện pháp kiểm soát về giá, xác định tiêu chuẩn chất lượng tối thiểu của các sản phẩm độc quyền, bảo đảm điều kiện cho các doanh nghiệp là những đối tác cạnh tranh của nhau được tiếp cận như nhau. Đối với các điều kiện ưu đãi, dịch vụ của Nhà nước như vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, sử dụng các hạ tầng kỹ thuật... Độc quyền Nhà nước không được để biến thành độc quyền của doanh nghiệp. Nhà nước chỉ thực hiện trợ giá những mặt hàng thiết yếu, quan trọng và một số mặt hàng nông sản xuất khẩu. Việc thực hiện các biện pháp hữu hiệu chống hàng giả, hàng nhập lậu, hàng nhái mẫu mã, hàng kém chất lượng, bán phá giá sẽ góp phần tạo lập môi trường cạnh tranh lành mạnh.
Thực hiện chính sách hỗ trợ có điều kiện trong một khoảng thời gian nhất định để tăng dần năng lực cạnh tranh của một số sản phẩm, mở rộng thị trường trong nước và xuất khẩu. Giải pháp phát triển thị trường cần thực hiện theo hướng như: mở rộng quan hệ với các khối quốc gia, các nước, hỗ trợ xúc tiến thương mại ở các thị trường giàu tiềm năng, đẩy mạnh xúc tiến thương mại qua các trung tâm xúc tiến thương mại, các thương vụ Việt Nam ở nước ngoài, tăng cường đầu tư vào hoạt động nghiên cứu thị trường, tìm kiếm mặt hàng hoặc thị trường "phi quota" để tập trung mở rộng sản xuất và tiêu thụ, hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài.
3.4.9. Một số chính sách chủ yếu của nhà nước tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập:
Nếu chỉ để các doanh nghiệp hoạt động và kinh doanh một cách độc lập thì chưa có hiệu quả được mà bên cạnh đó phải có sự hỗ trợ của Nhà nước thông qua các chính sách để định hướng phát triển cho các doanh nghiệp phù hợp với tình hình kinh tế đất nước.
Trước hết chính phủ cần phải hoàn thiện môi trường pháp lí về kinh tế tài chính nhằm tạo một sân chơi bình đẳng, thông thoáng để khuyến khích cạnh tranh giữa các doanh nghiệp thuộc. Cần phải xoá bỏ tình trạng phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đặc biệt cần phải ưu tiên cho các doanh nghiệp tư nhân phát triển. Đồng thời phải ngăn chặn tình trạng độc quyền Nhà nước biến thành quyền doanh nghiệp.
Bên cạnh đó Nhà nước cần phân định rõ chức năng quản lý Nhà nước và chức năng quản trị kinh doanh của các doanh nghiệp. Như vậy cơ quan quản lý Nhà nước không can thiệp vào công việc quản lý, điều hành trong kinh doanh của doanh nghiệp. Và người lãnh đạo doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm đầy đủ về mọi quyết định của mình trong quản lý sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Khi đó về chức năng quản lí Nhà nước và doanh nghiệp độc lập với nhau.
Nhà nước phải có những chính sách để khuyến khích và phát triển đồng bộ các thị trường như thị trường hàng hoá dịch vụ, thị trường lao động, thị trường vốn, thị trường khoa học công nghệ, thị trường bất động sản... Có như vậy sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp có thể lựa chọn và sử dụng các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh với chi phí nhỏ nhất. Nhà nước cần hỗ trợ các doanh nghiệp trong quá trình chuyển hướng sản xuất kinh doanh với chi phí nhỏ nhất. Nhà nước cần hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong quá trình chuyển hướng sản xuất, kinh doanh sao cho phù hợp với điều kiện nước ta nhằm đảm bảo tính hiệu quả ngay trong giai đoạn trước khi hoàn thành thực hiện các cam kết AFTA và WTO.
Tiếp đến Nhà nước phải có biện pháp để đẩy mạnh quá trình cải cách hành chính theo hướng khuyến khích đầu tư kinh doanh lành mạnh làm giảm chi phí, thời gian cho các doanh nghiệp. Đồng thời nghiên cứu để sửa đổi luật doanh nghiệp cho phù hợp để các doanh nghiệp có thể tham gia và phát huy thế mạnh của mình trong nền kinh tế chung của đất nước.
Điểm quan trọng nữa là Nhà nước cần hỗ trợ về việc cung cấp thông tin và các hoạt động xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp như hình thành các trung tâm thu nhập, phân tích và cung cấp thông tin về thị trường và công nghệ của khu vực và thế giới. Phải luôn coi nguồn lực trong nước và quyết định, đồng thời tận dụng cơ hội tranh thủ mọi nguồn lực bên ngoài (thị trường vốn đầu tư, công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm quản lý...). phát triển kinh tế theo hướng xuất khẩu nhưng đồng thời phải coi trọng thị trường nội địa, nâng cao sức mua xã hội. Chú trọng mở rộng các thị trường mới như thị trường Hoa Kỳ khi thực hiện Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ, thị trường Châu Phi, Nam Mỹ và phải giữ ở mức ổn định ở các thị trường truyền thống như Nga, Trung Quốc, Đông Âu để tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu.
Chính phủ cần tiếp tục hoàn thiện các luật thuế đối với các doanh nghiệp theo hướng xác định tỉ lệ động viên hợp lí nhằm vừa bảo đảm nguồn thu ngân sách Nhà nước, vừa đảm bảo khả năng tích luỹ để tái sản xuất mở rộng của doanh nghiệp. Cải thiện mạnh môi trường đầu tư kinh doanh theo hướng cạnh tranh bình đẳng, tạo thuận lợi cho sự phát triển của các loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế nhằm thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư trong nước và ngoài nước.
Nhà nước cần đưa ra một chương trình tổng thể xây dựng môi trường cạnh tranh ở Việt Nam. Chương trình này cần đề cập đến nhiều phương diện như: chính sách tiếp cận các nguồn vốn, chính sách sử dụng đất đai, cải cách các khu vực doanh nghiệp Nhà nước, phát triển khu vực tư nhân, cải cách chính sách tài chính, tiền tệ (chính sách thuế, cơ cấu lại và đổi mới phương thức hoạt động của hệ thống ngân hàng, phát triển thị trường chứng khoán...).
Trong khi đưa ra các chính sách phát triển kinh tế chính phủ cần phải quan tâm đến sự nhất quán và ổn định so với pháp luật. Mọi sự thay đổi cần thiết phải theo xu hướng thuận lợi hơn, tốt hơn và không gây thiệt hại cho người kinh doanh. Xây dựng luật cần theo hướng cụ thể và phải minh bạch để dễ thống nhất thực hiện. Do đó cần thực hiện đồng bộ hệ thống pháp luật phù hợp với đường lối của đảng và với thông lệ quốc tế như ban hành luật khuyến khích cạnh tranh và kiểm soát độc quyền, xây dựng pháp lệnh về đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia, tiến tới thống nhất giữa luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và luật khuyến khích đầu tư...
Đối với doanh nghiệp Nhà nước cần thực hiện đổi mới cơ chế chính sách và sắp xếp lại các doanh nghiệp theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3. Đẩy mạnh việc nâng cao hiệu quả của các doanh nghiệp Nhà nước; tăng cường vốn, tài sản, nhân lực và đổi mới công nghệ để nâng cao khả năng hoạt động và sức cạnh tranh của những doanh nghiệp này, nhưng đồng thời cũng tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp tư nhân phát triển. Trước hết cần có sự nhìn nhận đúng thực tế và đúng khả năng về vị trí, vai trò của khu vực kinh tế tư nhân đối với nền kinh tế. Vì vậy cần hoàn thiện cơ chế chính sách theo hướng đảm bảo bình đẳng cho sự phát triển kinh tế tư nhân như chính sách thuế, đầu tư điều kiện và cơ hội tiếp cận nguồn vốn ngân hàng...
Đầu tháng 04/2003, sau khi chỉ thị của Thủ tướng chính phủ về nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp được ban hành thì các hiệp hội doanh nghiệp, các hội ngành, nghề sẽ là cầu nối quan trọng để làm liền mạch các kênh đối thoại giữa chính phủ, các bộ ngành và doanh nghiệp. Như vậy giữa doanh nghiệp và Nhà nước có sự liên quan đến nhau, cùng thực hiện và hỗ trợ trong quá trình phát triển kinh tế đất nước, tiến tới hội nhập khu vực và quốc tế một cách nhanh chóng.
Kết luận
Qua nghiên cứu tuần hoàn, chu chuyển của tư bản và ý nghĩa cơ bản của nó đối với việc nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đã giúp cho chúng ta có cách nhìn toàn diện hơn về thực trạng kinh tế Việt Nam, vấn đề quay vòng vốn, sử dụng vốn và vấn đề năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, chỉ bằng cách hội nhập và phát triển mới có thể nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên trường quốc tế. Nước ta đang có nguy cơ tụt hậu về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh gay gắt, khốc liệt do đó đẩy mạnh huy động vốn, sử dụng vốn, đẩy mạnh cạnh tranh là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với nền kinh tế nước ta. Để có thể tăng trưởng vững mạnh, nền kinh tế nước ta phải sớm chuyển sang giai đoạn cất cánh, phải xây dựng chiến lược phát triển hợp lý, đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, hợp tác quốc tế, nâng cao vị thế của doanh nghiệp Việt Nam trên trường quốc tế.
Kết luận:
Qua nghiên cứu tuần hoàn, chu chuyển của tư bản và ý nghĩa của nó đối với việc nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đã giúp cho chúng ta có cách nhìn toàn diện hơn về thực trạng kinh tế Việt Nam, vấn đề quay vòng vốn, sử dụng vốn và vấn đề năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, chỉ bằng cách hội nhập và phát triển mới có thể nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên trường quốc tế.
Nước ta đang có nguy cơ tụt hậu về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới lại phải đi lên trong môi rường cạnh tranh gay gắt khốc liệt do đó đẩy mạnh huy đông vốn, sử dụng vốn , đẩy mạnh cạnh tranh là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với nền kinh tế nước ta.Để có thể tăng trưỏng vững mạnh,nền kinh tế nước ta phải sớm chuyển sang giai đoạn cất cánh, phải xây dựng chiến lược phát triển hợp lý,đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, hợp tác quốc tế nâng cao vị thế của doanh nghiệp Việt Nam trên trường quốc tế
Tài liệu tham khảo
- Kinh tế chính trị Mác - Lênin . Tập 1. Nhà xuất bản Giáo dục
- Một số vấn đề lí luận kinh tế chính trị và phát triển kinh tế Việt Nam. Trung tâm tư liệu - Học viên chính trị Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
- Kinh tế chính trị. Tập I. Nhà xuất bản chính trị quốc gia.
- Tạp chí:
+ Lí luận chính trị. Số 5/2002.
+ Phát triển kinh tế. Tháng 4/2002.
+ Nghiên cứu kinh tế. Số 4/2002 + số 254/1999+ số 304/2003.
+ Kinh tế & phát triển. Số 10/2001 + 11/2002.
+ Những vấn đề kinh tế thế giới. Số 2/2003.
+ Thời báo kinh tế Việt Nam. Số 16 27/1/2003.
+ Kinh tế và dự báo. Số 7/2002.
+ Tài chính. Tháng 7/2002.
+ Thị trường và giá cả. Tháng 1/2003.
+ Doanh nghiệp. Số 2/2003.
+ Diễn đàn doanh nghiệp. Số 33/2003 + số 20/2003.
+ Tạp chí cộng sản. Số 29/2003.
+ Kinh tế và dự báo. Số 7/2003.
+ Thông tin kinh tế - xã hội. Số 14/2003.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36185.doc