Xu hướng toàn cầu hoá , khu vực hoá hội nhập đang đặt ra những thách thức rất lớn cho các nước kém phát triển trong đó có Việt Nam .Phấn đấu quyết liệt vươn nên để phát huy cao nội lực , tăng khả năng trạnh tranh trong nền kinh tế đã , đang và sẽ rẻ thành sự sống còn của sự tồn tại và hội nhập và phát triển trong xu thế này . Để hoà nhập vào xu thế đó chúng ta phải chăm no ổn định và lành mạng hoá lĩnh vực tài chính và tiền tệ
Lãi suất là công cụ tiền tệ của nền kinh tế thị trường nó có độ nhay cảm cao .Việc sử dụng lãi suất trong quá trình xây dựng và điều hành chính sách lãi suất được cơi là vấn đề bức xúc hiện nay đòi hỏi phải có n địng hưoứng thích hợp nhất tuỳ thuộc vào những đặc thù và những điều kiện thực tiễn nước ta nhằm mục tiêu tăng trưởng phát triển kinh tế phát huy vai trò đòn bẩy của lãi suất , góp phần tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư và thương mại hoá theo hướng tự do bình đẳng giữa các Ngân hàng thương mại .Từng bước tiến tới một hệ thống tài chính tiền tệ và Ngân hàng hoàn chỉnh , vững trắc bảo đảm thực hiện thành công chính sách tiền tệ ở tầm vĩ mô .Một chính sách lãi suất hợp lý là một chính sách lãi suất vừa có tác dụng thu hút vốn nhàn rỗi trong dân cư vừa có thể khuyến khichs nhà sản xuất sử dụng vốn vay đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh đảm bảo quyền lợi cho ngươi vay vốn người gửi tiền và Ngân hàng góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tiến tới công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước như mục tiêu của đảng và Nhà nước đã đề ra
45 trang |
Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 941 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số vấn đề cơ bản về chính sách lãi suất ở Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong thời gian qua, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hương mại theo công thức sau :
Lãi suất cơ cở
=
Lãi suất huy động
+
Chi phí kinh
doanh ( tiền lương, khấu hao)
+
Lợi nhuận trước thuế kì vọng
Với lãi suất huy động
Với lãi suất huy động 12 tháng là 0,6% tháng (7,2% năm ); chi phí kinh doanh là 0,2%tháng hay 3%/ năm , lợi nhuận kỳ vọng là 17%/năm .(số hiệu 1995 -> 1999 ta có lãi suất chính sách =7,25% + 3%+1% = 11,27%/năm hay0,93%/ tháng
Mục đích kinh doanh là lợi nhuận , các Ngân hàng Trung ương quốc doanh cần ổn định lãi suất cho vay cao hơn lãi suất cơ sở nhằm bù đắp những rủ ro xẩy ra trong quá trình cho vay và đầu tư, nhưng với mức trầnls cho vay hiện nay 10%/ năm 0,8%/ tháng sẽ lam kết quả kinh doanh của các Ngân hàng thương mại quốc doanh khi muốn đạt được chỉ tiêu lợi nhuận tạm chí chỉ đạt mức hoà vốn hoặt bị lỗ nếu không có các nguồn thu từ các hoạt động khác mang lại
II. quá trình điều chỉnh lãi xuất
Việc điều chỉnh lãi xuất trong thời gian gần đây.
Từ ngày 1/6.1990 Ngân hàng Nhà nước đã có một số chuyển biến lớn là chỉ quy định một mức trần lãi suất cho vay tối đa bằng đồng Việt Nam là 1,15% / tháng áp dụng cho tất cả các kỳ hạn cho vay . Đây cũng là bước tiến mới cho Ngân hàng Nhà nước thực hiện công bố lãi suất cơ bản
Trong xu hướng toàn cầu hoá và quốc tế hoá nền kinh tế ,Ngân hàng trung ương ở mỗi quốc gia khi tiến hành điều chỉnh lãi suất của mình trước hết phải xem xét với xu huướng diễn biến trong khu vực và trên thế giới trong xu hướng chung về diễn biến lãi suất trên thế giới hơn một năm qua và diễn biến kinh tế trong 6 tháng đầu năm 1999 , ta cùng xem xét việc điều chỉnh lãi suất ở Việt Nam ra sao ?
Tính từ ngày 1-7-1997 đến nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã tiến hành nhiều đợt điêù chỉnh lãi suất cho vay . Hai lần điều chỉnh gần đây nhất là 1/2/1999 thực hiện với 4 Ngân hàng thương mại quốc doanh cho vay với khách hàng ở khu vực đô thị 1/6 1999 thực hiện đối với các tổ chức tín dụng . Ngày 29/1/1999 Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho chỉ thị 01 1/1999 CT - NH NN quy định trần lãi suất cho vay thông thường bằng đồng Việt Nam của các Ngân hàng thương mại quốc doanh đối với khách hàng ở khu vực đô thị là 1,1%/ tháng với các loại cho vay ngắn hạn , 1,15% của các loại vay trung và dài hạn song các Ngân hàng thương mại quốc doanh chiếmtới 71,6% tổng dư nợ cho vay của các Ngân hàng đối với nền kinh tế , chiếm chủ yếu hần cho vay . Do đó, chỉ thị về mức lãi suất trên có ý nghĩa như hạ trần lãi suất cho vay chung của nền kinh tế. Bên cạnh đó , việc quy định về lãi suất trên chỉ áp dụng đối với các Ngân hàng thương mại quốc doanh song đối với các Ngân hàng thương mại cổ phần để cạnh tranh thu hút khanh hàng , không muốn mất khách hàng truyền thống có uy tín, các ngân hàng thương mại cổ phần cũng buộc phải hạ mức lãi suất cho vay xuống bằng mức lãi suất cho vay của các Ngân hàng thương mại quốc doanh .
Thêm vào đó, lãi suất cho vay vốn các tổng công ty 90-91, các doanh nghiệp lớn và kinh doanh có hiệu quả ,các doanh nghiệp xuất nhập khẩu ổn định để cạnh tranh và thu hút khách hàng các ngân hàng thương mại đều giảm mức lãi suất cho vay từ 10-15% so với mức trần lãi suất quy định nói trên , chỉ cho vay với lãi suất 1,0 - 1,05% tháng thậm chí hạ tới 0,95% / tháng hoặc 0,90%/ tháng của loại vay ngắn hạn
Xuất phát từ chỗ tất cả các Ngân hàng đều chủ động hạ lãi suất từ nhiều tháng trước đây lên lãi suất Ngân hàng được điều chỉnh giảm xuống nhưng các Ngân hàng không có cơ sở gì để tiếp tục hạ thêm lãi suất tiền gửi để người gửi tiền không bị ảnh hưởng gì khi Ngân hàng điều chỉnh lãi suất . Quyết định điều chỉnh trần lãi suất của Ngân hàng Nhà nước được thực hiện từ ngày 1 /6 /1999 trong đó trần lãi suất cho vay là 1,15% /tháng kể cả ngắn hạn trung hạn và giài hạn lãi suất này tăng 0,05% so mức 1,2% /tháng của loại vay ngắn hạn theo chỉ thị 01/CT – NHNN và tương đương với mức 1,15% /tháng của loại trung và dài hạn mà dư nợ cho vay ngắn hạn chiếm tới 60 % tổng mức nợ .Do đó so với mức quy địng thức hiện từ ngày 1/6/1999 thực chất còn tăng hơn chứ không phải là giảm .
Như chúng ta đã biết mục tiêu chính của quỹ tín dụng nhân dân cơ sở là mang ính chất tương trợ về vốn giữa các thành viên song với lãi suất quá cao so với mức lãi suất chính thức các Ngân hàng thì sẽ mất đi tính chất tương trợ . Hầu hết những người tìm đến vay vốn quỹ tín dụng cơ sở là người nghèo hay có hoàn cảnh đặc biẹt khó khăn hay không đủ điều kiện vay vốn Ngân hàng mới tìm đến quỹ tín dụng nhân dân nhưng thực tế lãi suất lại quá cao gây khó khăn cho người vay .
Qua cách phân tích trên quyết định trần lãi suất cho vay từ 1/6/1999 có hai mặt tích cực sau .
Thứ nhất : Lãi suất cho vay ở nông thôn trước đây đều cao hơn lãi suất cho vay ở thành thị và cao hơn đối tượng khách hàng khác .Sản xuất nông nghiệp gặp rất nhiều rủi ro và lợi nhuận thấp nhưng lại chỉ có một phân lãi suất cho vay hộ nông dân được bình đẳng được hưởng về lãi suất so với thành phần kinh tế khác . Ước tính đến 5/1999 dư nợ cho họ nông dân của tất cả loại hình tổ chức tín dụng là 18000 tỷ đồng việc điều chỉnh lãi suất xuống một mức trần chung là 1,15% /tháng bình quân mỗi hộ nông dân giảm được 9-18 tỷ đồng lãi suất phải trả cho Ngân hàng . Đó là trên phương diện kinh tế còn về mặt chính trị , xã hội thì nó có ý nghĩa to lớn : lần đầu tiên giai cấp nông dân được hưởng quyền bình đẳng về lãi suất so với thành phần kinh tế khác .
Thứ hai : Việc Ngân hàng Nhà nước mức trần mức lãi suất cho vay tối đa 1,15% / tháng đối với cả ngắn hạn , trung hạn và dày hạn và việc Ngân hàng Nhà nước không can thiệp vào các mức lãi suất cụ thể của Ngân hàng thương mại .Đây là bước tiến quan trọng của Ngân hàng Nhà nước để hình thành lãi suất cơ bản theo luật Ngân hàng Nhà nước .Xét một cách khái quát việc giảm lãi suất theo xu hướng của thế giới và theo và theo yêu cầu của nền kinh tế lãi suất cho vay của Việt nam vãn còn cao (1,3,8%) nhưng đã có những vai trò tích cực .
2. Nguyên nhân của việc điều chỉnh lãi suất
Tình hình chung của nền kinh tế những năm gần đây là tốc độ tăng trưởng GDP chững lại , hiện tượng giảm phát diễn ra và chỉ số giá có xu hướng tăng (có thời gian chỉ số âm) .Mặt bằng giá cả hàng hoá trên thế giới và trong khu vực giảm khiến cho giá xuất khẩu , giá nhập khẩu và mặt bằng giá cả của Việt nam giảm theo . Mặt khác nhiều mặt hàng thiết yếu trong nước có giá cao hơn trên thế giới .Tỷ xuất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế giảm doanh nghiệp không mạnh dạn vay vốn Ngân hàng buộc phải giảm để phù hợp với tỷ xuất lợi nhuận trong sản xuất kinh doanh và để mở rộng tín dụng .
Nguồn vốn huy động của các Ngân hàng phát triển mạnh khiến khiến vốn càng thêm ứ đọng . Hiện nay lãi suất huy động tuy có giảm nhưng tốc độ giảm chậm hơn tốc độ tăng , chỉ số giá sinh hoạt và các Ngân hàng cũng cạnh tranh trong việc thu hút nguần vốn huy động bằng cách nâng cao lãi suất huy động đặc biệt là các Ngân hàng thương mại cố phần và một số Ngân hàng nước ngoài . Một số doanh nghiệp còn sử dụng vốn nhàn rỗi để gửi Ngân hàng hay mua trái phiếu . Các giải pháp kích cầu còn chưa đủ mạnh đôi khi mất tác dụng ( như phát hành công trái kỳ phiếu thu tiền về ) .Nó vẫn được coi là vấn đề quan trọng bởi vì trong bối cảnh các doanh nghiệp sản xuất trong nước phải dựa vào nguần vốn vay Ngân hàng (từ 90%) để sản xuất kinh doanh như hiện nay thì chủ trương giảm lãi suất là hoàn toàn hợp lý .
Bên cạnh nguyên nhân lãi suất thực vẫn còn cao như đã nêu trên còn những nguyên nhân khác : Đối với những người có lượng tiền tiết khiệm nhỏ không có khả năng kinh doanh thì lãi suất có thấp vẫn có lãi vốn được bảo toàn (nế no sọ vấn đề tỷ giá thì họ có thể chuyển sang gửi tiết kiệm bằng đô la Mỹ với lãi suất thấp hơn ) những người có lượng tiền tiếp kiệm lớn thì không có cơ hội đầu tư do đầu tư vào sản xuất kinh doanh có tỷ xuất lợi nhuận thấp , rủi ro cao trong khi gửi vào Ngân hàng thì rủi ro thấp (hầu như không có ) và lợi nhuận cao cho dù lãi suất cho vay đã giảm khá mạnh song các doanh nghiệp vẫn không giám vay tiền vì tỷ xuất lợi nhuận của họ vẫn thấp hơn so với tỷ lệ lãi suất cho vay của Ngân hàng .Do vậy nếu tiếp tục vay vôna Ngân hàng để sản xuất kinh doanh thì việc lợi nhuận không đủ để trả lãi Ngân hàng sẽ làm cho tình trạng nợ lần của doanh nghiệp càng tăng thêm thêm vào đó là sự giảm giá hàng liên tục trong thời gian qua càng làm cho khả năng thua nỗ tăng nên .Còn với khu vực nông thôn cho dù nhu cầu tiêu dùng nhất là đối với hàng tư liệu sản xuất là rất lớn song cũng không thể vay được vì thủ tục phức tạp và không có vật câm cố thế chấp và cũng không có khả năng chả nợ do tỷ lệ lãi suất cho vay không hợp lý.
3. Tác dụng của việc điều chỉnh lãi suất
Các nhà kinh tế cho rằng đây là một quyết định quan trọng nhằm khắc phục tình trạng tắc đầu ra tín dụng trong tình hình nền kinh tế đang có chiều hướng đi xuống như hiện nay .Nó góp phần kích thích phát triển nền kinh tế tạo sự chủ động hơn cho công tác tổ chức tín dụng trong việc ấn địng lãi suất huy động tiền gửi và cho vay phù hợp với điều kiện cung cầu vốn trên từng vùng khác nhau và mức độ ruỉ ro của từng khoản vay .
Đối với khu vực thành thị lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng đã thực sự giảm xuống thấp hơn hay bằng với trần lãi suất .Đó chính là kết quả của chỉ thị ban hành 29/1/1999 Thống đốc Ngân hàng : Trần lãi suất cho vay của 4 Ngân hàng thương mại quốc doanh đối với khách hàng thuộc khu vực đô thị giảm xuống còn 11% /tháng đối với cho vay ngắn hạn 1,15% /tháng trung và dài hạn còn mức trần lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng cổ phần và cho vay ở các vùng nông thôn vẫn dữ nguyên .Vì thế quy định mới về tràn lãi suất trên thực tế không những tiếp tục giảm lãi suất cho vay của các Ngân hàng thương mại quốc doanh mà còn cho phép các Ngân hàng này tăng lãi suất trần cho vay của mình nên 0,05%/ tháng .
Đối với khu vực nông thôn do tràn lãi suất cho vay hiện đang ở sát mức trần do đó việc điều chỉnh lãi suất này đã được thực sự giảm từ 0.05%/tháng – 0,1%/tháng khu vực nông thôn đã được bình đẳng so với khu vực thành thị và những nhà đầu tư của khu vực này có điều kiện hạ thấp chi phí đầu tư nếu pphải vay vốn Ngân hàng .Tuy về phía các tổ chức tín dụng đang hoạt động trên địa bàn nông thôn lại phải chịu thiệt thòi do địa bàn hoạt động khó khăn , số lượng vay nhỏ chi phí hoạt động lớn để đảm bảo kinh doanh có lãi các Ngân hàng này phải nỗ lực rất nhiều dể giảm chi phí .
Tóm lại việc điều chỉnh lãi suất chỉ có tác dụng về mặt giải quyết chính xác lãi suất , thống nhất lại trần lãi suất co tất cả các tổ chức tín dụng tạo ra sự bình đẳng lãi suất cho vay giữa khu vực thành thị và nông thôn . Còn tác dụng kích thích nền kinh tế phát triển thì chỉ ở mức độ nào đó bởi vì trước hết nó chỉ trực tiếp giúp giảm chi phí và tăng đầu tư với khu vực nông thôn .
Nhưng dư nợ ở khu vực nông thôn không lớn trong đó các khoản vay chính sách cho vay trương trình của chính phủ chiếm phần không nhỏ nên tác dụng kích thích khu vực nông thôn của việc điều chỉnh lãi suất lần này không lớn .Hơn thế nữa việc hạ lãi suất mới chỉ giải quyết của vấn đề , tác dụng của nó chỉ thực sự được phát huy khi nó được gắn niền với các chính sách tài chính khác để khuyến khích các doanh nghiệp vay ở Ngân hàng để đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh .
Công cuộc công nghiệp hoá , hiện đại hoá không tránh khỏi việc tập chung nguần lực vào những nghành mũi nhọn của nền kinh tế và ưu tiên cho những vùng chiến lược cho nên tình hình nguần vốn còn rất hạn chế việc sử dụng công cụ lãi suất một cách có chủ đích là vô cùng cần thiết .trong trường hợp này các tác nhân đầu tư có thể tiếp cận đến nguần tín dụng với lãi suất ưu đãi (lãi suất thấp ) của các quỹ hỗ trợ tín dụng ưu đãi cho đầu tư kinh doanh tại các vụng khó khăn và đặc biệt khó khăn .
Hàn Quốc là một ví dụ điển hình về sự thành công trong chính sách tập trung vốn với lãi suất thấp nhằm phát triển các nghành công nghiệp chiến lược của mình trong thập niên 70
III . thành thựu và những tồn tại của quá trình điều chỉnh lãi suất
1. Thành tựu
Trong thòi gian vừa qua , Ngân hàng Nhà nước liên tục thực hiện việc kiểm soát lãi suất trên thị trường tiền tệ bằng việc quy địng trần lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng đối với các tổ chức kinh tế và dân cư , thống nhất giũa trần lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng trên địa bàn thành thị và nông thôn , tiếp tục duy trì chính sách tự do hoá lãi suất tiền gửi và bỏ việc quy định về khống chế lãi suất cho vay và huy động vốn bình quân là 0,35% / tháng (4,2%/ năm) như thời gian trước đây (năm 1996và 1997) Từ ngày 20/01/1998, theoquy định tại quyết định 39/1998 quy định- Ngân hàng Nhà nước 1 Thống đốc Ngân hàng Nhà nước , trần lãi suất cho vay bằng VNĐ tiếp tục được điều chỉnh . Cho vay ngắn hạn tăng từ 1%/ tháng lên 1,2%/tháng (tăng 0,2%/tháng) cho vay trung hạn dài hạn tăng tư 1%/ tháng lên 1,2%/ tháng . Trần lãi suất cho vay của tín dụng nhân dân cơ sơ cho vay thành viên là 1,57%/tháng . Các quy định về trần lãi suất như trên phù hợp với quân hệ cung cầu về vốn tín dụng đối với nền kinh tế . Hơn thế việc nông trền lãi suất cho vaycủa các tổ chức tín đụng đối với nền kinh tế là cơ sở để các tổ chức tín dụng tăng lãi suất huy động vốn tương ứng , tạo điều kiện huy động đủ vốn nhằm đáp ứng các nhu cầu cho vay phát triển kinh tế xã hội .
Qua theo dõi tình hình việc thực hiện các quy định về trần lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng thoừi giân qua như sau:
+Tiền gửi không kỳ hạn 0,4 – 0,5%/ tháng.
+Tiền gửi có kỳ hạn 3 tháng ; 0,7 – 0,8%/ tháng.
+ Tiền gửi có kỳ hạn 6 tháng : 0,8 –0,9%/ tháng.
+Tiền gửi có kỳ hạn 12 tháng : 0,95 –1,05%/ tháng.
Trong đó lãi suất huy đọng vốn của các Ngân hàng thương mại cổ phần cao hơn các lãi suất huy động vốn của các Ngân hàng thương mại quốc doanh lãi suất huy đọng của các tổ chức tín dụng trên địa bàn nông thôn (ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, quỹ tín dụng nhân dân nhân cơ sở ) có xu hướng cao hơnlãi suất huy động vốn của các tổ chức tín dụng trên địa bànn thành thị .
Về nặt bằng lãi suất cho vay ; Nhìn chung các tổ chức tín dụng đều thực hiện cho vay theo trần lãi suất cho vaydo Ngân hàng Nhà nước quy định , cho vaynhắn hạn ở mức 1,17% - 1,2%/ tháng cho vay trung dài hạn ở mức 1,2 –1,25%/ tháng . Tuy nhiên vẫn còn tình trạng cho vay vượt trần lãi suất quy định của Ngân hàng Nhà nước ở một số nơi , nhất là vào thời điểm cuối năm khi nhu cầu về vốn tăng cao .
Cho vay bằng đô la Mỹ vẫn giữ nguyên 8,5%/ năm như thời gian trước đây , do mức lãi suất này vẫn phù hợp với mặt bằng lãi suất LIBOR,SIBOR và phù hợp với quan hệ cung cầu về vốn ngoại hiện hành , đồng thời Ngân hàng Nhà nước còn quy định lãi suất tiền gửi tối đa của pháp nhân tại tổ chức tín dụng nhằm hạn chế việc giam giữ ngoại tể trên tài khoảntiền gửi , góp phần tăng cường chính sách quản lý ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước các mức tiền gửi bằng đô la mỹ như sau:
+Tiền gửi không kỳ hạn tối đa :1,5%/tháng .
+Tiền gửi có kỳ hạn đến 6 tháng :4,0%/ năm +
+tiền gửi có kỳ hạn trên 6 tháng : 4,5%/ năm.
Đó là những thành tựu của việc điều hành chính sách lãi suất . Nhưng bên cạnh những thành tựu của việc điều chỉnh lãi suất vẫn còn có những vấn đề tồn tại mà đòi hỏi tất cả các nghành có liên quan cùng tìm cách giải quyết
2. Những vấn đề tồn tại
Việc quy định quy đinh thống nhất mức trần lãi suất cho vay khu vực nông thôn và thành thị là chưa phù hợp với cung cầu tín dụng ở khu vực nông thôn thiếu động lực khuyến khích các tổ chức tín dụng chuyển vốn về đầu tư cho khu vực nông thôn về mức sinh lời ít (chênh lệch lãi suất khoảng 0,1 – 0.15 % /tháng ) . Xuất phát từ nguyên nhẩn trên hiện nay các tổ chức tín dụng hoạt động ở địa bàn nông thôn như Ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn , quỹ tín dụng nông thôn , quỹ tín dụng nhân dân vẫn đang yêu cầu Ngân hàng Nhà nước phát triển mức lãi suất cho vay so với mặt bằng chung .
Chênh lệch lãi suất cho vay và huy động vốn bình quân của tổ chức tín dụng còn ở mức thấp chiếm khoảng 0.15 – 0.2% /tháng .Với mức chênh lệch này thì việc đảm bảo cho các tổ chức tín dụng bù đắp chi phí và có lãi là hoàn toàn khó khăn , đặc biệt là đối với các tổ chức tín dụng đang hoạt động trên địa bàn nông thôn .
Chính vì mức chênh lệc trần lãi suất cho vay trung dài hạn so với trần lãi suất cho vay ngắn hạn như hiện nay thấp không đủ bù đắp rủi ro . Cho nên chưa kích thích tổ chức tín dụng mở rộng cho vay chung hạn dài hạn nền kinh tế tăng trưởng chậm , hiệu quả kinh tế thấp khả năng cạnh tranh kém vố tự có của các doanh nghiệp quá nhỏ và tỷ xuất kinh doanh khoảng dưới 10% .
Tất cả những yếu tố này tạo áp lực làm giảm lãi suất cho vay nhưng khó thực hiện bởi vì giảm lãi suất thì tổ chức tín dụng sẽ bị thua lỗ và dồng nghã với việc giảm lãi suất tiền gửi thì sẽ không huy động động được vốn .Những mặt tồn tại trên có thể được khái quát bằng những vấn đề sau
2.1 lãi suất giảm nhưng cho vay tăng chậm
Một số ý kién cho rằng trong mười năm đổi mới hoạt động Ngân hàng theo cơ chế thị trường chưa bao giờ hoạt động Ngân hàng lại gặp nhiều khó khăn như hiện nay khi vón huy động tăng (9.2% , đầu tư tăng chậm 4.2% ).Sự thực hoàn toàn không phải như vậy , hoạt động tín dụng bình thường , doanh số cho vay tăng và doanh số vay nợ cũng tăng .Đây là mối quan hệ nhân quả có vay có trả theo một chu kỳ sản xuất khép kín .
Câu hỏi đặt ra trước mắt nguyên nhân dẫn đến dư nợn tăng chậm mặc dù lãi suất cho vay liên tục giảm câu hởi trả lời sẽ ra sao ?. Đó quả là vấn đề khó khăn để tìm ra đáp số .
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực vẫn coàn tác động ảnh hưởng đến nền kinh tế nước ta trước tình hình đó Nhà nước đã đề ra những giải pháp kịp thoừi nên tốc độ tăng trưởng kinh tế không bị tụt hậu so với một số nước trong khu vực .Đối với người cho vay thì việc giảm lãi suất cho vay là biện pháp hữu hiệu sẽ giảm một phần chi phí đầu ra để tiêu thụ sản phẩm .Nhưng lại có một số doanh nghiệp Nhà nước chưa nắm bắt được điều này nên còn thụ động chông trờ vào Nhà nước thiếu tính cạnh tranh trong việc tiêu thu hàng hoá tồn đọng và chưa tận dụng chính sách kích cầu của chính phủ nên khối lượng sản phẩm tồn kho lớn như : mía 540 tỷ đồng ximăng 700 tỷ , dệt may 500 tỷ ...
Nhiều Nhà nước sử dụng vốn vay còn kém hiệu quả nên không trả nợ đúng hạn cả gốc cả lãi .Theo một số tài liệu gần đây trong 300 doanh nghiệp có tới 60% làm ăn thua nỗ điều tra 40% ở tình trạng sắp phá sản còn lại 20 % đã phá sản hoàn toàn
Có một số doanh nghiệp phàn làn rằng lãi suất cho vay là quá cao dẫn đến chi phí trả lãi tiền vay cao nhưng một thực tế đặt ra dó là bấy lâu nay chưa ai chịu thừa nhận rằng có rất nhiều doanh nghiệp Nhà nước “sống” chủ yếu dựa vào vốn vay cho nên dù có tiếp tục hạ lãi suất thì các doanh nghiệp vẫn kêu ca lại có ý kiến cho rằng để tăng sức thu vốn , hút vốn của các doanh nghiệp thì trước hết doanh nghiệp phải tự đổi mới chính mình để nâng cao sức cạnh trang cho chính doanh nghiệp , đơn vị của mình .Nhưng việc tăng khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế quyết định mức tăng trưởng tín dụng , lãi suất chỉ là bịn pháp kích cầu .Khi các nhà thương mại quốc doanh cải tiến phương thức cho vay theo phương châm :Vững chắc – chất lượng – an toàn và hiệu quả thì đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự đỏi mới chính để tăng sức cạnh tranh trên thị trường , sử dụng vốn có hiệu quả đồng thời phải có sự hỗ trợ vốn của Nhà nước trong việc đầu tư đổi mới công nghệ cấp vốn ngân sách cho các doanh nghiệp tạo điều kiện cho doanh nghiệp hấp thụ vốn là giải pháp hữu hiệu nhất để Nhà nước mở rộng vốn cho vay .
Đối với nghành nông nghiệp – một nghành vốn được Nhà nước ta ưu tiên từ trước đến nay thì phải cho vay tới từng hộ gia đình mở rộng địa bàn cho vay nhất là những vùng thuộc chính sách kinh tế xã hội . những địa bàn này có chở ngại to lớn đó là mức rủi ro cao , nợ gốc khó trả còn lãi lại còn khó hơn chính vì thế mà hầu hết các Ngân hàng ở các khu vực này thường xuyên bị thua nỗ và dễ gây tâm lý lản lòng đố voái các cán bộ nhân viên tín dụng làm anhr hưởng không tốt đến hoạt động Ngân hàng .Thực tế cho thấy trong hoạt động sản xuất kinh doanh nhu cầu vay vốn ngắn hạn không phải là íta bởi vì loại vốn này cần cho các doanh nghiệp
Vốn này cần cho các để tư bổ xung dưới nhiều hình thức khác nhau dẫn đến vốn lưu động bị bão hoà , vốn mà ngân hàng cần là vốn trung và dài hạn với mục đích để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thay thế trang thiết bị máy móc đã lỗi thời đổi mới quy trìng công nghệ nâng cao năng suất lao động , hiệu quả lao động ... nhưng cho đến nay hầu hết các ngân hàng thương mại quốc doanh đề chưa đáp ứng đựơc yêu cầu này , chính vì thế mà để có vốn cho vay ngân hàng nhà nứoc đã cho phép các ngân hàng thương mại quốc doanh dành 20% vốn huy đọng ngắn hạn để nuôi vay trung dài hạn . Đây cũng chính là tiêu đề vật chất cho sự tăng trưởng tín dụng ngắn hạn .
Một vấn để nữa còn đang đựoc đề cập là vói nhàn rỗi trong dân nó chiếm một lưọng rất lớn và chưa đựoc đưa vào quỹ đạo của nền kinh tế . Theo số liệu điều tra cho thấy vốn nhàn rỗi trong dân khoảng từ 10 – 12tỷ USD với 44% dùng để mua vàng , ngoại tệ , 20% mua đất , mua nhà và các phương tiện sinh hoạt 19% dùng cho sản xuất và chỉ có 17% là gửi tiết kiệm chủ yêú là ngắn hạn .Tiền thừa trong dân sử dụng vào sản xuất khoảng 32% còn lại sử dụng cho hoạt động phi kinh tế , khối lưọng tiền nhàn rỗi trong dân này sẽ là nguy cơ ngây khó khăn cho việc quản lý điều hoà quá trình lưu thông tiền tẹ của nhà nước và có thể dẫn đén hiện tượng cho vay nặng lãi . Có những người thưa tiền sẵn sàng đáp ứng rất nhanh cho những người cần tiền khi chưa đủ điều kiện vay ngân hàng và tất nhiên phải đi kèm vối lãi suất rất cao cũng có những ý kiến cho rằng thủ tục vay ngân hàng quá phiền hà cho nên họ ngại đến ngân hàng có thể lấy một ví dụ như sau: khi đến thời vụ sản xuất không ít hộ nông dân, ngư dân, chủ trang trại..... do nhu cầu cấp bách , khẩn trương về vốn đã phải chấp nhận vay ngoài với lãi suất cao hơn vay ngân hàng nhưng lợi thế nhanh chóng và kịp thời . Đây cũng là vấn đề nóng, đáng quan tâm trứoc thực trạng tín dụng ngân hàng , cần mở rộng giải pháp kích cầu của chính phủ
2.2 Hạ trần lãi suất cho vay vẫn khó tăng trưỏng tín dụng
Việc Ngân hàng giảm lãi suất cho vay là sự khởi động chính sách vĩ mô chứ không phải là yếu tố để tăng trưởng đầu tư tín dụng thúc đẩy sản xuất giải pháp cho dụng dụng tăng đầu tư vốn còn phụ thuộc vào một số cụ thể sau
Các dự án kinh tế , kế hoạch sản xuất kinh doanh của Ngân hàng Nhà nước phải đảm bảo khả thi gắn với hiệu quả kinh tế thiết thực khi chuyển qua sản xuất .Thực trạng ở địa phương đang diễn ra tình trạng : Dự án đầu tư sạng giai đoạn cơ bản đi vào sản xuất mới bộc lộ ra nhiều điểm yếu như thiếu nguyên vật liệu chi phí sản xuất , sản phẩm khó tiêu thụ ... buộc các Ngân hàng phải ngừng cung ứng tiền do không đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh không hoàn trả vốn đúng hạn .Do vậy dù có giảm lãi suất cho vay thì Ngân hàng cũng không thể tăng trưởng tín dụng giúp Ngân hàng bù lại thua nỗ , các hộ gia đình nợ triền miên ...trong khi đó Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn còn thừa vốn (tháng nâưm 1999 thừa hơn 10 tỷ đồng . Xét cho cùng cần vốn không vay được thì dù có gỉam lãi suất cũng chưa có sức thuyết phục do đó Ngân hàng khó tăng dầu tư tín dụng .
Từ những vấn đề trên ta thấy cần có những quy định chung cơ chế chỉ đạo cụ thể phù hợp với điều kiện thực tiễn để các địa phương . Các cơ sở thống nhất thực hiện .
Để cơ sở hạ tầng cần lãi suất cho của Ngân hàng có tác dụng đi vào đời sống kinh tế , bản thân các Ngân hàng cũng cần có có các án đầu tư thẩm định chặt chẽ trung thực , đề ra các kế hoạch tính toán hoạch định có hiệu quả các đơn vị sản xuất , các đối tượng ưu tiên ( nông thôn) , cần được giúp đỡ nhiều hơn để đảm bảo tiền vay thì mới giải quyết mối quan hệ giữa Ngân hàng và khách hàng , làm cho hoạt động tín dụng ngày càng tốt hơn phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế đất nước
phần iii: định hướng điều hành lãi suất cơ bản ở Việt Nam thời gian tới
Để phù hợp với những biến động thay đổi của nền kinh tế việc điều chỉnh lãi suất cho vay mang tính điều mang tính hành chính sang tính điều hành lãi suất thị trường có sự chỉ đạo của Ngân hàng Trung ương đang được thực thi đó chính là hoạt động xây dựng và định hướng điều hành lãi suất cơ bản
Để hoàn thiện chính sách điều hành lãi suất ở Việt Nam cần đề ra các giải pháp đúng đắn .Nhưng để có được các giải pháp đúng đắn thì phải kết hợp điều kiện thực tiễn kinh nghiệm một số nước mà chính sách lãi suất tương đối hoàn thiện và thành công .
I . kinh nghiêm một số nước
Trên thế giới Ngân hàng Trung ương Mỹ từ tháng 6/ 1996 cho đến nay trong nhiều thập kỷ qua coi nghiệp vụ thị trường mở là yếu tố quan trọng nhất để tăng , giảm khối lượng tiền cung ứng .Ngân hàng liên bang Đức coi trọng điều kiện cấp tín dụng và cấp lãi suất chiết khấu :Ba Lan ,Trung Quốc và Hàn Quốc coi trọng dự trữ bắt buộc ,những việc sử dụng những công cụ đó đề chứa đựng yếu tố lao động lãi suất .
Nghiên cứu luật Ngân hàng Trung ương một số nước cũng đề cập đến lãi suất Ngân hàng Trung ương về đề ngữ khác nhau luật Ngân hàng Trung ương của nước cộng hoà liên bang Đức “Ngân hàng Trung ương của nước cộng hoà liên bang Đức ấn định lãi suất và tỷ lệ chiết khấu được áp dụng cho hoạt động Ngân hàng liên bang” luật Ngân hàng nhân dân Trung Quốc quy định “xác định lãi suất cơ bản của Ngân hàng Trung ương ” luật Ngân hàng Trung ương Ba Lan quy định chủ tịch NBP quy định “lãi suất tái chiết kháu đối với khối phiếu , lãi suất tín dụng tái cấp vốn ” luật Ngân hàng Trung ương Hungary quy định “NBH hoạt động trên cơ sở những lãi suất linh hoạt đã được công bố trong đó bao gồm tỷ lệ lãi suất cơ bản của của Ngân hàng Trung ương lãi suất hàng ngày lãi suất ưu tiên và lãi suất phạt ... ” , luật Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc quy định “mức lãi suất tối đa mà các tổ chức Ngân hàng tính đối với các loại cho vay ”.
ở pháp lãi suất cơ bản là lãi suất Ngân hàng trên cơ sở đó tính lãi các khoản cho vay khác và nguyên tắc mỗi Ngân hàng được địng ra lãi suất của mình trên cơ sở có sự nhất trí nào đó giữa Ngân hàng , do vậy lãi suất cơ bản chính là kết quả của những cuộc thương lưọng giữa Ngân hàng , lãi suất triết khấu của Ngân hàng trung ưong hoàn toàn không phụ thuộc vào lãi suất cơ bản mà phụ thuộc vào lãi suất trên thị trường tiền tệ thông thường được ấn định hàng ngày đối với các khối lượng tiền cung ứng cho từng kỳ hạn 1,2,3 tháng .....
Kinh nghiệm 10 năm đổi mới Ngân hàng và điều hành chính sách tiền tệ của Việt Nam , lãi suất và chính sách tỷ giá dường như đang nổi lên như là một công cụ nhạy bén hơn.
Ngày 10/4/1989 Hội đồng bộ trưởng nay là chính phủ ban hành quyết định 139 –HĐBT, đề ra nguyên tắc cơ bản để định lãi suất tiền gửi và cho vay của Ngân hàng là đảm bảo được vốn và có lãi , áp dụng thống nhất cho mọi thành phần kinh tế , được điều chỉnh theo biến động của giá cả thị trường . mọi nguồn vốn mà Ngân hàng huy đọng đều phải trả lãi , mọi khoản Ngân hàng cho vay đều được thu lãi . Cũng theo quyết định này , cơ cấu lãi suất có 2 bộ phận : Mức lãi suất cơ bản và chỉ số tăng , giảm trong tường thời kỳ . Quyết địng này đựoc áp dụng trong thời kỳ Ngân hàng trung ương quyết định mọi mức lãi suất thay cho các Ngân hàng thương mại .
Tham khảo luật của một số nước quy định về lãi suất thì cái có thể nhìn thấy , tính toán được hàng ngày là lãi suất tái triết khấu của Ngân hàng trung ương , còn lãi suất cơ bản là lãi suất trần ở bên trong lãi suất mà Ngân hàng trung ương tái cấp vốn cho Ngân hàng thương mại .
Ngân hàng trung ương Hàn Quốc hiện nay đang điều hành trần lãi suất tối đa cho các tổ chức tín dụng , Từ mức lãi suất này Ngân hàng trung ương sẽ quy định lãi suất tái cấp vốn cho các Ngân hàng thương mại tuỳ theo yêu cầu khách quan của việc tăng hay giảm khối lượng tiền cung ứng . Với cách làm này , Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng đã áp dụng thành công từ tháng 6/1996 đến nay.
II. định hướng điều hành lãi suất ở Việt Nam hiện nay
1. Điều kiện
Nước ta đổi mới xuất phát từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu khi kinh tế thị trường trường mới thoát khỏi mức sản xuất của chế độ phong kiến .Vì vậy một trong nhiều điều kiện đặc thù của Việt Nam là thị trường tiền tệ vẫn trong giai đoạn quá dộ với trình độ còn hết sức sơ khai .
Đặc trưng của thị trường tiền tệ Việt Nam là các quan hệ cung cầu vốn , tiền tệ hình thành một cách hết sức khó khăn diễn ra không bình thường . Sự ấn định giá cả (hình thành lãi suất thị trường )không tránh khỏi bị áp đặt bởi một số lực lượng tham gia, thị trường đóng vai trò độc quyền .Sự nôn nóng theo đuổi các mục tiêu chính sách đôi lúc khiến Ngân hàng Trung ương đôi lúc cũng bị cuấn vào đó , mặc dù không phải lúc nào việc áp dụng mức trần lãi suất cũng suân xẻ và dễ dàng được thị trường chấp nhận . Hơn thế nữa chủng loại “hàng hoá ” cho mọi giao dịch vốn , tiền tệ ở trên thị trường tiền tệ còn hết sức nghèo nàn phương trức giao dịch còn thô sơ và ở mức độ rủi ro tiền tệ lớn .
Xét về năng lực thể chế yếu kém của hệ thống Ngân hàng Việt Nam khuân khổ pháp luật và quy chế dự phòng rủi ro chưa hoàn bị cũng cho thấy trong điều kiện hiện nay để cho thị trường tự định đoạt lãi suất (tự do hoá lãi suất )là rất khó thực hiện .Dựa trên nền tảng này khó có ngay chính sách lãi suất thích hợp .Cũng cần phải thấy là việc duy trì trần lãi suất cho vay để hạn chế các Ngân hàng yếu kém về tài chính mức rủi ro quá cao .Trong trừng mực nhất định trần lãi suất chỉ đảm bảo cân bằng tương đối về tiền tệ ở góc độ vĩ mô (thông qua các giao dịch thị trường )cũng còn nhiều vướng mắc .Nội dung chính lãi suất hiện nay là không chỉ 0kiểm soát lãi suất sàn mà còn khống chế về tổng lượng tín dụng ,hạn mức vay nợ nước ngoài , mức cung ứng tiền tăng thêm hàng năm và một số chỉ tiêu khống chế tài sản cókhác ... riêng về số dư tiền dự trữ được coi là một trong 3 nội dung quản lý căn bản biên cạnh lãi suất tái cấp vốn , mứccung ứng tiền của chính sách tiền tệ thì chưa được quan tâm đúng mức .
Một số phương án điều hanh lãi suất
2.1 Các phương án đối với lãi suất nội tệ
Phương án 1: Lấy lãi suất tái cấp vốn của Ngân hàng thương mại làm lãi suất cơ bản
Ưu điểm
Đối với Việt Nam do các nghiệp vụ chiết khấu của Ngân hàng Trung ương chưa phát triển việc tái cấp vốn thực hiện tương đối trực tiếp ,vì vậy lấy lãi suất tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước để điều hành lãi suất sẽ thích hợp hơn là lãi suất tái chiết khấu , Ngân hàng Trung ương chỉ cần xác định và công bố mức lãi suất chỉ đạo đối với các tổ chức tín dụng , vì vậy thuận tiện cho việc điều hành quản lý chính sách lãi suất của Ngân hàng Trung ương tạo điều kiện chủ động trong kinh doanh của các Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác .
Nhược điểm :
Lãi suất tái cấp vốn là công cụ điều hành chính sách tiền tệ trực tiếp điều tiết lượng tiền cung ứng của Ngân hàng Trung ương và khối lượng tiền của hệ thống Ngân hàng đối với nền kinh tế và gián tiếp tác động vào lãi suất cho vay và huy động vốn tuy nhiên cơ chế tái cấp vốn vận hành chưa thông suất theo cơ chế thị trường các tổ chức tín dụng chưa được tự do chưa được trực tiếp cận với nguần vốn của Ngân hàng Trung ương nên mức độ của mức lãi suất taí cấp vốn mặt bằng lãi suất nói chung là còn rất hạn chế .Do vậy nếu lấy lãi suất tái cấp vốn làm cơ bản thì có thể Ngân hàng Trung ương không đạt được mục tiêu tác động vào lãi của Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác kể cả khi quy định một biên độ giao động so lãi suất này
Phương án hai
Ngân hàng Trung ương công bố mức lãi suất cơ bản trên cơ sở lãi suất và đồng thời giới hạn biên độ giao động tối đa để các Ngân hàng được phép ấn định lãi suất cho vay
Ưu điểm
Phương án này Ngân hàng Trung ương sẽ quản lý lãi suất cho vay cao và chủ động điều chỉnh lãi suất cơ bản và biên độ giao động so với mức lãi suất cơ bản.
Tổ chức tín dụng chủ động linh hoạt trong việc ấn định lãi suất giao động và cho vay phù hợp với biếnđộng của thị trường chính và đặc điểm địa bàn hoạt động của các Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác
Việc điều hành các chính sách lãi suất của Ngân hàng Trung ương theo nguyên tắc chung không can thiệp trực tiếp vào lãi suất kinh doanh của tổ chức tín dụng .
Nhược điểm
Biên độ sẽ phải tương đối rộng để phù hợp với mọi loại hình vay , đối tượng vay , địa bàn hoạt động , vì vậy làm giảm hiệu lực điều hành của Ngân hàng Trung ương
Nếu quy định nhiều biên độ cũng có phức tạp khi xác định biên độ giao động
Các tổ chức tín dụng sẽ đồng loạt cộng biên độ giao động vào lãi suất chung cho các mức và sẽ không phù hợp với tính chất đặc điểm của các Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng triệt tiêu tính cạnh tranh lành mạnh và không điều hoà được vốn tín dụng từ nơi thừa đến nơi thiếu
Phương án 3:
Ngân hàng Nhà nước công bố mức trần lãi suất cho vay như hiện nay làm lãi suất cơ bản , các Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác cắn cứ vào lãi suất của Ngân hàng Trung ương để ấn định mức lãi suất cho vay và tiền gưỉ và cụ thể từng thời kỳ , từng vùng khác nhau .Với nội dung phương án này về nguyên tắc phù hợp với luật Ngân hàng vì ở đây lựa trọn trần lãi suất cho vay lạm lãi suất cơ bản cho Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác tính lãi suất huy động vốn của chúng .
Ưu điểm
Khi mức lãi suất được công bố thì Ngân hàng thương mại phải tính đến lãi suất cho vay và huy động vốn của mình , không được cho vay vượt quá lãi suất trần bảo vệ lợi ích cho người gửi tiền , tạo mặt bằng phân phối lợi nhuận giữa các thành phần kinh tế và các Ngân hàng thương mại .
Việc xác định lãi suất cơ bản này sẽ tạo ra mặt bằng chung về lãi suất cho vay và huy động vốn trong phạm vi toàn quốc nên tạo điều kiện cho thanh tra giám sát về lãi suất của Ngân hàng Trung ương tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh của Ngân hàng thương mại theo khung lãi suất đã công bố trong chu kỳ .
Nhược điểm
Phương án này nếu được điều hành thì sẽ không phù hợp với xu hướng điều hành với lãi suất hiện nay trong khu vực và trên toàn thế giới .Điều này trái với lãi suất cơ bản .Với sự điều hành mang tính trực tiếp nhiều hơn gián tiếp .
Tiếp tục có nhiều loại trần lãi suất như hiện nay do sự khác nhau giữa tính chất kinh doanh địa bàn hoạt động của Ngân hàng thương mại
Phương án 4
Ngân hàng Trung ương công bố lãi suất cơ bản dựa trên cơ sở mức lãi suất cho vay tối thiểu để bù đắp các chi phí và có lợi nhuận của các tổ chức tín dụng và biên độ giao động để các tổ chức tín dụng được phép ấn định các mức lãi suất huy động vốn và cho vay cụ thể .Thực chất phương án này xây dựng dựa trện kinh nghiệm của Malaisia , như Ngân hàng công bố và tổ chức điều hành kinh doanh địa bàn
Ưu điểm
Phương án này về nguyên tắc là Ngân hàng Trung ương kiểm soát cả lãi suất cho vau tối thiểu và tối đa . Việc điều hành chính sách lãi suất của Ngân hàng Trung ương chỉ mang tính chất chỉ đạo Ngân hàng Trung ương không can thiệp trực tiếp vào lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay của các Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác .
Các tổ chức tín dụng chủ động và linh hoạt ấn địng mức lãi suất và tiền gửi cho vay phù hợp với biến động thị trường tiền tệ và đặc điểm hoạt động của từng loại hình tỏ chức tín dụng và giữa các vùng với nhau .
Nhược điểm
Theo phương án này thì sẽ sẩy ra tình trạng có nhiều mức biên độ dao động khác nhau áp dụng cho từng loại vay và từng tổ chức tín dụng .
Các tổ chức tín dụng cộng biên độ tối đa vào lãi suất cơ bản sẽ tạo ra một trần lãi suất chung cho cả nước và sẽ không phù hợp với tính chất và đặc điểm của các Ngân hàng thương mại , các vùng khác nhau triệt tiêu tính cạnh tranh lành mạnh và không điều hoà vốn tín dụng từ nơi thừa đến nơi thiếu
Lãi suất cơ bản đối với ngoại tệ
Có thể thấy lãi suất SIBOR của USA kỳ hạn từ 6 tháng đến 12 tháng làm lãi suất cơ bản cho lãi suất ngợi tệ tổ chức tín dụng được cộng với biên độ dao động do Ngân hàng Nhà nước quy định để ấn định lãi suất cho vay của USA . Lãi suất cho vay các đồng tiền khác cũng do tổ chức tín dụng ấn định. Cách xác định lãi suất cơ bản và biên độ dao động căn cứ vào cơ sở như đã đề cập ở trước
3.Một số giải pháp định hướng điều hành lãi suất ở Việt Nam hiện nay và trong thời gian tới
Trong xu hướng hội nhập toàn cầu , Việt Nam đang tường bước chuyển mình để hào nhập với nền kinh tế thế giới , hoà nhập nhưng không hoà tan - đó là điều kiện không đơn giản . Từ nhưỡng kinh nghiệm học hỏi một số nước kết hợp với kinh nghiệm thực tế , Việt Nam đã và đang tìm ra những bước đi phù hợp với điều kiện của mình nhằm tiến tới chính sách lãi suất hoàn thiện , Việt Nam đã liên tục điều chỉnh lãi suất cho phhù hợp với nền kinh tế . Vì vậy giải pháp tuy có rất nhiều nhương giải pháp cụ thể và cần thực hiện ngay là gì ?
3.1. Đổi mới cơ chế điều hành cơ chế lãi suất Ngân hàng
Lãi suất là giá mua bán vốn trên thị trường cơ sở kinh tế của lãi suất là do các hiện tượng tạm thời thừa và tạm thời thiếu vốn trong tiền tệ trong nền kinh tế hàng hoá và gắn với nó là vai trò trung gian của Ngân hàng trong việc tập chung và phân phối lại vốn tiền tệ thông qua công cụ lãi suất
Đối với Việt Nam trong thời kỳ xây dựng lại nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa .Việc nghiên cứu để luân có một chính sách cho phù hợp vắi nước ta hiện nay là hết sức cần thiết .
Trên thực tế từ năm 1990 chúng ta đã từng bước chuyển từ cơ chế lãi suất âm sang cơ chế lãi suất dương và từ tháng 6 /1991 ta đã thực hiện triệt để chính sách lãi suất dương trong hoạt động tín dụng .Lãi suất vướt trên chỉ số lạm phát và được điều chỉnh theo sự biến động của thị trường , có tham khảo lãi suất trên thị trường và khu vực quốc tế
Từ đầu năm 1996 chính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước đã có sự thay đổi theo hướng tự do hoá , huỷ bỏ quy định về lãi suất tiền gửi , điều chỉnh mức trần lãi suất cho vay phù hợp với cung cầu vốn và lạm phát thấp . Các tổ chức tín dụng căn cứ vào mức trần lãi suất cho vay chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn bình quân 0.35%/ tháng đẻ ấn định mức lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn trên thị trường . Từ tháng 11/1997 trong nghị quyết của quốc hội đã không quy định về chênh lệch lãi suất 0.35% đối với hoạt động tín dụng Ngân hàng .Chính sách lãi suất đã đảm bảo được yêu cầu lãi suất cho vay chung , dài hạn , cho vay ngắn hạn rút ngắn khoảng cách tiền gửi dân cư và tiền gửi doanh nghiệp .Mức chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn không còn bị khống chế mà phụ thuộc vào thị trường và hiệu quả kinh doanh của từng tổ chức tín dụng . Những giải pháp đó đã được thị trường chấp nhận và góp phần vào thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ .
Nghị quyết Trung ương IV cũng nêu “thực hiện cơ chế lãi suất tín dụng theo quan hệ cung cầu trên thị trường vốn” .Chúng ta phải có chính sách lãi suất phù hợp với đường nối đổi mới kinh tế vừa đảm bảo các yêu cầu quản lý vĩ mô của Ngân hàng Nhà nước , thực hiện tính định hướng xã hội chủ nghĩa và vai trò quản lý của Nhà nước trong việc xây dựng và phát triển kinh tế .Bởi vì chúng ta đổi mới kinh tế trong điều kiện nền kinh tế đang trong quá trình phát triển , giá trị sản xuất nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu GDP , còn nhiều vùng , nhiều nơi kinh tế hàng hoá chưa phát triển thị trường chưa sôi động .
Chúng ta có thể quy định lãi suất một cách cứng nhắc theo kiểu hành chính gò bó áp đặt . Thị trường tiền tệ luân luân sôi động có độc quyền . Do đó quá trình tự do lãi suất là quá trình hoàn toàn mang tính quy luật , như vậy lãi suất mới trở thành đòn bẩy trong nền kinh tế .Song cũng không thể thả nổi lãi suất mà phải có định hướng chính sách lãi suất cụ thể cho các tổ chức tín dụng khác nhau hoạt động ở những vùng có điều kiện kinh tế xã hội khác nhau ... có như vậy , các tổ chức tín dụng mới hoạt động được trong một cơ chế cạnh tranh lành mạnh đảm bảo kinh doanh có lãi phục vụ có hiệu quả cho khách hàng và nền kinh tế .
Chính sách lãi suất phải đảm bảo Ngân hàng Nhà nước thônga nhất quản lý một cách ổn định theo cơ chế định hướng còn các lãi suất cụ thể phải đi cơ chế thị trường trong cơ chế định hướng ấy . Tuy nhiên nền kinh tế có dịnh hướng xã hội chủ nghĩa , Nhà nước mà cụ thể là Ngân hàng Nhà nước nên làm rõ phần chính sách lãi suất để thực hiện các mục tiêu xã hội như chính sách đối với dân tộc vùng sâu vùng xa , chính sách xoá đói giảm nghèo xong việc đầu tư phải được rạch ròi cũng đã đến lúc phải giao cho Ngân hàng chính sách làm việc này được Ngân hàng xử lý cụ thể , chỉ như là các tổ chức tín dụng mới hoạt động tốt được mà cũng đúng với cơ chế lãi suất thực có của nước ta .
Như ta đã biết công cụ lãi suất có hai mặt rất nhạy cảm .Tăng lãi suất tiền gửi có lợi cho tiết kiệm bất lợi cho đầu tư và ngược lại . Điều hành công trong phát triển kinh tế như các nước công nghiệp mới của châu á áp dụng chính sách lãi suất không giống nhau thậm chí trái ngược nhau . Nhiều nước thực hiện chính sách tự do hoá lãi suất , các nước khác chính phủ lại can thiệp mạnh vào khung lãi suất có nước lại sử dụng chính sách lãi suất thấp như Hàn Quốc có nước lại thực hiện một chính sách lãi suất cao như Đài Loan .
Có thể nói Việt Nam đang thi hành một chính sách lãi suất cao có sự can thiệp mạnh mẽ của Nhà nước , trong đó Nhà nước ổn định trần lãi suất cho vay . chính sách lãi suất này về cơ bản được đánh giá tích cực có đóng góp nhất định vào việc kiềm chế làm phát và huy động tiết kiệm cho đầu tư phát triển trong giai đoạn vừa qua .
Với chính sách lãi suất tiếp theo cho giai đoạn tới nên như thế nào ? .Một số nhà kinh tế cho rằng nên hạ mức lãi suất xuống cho ngang bằng với mức trung bình quốc tế ,một số nhà kinh tế lại đề nghị thực hiện chính sách tự do hoá lãi suất để cho cung cầu thị trường tự thiết lập .Từ thực tế trong những năm vừa qua cho thấy tại giai đoạn phát triển nay , Việt Nam hiện nay vẫn rất cần có sự can thiệp từ phĩa Nhà nước và việc hình thành lãi suất vẫn cần duy trì lãi suất tiền gửi ở mức cao hơn so với mức trung bình trên thị trường quốc tế
3.2 Đổi cơ chế quản lý của Ngân hàng Nhà nước đối với Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng (TCTD)
Đã đến lúc Ngân hàng Nhà nước điều hành kinh doanh của các Ngân hàng thương mại bằng những cơ chế , chính sách để các Ngân hàng thương mại đi đúng quỹ đạo của cơ chế thị trường là .Cạnh tranh giảm chi phí nhiệm vụ ,đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ có chất lượng ngày càng cao chứ không phải cạnh tranh tăng lãi suất huy động để huy động vốn giảm lãi suất cho vay đẻ thu hút khách hàng Ngân hàng Nhà nước là người điều hành nguần vốn từ Ngân hàng thương mại thừa vốn sang nh thương mại thiếu vốn không cần huy động thêm nguần vốn nhàn rỗi từ nền kinh tế thông qua thị trường liên Ngân hàng và nghiệp vụ của Ngân hàng Trung ương nhằm đưa lãi suất tiền gửi tiết kiệm , tín phiếu , kỳ phiếu về mức hợp lý nhằm đáp ứng yêu cầu kinh doanh của các Ngân hàng thương mại .
Tiếp đến Ngân hàng Nhà nước cần nhanh chóng chuyển sang điều hành theo lãi suất cơ bản trên cơ sở tiên đề của nó là tạo ra sự thông thoáng trong cơ chế tác động vào lĩnh vực huy động vốn của các Ngân hàng thương mại ,làm sao cho lãi suất huy động vốn thể hiện được diễn biến cân đối cung cầu về vốn trên thị trường.
Để làm được điều này ,Ngân hàng Nhà nước cần tập trung vào một số vấn đề sau đây
3.2.1 Giảm lãi suất cho vay và lãi suất huy động
Thực tế hiện nay các nước cho thấy có hai xu hướng sử lý vấn đề lãi suất Ngân hàng . Hướng thứ nhất : Giảm lãi suất cho vay để kích thích tăng trưởng kinh tế . Hướng thứ hai tăng lãi suất để huy động tối đa vốn nhần rỗi trong dân cư vào sản xuất thúc đẩy tăng trưởng kinh tế .Cả hai xu hướng này đều có mục tiêu như nhau nhưng phương pháp khác nhau . Việc vạn động phương pháp nào là tuỳ theo điều kiện của mỗi nước trong từng thời kỳ nhất định .
Đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay nên kết hợp hài hoà giữa hai hướng đó ưu tên cho hướng thứ nhất , tức là giảm lãi suất cho vay kích thích các doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh bởi những lý do sau đây .
Thứ nhất : các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hiện nay rất cần vay vốn để đầu tư chiều sâu phát triển sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm tăng sức mạnh cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường trong nước và xuất khẩu .Thế nhưng , yêu cầu đó gặp khó khăn là lãi suất quá cao so với tỷ suất lợi nhuận trong sản xuất kinh doanh .
Thứ hai : vốn nhàn rỗi n dân cư còn nhiều nhưng chưa huy động được hết .Muấn tăng sức hấp dẫn đối với dân cư ngoài lãi suất chưa hợp lý còn phải đảm bảo tính ổn định và an toàn của giá trị đồng tiền .Để đạt yêu cầu đó , vấn đề quan trọng nhất là sản xuất kinh doanh phát triển thu chi ngân sách cân đối, tài chính quốc gia lành mạnh và hoạt động của Ngân hàng phải có hiệu quả .
Xu hướng giảm lãi suất cho vay , lãi suất huy động có tính tích cực nhiều hơn và suy cho cùng , hạn chế được rủi ro trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại đồng thời tạo được tâm lý ỏn định của khách hàng bao gồm cả người gửi và người vay .
3.2.2 Nâng cao tính ổn định của lãi suất tín dụng và tỷ lệ lãi suất ổn định phải thấp hơn tỷ lệ lạm phát .
Điều này có nghĩa đặc biệt quan trọng cả về kinh tế và xã hội . Lãi suất tín dụng có thể coi là hàn thử của nền kinh tế tài chính của một nước , sự biểu hiện của lãi suất là biểu hiện của sự ổn định giá trị đồng tiền .Vì vậy ổn định lãi suất tín dụng là xu hướng phổ biến của các nước cơ nền kinh tế phát triển .
ở nước ta hiện nay tuy tiềm lực kinh tế và dự trữ ngoại tệ chưa đạt đến trình độ phát triển nên vấn đề ổn định lãi suất càng chỉ nên đặt ra trong một khoảng thời gian nhất định ít nhất là một năm . lý do là : sau một năm tỷ lệ lạm phát đã thay đổi đó là căn cứ để điều chỉnh lãi suất tín dụng . Hơn thế giảm bớt khối lượng hạch toán của các Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng ổn địng tâm lý khách hàng .
3.2.3 Phân định rõ chức năng xã hội trong hoạt động của các Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng theo hướng xoá bỏ dần cơ chế bao cấp qua lãi suất tín dụng .
Theo hướng này các Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng chỉ làm chức năng kinh doanh tiền tệ theo luật Ngân hàng .Chuyển chức xã hội cho các tổ chức tài chính khác nhau , Ngân hàng đầu tư và phát triển , Ngân hàng nghười nghèo . Muốn vạy cần phải hạnchế và tiến tới soá bỏ tính bao cấp của Nhà nước qua lãi suất tín dụng của Ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng của Nhà nước .Chừng nào còn tồn tại bao cấp của Nhà nước qua tín dụng thì các Ngân hàng thương mại chưa thể thực hiện chức năng tiền tệ theo đúng luật Ngân hàng .Tính chủ động trong sản xuất kinh doanh của các chủ nhà băng vẫn còn hạn chế hiệu quả hoạt động của Ngân hàng không thẻ hoạch toán rõ được về kinh tế vàxã hội .Yêu cầu tạo sân trơi bình đẳng giữa các Ngân hàng thương mại quốc doanh với các Ngân hàng thương mại cổ phần và Ngân hàng thương mại liên doanh với nước ngoài cũng đòi hỏi phải xoá bỏ bao cấp.
3.2.4 Tạo lập môi trường pháp lý lành mạnh dể khuyến khích sự cạnh tranh giữa các Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng phù hợp với chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước .Các Ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng trong hệ thống Ngân hàng thuộc mọi thành phần kinh tế đều có chức năng kinh doanh tiền tệ phục vụ nhu cầu lưu thông tiền tệ của toàn bộ nền kinh tế quốc dân .Sau khi xoá bỏ bao cấp qua tín dụng thì các Ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng chỉ làm chức năng kinh doanh theo luật Ngân hàng .Vì vậy Ngân hàng cần tạo sân chơi bình đẳng giữa các Ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng thực hiẹn đầy đủ phương trâm “đi vay để cho vay ”
Và nguyên tắc “kinh doanh tiền tệ phải có lãi ”, ổn địng bền vững và đúng pháp luật của Nhà nước nhất là luật Ngân hàng . Tôn trọng tính độc lập , tính tự chủ của kinh doanh của các Ngân hàng thương mại đi đôi với vai trò tăng cường vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước thông qua điều hành lãi suất cơ bản .
kết luận
Xu hướng toàn cầu hoá , khu vực hoá hội nhập đang đặt ra những thách thức rất lớn cho các nước kém phát triển trong đó có Việt Nam .Phấn đấu quyết liệt vươn nên để phát huy cao nội lực , tăng khả năng trạnh tranh trong nền kinh tế đã , đang và sẽ rẻ thành sự sống còn của sự tồn tại và hội nhập và phát triển trong xu thế này . Để hoà nhập vào xu thế đó chúng ta phải chăm no ổn định và lành mạng hoá lĩnh vực tài chính và tiền tệ
Lãi suất là công cụ tiền tệ của nền kinh tế thị trường nó có độ nhay cảm cao .Việc sử dụng lãi suất trong quá trình xây dựng và điều hành chính sách lãi suất được cơi là vấn đề bức xúc hiện nay đòi hỏi phải có n địng hưoứng thích hợp nhất tuỳ thuộc vào những đặc thù và những điều kiện thực tiễn nước ta nhằm mục tiêu tăng trưởng phát triển kinh tế phát huy vai trò đòn bẩy của lãi suất , góp phần tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư và thương mại hoá theo hướng tự do bình đẳng giữa các Ngân hàng thương mại .Từng bước tiến tới một hệ thống tài chính tiền tệ và Ngân hàng hoàn chỉnh , vững trắc bảo đảm thực hiện thành công chính sách tiền tệ ở tầm vĩ mô .Một chính sách lãi suất hợp lý là một chính sách lãi suất vừa có tác dụng thu hút vốn nhàn rỗi trong dân cư vừa có thể khuyến khichs nhà sản xuất sử dụng vốn vay đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh đảm bảo quyền lợi cho ngươi vay vốn người gửi tiền và Ngân hàng góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tiến tới công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước như mục tiêu của đảng và Nhà nước đã đề ra
Trong đề án này do thời gian và sự hiểu biết cơ hạn chắc không tánh khỏi những thiếu sót .Vì vậy ,em rất mong được sự giúp đỡ của các thầy cô giáo để giúp cho em hiểu biết hơn về môn học này nhất là với tư cách 1 sinh viên HVNH và để là nền tảng tốt hơn cho những môn học khác .
Em xin chân thành cảm ơn !
Sinh viên : Nguyễn Thi Thu Phương
Tài liệu tham khảo
Giáo trình lý thuyết tiền tệ và Ngân hàng – Học viện Ngân hàng năm 2000
Giáo trình tiền tệ Ngân hàng và thị trường tài chính – F.Miskin . nhà suất bản khoa học kỹ thuật 1997
Luật NHNN và các tổ chức tín dụng
Tạp chí Ngân hàng số 9 năm 2001 số 7 năm 1997
Báo đầu tư chứng khoán số 64 năm 2001
Giáo trình tiền tệ NH – nhà suất bản thống kê 1998
Giáo trình lý thuyết tiền tệ và NH – phó tiến sĩ Nguyễn Ngọc Hùng
Báo NH nông nghiệp và phát triển nông thôn
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V0401.doc