ng ty xuyên quốc gia và doanh nghiệp trong nước. Cản trở lớn nhất trong việc phát triển các mối liên kết giữa các doanh nghiệp trong nước và các công ty xuyên quốc gia là năng lực sản xuất của chính bản thân các doanh nghiệp. Chính vì vậy, Nhà nước cần chủ động thực hiện nhiều biện pháp nhằm nâng cao năng lực sản xuất và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. Cụ thể là:
-Đối với doanh nghiệp nhà nước, cần thực hiện triệt để chương trình sắp xếp lại doanh nghiệp trong đó đặc biệt chú trọng công cuộc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và sản xuất của doanh nghiệp, lành mạnh hoá tài chính doanh nghiệp, thường xuyên giám sát và đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhằm tránh tình trạng trì trệ trong hoạt động của các doanh nghiệp hiện nay.
48 trang |
Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 1254 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số vấn đề cho Việt Nam được rút ra từ việc nghiên cứu vai trò của công ty xuyên quốc gia trong thương mại quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
riêng cho các công ty mẹ và công ty chi nhánh. Mỗi một công ty xuyên quốc gia đều có ba loại xuất khẩu hàng hoá cơ bản. Đó là hàng hoá từ công ty mẹ chuyển cho công ty con, hàng từ công ty con chuyển cho công ty mẹ và hàng hoá trao đổi nội bộ giữa các công ty con ở các nước khác nhau nhưng trong cùng một tập đoàn xuyên quốc gia. Hoạt động thương mại nội bộ giữa các công ty trong cùng một hệ thống như vậy tạo điều kiện cho các chi nhánh tiếp cận với công nghệ và bí quyết của riêng hệ thống đó.
Thương mại nội bộ giữa các chi nhánh ngày càng tăng thông qua việc chuyển dịch cơ cấu công nghiệp và định hướng tiêu dùng ở các nước chủ nhà. Sự chuyển dịch cơ cấu này cũng được phản ánh trong xu hướng xuất khẩu của các công ty chi nhánh. Các nước chủ nhà đang phát triển tăng lên, thị trường nội địa trở nên hấp dẫn hơn, chi phí nội địa cũng tăng cao, các công ty chi nhánh đã nghĩ đến việc giảm tỷ lệ xuất khẩu ra ngoài hệ thống.
Trong các công ty xuyên quốc gia, hoạt động thương mại nội bộ với hoạt động nghiên cứu và triển khai có mối quan hệ mật thiết với nhau bởi vì việc nhanh chóng chuyển giao công nghệ cũng đồng nghĩa với việc giá trị giao dịch tăng cao. Ví dụ, ngành công nghiệp dược phẩm năm 1999 sử dụng 12% chi phí sản xuất cho hoạt động nghiên cứu và triển khai. Kết quả là gần 95% giao dịch thương mại quốc tế của ngành này là thông qua hệ thống thương mại nội bộ. Các quốc gia có hoặc có thể có công nghệ cao và đồng bộ hơn thường có nhiều cơ hội tăng khả năng xuất khẩu thông qua việc liên kết chặt chẽ với mạng lưới công ty xuyên quốc gia.
Các công ty xuyên quốc gia cũng giữ một vai trò to lớn trong thương mại dịch vụ. Trong bối cảnh hiện nay, cùng với sự phát triển kinh tế xã hội nói chung, dịch vụ đang ngày càng chiếm một vị trí quan trọng hơn trong nền kinh tế các nước, đặc biệt là ở các nước phát triển. Tiềm năng xuất khẩu dịch vụ qua biên giới tăng mạnh nhờ những công nghệ tiên tiến trong lĩnh vực viễn thông và kết nối internet. Chính những công nghệ này thúc đẩy khả năng thương mại của dịch vụ có hàm lượng thông tin cao bao gồm cả hoạt động nghiên cứu và phát triển, dịch vụ bán hàng, marketing... Đây chính là những lĩnh vực mà các công ty xuyên quốc gia chiếm vị trí độc tôn.
Vai trò của các chi nhánh ở nước ngoài trong thị trường nội bộ là rất quan trọng và vai trò này ngày càng tăng do xu hướng toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ. Với mạng lưới chi nhánh rộng khắp trên toàn thế giới, các thông tin về thị trường, nhu cầu tiêu dùng... được các công ty xuyên quốc gia nắm bắt rất kịp thời và xử lý nhanh chóng. Do đó, các chi nhánh có khả năng ứng phó với mọi điều kiện kinh doanh, tiêu thụ quốc tế liên tục biến đổi. Các công ty chi nhánh trong hệ thống công ty xuyên quốc gia có lợi thế tiềm năng vô cùng to lớn so với các công ty nội địa của nước chủ nhà trên thị trường quốc tế. Các công ty này có khả năng xuất khẩu được nhiều hàng hoá cùng loại hơn các công ty nội địa. Bởi vì các công ty con là một phần trong hệ thống công ty xuyên quốc gia, do đó chúng có thể sử dụng mạng lưới phân phối tự nhiên của hệ thống hoặc khai thác triệt để mối quan hệ giữa công ty mẹ với các đối tác. Các công ty mẹ luôn quan hệ chặt chẽ với người mua ở nước nhập khẩu. Đây chính là mối liên kết vô cùng quan trọng để có thể khai thác các đơn đặt hàng có hàm lượng công nghệ cao theo yêu cầu của khách. Các công ty con cũng có thể giảm chi phí kinh doanh, đồng thời có thêm lợi thế về marketing trong xuất khẩu hơn các công ty nội địa. Chúng có thể dễ dàng củng cố thương hiệu do có những điều kiện thuận lợi về vận tải, marketing, tài chính và kênh phân phối ở nước ngoài.
Ngoài ra, trong giai đoạn hiện nay, ở các nước tư bản phát triển, quá trình tích tụ, tập trung tư bản và phát triển công nghiệp diễn ra mạnh mẽ đã tạo ra một khối lượng lớn tư bản thừa, làm xuất hiện nhu cầu mở rộng thị trường đầu tư sang các nước. Chính các công ty chi nhánh đã tiếp nhận khối lượng tư bản thừa này từ các công ty mẹ nhằm mở rộng thị trường theo chiều rộng, nhất là có thêm được những thị trường ít “khó tính” trong số các nước đang phát triển. Điều này cũng lý giải cho việc thương mại nội bộ giữa các công ty trong cùng một hệ thống công ty xuyên quốc gia ngày càng tăng.
2.2. Thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các nước
Các nước đang phát triển có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, dồi dào, lực lượng lao động rẻ... nhưng còn ở trình độ kỹ thuật lạc hậu. Để khai thác những tài nguyên đó, họ phải liên kết, hợp tác với tư bản nước ngoài. Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia thiết lập các chi nhánh, khai thác các nguồn lực của các quốc gia đang phát triển. Việc thiết lập hàng loạt các chi nhánh đã giúp các công ty xuyên quốc gia của các nước phát triển phát huy được ưu thế tư bản của mình, khai thác được lợi thế của từng nước, tránh được những kiểm soát gắt gao về bảo vệ môi trường, về cạnh tranh gay gắt do giá cả sức lao động ở chính quốc ngày càng cao, giảm bớt được chi phí vận chuyển... góp phần làm giảm giá thành sản phẩm. Sự hoạt động của các công ty xuyên quốc gia nước ngoài và sự thiết lập các chi nhánh của chúng ở các nước đang phát triển đã tạo cơ hội cho những nước này đẩy mạnh khả năng xuất khẩu hàng hoá, tiếp cận, mở rộng thị phần của mình trên thị trường quốc tế.
Mô hình liên kết thương mại của các công ty xuyên quốc gia tại các nước đang phát triển khá hoàn chỉnh. Đó chính là tác động của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và cơ cấu tổ chức của các công ty xuyên quốc gia. Thương mại song phương giữa nước mẹ và nước chủ nhà phần lớn là xuất khẩu từ công ty mẹ cho các công ty con. Các công ty xuyên quốc gia mở rộng hoạt động đến quốc gia nào là khối lượng xuất khẩu của quốc gia đó tăng lên đáng kể. Việc sử dụng các chiến lược quốc tế hoá phức hợp hơn đã tạo ra nhiều cơ hội cho các nước đang phát triển mở rộng xuất khẩu, không chỉ với mạng lưới các công ty xuyên quốc gia mà còn cả với các công ty bên ngoài hệ thống trên thị trường quốc tế. Các công ty xuyên quốc gia thực hiện việc cắm nhánh ở các nước đang phát triển và giúp cho các nước chủ nhà dễ dàng tiếp cận với thị trường quốc tế hơn. Các công ty nội địa cũng được hưởng lợi theo bởi chúng có thể tham gia vào mạng lưới của các công ty xuyên quốc gia thông qua các hợp đồng phụ và một số thoả thuận khác. Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của các công ty xuyên quốc gia giúp các nước chủ nhà sản xuất hướng vào xuất khẩu, góp phần tái cơ cấu nền công nghiệp, đồng thời tăng khả năng cạnh tranh của chính nước đó trên thị trường quốc tế.
Thông qua việc bổ sung vốn, công nghệ, kỹ năng quản lý, các công ty xuyên quốc gia đã giúp cho các nước chủ nhà mở rộng xuất khẩu, tiếp cận với thị trường trong nước và khu vực. Nhờ các công ty xuyên quốc gia, các nước chủ nhà có cơ hội tiếp cận với những nguồn lực mới và thị trường nội bộ của hệ thống công ty xuyên quốc gia, qua đó bổ khuyết những thiếu hụt trong điều kiện riêng của từng quốc gia nhằm tăng khả năng cạnh tranh. Do đó, các nước chủ nhà có thể mở rộng hoạt động xuất khẩu sang những lĩnh vực mới và nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu hiện tại.
Các công ty xuyên quốc gia cũng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp của nước chủ nhà tiếp cận với những thị trường rộng lớn của mình, tức cho phép các doanh nghiệp này tham gia vào thị trường nội bộ của tập đoàn. Đồng thời, các công ty xuyên quốc gia cho phép các doanh nghiệp đó tham gia những giao dịch thương mại với hệ thống khách hàng trên thị trường trong nước, thị trường khu vực và thị trường toàn cầu của mình, từ đó giúp các doanh nghiệp này nâng cao tầm vóc, mở rộng quan hệ với các đối tác trên quy mô quốc tế. Ví dụ, trường hợp của công ty ENGTEC của Malaysia. Từ một nhà phân phối địa phương có quan hệ đối tác chặt chẽ với các công ty xuyên quốc gia lớn, thông qua hệ thống mạng lưới của các công ty xuyên quốc gia này, ENGTEC đã mở rộng phạm vi hoạt động sản xuất kinh doanh và tự nâng mình lên thành một nhà phân phối có tầm vóc quốc tế. Ngoài ra, các doanh nghiệp của nước chủ nhà còn được hưởng lợi từ các hoạt động vận động hành lang của các công ty xuyên quốc gia ở chính nước đó cũng như ở các nước đối tác cạnh tranh.
Các công ty xuyên quốc gia có tác động rất lớn đến năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu. Phần lớn các sản phẩm tinh vi, có hàm lượng công nghệ cao và được tiếp thị rộng rãi đều có xuất xứ từ các công ty này. Các công ty xuyên quốc gia lớn ở các nước công nghiệp phát triển đẩy mạnh xuất khẩu những hàng hoá phức tạp. Các công ty xuyên quốc gia từ các nước đang phát triển hoặc các công ty nhỏ hơn từ các nước công nghiệp xúc tiến xuất khẩu những hàng có hàm lượng công nghệ thấp hơn, tăng cường xuất khẩu trong khu vực. Có thể nói rằng các công ty xuyên quốc gia giữ một vai trò rất lớn trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của các nước đang phát triển trong lĩnh vực xuất khẩu hàng chế tạo, tài nguyên, các sản phẩm nông nghiệp đã qua chế biến...
Các công ty xuyên quốc gia nâng cao khả năng cung cấp các sản phẩm xuất khẩu phù hợp với thị trường thế giới. Với mạng lưới kinh doanh toàn cầu, các công ty xuyên quốc gia nắm rõ nhu cầu về chủng loại và chất lượng sản phẩm. Thông qua hoạt động xuất khẩu của các chi nhánh, các công ty xuyên quốc gia giúp các nước chủ nhà có được những phương tiện hữu hiệu phục vụ cho hoạt động sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm phù hợp với nhu cầu của thị trường thế giới, nói cách khác là giúp cung trong nước đáp ứng được cầu của thế giới. Đó là điều mà các doanh nghiệp của các nước chủ nhà rất khó có thể tự có được hoặc để có thì phải trả chi phí vô cùng lớn. Với sự hỗ trợ đắc lực của các công ty xuyên quốc gia, khả năng cung cấp sản phẩm có chất lượng cao của Trung Quốc đã tăng lên rõ rệt và nhiều nhà sản xuất của nước này đã trở thành nhà cung cấp quốc tế. Tỷ trọng bán sản phẩm của Trung Quốc trong tổng lượng mua hàng của các công ty xuyên quốc gia Nhật đã tăng từ 35% năm 1993 lên 46% năm 2002
Do đời sống kinh tế xã hội của người dân trên toàn thế giới ngày càng tăng cao, người tiêu dùng một lần nữa lại đòi hỏi có sự đa dạng về sản phẩm đến gần như vô tận. Với các mô hình tổ chức quản lý đa dạng, các công ty xuyên quốc gia hoàn toàn có khả năng đáp ứng được tất cả những nhu cầu của người tiêu dùng trên toàn thế giới. Để phục vụ nhu cầu về hàng đồng loại công ty xuyên quốc gia đã có những dây chuyền sản xuất hàng loạt. Đối với những nhu cầu quá đa dạng của người tiêu dùng, để có những mặt hàng hơi khác một chút, các công ty này đã có những tế bào sản xuất rất linh hoạt. Có thể nói rằng, các công ty xuyên quốc gia luôn có khả năng thích ứng rất cao đối với mọi thay đổi trong nhu cầu, thị hiếu đa dạng của người tiêu dùng trên thị trường quốc tế.
Đối với những mặt hàng truyền thống, hàng nguyên liệu và những hàng có hàm lượng công nghệ thấp, vai trò của các công ty xuyên quốc gia tiếp tục trở nên quan trọng hơn. Do tỷ trọng những mặt hàng này ngày càng giảm trên thị trường quốc tế nên với trình độ và năng lực cạnh tranh còn yếu, thương mại của các nước đang phát triển chủ yếu dựa trên những mặt hàng này sẽ bị thiệt hại đáng kể. Với cơ sở vật chất sản xuất cũng như trình độ marketing và mạng lưới phân phối rộng khắp của mình, các công ty xuyên quốc gia có thể giúp các nước đang phát triển khai thác những mặt hàng này một cách chuyên môn hoá hơn.
Trong ngành thuỷ sản, do yêu cầu ngày càng cao của thị trường quốc tế, đặc biệt là ở các nước phát triển, với trình độ kỹ thuật và chuyên môn hoá trong sản xuất và chế biến, các công ty xuyên quốc gia không những nâng cao chất lượng hàng mà còn tìm thêm nguồn cung cấp mới từ các nước đang phát triển để phục vụ cho việc mở rộng thị trường. Vai trò của các công ty xuyên quốc gia tăng lên thông qua việc đầu tư thêm vốn và công nghệ cho các nước này tập trung theo hướng sản xuất hàng đông lạnh và vận chuyển, làm cho ngành công nghiệp này ở các nước đang phát triển ngày càng được chuyên môn hoá sâu hơn.
Trong lĩnh vực khai thác, dầu khí là một trong những sản phẩm có ý nghĩa quan trọng, then chốt. Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của các công ty xuyên quốc gia đã tạo điều kiện cho một số quốc gia đang phát triển chưa tham gia có thể gia nhập vào thị trường xuất khẩu dầu thế giới. Trong khi đó, ở các nước xuất khẩu dầu truyền thống, ngành công nghiệp khai thác được tăng cường với công nghệ cao, phức tạp, giúp tạo ra nhiều giá trị tăng thêm hơn. Đối với các ngành công nghiệp khai khoáng khác, sự tăng cường cung cấp thông tin, công nghệ mới đã đem lại những chuyển biến đáng kể về lợi nhuận, tăng hiệu quả của các nguồn đầu tư. Sự chuyển biến này không chỉ làm cho các hoạt động khai khoáng được phát triển công nghệ chuyên sâu mà còn tái khẳng định sự cần thiết phải tồn tại các hình thức hợp tác đa dạng về công nghệ, điển hình là các công ty xuyên quốc gia.
Trong một số trường hợp, đặc biệt là đối với các quốc gia mà đầu tư trong nước bị hạn chế bởi những căng thẳng về tài chính, các công ty xuyên quốc gia có thể giúp họ đẩy mạnh xuất khẩu thông qua việc tăng cường đầu tư vốn vào khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên hay nguồn lao động giá rẻ. Đây chính là vai trò lịch sử của các công ty xuyên quốc gia trong việc thúc đẩy xuất khẩu nguyên liệu thô, lao động bậc thấp của các nước đang phát triển.
Các công ty xuyên quốc gia từ các nước phát triển khuyến khích các nước đang phát triển xuất khẩu những hàng hoá cần nhiều lao động. Đối với các nước có nhiều lao động với tay nghề bậc thấp hoặc bậc trung, việc tham gia gia công hàng xuất khẩu cho các công ty xuyên quốc gia lớn cũng là một cách hữu hiệu để thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Từ đó có thể đầu tư cho cơ sở hạ tầng, nâng cao trình độ kỹ thuật cho công nhân, trình độ quản lý cho cán bộ, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường quốc tế.
Các công ty chi nhánh của công ty xuyên quốc gia có thể giúp nước chủ nhà đào tạo lực lượng lao động địa phương, cải tổ cơ cấu tổ chức và kỹ năng quản lý. Đây chính là những điều mà các nước chủ nhà được hưởng lợi, nó có ý nghĩa lớn hơn nhiều so với những khoản thu nhập mà lực lượng lao động nói trên kiếm được. ở các nước kém phát triển, thậm chí ngay cả việc vận hành sản xuất đơn giản nhất cũng phải được đào tạo khá kỹ lưỡng. Do đó, các nước chủ nhà có thể lợi dụng cơ hội này để nâng cao trình độ lao động, cũng chính là tự tạo điều kiện nâng cao khả năng sản xuất những mặt hàng có hàm lượng công nghệ cao, từ đó nâng cao vị thế của mình trên thị trường quốc tế.
Ngoài ra, các công ty xuyên quốc gia còn cung cấp cho các nước chủ nhà nguồn vốn đầu tư cho sản xuất hướng về xuất khẩu, sản xuất theo công nghệ cao, tạo ra các sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao trong thương mại quốc tế. Đây là việc đòi hỏi phải có vốn đầu tư cao, do đó sẽ rất khó khăn đối với các công ty ở các nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế chuyển đổi nếu không có sự hỗ trợ từ các tập đoàn lớn.
3 Sự thay đổi trong cơ cấu đối tác
Thương mại thế giới đang có xu hướng tăng dần tỷ trọng trao đổi hàng hoá của các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước mới công nghiệp hóa. Sự thay đổi chiến lược của các công ty xuyên quốc gia và hệ thống sản xuất quốc tế của chúng mở ra nhiều cơ hội thuận lợi cho các nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi ở Đông Âu tham gia vào các hoạt động hướng về xuất khẩu và có trình độ công nghệ cao cũng như trở thành một bộ phận của hệ thống sản xuất quốc tế, điều mà các nước này khó có thể đạt được bằng cách khác. Đồng thời, nhu cầu ngày càng tăng đối với sản phẩm của các nhà cung cấp lớn sẽ tạo điều kiện cho các nhà cung cấp nhỏ và mới từ các nước đang phát triển vốn không có khả năng và lợi thế cạnh tranh mà hệ thống sản xuất quốc tế đòi hỏi, có thể thâm nhập được vào thị trường. Theo báo cáo của UNCTAD năm 2002, trong cơ cấu thương mại thế giới, tỷ trọng thương mại của các nước đang phát triển chiếm 33,6% (trong đó các nước Đông và Đông Nam á chiếm tỷ trọng cao nhất là 18%, so với Mỹ Latinh 6%, Trung Đông và Bắc Phi 4%...), con số này năm 1985 là 30,3%. Mặc dù các nước phát triển vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong thương mại thế giới (63,5%) nhưng sự thay đổi theo chiều hướng đi lên, cho dù mức độ còn khiêm tốn trong tỷ trọng thương mại của các nước đang phát triển và các nền kinh tế đang chuyển đổi cũng là một dấu hiệu mới trong thương mại thế giới.
Nguyên nhân của xu hướng này là do các nước đang phát triển đẩy mạnh công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, xây dựng hạ tầng quy mô lớn, tăng cường thu hút và sử dụng đầu tư nước ngoài một cách có hiệu quả, mở rộng mạng lưới kinh doanh quốc gia cho chính các công ty xuyên quốc gia, tham gia sâu rộng vào cuộc cách mạng khoa học – công nghệ thế giới... Tại các nước mới công nghiệp hoá, các công ty xuyên quốc gia của chính những nước này đã được hình thành và phát triển mạnh mẽ. Mục tiêu thành lập công ty xuyên quốc gia ở những nước này là nhằm tăng khả năng cạnh tranh, chiếm lĩnh, khai thác thị trường rộng lớn khu vực và quốc tế, thu được lợi nhuận cao. Để giành ưu thế trong cạnh tranh, các công ty này không những hoạt động trên vùng lãnh thổ quốc gia mà còn có cả các chi nhánh hoạt động trên nhiều lãnh thổ khác. Nhờ lợi thế về quy mô và tập trung hoá các nguồn lực, chuyên môn hoá sâu giữa các chi nhánh thành viên mà các công ty xuyên quốc gia có khả năng cạnh tranh toàn diện đối với mọi hình thức trên thị trường trong nước, khu vực và quốc tế. Các công ty xuyên quốc gia của các nước mới công nghiệp hoá thường tổ chức mở rộng các chi nhánh từ các khu vực giáp ranh rồi lan toả sang các khu vực khác, quy mô chi nhánh thường không lớn, thực hiện phân bố địa hình các chi nhánh chủ yếu ở trong khu vực.
Do là những nước đi sau trong việc hình thành và phát triển các công ty xuyên quốc gia nên phần lớn các công ty xuyên quốc gia của các nước mới công nghiệp hoá đều nhanh chóng đi thẳng vào chiến lược kinh doanh đa dạng hoá và kinh doanh theo chiều sâu để thích ứng với xu thế toàn cầu hoá ngày một tăng. Với một mạng lưới chi nhánh rộng lớn sản xuất và tiêu thụ trong khu vực, các công ty này có vai trò thúc đẩy sự phát triển của khoa học – công nghệ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong vùng, do đó nó tận dụng được lợi thế tương đối trước sức cạnh tranh của các công ty xuyên quốc gia thuộc các nước phát triển khác trên địa bàn. Ngoài ra, tập quán tiêu dùng ở các quốc gia trong cùng một khu vực thường có những nét khá tương đồng nên các công ty này chính là một lực lượng lớn đảm bảo khơi dậy các kênh lưu thông giữa các quốc gia, dân tộc được giao dịch thuận lợi, dễ dàng.
Một nguyên nhân khác cũng rất đáng chú ý là trong những năm gần đây, với sự tác động của xu hướng toàn cầu hoá và sự phổ biến rộng khắp của cách mạng thông tin, nền kinh tế công nghiệp đang trong bước chuyển nhanh sang nền kinh tế tri thức trong hầu hết các quốc gia phát triển trên thế giới. Chính điều này cho phép các công ty xuyên quốc gia mở rộng mạng lưới chi nhánh toàn cầu. Các công ty xuyên quốc gia không chỉ chú trọng bành trướng về quy mô mà ngày càng thiên về coi trọng nâng cao hiệu suất quản lý. Theo sự phát triển của mạng lưới thông tin hiện đại và trao đổi ngày càng gắn bó giữa các quốc gia với nhau, các công ty xuyên quốc gia hoạt động ngày càng rộng khắp với nhiều hình thức thâm nhập vào nhau để mở rộng mạng lưới chi nhánh trên toàn cầu. Trong xu thế đó, các công ty xuyên quốc gia ở các nước mới công nghiệp hoá cũng phát triển mạnh mẽ.
Trên thực tế, các công ty xuyên quốc gia của các nước mới công nghiệp hoá đạt mức tăng trưởng kinh tế kỳ diệu bằng cách xuất khẩu chế phẩm chứ không phải nguyên liệu. Các sản phẩm chế tạo trong khối lượng xuất khẩu ở các nước đang phát triển thời kỳ này cũng được tăng mạnh. Theo đó thị trường thế giới và quan hệ cạnh tranh được mở rộng cả về phương diện lao động và sản phẩm công nghiệp. Các công ty xuyên quốc gia của các nước đang phát triển đã tìm cách chuyển đổi cơ cấu sản xuất từ hàng hoá cần nhiều sức lao động sang hàng hoá cần nhiều vốn và công nghệ, tập trung vào những sản phẩm có giá trị phụ gia cao, do đó đủ sức cạnh tranh, tăng tỷ trọng trao đổi hàng hoá của các nước đang phát triển trên thị trường thế giới.
4. Các công ty xuyên quốc gia chi phối giá cả trong thương mại quốc tế
Như đã phân tích ở trên, với ba dòng lưu thông hàng hoá cơ bản là hàng hoá xuất nhập khẩu từ công ty mẹ, hàng hoá bán ra từ các chi nhánh ở nước ngoài và hàng hoá trao đổi nội bộ giữa các công ty trong cùng một tập đoàn xuyên quốc gia, các công ty xuyên quốc gia chi phối hầu hết các chu chuyển hàng hoá giữa các quốc gia, thu hút phần lớn các sản phẩm vào các kênh lưu thông xuyên quốc gia của mình. Do vậy, giá cả trong các hợp đồng giao dịch của các công ty xuyên quốc gia có ảnh hưởng rất lớn đến giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới.
Để thu được lợi nhuận cao ở các nước đang phát triển, các công ty xuyên quốc gia không chỉ dựa vào ưu thế của mình về vốn, công nghệ, kiến thức quản lý và mạng lưới thị trường quốc tế rộng lớn mà chúng còn tìm nhiều cách để tránh thuế nước nhận đầu tư, trong đó đặc biệt là sử dụng giá chuyển giao giữa các công ty chi nhánh của chúng. Giá chuyển giao (transfer price) là giá được áp dụng giữa các công ty chi nhánh của cùng một công ty xuyên quốc gia ở các nước khác nhau. Nó hình thành không theo quy luật cung cầu mà do sự thoả thuận của các chi nhánh ở các nước khác nhau dưới sự điều khiển từ một trung tâm của công ty mẹ.
Nguyên nhân chủ yếu hình thành giá chuyển giao là có sự chênh lệch đáng kể tỷ lệ thuế lợi nhuận giữa các nước nhận đầu tư mà tại đó có sự hoạt động của các chi nhánh của công ty xuyên quốc gia. Hơn nữa, nó còn phụ thuộc vào trình độ quản lý của nước chủ nhà. Thuế lợi nhuận càng cao thì lợi nhuận sau thuế càng thấp, vì thế các công ty xuyên quốc gia đã sử dụng giá chuyển giao để tăng giá thành sản phẩm, dẫn đến làm giảm lợi nhuận chịu thuế. Hành động này dễ thực hiện đối với những nước chủ nhà có trình độ quản lý thấp và hệ thống luật pháp thiếu chặt chẽ.
Thông thường, giá chuyển giao được áp dụng phổ biến trong các ngành công nghiệp lắp ráp và chế tạo. Các chi nhánh của công ty xuyên quốc gia cung cấp phụ tùng hoặc sản phẩm cho nhau với giá cả thoả thuận mà không căn cứ vào giá thị trường. Phần lợi nhuận bị mất của chi nhánh và nước nhập khẩu sẽ chuyển sang lợi nhuận gia tăng của chi nhánh và nước xuất khẩu. Đối với nước có chi nhánh xuất khẩu thì phần lợi nhuận gia tăng như là tặng vật của nước nhập khẩu, còn đối với chi nhánh xuất khẩu phải trả lại một phần lợi nhuận gia tăng này bằng đúng một phần bị mất cho chi nhánh nhập khẩu.
Theo luật pháp quốc tế, giá cả trao đổi sản phẩm, dịch vụ giữa các công ty chi nhánh trong nội bộ công ty xuyên quốc gia phải được xác định trên cơ sở tiêu chuẩn giá thị trường mà không tính đến yếu tố quan hệ giữa chúng. Tuy nhiên, trên thực tế, ít có công ty xuyên quốc gia nào tuân thủ theo đúng yêu cầu đó của luật pháp quốc tế mà thường định giá chuyển giao theo cách có lợi nhất cho mình. Khi các công ty này định giá cao hơn hoặc thấp hơn giá thị trường thì xảy ra hiện tượng chuyển giá. Hiện tượng chuyển giá diễn ra theo hai chiều hướng cơ bản là nâng giá đầu vào (tài sản góp vốn, chi phí nguyên vật liệu, chi phí khấu hao tài sản cố định và các chi phí khác như chi phí quản lý, tiếp thị, quảng cáo...) và giảm giá đầu ra (giá bán sản phẩm).
Khi thực hiện việc chuyển giá, các công ty xuyên quốc gia thường nhằm vào ba mục đích. Thứ nhất là chuyển thu nhập từ một nước có thuế cao sang một nước có thuế thấp, làm giảm đi số lợi tức, số thu nhập phải kê khai để trốn thuế. Thứ hai là chuyển vốn ra khỏi một nước đang có đồng tiền bị giảm giá đáng kể nhằm tránh rủi ro về tỷ giá hối đoái. Thứ ba là giảm thuế nhập khẩu khi nước nhập khẩu áp dụng biểu thuế nhập khẩu tính theo tỷ lệ phần trăm trên giá nhập khẩu.
Hiện tượng chuyển giá không chỉ gây thiệt hại cho các nước chủ nhà có liên quan do bị thất thu về thuế mà quan trọng hơn, nó còn gây ảnh hưởng tiêu cực đến thương mại quốc tế. Do các quy luật của thị trường tự do, đặc biệt là quy luật cung - cầu không hoạt động trong nội bộ các công ty xuyên quốc gia nên nó gây nhiễu loạn quá trình lưu thông quốc tế. Điều đó dẫn đến tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, làm suy yếu các công ty nội địa, tăng tính độc quyền về giá cả và thị trường, giảm khả năng kiểm soát của các nước chủ nhà đối với vấn đề thuế hàng hóa và thuế chuyển lợi nhuận về nước.
Qua thực tiễn cho thấy, hầu hết các công ty xuyên quốc gia đều thực hiện giá chuyển giao đối với những nước có nền kinh tế thị trường kém phát triển và đặc biệt ở những nước trong giai đoạn đầu thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài từ các công ty xuyên quốc gia. Do đó, hiện tượng chuyển giá của các công ty xuyên quốc gia – một lực lượng kiểm soát hầu hết các hoạt động quan trọng trong quá trình sản xuất và lưu thông - đang trở thành một vấn đề thu hút sự quan tâm đặc biệt của các nhà hoạch định chính sách quốc gia cũng như các tổ chức quốc tế. Nhiều tổ chức và quốc gia đã xây dựng các điều luật để điều chỉnh hoạt động này nhằm hạn chế thiệt hại do chúng gây ra như Hướng dẫn chuyển giá của OECD, Bộ luật Thu nhập nội bộ của Mỹ, Luật Thu nhập và Thuế doanh nghiệp của Anh... Theo kinh nghiệm của những nước thành công trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài từ các công ty xuyên quốc gia, khi cấp giấy phép đầu tư cần quy định rõ điều khoản cấm sử dụng giá chuyển giao, nếu chủ đầu tư vi phạm sẽ bị xử lý thích đáng. Ngoài ra nên kiểm soát giá nhập khẩu nguyên liệu đầu vào, nếu mức giá không hợp lý thì không cấp giấy phép nhập khẩu. Các doanh nghiệp nhập khẩu cần tự tính toán lợi ích doanh nghiệp và lợi ích nhà nước so sánh với phía tương ứng của nước xuất khẩu để định giá. Cũng cần tăng cường kiểm tra theo luật định về công tác kế toán và kiểm toán để xử lý kịp thời những trường hợp vi phạm.
Chương III
Một số vấn đề cho Việt Nam được rút ra từ việc nghiên cứu vai trò của công ty xuyên quốc gia trong
thương mại quốc tế.
1.Tỏc động của cụng ty xuyờn quốc gia tới nền kinh tế Việt Nam
1.1. Tác động tích cực
Các công ty xuyên quốc gia ngày càng có tác động tích cực đối với sự nghiệp cải cách và đổi mới nền kinh tế Việt Nam. Sự hiện diện của các công ty xuyên quốc gia đồng nghĩa với việc cung cấp một nguồn vốn quan trọng cho sự nghiệp công nghiệp hoá của đất nước. Hiện nay, Việt Nam tiến hành công nghiệp hoá trong điều kiện tích luỹ trong nước còn thấp, nhu cầu lớn về vốn đòi hỏi chúng ta phải khai thác các nguồn vốn cả trong và ngoài nước dưới mọi hình thức. Cùng với nguồn vốn ODA và vốn đi vay khác, đầu tư trực tiếp nước ngoài do ưu thế nổi trội của nó là nguồn vốn không gây nợ, các công ty xuyên quốc gia tự nguyện đầu tư và đằng sau vốn là thiết bị, công nghệ để thực hiện dự án, đang trở thành nguồn vốn nước ngoài quan trọng nhất đối với các nước đi sau, xuất phát điểm thấp, rất cần vốn, công nghệ và kỹ năng quản lý.
Nhờ nguồn vốn đầu tư của các công ty xuyên quốc gia, nhiều nguồn lực trong nước ngày càng giữ vai trò quan trọng trong tổng đầu tư xã hội: vốn đầu tư nước ngoài, vốn của các doanh nghiệp trong nước và vốn nhàn rỗi của dân cư theo hiệu ứng dây chuyền có thể được khơi dậy để đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh ngay trên thị trường nội địa. Hơn nữa, với sự hiện diện của nguồn vốn này, Nhà nước có thể chủ động hơn trong bố trí lại cơ cấu đầu tư, giành nhiều vốn ngân sách cho đầu tư xây dựng hạ tầng kinh tế xã hội.
Các công ty xuyên quốc gia đã góp phần tích cực trong việc thực hiện sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Yêu cầu của công nghiệp hoá là tăng nhanh tỷ trọng của sản xuất công nghiệp, đặc biệt là của các ngành dịch vụ trong GDP. Theo mô thức hướng ngoại dựa vào tăng trưởng xuất khẩu để nhanh chóng hội nhập vào thị trường quốc tế, Việt Nam phải nâng cao tỷ trọng các ngành công nghiệp chế biến và dịch vụ trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Các công ty xuyên quốc gia, nhất là các công ty xuyên quốc gia lớn – vốn là các tập đoàn công nghệ và tài chính hùng hậu – hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu này.
Các công ty xuyên quốc gia đã góp phần tạo ra nhiều ngành công nghiệp mới mà trước kia Việt Nam chưa có, mặc dù sự hiện diện của nó là để khai thác tài nguyên và sử dụng nhiều lao động rẻ của Việt Nam theo yêu cầu của sự dịch chuyển cơ cấu sản xuất – kinh doanh trên quy mô toàn cầu của chúng. Cũng vì lẽ này, công nghệ mà các công ty xuyên quốc gia chuyển giao tuy không phải là công nghệ hiện đại nhất của họ nhưng đối với Việt Nam, thậm chí đối với các nền kinh tế trong khu vực, đây vẫn là những công nghệ tiên tiến. Công nghệ được thực hiện trong lĩnh vực viễn thông, khai thác dầu khí, điện tử... là các công nghệ hiện đại, đã góp phần tạo ra một bước ngoặt quan trọng trong sự phát triển của các ngành kinh tế quốc dân. Ngay cả các công nghệ sử dụng nhiều lao động trong các ngành dệt may, giày dép, chế biến thực phẩm... đã tương đối đồng bộ, thuộc loại phổ cập tiên tiến trong khu vực. Điều quan trọng hơn là những thiết bị công nghệ hiện đại từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã đặt ra yêu cầu cho các doanh nghiệp trong nước phải đầu tư đổi mới công nghệ để tồn tại và phát triển trong điều kiện sự cạnh tranh ngay trên thị trường nội địa đang ngày càng quyết liệt.
Các công ty xuyên quốc gia tham gia tích cực vào việc duy trì nhịp độ tăng trưởng cao và ổn định cho nền kinh tế, mở rộng xuất khẩu, tăng nguồn thu ngân sách. Các công ty có vốn đầu tư nước ngoài dưới mọi hình thức đều có tốc độ tăng trưởng cao kể cả thời kỳ nền kinh tế Việt Nam chịu sự tác động nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực. Mặt khác, chúng cũng góp phần tạo ra nhiều sản phẩm có công nghệ và chất lượng cao, trong đó có nhiều hàng thay thế nhập khẩu nên tiết kiệm cho đất nước về ngoại tệ, đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú, yêu cầu cao của thị trường trong và ngoài nước.
Các công ty xuyên quốc gia cũng góp phần giải quyết số lượng lớn lao động, tham gia phát triển nguồn nhân lực cho đất nước. Các công ty này đã tạo ra một số lượng lớn công ăn việc làm cho người lao động Việt Nam. Những người làm việc trong khu vực này thường được tuyển chọn kỹ lưỡng, được bồi dưỡng tay nghề, công việc gắn liền với công nghệ mới, làm quen với tác phong công nghiệp hiện đại, kinh nghiệm quản lý và phương thức kinh doanh tiên tiến. Do đó, họ trở thành một bộ phận công nhân lành nghề, có kỹ năng và có tính kỷ luật cao. Đây chính là lực lượng lao động có khả năng thích ứng nhanh với cơ chế thị trường, Nhà nước không mất chi phí đào tạo và sẽ là chủ thể tích cực cho các quá trình sản xuất kinh doanh, kể cả khi họ rời bỏ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. tế.
Tác động tiêu cực
Bên cạnh những tác động tích cực, các công ty xuyên quốc gia cũng có những ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế Việt Nam. Mục tiêu của các công ty xuyên quốc gia là lợi nhuận, thị phần, doanh số, ưu thế cạnh tranh và phát triển ổn định. Nó thường xuyên mâu thuẫn với mục tiêu của chiến lược chung về phát triển kinh tế xã hội của nhà nước ta là tăng trưởng đồng đều, cao và bền vững. Theo mục tiêu của mình, các công ty xuyên quốc gia thường lựa chọn và quyết định dự án đầu tư vào nơi mà họ cho là có thị trường, bảo toàn được vốn và thu được lợi nhuận. Do đó không phải ngẫu nhiên mà các dự án 100% vốn đầu tư của họ lại thường tập trung vào các trung tâm lớn. Sự tập trung đầu tư của các công ty xuyên quốc gia vào một số vùng luôn mâu thuẫn với chính sách phát triển đồng đều giữa các địa phương. Các công ty xuyên quốc gia thường chú trọng tham gia vào các lĩnh vực ở những ngành có tỷ suất lợi nhuận cao. Đó là các ngành khai thác dầu khí, công nghiệp chế biến như điện tử, dệt may, giày dép với mức lợi nhuận thường đạt khoảng 40 – 60%. Những lĩnh vực sản xuất máy móc thiết bị hoặc chế biến nông, lâm, thuỷ sản thường yêu cầu đầu tư dài hạn, chuyển vốn chậm, lãi suất thấp đã không thu hút được nhiều dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Ngoài ra, một số công ty xuyên quốc gia lạm dụng các ưu thế về vốn, công nghệ để thao túng và gây hậu quả xấu cho liên doanh. Hiện tượng khai khống thiết bị và công nghệ để tính tăng giá đầu vào, đánh tụt giá xuất khẩu để định giá thấp đầu ra do bản thân các công ty xuyên quốc gia là kẻ chủ động nắm cả đầu ra và đầu vào đã trở nên phổ biến, khiến cho các liên doanh thua lỗ, giải thể.
Một hiện tượng khác là các công ty xuyên quốc gia trước khi xin cấp giấy phép đầu tư thường lên án gay gắt chính sách của Việt Nam là nặng nề bảo hộ, có phân biệt đối xử, khép kín và thay thế nhập khẩu là chủ yếu. Nhưng khi đã được cấp giấy phép đầu tư, đặc biệt là sau khi sản phẩm đã bắt đầu được bán trên thị trường nội địa hoặc xuất khẩu, hơn ai hết, họ là những người đòi bảo hộ mạnh mẽ nhất. Họ đang muốn hướng tới độc quyền – một điều ngày càng xa lạ trong nền kinh tế tự do hoá. Việt Nam phải cảnh giác với những biểu hiện này không phải chỉ ở những yêu sách trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia mà hơn hết, phải cảnh giác với sự liên kết của các công ty xuyên quốc gia với các doanh nghiệp trong nước vốn là doanh nghiệp nhà nước để hình thành nên cạnh tranh độc quyền nhóm người bán.
2. Thuận lợi và khó khăn hiện nay của Việt Nam trong việc thu hút các công ty xuyên quốc gia
2.1. Thuận lợi
Thuận lợi lớn nhất của Việt Nam hiện nay là môi trường chính trị – xã hội ổn định. Sự ổn định chính trị – xã hội là yêu cầu đầu tiên quan trọng nhất quyết định đến việc thu hút các công ty xuyên quốc gia. Sự ổn định này sẽ tránh cho các công ty những bất trắc, rủi ro trong kinh doanh, tạo độ tin cậy cao và đảm bảo lợi nhuận chắc chắn. Kinh nghiệm của nhiều nước đã cho thấy, khi tình hình chính trị mất ổn định, các nhà đầu tư sẽ do dự không đầu tư, ngừng việc đầu tư của mình hoặc rút vốn chuyển đi nơi khác. Với những điều kiện khác không thay đổi, khi môi trường chính trị – xã hội ngày càng ổn định, độ tin cậy càng cao càng hấp dẫn các công ty xuyên quốc gia. Trong điều kiện cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt trên thị trường đầu tư, sự ổn định chính trị – xã hội có thể được xem như một lợi thế so sánh.
Và một điều đặc biệt là Việt Nam là thành viờn của tổ chức thương mại thế giới (WTO) và là thành viờn khụng thường trực của hội đồng bảo an liờn hợp quốc.Cơ hội của việt Nam trong thu hỳt vốn đầu tư là rất lớn vỡ khi tham gia vào tổ chức WTO thỡ hệ thống phỏp luật của Việt Nam phải rừ ràng, minh bạch trong chớnh sỏch.Hành lang thuế quan được được giảm thiểu nhiều hạng mục, bờn cạnh đú nhà nước từng bước tạo cho nhà đầu tư một tõm lý an tõm về một cơ chế ,đường lối lõu dài của chớnh phủ Việt Nam.
Quan hệ quốc tế ngày càng được mở rộng. Vị thế của Việt Nam trên thế giới được nâng lên.Cùng với sự ổn định chính trị – xã hội, Việt Nam có đường lối đối ngoại rộng mở, đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược mở cửa hướng về xuất khẩu, mở rộng quan hệ hợp tác đầu tư nước ngoài. Chính việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta đã tạo ra tiền đề cần thiết để thu hút đầu tư của các công ty xuyên quốc gia.Ngoài ra, chúng ta còn có những lợi thế so sánh khác. Đó là những lợi thế về địa lý, tiềm năng đất đai, khí hậu, lao động của một nước mới phát triển mà các công ty xuyên quốc gia rất quan tâm. Việt Nam nằm ở một vị trí quan trọng, “án ngữ” các giao lộ hàng hải, hàng không của khu vực và quốc tế. Với các con đường xuyên á và cả tuyến đường từ Đông sang Tây nối liền giữa biển Đông với Lào, Thái Lan, Việt Nam như một cây cầu dài trên bộ nối ấn Độ Dương với Thái Bình Dương, tạo ra con đường vận tải ngắn nhất từ Tây sang Đông trong tương lai gần. Các nước lớn cũng như các công ty xuyên quốc gia nhìn vào Việt Nam không chỉ là một nơi có nhiều tiềm năng mà còn ở vị thế địa – chính trị, địa – kinh tế của nước ta ở Đông Dương, trong ASEAN, và phần nào của APEC, ASEM. Đó là một lợi thế tồn tại tương đối lâu dài và là một vị trí thuận lợi để các công ty xuyên quốc gia triển khai chiến lược đầu tư kinh doanh ở nước ta.
Việt Nam là một nước đi sau đang tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá, rất cần vốn, kỹ thuật công nghệ, kinh nghiệm quản lý nên có nhiều chính sách khuyến khích và ưu đãi đầu tư có lợi cho các công ty xuyên quốc gia. Việt Nam cũng là thị trường tiêu thụ sản phẩm và hàng hoá mà các công ty xuyên quốc gia quan tâm tìm kiếm và khai thác.
Những lợi thế của Việt Nam sẽ là điều kiện để các công ty xuyên quốc gia đầu tư khai thác, mở rộng thị trường, tìm kiếm lợi nhuận cao. Vấn đề là chúng ta phải biết lựa chọn các nhà đầu tư thực sự có tiềm lực, muốn làm ăn lâu dài, đồng thời phải có chính sách mềm dẻo, khôn khéo để vừa thu hút được các công ty xuyên quốc gia, vừa đảm bảo khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên, các lợi thế của mình theo nguyên tắc giữ vững độc lập chủ quyền và cùng có lợi.
2.2. Khó khăn
* Đối tác Việt Nam còn ở trình độ thấp
Nhìn chung, năng lực sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam còn thấp, việc tổ chức sản xuất kinh doanh còn nhiều bất cập, chưa tiến kịp với yêu cầu phát triển chung của đất nước. Năng suất lao động thấp, sản phẩm chất lượng chưa cao, cơ cấu mặt hàng đơn điệu. Trình độ công nghệ lạc hậu 2-3 thập kỷ so với các nước trong khu vực. Chi phí sản xuất tăng cao. Trong khi đó, tốc độ đổi mới công nghệ, sắp xếp lại sản xuất, đổi mới doanh nghiệp, cổ phần hoá... đều tiến hành rất chậm. Cho đến nay mới chỉ có 12% số thiết bị phù hợp với trình độ công nghệ tương đối tiên tiến. Sự tự thân vận động và sự nỗ lực trong kinh doanh của đa số các doanh nghiệp chưa cao. Tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự bảo hộ của Nhà nước... không có ý thức gay gắt của cạnh tranh quốc tế là hiện tượng phổ biến của đa số các doanh nghiệp hiện nay.
Với quy mô nhỏ bé, lại yếu kém về năng lực tổ chức sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp Việt Nam chưa trở thành các đối tác có đủ tầm để các công ty xuyên quốc gia trông cậy vào. Đây cũng là khó khăn trở ngại không nhỏ mà chúng ta cần phải phấn đấu để nhanh chóng vượt qua.
* Cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý còn nhiều bất cập
Cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế thích hợp với phân công lao động quốc tế, phù hợp với các quy tắc, quy định và thông lệ chung cũng là điều kiện để tăng sức hấp dẫn đối với các công ty xuyên quốc gia. Nhưng đối với nước ta, cả về cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý kinh tế và bộ máy quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước còn chuyển biến chậm, chưa thực sự tạo được những thuận lợi để thu hút đối với các công ty xuyên quốc gia.
Cơ cấu kinh tế nước ta còn nhiều hạn chế, chưa phát huy được những thế mạnh và những lợi thế so sánh của từng ngành, từng vùng, làm cho chất lượng và hiệu quả hoạt động của nền kinh tế thấp, sức cạnh tranh kém, nhất là chưa thích hợp với trình độ phân công lao động quốc tế hiện nay.
Cơ chế thị trường chưa được phát huy một cách có hiệu quả. Một mặt, cơ chế thị trường chưa phát huy được đầy đủ tính tự điều tiết của nó. Mặt khác, hệ thống quản lý của Nhà nước đã bộc lộ rõ sự đuối tầm, năng lực quản lý không tương xứng. Sự bất cập này thể hiện ở sự ổn định kinh tế vĩ mô chưa vững chắc, các vấn đề về tài chính tiền tệ, ngân hàng chưa lành mạnh. Hệ thống thể chế thị trường vừa mới mở ra, nhưng chưa phát huy đầy đủ tác dụng; chính sách chưa đầy đủ, rõ ràng, đồng bộ, nhất quán, còn chồng chéo và thường mới ở mức độ là các giải pháp tình thế, không có tính ổn định lâu dài; một số quốc nạn như tham nhũng, buôn lậu, gian lận thương mại, trốn thuế... đã được Đảng và Nhà nước quyết tâm chống và bài trừ nhưng chưa giảm; hiệu quả huy động, sử dụng nguồn lực thấp, còn thất thoát, lãng phí nhiều. Hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư nước ngoài còn thiếu đồng bộ. Một số văn bản dưới luật ban hành chậm, thậm chí “thắt lại” gây khó khăn cho thực hiện. Việc quản lý của Nhà nước đối với hoạt động đầu tư nước ngoài vừa có hiện tượng buông lỏng, vừa can thiệp quá sâu vào hoạt động của doanh nghiệp. Sự yếu kém này đã gây nên những lo ngại với nhà đầu tư là các công ty xuyên quốc gia.
Tổ chức bộ máy còn yếu kém, thủ tục còn phiền hà, năng lực của đội ngũ cán bộ công chức còn yếu, chưa đáp ứng yêu cầu của chức danh được đảm nhiệm đã dẫn đến hiệu quả pháp lý thấp. Nhất là đối với cơ quan quản lý đầu tư nước ngoài, tuy đã được phân cấp rõ ràng nhưng vẫn có sự trùng lặp về chức năng. Việc thực hiện xét duyệt triển khai dự án còn chậm, quản lý các hoạt động đầu tư nước ngoài chưa chặt chẽ.
Những yếu kém trên dẫn đến tình trạng môi trường đầu tư chưa được lành mạnh, chưa có sức hấp dẫn cao đối với các công ty xuyên quốc gia. Điều đó đặt ra vấn đề hết sức cấp bách là cần phải tiếp tục từ đổi mới cải cách thủ tục hành chính, hoàn thiện cơ chế và bộ máy quản lý, điều chỉnh thể chế, luật pháp phù hợp với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, tương thích với những quy tắc, thông lệ quốc tế. Có như vậy mới đủ sức thu hút, hấp dẫn các công ty xuyên quốc gia vào đầu tư kinh doanh ở Việt Nam.
* Kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật còn yếu kém
Hạ tầng vật chất kỹ thuật của nước ta những năm qua đã được chú ý đầu tư phát triển nhưng cho đến nay vẫn còn khoảng cách khá xa so với các nước trong khu vực. Ngoài một số tiến bộ đạt được, đặc biệt trong lĩnh vực bưu chính viễn thông, nhìn chung kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật còn yếu kém. Đó cũng là những trở ngại lớn trong việc thu hút các công ty xuyên quốc gia.
3. Một số gợi ý cho Việt Nam
Từ khi Việt Nam thực hiện đổi mới nền kinh tế, với chính sách mở cửa nền kinh tế đã thu hút được các công ty xuyên quốc gia đến Việt Nam. Hiện nay các công ty xuyên quốc gia có mặt tại Việt Nam đang hoạt động trên nhiều lĩnh vực như chế tạo thiết bị viễn thông, công nghệ máy tính, khai thác dầu khí, sản xuất ô tô và xe gắn máy, nước giải khát, xây dựng cơ sở hạ tầng, chế tạo điện tử dân dụng, thương mại và dịch vụ... hoạt động của các công ty xuyên quốc gia tại Việt Nam đã có đóng góp đáng kể trong việc định hướng phát triển và chuyển giao công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, tạo lập thị trường và đẩy mạnh xuất khẩu. Thông qua hoạt động của các công ty xuyên quốc gia mà các nhà sản xuất và kinh doanh Việt Nam có điều kiện tiếp cận thị trường bên ngoài, trực tiếp học hỏi, tiếp xúc với những công nghệ mới, kinh nghiệm quản lý và những phương thức kinh doanh tiên tiến, tăng khả năng cạnh tranh của những sản phẩm sản xuất trong nước với thị trường khu vực và thế giới. Điều này đã giúp Việt Nam củng cố vị trí trên trường quốc tế. Chính vì vậy, chúng ta cần phải chủ động thu hút các công ty xuyên quốc gia đến hoạt động tại Việt Nam nhằm tranh thủ khai thác tối đa những lợi ích mà chúng mang lại để phát triển kinh tế. Để làm được điều đó, chúng ta cần giải quyết một số vấn đề có thể nói là rất bức xúc hiện nay. Cụ thể:
* Về phía doanh nghiệp
Các doanh nghiệp Việt Nam cần nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh và khả năng cạnh tranh của mình nhằm hội đủ điều kiện trở thành các đối tác của các công ty xuyên quốc gia. Vấn đề đặt ra đối với doanh nghiệp hiện nay là cần phải thẳng thắn nhìn nhận lại những yếu kém của chính mình và nỗ lực khắc phục theo một định hướng chiến lược lâu dài.
Trước tiên là cần chủ động đầu tư nâng cao trình độ công nghệ lên ngang tầm khu vực và thế giới. Nhằm nâng cao trình độ công nghệ của doanh nghiệp, đảm bảo tiếp thu tốt các công nghệ từ bên ngoài và phát huy khả năng sáng tạo trong nội bộ doanh nghiệp, cần thành lập các bộ phận phát triển công nghệ như các viện công nghệ, các bộ phận nghiên cứu và triển khai công nghệ, các viện nghiên cứu thị trường... đủ khả năng nghiên cứu và đổi mới sản phẩm, công nghệ, tăng khả năng thích ứng của doanh nghiệp với sự biến động trên thị trường thế giới. Bên cạnh việc mua sắm máy móc và công nghệ mới, đẩy mạnh các hoạt động đào tạo, nâng cao trình độ cho đội ngũ lao động, doanh nghiệp cần áp dụng các biện pháp khuyến khích tinh thần sáng tạo của nhân viên. Đó chính là yếu tố mang tính quyết định đối với sự phát triển công nghệ của doanh nghiệp.
Ngoài ra, các doanh nghiệp cần đa dạng hoá lĩnh vực hoạt động. Đa dạng hoá lĩnh vực hoạt động không chỉ là chiến lược chủ quan của các tập đoàn để thu được lợi nhuận tối đa từ việc khai thác khả năng và cơ hội của công ty trên mọi thị trường mà còn là đòi hỏi khách quan của sự cạnh tranh sinh tồn. Các công ty xuyên quốc gia từ các nước phát triển như Mỹ, Châu Âu thường bắt đầu từ lĩnh vực sản xuất rồi mở rộng dần sang các lĩnh vực khác như thương mại, dịch vụ, nghiên cứu và triển khai công nghệ... Ngược lại, các công ty xuyên quốc gia của Nhật Bản và một số nước NIC thường bắt đầu từ các hoạt động thương mại, dịch vụ rồi mở rộng sang các lĩnh vực sản xuất, nghiên cứu ứng dụng... Đây là con đường phù hợp với các doanh nghiệp Việt Nam vì nó phù hợp với khả năng tài chính và công nghệ của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, dù có hoạt động đa ngành thì cũng cần tập trung vào một hoặc một số ngành chủ đạo, trong đó doanh nghiệp có lợi thế so sánh.
Đặc biệt là các doanh nghiệp cần nỗ lực mở rộng, tăng cường hoạt động của mình trên thị trường nước ngoài. Để làm được điều này, các doanh nghiệp nên thiết lập các hoạt động ban đầu tại nước ngoài như mở văn phòng đại diện và các đại lý tiêu thụ tại nước ngoài. Đây sẽ là những bước khởi đầu tốt đẹp cho sự mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam ra ngoài biên giới quốc gia.
* Về phía Nhà nước
Nhà nước cần tích cực mở rộng quan hệ ngoại giao và thương mại với các nước, đồng thời tham gia vào các diễn đàn chung của khu vực và thế giới. Đây là những tiền đề quan trọng để mở đường cho sự thâm nhập của các doanh nghiệp Việt Nam vào các thị trường khu vực và thế giới. Bên cạnh việc mở rộng quan hệ ngoại giao cần đặc biệt chú trọng đến vai trò tiên phong của các cơ quan ngoại giao trong việc mở đường cho các hoạt động kinh tế tại nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam. Các cuộc gặp gỡ giữa giới doanh nghiệp và các nhà ngoại giao cần được tổ chức liên tục tại cả ba miền đất nước.
Nhà nước cũng cần tạo điều kiện phát triển các mối liên kết giữa các công ty xuyên quốc gia và doanh nghiệp trong nước. Cản trở lớn nhất trong việc phát triển các mối liên kết giữa các doanh nghiệp trong nước và các công ty xuyên quốc gia là năng lực sản xuất của chính bản thân các doanh nghiệp. Chính vì vậy, Nhà nước cần chủ động thực hiện nhiều biện pháp nhằm nâng cao năng lực sản xuất và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. Cụ thể là:
-Đối với doanh nghiệp nhà nước, cần thực hiện triệt để chương trình sắp xếp lại doanh nghiệp trong đó đặc biệt chú trọng công cuộc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và sản xuất của doanh nghiệp, lành mạnh hoá tài chính doanh nghiệp, thường xuyên giám sát và đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhằm tránh tình trạng trì trệ trong hoạt động của các doanh nghiệp hiện nay.
- Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cần hỗ trợ các doanh nghiệp này phát triển thành một đội ngũ các nhà cung cấp, các nhà thầu phụ có năng lực, chuyên nghiệp, đạt tiêu chuẩn quốc tế cho các dự án với các đối tác nước ngoài là một chiến lược quan trọng cần được đặc biệt quan tâm.
Để tạo thuận lợi cho sự tham gia của các doanh nghiệp Việt Nam vào hệ thống sản xuất của các công ty xuyên quốc gia, Nhà nước cần tạo nhiều cơ hội cho các công ty xuyên quốc gia và các doanh nghiệp trong nước tiếp cận được những nguồn thông tin về nhau, qua đó thúc đẩy việc thiết lập các quan hệ đối tác như: tổ chức các diễn đàn trao đổi thông tin giữa các công ty xuyên quốc gia và các doanh nghiệp trong nước, tổ chức các hội chợ triển lãm có chất lượng với sự tham gia của doanh nghiệp trong và ngoài nước, thiết lập các chương trình cung cấp thông tin về các đối tác trong nước thông qua các tổ chức như Phòng Thương mại và Công nghiệp, các hiệp hội ngành nghề; thực hiện khảo sát và đánh giá khách quan về thực lực của các doanh nghiệp để xây dựng một danh mục các nhà thầu phụ có chất lượng nhằm cung cấp cho các đối tác quan tâm.
Tài liệu tham khảo
TS. Nguyễn Văn Dân (Chủ biên) (2001), Những vấn đề của toàn cầu hoá kinh tế, NXB Khoa học – Xã hội.
ThS. Nguyễn Văn Lan, Hoạt động của các công ty xuyên quốc gia và tác động của nó đối với các nước đang phát triển, Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới, số 3(77) 2002.
Lê Văn Sang, Trần Quang Lâm (1996), Các công ty xuyên quốc gia trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI, NXB khoa học – Xã hội.
Trần Quang Lâm, Hoàng Thị Bích Loan, Công ty xuyên quốc gia – kết quả của sự phát triển khách quan từ chế độ xí nghiệp hiện đại trong nền kinh tế thị trường, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 215 tháng 4/1996.
Phùng Xuân Nhạ, giá chuyển giao giữa các chi nhánh của công ty đa quốc gia, Tạp chí Kinh tế & dự báo, số 283 tháng 11/6
6. MQ (Theo BIKI), Đánh giá những tập đoàn xuyên quốc gia trên thế giới hiện nay, Tạp chí Ngoại thương, số 12, 13/2003
7 Nguyễn Khắc Thân, Sự hợp nhất các công ty xuyên quốc gia – biểu hiện mới của quá trình nhất thể hoá kinh tế quốc tế
8. PGS.TS. Nguyễn Thiết Sơn (Chủ biên) (2003), Công ty xuyên quốc gia, khái niệm, bản chất và những biểu hiện mới, NXB Khoa học – Xã hội.
Mục lục
Lời nói đầu
Chương I : Giới thiệu chung về công ty xuyên quốc gia
1
1. Khái niệm công ty xuyên quốc gia
1
2. Nguồn gốc và sự phát triển của công ty xuyên quốc gia
3
2.1. Nguồn gốc của công ty xuyên quốc gia
3
2.2. Sự phát triển của công ty xuyên quốc gia
5
3. Bản chất và đặc trưng của các công ty xuyên quốc gia
8
3.1. Bản chất của công ty xuyên quốc gia
8
3.2. Đặc trưng của công ty xuyên quốc gia
10
Chương II.Vai trò của công ty xuyên quốc gia trong thương mại quốc tế
14
1. Thực trạng của các công ty xuyên quốc gia
14
2. Các công ty xuyên quốc gia với việc thúc đẩy thương mại quốc tế
18
2.1. Thương mại nội bộ giữa các chi nhánh trong công ty xuyên quốc gia
19
2.2. Thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các nước
21
3. Sự thay đổi trong cơ cấu đối tác
27
4. Các công ty xuyên quốc gia chi phối giá cả trong thương mại quốc tế
30
Chương III: Một số vấn đề cho Việt Nam được rút ra từ việc nghiên cứu vai trò của công ty xuyên quốc gia trong thương mại quốc tế.
33
1. Tác động của các công ty xuyên quốc gia đối với nền kinh tế quốc dân Việt Nam
33
1.1. Tác động tích cực
33
1.2. Tác động tiêu cực
35
2. Thuận lợi và khó khăn hiện nay của Việt Nam trong việc thu hút các công ty xuyên quốc gia
37
2.1. Thuận lợi
37
2.2. Khó khăn
39
3. Một số gợi ý cho Việt Nam
41
Tài liệu tham khảo
46
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V0351.doc