Từ đại hội Đảng VI tháng 12-1986 cho đến nay, nước ta đã trải qua gần 20 năm đổi mới, và đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đặc biệt trong phát triển kinh tế. Những mục tiêu kinh tế đặt ra trong các kỳ Đại hội đều được hoàn thành. Đó là đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế – xã hội với tăng cường quốc phòng an ninh.
Một trong những nguyên nhân quan trọng giúp cho nước ta có thể đạt được những thành tựu đó chính là vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước với những công cụ điều tiết vĩ mô (hệ thống pháp luật, kế hoạch hoá, hệ thống tài chính tiền tệ) đã làm tốt những chức năng kinh tế của mình, đảm bảo thực hiện được mục tiêu quản lý kinh tế vĩ mô trong thời kỳ mới. Tuy còn nhiều bất cập và hạn chế nhưng chúng ta không thể phủ nhận vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan đối với Việt Nam nói riêng và tất cả các nền kinh tế trên thế giới nói chung. Trong tình hình hiện nay, khi nền kinh tế thế giới đang chịu những sự tác động mạnh mẽ của sự tăng giá dầu thô, dịch cúm gia cầm, thiên tai và đặc biệt là nạn khủng bố, thì hơn bao giờ hết Nhà nước ta càng phải khẳng định và phát huy vai trò quản lý của mình đối với nền kinh tế. Có như vậy mới có thể xây dựng được nền kinh tế ngày càng phát triển hơn, sẵn sàng hội nhập với các nền kinh tế trong khu vực và thế giới, từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
17 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1516 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Một số những giải pháp cơ bản để nhằm đổi mới và tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước ta hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Trong hơn 20 năm qua, quá trình cải tổ của các nước thuộc hệ thống Xã hội Chủ nghĩa (XHCN) đã đi theo hai con đường khác nhau. Các nước XHCN ở châu Âu lựa chọn con đường quay trở lại chế độ tư bản chủ nghĩa (TBCN). Tuy nhiên, sự quay trở lại con đường TBCN đã không đem lại cho các nước này kết quả mong muốn. Ngược lại, nhiều nước rơi vào tình trạng suy thoái, hỗn loạn, bị xâu xé bởi các mâu thuẫn dân tộc và âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch. Việt Nam lựa chọn con đường xây dựng nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng XHCN, tức là xây dựng nền kinh tế, trong đó thừa nhận các loại hình và chế độ sở hữu khác nhau, nhưng công hữu giữ vai trò chủ đạo, thừa nhận KTTT, thậm chí hội nhập vào nền kinh tế thế giới, theo “luật chơi” của các nước tư bản, nhưng về mặt chính trị vẫn duy trì nền tảng chính trị của CNXH, trong đó mấu chốt là Đảng cộng sản cầm quyền, xây dựng nhà nước XHCN có khả năng thi hành các chính sách định hướng XHCN. Những thành tựu trong phát triển kinh tế, ổn định xã hội, cải thiện mức sống và nâng cao vị thế quốc gia; trong giữ vững độc lập, tự chủ, tự quyết định các vấn đề đối nội và đối ngoại của Việt Nam ... đã khẳng định sự lựa chọn đường lối phát triển đất nước là đúng đắn.
Vai trò kinh tế của nhà nước đã thể hiện trong lịch sử và được bàn tới trong nhiều tác phẩm của các nhà kinh điển CNXH khoa học song vai trò kinh tế và phương thức điều tiết nền KTTT của nhà nước XHCNcó những nét độc đáo và là đặc điểm cơ bản của CNXH ngày nay.
Khác với sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư bản độc quyền mang tính chất là những giải pháp có tính tình thế, ứng phó nhất thời trước những chấn động kinh tế, chính trị, xã hội hoặc trước những nhiệm vụ cấp bách đặt ra, đặc biệt là trong tình huống của thời chiến; sự điều tiết kinh tế của nhà nước XHCN là những chỉ tiêu, mục đích lâu dài.
Nội dung
I. Vai trò kinh tế của Nhà nước đối với nền kinh tế.
1. Vai trò kinh tế của các Nhà nước trong lịch sử.
Lịch sử đã chứng minh vai trò kinh tế của nhà nước được phôi thai từ buổi ban đầu, khi nhà nước mới chỉ vừa xuất hiện. Sau đó mới được nhận thức và ứng dụng vào thực tiễn quản lý kinh tế – xã hội.
Trong thời đại chiếm hữu nô lệ, Nhà nước chủ nô, kiểu nhà nước đầu tiên trong lịch sử đã trực tiếp dùng quyền lực của mình can thiệp vào việc phân phối của cải được sản xuất ra. Của cải ấy không được phân phối mà bị giai cấp chủ nô chiếm đoạt bằng bạo lực. Các thủ đoạn bạo lực phi kinh tế ở đây được sử dụng làm công cụ để chiếm đoạt, cưỡng bức kinh tế.
Trong thời đại phong kiến, Nhà nước phong kiến không chỉ can thiệp vào việc phân phối của cải mà còn đứng ra tập hợp lực lượng nhân dân xây dựng kết cấu hạ tầng cho sản xuất nông nghiệp, khuyến khích quan lại di dân đi mở mang các vùng đất mới để ra các chính sách ruộng đất thích hợp từng thời kỳ.
Trong giai đoạn phát triển cao của nền sản xuất hàng hoá, sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế là cần thiết khách quan do trình độ xã hội hoá cao của lực lượng sản xuất qui định. Nền kinh tế thị trường lý tưởng là nền kinh tế trong đó các hàng hoá và dịch vụ được tự nguyện trao đổi bằng tiền theo giá thị trường. Hệ thống này cho phép tạo ra lợi ích tối đa từ các nguồn tiềm lực sẵn có của xã hội mà không cần sự can thiệp của nhà nước. Nhưng trên thực tế, không có nền kinh tế nào thực sự hoàn toàn là thế giới lý tưởng của bàn tay vô hình. Mỗi nền kinh tế đều có những khuyết tật, dẫn tới các căn bệnh như nạn ô nhiễm, thất nghiệp, chênh lệch giàu nghèo quá mức. ở các nước có nền kinh tế do cơ chế thị trường điều tiết đều có sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế, với mức độ khác nhau để sửa chữa những “thất bại của thị trường”.
Đối với các nước tư bản phát triển, quá trình can thiệp của nhà nước đi dần từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp để bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản. Vào thế kỷ XV, chủ nghĩa tư bản ra đời, quá trình tích luỹ nguyên thuỷ tư bản được thực hiện – nền kinh tế thị trường từng bước được hình thành. Để giúp cho kinh tế phát triển nhanh, giai cấp tư sản cần có “bà đỡ”, nói cách khác cần có sự hỗ trợ của nhà nước. Chính vì vậy, vai trò quản lý kinh tế của nhà nước tư sản ngày càng được xác lập và nâng cao. Nhờ các chính sách của nhà nước, các nước tư bản đã tích luỹ được một lượng của cải và tiền tệ đáng kể.
Đầu thế kỷ XVIII, giai cấp tư sản tập trung phát triển mạnh lĩnh vực sản xuất. Tự do cạnh tranh trở thành đòi hỏi cấp thiết trong đời sống kinh tế của các nước tư bản. Các nhà kinh tế học cổ điển đã ủng hộ tư tưởng này, nổi bật nhất là Adam Smith (1723 -1790) - một kinh tế gia nổi tiếng người Anh- đã đưa ra thuyết “bàn tay vô hình” và nguyên lý “Nhà nước không can thiệp” vào hoạt động của nền kinh tế. Theo ông, để cho nền kinh tế phát triển lành mạnh thì Nhà nước không nên can thiệp vào kinh tế thị trường, vào hoạt động của các doanh nghiệp, để cho các quyết định kinh tế tự xác định thông qua cung cầu trên thị trường. Nhà nước chỉ có những nhiệm vụ kinh tế nhất định, đó là trong trường hợp các nhiệm vụ kinh tế vượt quá khả năng của một doanh nghiệp như làm đường, xây bến cảng, đào các con kênh lớn… yếu tố bên ngoài của nền kinh tế. Nhiều chính phủ phương Tây đã thực sự tuân theo tư tưởng về tự do kinh doanh. Nhưng vào cuối thế kỷ đó, sự dư thừa không kiểm soát nổi của chủ nghĩa tư bản đã làm cho Mỹ và các nền kinh tế công nghiệp tại Tây Âu phải rút lui khỏi kiểu tự do kinh doanh tuyệt đối.
Vào đầu thế kỷ XX, khi lực lượng sản xuất đã phát triển cao, yêu cầu có sự can thiệp của nhà nước để hạn chế các tác động tự phát dẫn đến các cuộc khủng hoảng kinh tế chu kỳ làm rung chuyển cả nền kinh tế (như cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 – 1933). Nhà kinh tế người Anh John Meynard Keynes (1884 – 1946) đã đưa ra lý thuyết “Nhà nước điều tiết kinh tế thị trường”. Trong đó, ông nêu rõ: để khắc phục sự trì trệ, khủng hoảng và nạn thất nghiệp, nhà nước phải can thiệp vào nền kinh tế, can thiệp vào thị trường, phải mở ra các cuộc đầu tư lớn. Sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế ở cả tầm vĩ mô và vi mô. ở tầm vĩ mô, nhà nước sử dụng các công cụ như lãi suất, chính sách tín dụng, điều tiết lưu thông tiền tệ, lạm phát, thuế, bảo hiểm, trợ cấp, đầu tư phát triển… ở tầm vi mô, nhà nước trực tiếp phát triển các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và dịch vụ công cộng. Nhà nước tư sản đã ngày càng can thiệp sâu hơn vào nền kinh tế, tác động vào các yếu tố bên trong của quá trình tái sản xuất xã hội, xuất hiện các hình thức của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Ngày nay, ở nhiều nước tư bản phát triển, sự can thiệp của nhà nước sâu đến mức vượt qua khỏi biên giới quốc gia, tham gia với tư cách liên minh kinh tế để điều tiết nền kinh tế của một nhóm nước.
Trong những thập kỷ 60, 70, 80 của thế kỷ này, một loạt các nước châu á - Thái Bình Dương đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, nhiều nước trở thành những con rồng châu á. Mấy năm gần đây, đội ngũ những nước có nền kinh tế phát triển nhanh ở châu á được bổ sung thêm các nước như Trung Quốc, ấn Độ và cả Việt Nam. Nguyên nhân cơ bản tạo ra sự phát triển kinh tế nhanh ở các nước này là vai trò định hướng và quản lý kinh tế của nhà nước, hay nói cách khác là sự kết hợp giữa phát triển kinh tế thị trường với sự điều tiết của nhà nước. Nếu như ở các nước tư bản phát triển, vai trò kinh tế vĩ mô của nhà nước là yêu cầu tất yếu của lực lượng sản xuất phát triển cao thì ở các nước này, điểm xuất phát cho sự tăng trưởng kinh tế nhanh là rất thấp. Vì vậy, nhà nước vừa có vai trò tác động nhằm tạo lập thị trường, vừa có vai trò điều tiết thị trường. Tạo lập thị trường để phát huy những ưu thế của thị trường trong nền kinh tế so với nền kinh tế tự nhiên và điều tiết thị trường nhằm khắc phục các khiếm khuyết của nó.
Những kinh nghiệm bước đầu của quá trình chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường ở các nước Đông Âu, SNG, Trung Quốc và Việt Nam cũng chỉ ra rằng vai trò điều tiết của nhà nước là không thể thiếu được để ổn định, phát triển kinh tế. Nhà nước phải từng bước tạo lập ra các yếu tố của thị trường, tạo hành lang cho các thành phần kinh tế phát triển; đồng thời phải trực tiếp can thiệp để điều tiết các mối quan hệ của thị trường, hạn chế tác động tiêu cực của nó, duy trì những thành quả kinh tế và đặc biệt là những thành tựu về mặt xã hội do nền kinh tế theo cơ chế cũ đã tạo ra ở một số nước cộng hoà thuộc SNG và Đông Âu, qua các cuộc thử nghiệm chuyển quá nhanh sang kinh tế thị trường tự do, hạn chế đến mức thấp nhất sự can thiệp của nhà nước, dẫn đến nền kinh tế và đời sống chính trị, xã hội bị đảo lộn ghê gớm. Nhiều nước đã phải giảm tốc độ cải cách và tăng cường vai trò điều tiết của Nhà nước. ở các nước như Trung Quốc, Việt Nam, trên cơ sở giữ vững ổn định chính trị, từng bước chuyển dần sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý và điều tiết của nhà nước đã tạo ra sự phát triển ổn định của nền kinh tế và tốc độ tăng trưởng kinh tế cao liên tục trong nhiều năm.
Như vậy, vai trò kinh tế vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế là một tất yếu khách quan. Đặc biệt, đối với nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì vai trò kinh tế của nhà nước càng quan trọng để tránh sự lệch hướng cũng như sự tác động của các thế lực phản động từ bên ngoài.
2. Vai trò kinh tế vĩ mô của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
Ở Việt Nam, tư tưởng nhà nước can thiệp vào nền kinh tế cũng được hình thành từ rất sớm. Trên thực tế, nhà nước phong kiến đã can thiệp và thu được cả những thành công và không thành công, trong đó sự can thiệp sớm nhất xuất hiện vào triều đại nhà Lý thế kỷ X trước công nguyên, đặc biệt là khâu phân phối ruộng đất với tính cách là tư liệu sản xuất quan trọng nhất của nền văn minh nông nghiệp. Nhà nước phong kiến Việt Nam ý thức rất sâu sắc về quyền sở hữu nhà nước về ruộng đất và ra sức thực hiện các biện pháp để duy trì, củng cố quyền lực của nhà nước trung ương kiểm kê, kiểm soát hoạt động của các quan lại, địa chủ quý tộc trong các điền trang thái ấp.
Sau kháng chiến chống Pháp, nước ta bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Khác với một số nước Đông Âu, chúng ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Xuất phát từ quan điểm là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa là một nền kinh tế phát triển có kế hoạch, qui luật phát triển có kế hoạch và cân đối nền kinh tế quốc dân là qui luật đặc thù riêng có của chủ nghĩa xã hội, là qui luật điều tiết mọi hoạt động của nền kinh tế, nhà nước ta đã lấy kế hoạch hoá làm công cụ chủ yếu để quản lý nền kinh tế và cơ chế quản lý nền kinh tế là cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung. Trong cơ chế này, nhà nước là người nắm hầu hết các hoạt động sản xuất – kinh doanh – dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân. Cơ chế này được áp dụng ở nước ta đến hết năm 1986 và đã bộc lộ nhiều hạn chế, ảnh hưởng sâu sắc đến nền kinh tế. Sản xuất tuy có tăng nhưng tăng chậm so với khả năng sẵn có và công sức bỏ ra, so với yêu cầu cần nhanh chóng ổn định đời sống của nhân dân. Hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp. Các xí nghiệp nói chung chỉ sử dụng được khoảng một nửa công suất thiết kế, năng suất lao động giảm, chất lượng sản phẩm sút kém. Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chậm được củng cố. Vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh suy yếu. Đời sống của nhân dân, nhất là công nhân viên chức còn nhiều khó khăn.
Trước tình hình đó, từ đại hội VI của Đảng ta đã chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và thực hiện chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước Việt Nam muốn quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có kết quả trước hết cũng phải dựa trên yêu cầu khách quan của các quy luật kinh tế thị trường. Do đó phương pháp quản lý của Nhà nước ta về nhiều phương diện cũng có những nét giống như phương pháp quản lý của Nhà nước ở các nước tư bản: thừa nhận tính độc lập của các chủ thể kinh tế để họ có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, tự chịu trách nhiệm lỗ lãi; xây dựng hệ thống thị trường có tính cạnh tranh, giá cả chủ yếu do thị trường quyết định; xây dựng cơ chế điều tiết vĩ mô của Nhà nước nhằm hướng dẫn, giám sát hoạt động của các chủ thể kinh tế, hạn chế những khuyết tật của thị trường; xây dựng hệ thống pháp luật nhằm tạo ra khuôn khổ cho hoạt động kinh tế; tôn trọng và thực hiện các thông lệ quốc tế trong quan hệ kinh tế quốc tế.
II. Đặc trưng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
1. Về mục tiêu phát triển:
Mục tiêu hàng đầu của phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là giải phóng sức sản xuất, động viên mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hoá, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội, cải thiện từng bước đời sống nhân dân.
ở nước ta, thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng, lấy sản xuất gắn với cải thiện đời sống nhân dân, tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, khuyến khích làm giàu hợp pháp, gắn liền với xoá đói giảm nghèo.
2. Nền kinh tế thị trường gồm nhiều thành phần, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo:
Nền kinh tế nước ta tồn tại ba loại hình sở hữu cơ bản là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Từ ba loại hình sở hữu cơ bản đó hình thành nhiều thành phần kinh tế, nhiều tổ chức sản xuất kinh doanh. Các thành phần kinh tế tồn tại một cách khách quan và là những bộ phận cần thiết của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần là một tất yếu đối với nước ta.
Trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần ở nước ta, kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Bên cạnh sự thống nhất của các thành phần kinh tế còn có những mâu thuẫn khiến cho nền kinh tế thị trường có khả năng phát triển theo những phương hướng khác nhau. Vì vậy, kinh tế Nhà nước phải được xây dựng và phát triển có hiệu quả để thực hiện tốt vai trò chủ đạo của mình; đồng thời Nhà nước phải thực hiện tốt vai trò quản lý vĩ mô kinh tế xã hội để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
3.Thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập, trong đó lấy phân phối theo lao động là chủ yếu.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhiều chế độ sở hữu cùng tồn tại, do đó tồn tại cơ cấu đa dạng về hình thức phân phối thu nhập. Nền kinh tế thị trường ở nước ta tồn tại 4 hình thức phân phối thu nhập. Phân phối theo lao động được xác định là hình thức phân phối chủ yếu, là hình thức thực hiện về mặt kinh tế của chế độ công hữu.
ở nước ta lấy phát triển kinh tế thị trường là phương tiện để đạt được mục tiêu cơ bản là xây dựng xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Vì vậy, mỗi bước tăng trưởng kinh tế ở nước ta phải gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội. Việc phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hội và tập thể có ý nghĩa quan trọng để thực hiện mục tiêu đó.
4. Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước XHCN.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vận động theo yêu cầu của những quy luật vốn có của kinh tế thị trường, như quy luật giá trị, quy luật cung – cầu, cạnh tranh…; giá cả do thị trường quyết định, thị trường có vai trò quyết định đối với việc phân phối các nguồn lực kinh tế vào các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế.
Trong điều kiện ngày nay, hầu như tất cả các nền kinh tế của các nước trên thế giới đều có sự quản lý của nhà nước để sửa chữa một mức độ nào đó “những thất bại của thị trường”. Tức là cơ chế vận hành nền kinh tế của tất cả các nước đều là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế thị trường do sự tác động của các quy luật vốn có của nó. Nói một cách cụ thể hơn, cơ chế thị trường là hệ thống hữu cơ của sự thích ứng lẫn nhau, tự điều tiết lẫn nhau của các yếu tố giá cả, cung – cầu, cạnh tranh… trực tiếp phát huy tác dụng trên thị trường để điều tiết nền kinh tế thị trường. Cơ chế thị trường có tác dụng to lớn đến giải phóng sức sản xuất, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, phát huy tính năng động, chủ động sáng tạo của mọi người, làm cho nền kinh tế hoạt động sôi nổi và có khả năng tự điều chỉnh cao, kịp thời đáp ứng nhu cầu phong phú, đa dạng, luôn luôn biến động về sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ của xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, cơ chế thị trường cũng chứa đựng không ít những mặt tiêu cực: độc quyền, phân hoá giàu nghèo, kích thích chủ doanh nghiệp chạy theo lợi ích cục bộ, trước mắt, không tính đến lợi ích lâu dài, toàn cục, xem nhẹ các yêu cầu xã hội, làm xói mòn đạo đức, lối sống tốt đẹp của con người, truyền thống văn hoá của dân tộc, thậm chí phương hại đến an ninh quốc gia.
Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo nguyên tắc kết hợp kế hoạch với thị trường. Thị trường là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế, nó tồn tại khách quan, tự vận động theo những quy luật vốn có của nó. Còn kế hoạch hoá là hình thức thực hiện của tính kế hoạch, nó là sản phẩm chủ quan của chủ thể quản lý. Kế hoạch và cơ chế thị trường là hai phương tiện khác nhau để phát triển và điều tiết nền kinh tế. Kế hoạch là sự điều chỉnh có ý thức của chủ thể quản lý đối với nền kinh tế, còn cơ chế thị trường là sự tự điều tiết của bản thân nền kinh tế.
Kế hoạch và thị trường cần được kết hợp với nhau trong cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kế hoạch có ưu điểm là tập trung được các nguồn lực cho những mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo cân bằng tổng thể, gắn mục tiêu phát triển kinh tế với phát triển xã hội ngay từ đầu. Tuy nhiên, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, kế hoạch khó bao quát được hết tất cả các yêu cầu rất đa dạng và luôn biến động của đời sống kinh tế; đồng thời sự điều chỉnh của kế hoạch thường không được nhanh, nhậy. Trong khi đó sự điều tiết của cơ chế thị trường lại nhanh nhậy, nó kích thích tính năng động, sáng tạo của các chủ thể kinh tế, đáp ứng nhanh, nhậy nhu cầu đa dạng của đời sống xã hội. Song khuyết tật cơ bản của cơ chế thị trường là tính tự phát nên có thể đưa đến sự mất cân đối, gây tổn hại cho nền kinh tế. Vì thế cần có sự kết hợp kế hoạch với thị trường trong cơ chế vận hành nền kinh tế.
Thị trường là căn cứ để xây dựng và kiểm tra các kế hoạch phát triển kinh tế. Những mục tiêu và biện pháp mà kế hoạch nêu ra muốn được thực hiện có hiệu quả phải xuất phát từ yêu cầu của thị trường. Mặt khác, muốn cho thị trường hoạt động phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa thì nó phải được hướng dẫn và điều tiết bởi kế hoạch.
Sự kết hợp kế hoạch với thị trường được thực hiện ở cả tầm vi mô lẫn vĩ mô. ở tầm vi mô, thị trường là căn cứ xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh. Thông qua sự biến động của quan hệ cung – cầu và giá cả thị trường, các doanh nghiệp lựa chọn được phương án sản xuất: sản xuất ra sản phẩm gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai. Cũng nhờ đó mà các doanh nghiệp lựa chọn được cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư cho mình. Thoát ly yêu cầu của thị trường, các mục tiêu của kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ không thực hiện được ở tầm vĩ mô, mặc dù thị trường không phải là căn cứ duy nhất có tính quyết định, song kế hoạch nhà nước cũng không thoát ly khỏi tình hình biến động của thị trường. Thoát ly thị trường, kế hoạch hoá vĩ mô trở thành duy ý chí. Kế hoạch vĩ mô nhằm đảm bảo cân đối lớn, tổng thể của nền kinh tế như tổng cung – tổng cầu, sản xuất – tiêu dùng, hàng hoá - tiền tệ. Kế hoạch hoá vĩ mô có thể tác động đến cung, cầu, giá cả để uốn nắn những lệch lạc của sự phát triển do sự tác động tự phát của thị trường gây ra, thông qua đó mà hướng hoạt động của thị trường theo hướng của kế hoạch.
5. Nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa cũng là nền kinh tế mở, hội nhập.
Do sự tác động của cách mạng khoa học – công nghệ, đang diễn ra quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế, sự phát triển của mỗi quốc gia trong sự phụ thuộc lẫn nhau. Vì vậy, mở cửa kinh tế, hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới là tất yếu đối với nước ta.
Thực hiện mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá hình thức đối ngoại, gắn thị trường trong nước với thị trường khu vực, thế giới, thực hiện những thông lệ trong quan hệ kinh tế quốc tế, nhưng vẫn giữ được độc lập chủ quyền và bảo vệ được lợi ích quốc gia, dân tộc trong quan hệ kinh tế đối ngoại.
III. Phân tích các mục tiêu và chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước:
1. Các mục tiêu quản lý kinh tế của Nhà nước:
Quản lý vĩ mô của nhà nước phải được tăng cường nhằm mục tiêu:
Định hướng và chỉ đạo sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế xã hội. Tạo môi trường kinh tế và khuôn khổ pháp lý cho hoạt động sản xuất kinh doanh, phát huy mặt tích cực, ngăn ngừa khống chế những tác động tự phát, tiêu cực, khắc phục những khiếm khuyết vốn có của cơ chế thị trường, làm cho thị trường thực sự trở thành công cụ quan trọng trong việc phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực. Phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân, điều tiết lợi ích giữa các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư, đáp ứng yêu cầu tăng trưởng nhanh hơn, ổn định vững chắc hơn, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đảm bảo cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
2. Chức năng kinh tế của Nhà nước:
Một, Nhà nước đảm bảo sự ổn định chính trị, kinh tế, xã hội và thiết lập khuôn khổ luật pháp để tạo điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh tế, vì ổn định chính trị, xã hội là điều kiện cần thiết để phát triển kinh tế. Nhà nước còn phải tạo ra hành lang luật pháp cho hoạt động kinh tế bằng cách đặt ra các điều luật cơ bản về quyền sở hữu tài sản và hoạt động thị trường, đặt ra những quy định chi tiết cho hoạt động của các doanh nghiệp. Khuôn khổ luật pháp mà Nhà nước thiết lập có tác động sâu sắc tới các hành vi của các chủ thể kinh tế, điều chỉnh hành vi kinh tế của họ.
Hai, Nhà nước định hướng cho sự phát triển kinh tế và thực hiện điều tiết các hoạt động kinh tế để đảm bảo cho nền kinh tế thị trường tăng trưởng ổn định. Nhà nước xây dựng các chiến lược và quy hoạch phát triển, trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực để dẫn dắt nền kinh tế – xã hội đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế. Nền kinh tế thị trường khó tránh khỏi những chấn động bởi các cuộc khủng hoảng kinh tế và lạm phát. Bằng việc sử dụng một cách cẩn thận các chính sách tài khoá và tiền tệ, chính phủ có thể tác động tới sản lượng, việc làm và lạm phát. Chính sách tài khoá của chính phủ là quyền lực đánh thuế và chi tiêu. Chính sách tiền tệ bao gồm việc xác định mức cung tiền tệ và lãi suất. Sử dụng hai công cụ cơ bản đó của chính sách kinh tế vĩ mô, các chính phủ có thể tác động tới mức tổng chi tiêu xã hội, tốc độ tăng trưởng và tổng sản lượng, tỷ lệ hữu nghiệp và thất nghiệp, mức giá cũng như tỷ lệ lạm phát trong nền kinh tế.
Ba, Nhà nước đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả. Các doanh nghiệp vì lợi ích hẹp hòi của mình có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống của con người. Vì vậy, Nhà nước phải thực hiện những biện pháp nhằm ngăn chặn những tác động bên ngoài để nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội. Thị trường không thể phân bổ các nguồn lực một cách hợp lý khi xuất hiện cạnh tranh không hoàn hảo và các ảnh hưởng ngoại sinh. Cạnh tranh không hoàn hảo như độc quyền làm cho mức giá tăng lên với lượng sản phẩm đầu ra ít đi. Để tránh những việc đó, Nhà nước điều tiết các doanh nghiệp hay áp dụng các điều luật chống độc quyền đối với các hoạt động của các doanh nghiệp. Các ảnh hưởng ngoại sinh nảy sinh khi các hoạt động gây ra chi phí hay lợi ích tới người khác bên ngoài thị trường. Nhà nước có thể can thiệp để điều chỉnh các tác động bên ngoài đó hay cung cấp các hàng hoá công cộng, nâng cao tính hiệu quả của hoạt động thị trường.
Bốn, Nhà nước cần hạn chế, khắc phục các mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, thực hiện công bằng xã hội. Sự tác động của cơ chế thị trường có thể đưa lại hiệu quả kinh tế cao, nhưng thị trường không cần thiết phải tạo ra sự phân phối thu nhập công bằng, nó có thể gây ra cơn lốc bất bình đẳng về thu nhập và tiêu dùng tới múc không thể chấp nhận được. Nó không tự động mang lại những giá trị mà xã hội cố gắng vươn tới, không tự động đưa đến sự phân phối thu nhập công bằng. Để đối phó với điều này, Nhà nước có thể lựa chọn những loại hình thu nhập về tiền công trên thị trường, tiền cho thuê, lãi suất và cổ tức. Nhà nước sử dụng thuế để tạo nguồn thu nhằm trợ cấp cho các chương trình hỗ trợ thu nhập nhằm tạo ra mạng lưới tài chính an toàn cho những đối tượng cần thiết, thực hiện phân phối thu nhập quốc dân một cách công bằng, thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội.
IV. Một số những giải pháp cơ bản để nhằm đổi mới và tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước ta hiện nay.
Để thực hiện được những mục tiêu quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước, trong những năm tới cần khắc phục những khâu yếu nhất của thể chế hiện hành, giải quyết tốt hai vấn đề lớn:
1. Phân định rõ chức năng quản lý giữa các bộ với chính quyền các cấp theo hướng:
Các bộ chuyên ngành tập trung làm tốt chức năng hoạch định chiến lược, quy hoạch, chính sách phát triển toàn ngành; hướng dẫn, hỗ trợ, kiểm soát các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, trên phạm vi cả nước, theo đúng chức năng quản lý Nhà nước về ngành kinh tế – kỹ thuật mà bộ phụ trách. Tăng cường vai trò quản lý xuyên suốt các ngành, lĩnh vực của các bộ tổng hợp làm cho mọi hoạt động kinh tế xã hội đều nằm trong phạm vi quản lý vĩ mô có hiệu lực của nhà nước. Chính quyền các cấp thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên địa bàn, bảo đảm mọi hoạt động kinh doanh của các thành phần kinh tế được thực hiện đúng pháp luật.
2. Hoàn thiện các công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước:
Phương pháp quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trường của nhà nước ta được xây dựng trên cơ sở của hai nguyên tắc:
- Không can thiệp trực tiếp, không áp đặt thô bạo ý chí của Nhà nước vào các quá trình hình thành giá. Nhà nước chỉ có thể tác động gián tiếp vào nền kinh tế thông qua cơ chế cung – cầu, giá cả của thị trường. Nói cách khác: Nhà nước can thiệp vào quá trình kinh tế bằng cách tác động gián tiếp vào cơ chế hoạt động của thị trường.
- Nhà nước điều khiển sự hoạt động của nền kinh tế bằng các chiến lược, các kế hoạch dài hạn, can thiệp vào các hiện tượng và quá trình kinh tế bằng các công cụ lãi suất thuế và chi tiêu thông qua cơ chế lợi ích theo nguyên tắc mỗi cá nhân theo đuổi lợi ích riêng, đạt được lợi ích riêng bằng cách làm cho xã hội.
Mỗi hiện tượng kinh tế có thể được xem xét vừa là mục tiêu, vừa là công cụ. Kế hoạch vừa là công cụ, vừa là phương pháp quản lý điều khiển nền kinh tế. Pháp luật kinh tế vừa là yếu tố tạo nên môi trường kinh doanh, vừa là công cụ để chính phủ điều khiển hoạt động của doanh nghiệp. Kế hoạch hoá định hướng chính sách kinh tế do đó vừa được xem xét như là phương tiện, vừa là công cụ để sử dụng để điều khiển quản lý, can thiệp nền kinh tế. Vì vậy, hệ thống công cụ quản lý có ba yếu tố cơ bản: pháp luật, kế hoạch hoá định hướng, hệ thống các chính sách và công cụ kinh tế.
a. Pháp luật.
Trong nền kinh tế thị trường, hệ thống pháp luật có vai trò tạo ra khuôn khổ pháp lý và hành lang cho chủ thể kinh tế hoạt động kinh doanh. Pháp luật là công cụ để Nhà nước quản lý nền kinh tế.
Để tạo điều kiện cho nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước ta đã có nhiều cố gắng trong việc xây dựng hệ thống luật và đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, chúng ta vẫn chưa hình thành được hệ thống pháp luật đủ khả năng đáp ứng yêu cầu của thị trường. Hệ thống pháp luật kinh tế của nước ta còn thiết. Hành lang pháp lý nhằm bảo đảm cho các thành phần kinh tế, nhất là kinh tế tư nhân phát triển hết khả năng của mình chưa được xác lập. Hệ thống luật đã thiếu, nhưng có những luật đã được xây dựng, lại thiếu tính khả thi do ngay trong những điều quy định trong luật hoặc do ý thức thi hành pháp luật của công dân.
Nền kinh tế thị trường không thể hoạt động một cách ổn định và có hiệu quả nếu thiếu hệ thống pháp luật phù hợp. Nhà nước cũng không thể quản lý nền kinh tế thị trường nếu không có pháp luật. Vì vậy, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, làm cho pháp luật được thực hiện nghiêm minh là một đòi hỏi cấp bách hiện nay ở nước ta, là điều kiện bảo đảm nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế, vừa phát huy được thế mạnh, lại vừa hạn chế được những mặt tiêu cực của cơ chế thị trường. Nhà nước phải xây dựng và ban hành một hệ thống luật dân sự và luật kinh tế bảo đảm điều chỉnh đồng bộ và tốt nhất các quan hệ hàng hoá - tiền tệ trong nền kinh tế. Vấn đề đặt ra là kịp thời lựa chọn xây dựng và ban hành các luật quan trọng. Những văn bản này qua thực tế sẽ được điều chỉnh, bổ sung.
b. Kế hoạch hoá.
Trong hoạt động của Nhà nước, kế hoạch hoá sự phát triển kinh tế – xã hội là rất quan trọng và cần thiết. Vì vậy, trong thời gian tới phải chấm dứt hiện tượng coi nhẹ vai trò của kế hoạch đối với nền kinh tế thị trường. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác kế hoạch, làm cho kế hoạch thực sự là công cụ định hướng phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Theo mục tiêu trên, trong thời gian tới, công tác kế hoạch hoá cần đổi mới theo hướng sau:
Kết hợp chặt chẽ kế hoạch với thị trường, thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của kế hoạch. Trong đó, Nhà nước điều tiết thị trường bằng kế hoạch hoá vĩ mô - kế hoạch hoá gián tiếp – thông qua hệ thống chỉ tiêu cân đối định hướng, trên cơ sở vận dụng đồng bộ và có hiệu quả các công cụ pháp luật, cơ chế, chính sách, các công cụ đòn bẩy kinh tế và bằng các nguồn lực của khu vực kinh tế nhà nước. Còn thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả thông qua kế hoạch hoá vi mô.
Kế hoạch nhà nước chủ yếu mang tính định hướng, từ đó tiếp tục xoá bỏ hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh, hoàn thiện và nâng cao chất lượng hệ thống chỉ tiêu cân đối mang tính định hướng. Các nhu cầu của Nhà nước sẽ được thực hiện chủ yếu bằng các đơn đặt hàng thông qua đấu thầu giữa Nhà nước và các đơn vị kinh tế thuộc các thành phần kinh tế.
Củng cố và tăng cường vai trò tham mưu của cơ quan kế hoạch, làm tốt các chức năng lập quy hoạch, kế hoạch để định hướng phát triển nền kinh tế xã hội; tính toán và duy trì các cân đối lớn của nền kinh tế, bảo đảm kinh tế vĩ mô ổn định, tạo điều kiện phát huy tác dụng tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường và thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; làm trung tâm điều phối các nguồn lực từ trong và ngoài nước nhằm thực hiện có hiệu quả các nguồn lực đó cho những mục tiêu kinh tế – xã hội.
Đổi mới công tác kế hoạch hướng vào nâng cao chất lượng xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển các ngành, các vùng và toàn bộ nền kinh tế. Xây dựng các chương trình, kế hoạch phát triển dài hạn, trung hạn. Nâng cao chất lượng các cân đối lớn và dự báo những khả năng và xu hướng phát triển làm cơ sở cho việc đề ra các mục tiêu kinh tế, các chính sách, giải pháp và định hướng về phân bổ nguồn lực để thực hiện. Nâng cao chất lượng xây dựng, thẩm định các dự án đầu tư. Thiết lập quy chế kết hợp chặt chẽ việc xây dựng kế hoạch, quy hoạch với việc hoạch định chính sách và thể chế để dẫn dắt, điều hành nền kinh tế theo định hướng kế hoạch, xử lý kịp thời những mất cân đối và những vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện kế hoạch.
c. Hệ thống tài chính – tiền tệ.
Tài chính nước ta là hệ thống quan hệ kinh tế biểu hiện trong lĩnh vực hình thành, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân nhằm xây dựng, bảo vệ và phát triển xã hội xã hội chủ nghĩa. Tài chính có vai trò điều tiết kinh tế và Nhà nước thực hiện vai trò này thông qua sự kết hợp hai chức năng: phân phối và giám đốc. Với tác dụng điều tiết kinh tế, tài chính là công cụ trọng yếu thúc đẩy nền kinh tế quốc dân phát triển cân đối theo định hướng các mục tiêu kinh tế vĩ mô.
Trong thời gian tới, giải pháp cơ bản để đổi mới và tăng cường hệ thống tài chính tiền tệ ở nước ta là:
Xây dựng và phát triển nền tài chính nhiều thành phần. Tiếp tục cải cách sâu sắc và toàn diện hệ hơn nữa hệ thống tài chính – tiền tệ, xây dựng và duy trì hệ thống tài chính – tín dụng ổn định. Xử lý tốt các quan hệ: tài chính Nhà nước với tài chính doanh nghiệp và dân cư, ngân sách trung ương và ngân sách địa phương; chỉ tiêu thường xuyên với chỉ tiêu đầu tư cho phát triển và bảo đảm quốc phòng, an ninh; đáp ứng các nhu cầu trước mắt với tiết kiệm và đầu tư phát triển vì lợi ích lâu dài…theo hướng tăng tích luỹ cho đầu tư phát triển, thực hiện cho được chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, bảo đảm quản lý thống nhất nền tài chính quốc gia.
Cải tiến hệ thống thu – chi ngân sách, thống nhất chế độ thu chi và phân phối tài chính trong các doanh nghiệp quốc doanh và hợp tác xã. Khống chế bội chi ngân sách, tăng thu để bảo đảm chi, không bù bội chi ngân sách bằng cách phát hành tiền, tiến tới cân bằng thu chi ngân sách. Nâng cao tính hiện thực của dự toán thu ngân sách hàng năm và thực hiện đúng chức năng chi ngân sách nhà nước trên cả 3 lĩnh vực (đầu tư, chi thường xuyên và trả nợ)
Tạo điều kiện hình thành và phát triển thị trường tài chính. Thị trường tài chính là khâu trung gian gắn các khâu tài chính với nhau, có tác dụng thúc đẩy quá trình giao lưu các nguồn lực tài chính, tăng cường sự vận động cuả giá trị trong nền kinh tế. Cùng với sự phát triển kinh tế thị trường, từng bước tạo tiền đề vững chắc cho việc hình thành thị trường chứng khoán, nhân tố quan trọng thu hút vốn của xã hội và năng động hoá hoạt động đầu tư của nền kinh tế. Đa dạng hoá các hình thức huy động và đầu tư vốn như liên doanh, liên kết, phát hành trái phiếu, cổ phiếu, góp quỹ bảo hiểm, các quỹ đầu tư…
Xây dựng hệ thống thông tin, phân tích, kiểm tra, kiểm soát tài chính. Việc xây dựng hệ thống mạng lưới thông tin tài chính nhanh nhạy, tăng cường khả năng phân tích, kiểm tra, kiểm soát tài chính là nhu cầu khách quan và có tầm quan trọng đặc biệt của chính sách tài chính quốc gia.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp về tài chính. Xử lý tốt mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng, khai thác tối đa các nguồn lực tài chính; phát triển dựa vào nội lực là chính, đồng thời tranh thủ tối đa nguồn tài chính bên ngoài; nâng cao sức cạnh tranh và tính hiệu quả của nền kinh tế tạo điều kiện cho chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
Kiện toàn bộ máy quản lý tài chính. Bộ máy quản lý tài chính cần được cải tiến và tổ chức cho thích ứng với từng thời kỳ của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng và điều hành của Nhà nước trong lĩnh vực tài chính.
Ngoài ra, Nhà nước còn cần cải cách hệ thống kế toán, phát triển hoạt động kiểm toán Nhà nước và kiểm toán tư nhân. Ngân hàng trung ương có trách nhiệm xây dựng và thi hành chính sách tiền tệ, bảo đảm vừa đủ lượng tiền cho lưu thông, kiểm soát lạm phát, phối hợp với cơ quan tài chính, thương mại, giá cả để giữ chỉ số tăng giá bình quân hàng năm ở mức một con số, phấn đấu cân đối cấn cân thành toán quốc tế, tăng quỹ dự trữ quốc gia.
Hoàn thiện cơ chế phát hành tiền và kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện. Mở rộng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Tiếp tục chuyển các ngân hàng thương mại sang cơ chế kinh doanh đầy đủ. Phát triển ngân hàng phục vụ người nghèo với lãi suất ưu đãi và thể thức cho vay thích hợp. Sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh ngân hàng và nâng lên thành luật. Cho phép các định chế tài chính kinh doanh đa dạng, phát triển mạnh các dịch vụ tài chính, ngân hàng theo đúng pháp luật và các quy định quản lý của Ngân hàng Nhà nước. Khuyến khích phát triển, đa dạng hoá hoạt động kinh doanh bảo hiểm của các thành phần kinh tế và mở ra hợp tác với nước ngoài, đổi mới cơ chế và tổ chức quản lý bảo hiểm xã hội. Quy định rõ quy mô và phạm vi hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, phát huy tác dụng tích cực của họ trong việc đổi mới công nghệ ngân hàng, đồng thời bảo đảm sự kiểm soát của Ngân hàng nhà nước.
Đổi mới từng bước cơ chế quản lý ngoại hối phù hợp với điều kiện thực tế. Xác định tỉ giá hợp lý của đồng tiền Việt Nam với một số ngoại tệ có quan hệ nhiều trong giao dịch, từng bước làm cho đồng tiền Việt Nam có giá trị chuyển đổi đầy đủ.
Kết luận
Từ đại hội Đảng VI tháng 12-1986 cho đến nay, nước ta đã trải qua gần 20 năm đổi mới, và đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đặc biệt trong phát triển kinh tế. Những mục tiêu kinh tế đặt ra trong các kỳ Đại hội đều được hoàn thành. Đó là đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế – xã hội với tăng cường quốc phòng an ninh.
Một trong những nguyên nhân quan trọng giúp cho nước ta có thể đạt được những thành tựu đó chính là vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước với những công cụ điều tiết vĩ mô (hệ thống pháp luật, kế hoạch hoá, hệ thống tài chính tiền tệ) đã làm tốt những chức năng kinh tế của mình, đảm bảo thực hiện được mục tiêu quản lý kinh tế vĩ mô trong thời kỳ mới. Tuy còn nhiều bất cập và hạn chế nhưng chúng ta không thể phủ nhận vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan đối với Việt Nam nói riêng và tất cả các nền kinh tế trên thế giới nói chung. Trong tình hình hiện nay, khi nền kinh tế thế giới đang chịu những sự tác động mạnh mẽ của sự tăng giá dầu thô, dịch cúm gia cầm, thiên tai… và đặc biệt là nạn khủng bố, thì hơn bao giờ hết Nhà nước ta càng phải khẳng định và phát huy vai trò quản lý của mình đối với nền kinh tế. Có như vậy mới có thể xây dựng được nền kinh tế ngày càng phát triển hơn, sẵn sàng hội nhập với các nền kinh tế trong khu vực và thế giới, từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Tài liệu tham khảo
1. Văn kiện đại hội Đảng VI; VII; VIII; IX.
2. T¹p chÝ céng s¶n ®iÖn tö :www.tapchicongsan.org.vn
3. Giáo trình kinh tế học – Paul A. Samuelson.
4. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin – Bộ Giáo dục và Đào tạo.
5. Một số phương pháp chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay – Nhà xuất bản báo chí
6. Bách Khoa toàn thư
7. wikimedia.com
MỤC LỤC
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35968.doc