nhà nước tạo ra một môi trương thuận lợi bằng hệ thống các chính sách như chính sách ruộng đất, chính sách vốn, tín dụng, chính sách thị trường, chính sách khoa học công nghệ, chính sách đào tạo chủ trang trại. là động lực rất to lớn và quan trọng thúc đẩy kinh tế trang trại phát triển. Như vậy có thể nói rằng phát triển kinh tế trang trại là con đường tất yếu, là bước đi thích hợp để chuyển nền nông nghiệp từ tự cung, tự cấp sang sản xuất hàng hoá lớn, tăng thu nhập nâng cao đời sống dân cư, góp phần xoá đói giảm nghèo và thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
29 trang |
Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1516 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số vấn đề lý luận về kinh tế trang trại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. Lời nói đầu
Quá trình thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước đã làm xuất hiện nhiều nhân tố mới, nhiều mô hình tổ chức trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Kinh tế trang trại là một trong những mô hình tổ chức mới trong sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế xã hội nông thôn nước ta trong những năm gần đây kinh tế trang trại đã góp phần tạo ra một bước tiến quan trọng trong sự phát triển của xã hội nông nghiệp và kinh tế - xã hội nông thôn. Từ khi hình thành và phát triển đến nay trang trại đã khẳng định được vị trí và vai trò quan trọng của mình trong sản xuất nông nghiệp, có những bước đi đúng đắn, phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước. Bên cạnh những khởi sắc đã nêu trên kinh tế trang trại còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình phát triển mà nổi bật nhất là vấn đề nhận thức về kinh tế trang trại không những của đại đa số chính vì vậy em đã chọn đề tài: "Một số vấn đề lý luận về kinh tế trang trại". Với mục đích làm rõ những vấn đề cơ bản về trang trại về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế trang trại.
Em xin được cảm ơn các thầy cô giáo trong Khoa Kinh tế Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và Thầy giáo Vũ Đình Thắng đã hướng dẫn em hoàn thành đề tài này.
Do trình độ còn hạn chế, nên trong quá trình viết còn nhiều khiếm khuyết, rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy, cô và các bạn
Tác giả
B. Nội dung
Phần I
Một số vấn đề cơ bản về trang trại
I. Bản chất, khái niệm về kinh tế trang trại
1. Bản chất kinh tế trang trại
Trong lịch sử phát triển của nông nghiệp các nước trên thế giới cũng như ở nước ta đã từng tồn tại các hình thức sản xuất nông nghiệp mang tính tập trung được tiến hành trên một diện tích quy mô đủ lớn nhằm sản xuất ra khối lượng nông sản phẩm lớn hơn so với hình thức sản xuất nông nghiệp truyền thống, phân tán trên những diện tích ruộng đất nhỏ.
Nhìn chung các hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung trong các phương thức sản xuất trước chủ nghĩa tư bản đều sản xuất ra được một khối lượng nông sản phẩm lớn hơn so với hình thức sản xuất truyền thống nhưng mục đích chính vẫn là tự cung tự cấp, đảm bảo nhu cầu tiêu dùng trực tiếp. Thời kỳ này trình độ khoa học kỹ thuật, tổ chức sản xuất còn kém phát triển, do đó cũng làm hạn chế rất nhiều đến hiệu quả sản xuất. Đến giai đoạn suất hiện phương thức sản xuất tư TBCN dưới sự tác động của cơ chế thị trường, sự phát triển mạnh mẽ về khoa học kỹ thuật, sự thay đổi của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đã tạo ra bước đột phá lớn trong nền kinh tế nói chung, nền nông nghiệp nói riêng. Trong thời kỳ này sản xuất đã chuyển từ tự cung tự cấp là chủ yếu sang sản xuất hàng hoá. Sản phẩm sản xuất ra chủ yếu là để bán nhằm tăng thu nhập và lợi nhuận. Nếu như trước chủ nghĩa tư bản hình thức sở hữu của các phương thức sản xuất chủ yếu là sở hữu nhà nước thì giai đoạn này hình thức sở hữu về cơ bản là dựa trên quyền sở hữu tư liệu sản xuất (quyền sử dụng ) của một người chủ độc lập.
Như vậy, trong điều kiện kinh tế thị trường, về bản chất, trang trại (hay nông trại ) là một thuật ngữ gắn liền với hình thức sản xuất nông nghiệp mang tính tập chung trên một diện tích ruộng đất đủ lớn nhằm sản xuất nông sản, sản phẩm hàng hoá với quy môt gia đình là chủ yếu.
ở Việt Nam nhờ đường lối đổi mới của Đảng và nhà nước kinh tế trang trại đã hình thành và phát triển đặc biệt là từ khi ban hành nghị quyết 10/QĐ - TW - 1988.3 thực hiện chính sách giao đất và cung cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để ổn định lâu dài cho hộ nông dân.
2. Khái niệm về kinh tế trang trại
Để làm rõ khái niệm kinh tế trang trại trước hết cần phân biệt thuật ngữ (trang trại) và ( kinh tế trang trại) là những khái niệm không đồng nhất. Trong một số tài liệu sử dụng hai thuật ngữ này gần như không có phân biệt rạch ròi. Nhưng thực chất " trang trại và kinh tế trang trại" là những khái niệm không đồng nhất. Kinh tế trang trại là tổng thể các yếu tố vật chất của sản xuất mà các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình tồn tại và hoạt động của trang trại, còn trang trại là nơi kết hợp các yếu tố vật chất của sản xuất và là chủ thể của các cơ quan hệ kinh tế đó.
Như vậy nói kinh tế trang trại là nói đến mặt kinh tế của trang trại, khái niệm trang trại rộng hơn khái niệm kinh tế trang trại và có thể hiểu trang trại về mặt kinh tế như sau:
"Trang trại là một hình thức tổ chức sản xuất cơ sở trong nông lâm, ngư nghiệp. Có mục đích chủ yếu là sản xuất hàng hoá, tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của một người chủ độc lập, sản xuất được tiến hành trên quy mô rộng đất và các yếu tố được tập trung đủ lớn với cách thức tổ chức tiến bộ và trình độ kỹ thuật cao, hoạt động tự chủ và luôn gắn với thị trường".
II. Đặc điểm cơ bản và vai trò của kinh tế trang trại trong nền kinh tế thị trường.
1. Những đặc điểm cơ bản của kinh tế thị trường
Suất phát từ bản chất , khái niệm của kinh tế trang trại đã trình bầy ở trên có thể thấy kinh tế trang trại có những đặc trưng sau:
1.1. Mục đích chủ yếu của kinh tế trang trại là sản xuất nông sản phẩm sản xuất theo nhu cầu của thị trường.
Nông hộ vừa là gia đình - đơn vị trực tiếp tiêu dùng của xã hội, vừa là cơ sở sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp sản xuất ra những sản phẩm tới cần thiết cho cuộc sống có thể tiêu dùng trực tiếp. Mục đích sản xuất của hộ nông dân sản xuất tự cung, tự cấp là đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của họ về các loại nông sản. Có thể nói sản xuất trực tiếp tự túc là cái vốn có của kinh tế hộ nông dân. Do vậy hộ nông dân muốn thoát khỏi tình trạng sản xuất tự túc, tự cấp, muốn làm giầu phải từng bước chuyển sang sản xuất hàng hoá theo mô hình kinh tế trang trại.
Các trang trại gia đình đều đi lên từ kinh tế hộ nông dân khi kinh tế hộ phá vỡ vỏ bọc, tự cấp, tự túc vốn có. Như vậy quá trình hình thành và phát triển tại đây là quá trình nâng cao hay mở rộng tính chất và trình độ sản xuất hàng hoá của trang trại đồng thời cũng là quá trình thu hẹp tính chất sản xuất trực tiếp tự cấp, tự túc vốn có của kinh tế hộ nông dân.
Đặc trưng về mục đích sản xuất hàng hoá là đặc trưng quan trọng nhất của kinh tế trang trại vì mục đích sản xuất hàng hoá chi phối và ảnh hưởng rất lớn, thậm trí quyết định tới các đặc trưng khác của kinh tế trang trại.
1.2. Tư liệu sản xuất trang trại thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của một người chủ độc lập.
Tất cả các tư liệu sản xuất trong trang trại phải thuộc sở hữu, hoặc quyền sử dụng (nếu là đi thuê) của người chủ trang trại. Có như vậy trang trại mới hoàn toàn tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ lựa chọn xu hướng sản xuất, quyết định kỹ thuật, công nghệ.... cho đến tiếp cận thị trường, tiêu thụ sản phẩm...
1.3. Các yếu tố sản xuất mà đặc biệt là ruộng đất và tiền vốn được tập trung với quy mô đủ lớn có thể đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất hàng hoá.
Đặc trưng này của trang trại chính là xuất phát từ đặc trưng về mục đích sản xuất hàng hoá. Không chỉ trong nông nghiệp mà ở các ngành sản xuất hàng hoá, vật chất khác, sản xuất hàng hoá được tiến hành khi mà các yếu tố sản xuất được tập trung tới quy mô cần thiết (ruộng đất, tiền vốn, tư liệu sản xuất ...) tập trung đủ lớn.
Tuy nhiên mức độ tập trung này chỉ nên phù hợp với yêu cầu sản xuất hàng hoá, chuyên canh, thâm canh chứ không nên vượt quá tầm kiểm soát, quá trình sản xuất - sinh học trên đồng ruộng hoặc trong chuồng trại của chủ trang trại.
Đặc trưng về sự tập trung các yếu tố sản xuất của kinh tế trang trại có thể biểu thị về mặt lượng bằng những chỉ tiêu chủ yếu sau:
* Quy mô diện tích ruộng đất (nếu là trang trại lấy trồng trọt làm sản xuất chính) hoặc số lượng gia súc, gia cầm (nếu trang trại chăn nuôi là chính). Hiện nay trồng trọt trang trại được quy định là đơn vị kinh doanh có quy mô diện tích 2 ha với cây hàng năm ở phía Bắc, 3 ha đối với cây hàng năm ở Tây Nguyên và Đồng Bằng Sông Cửa Long.... có 3 ha với cây lâu năm ở tất cả các miền trong nước.
* Quy mô đầu tư cho sản xuất kinh doanh, trong đó lưu ý 2 yếu tố là vốn và lao động. Các tiêu chí được quy định cụ thể cho từng loại hình kinh doanh của trang trại. Hiện nay, người ta quy định trang trại có vốn đầu tư trên 20 triệu và thuê 2 lao động trở lên.
1.4. Kinh tế trang trại có cách thức tổ chức và quản lý sản xuất tiến bộ dựa trên cở chuyên môn hoá sản xuất, thâm canh ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, thực hiện hoạch toán, điều hành sản xuất hợp lý và thường xuyên tiếp cận thị trường. Điều này được biểu hiện:
* Về trình độ chuyên môn hoá.
Xu hướng của các trang trại là chuyển từ sản xuất đa dạng, đa canh kết hợp trồng trọt với chăn nuôi sang sản xuất chuyên canh, tập trung vào một vài nông sản hàng hoá có lợi thế so sánh và khả năng sinh lời cao. Nhìn chung do mục đích là sản xuất hàng hoá nên hầu hết các trang trại đều kết hợp giữa chuyên môn hoá với phát triển tổng hợp. Đây là điểm khác biệt của trang trại so với hộ sản xuất tự cấp, tự túc.
* Cách thức điều hành sản xuất: cũng do sản xuất hàng hoá, đòi hỏi các trang trại phải ghi chép, hạch toán kinh doanh, tổ chức sản xuất khoa học trên cơ sở những kiến thức về nông học, về kinh tế thị trường.
* Về tiếp cận thị trường: do sản phẩm trang trại làm ra chủ yếu để bán trên thị trường nên hoạt động của trang trại đòi hỏi phải tiếp cận với thị trường để biết được thị trường cần loại sản phẩm nào, số lượng bao nhiêu, chất lượng và chủng loại giá cả và thời điểm cung cấp như thế nào?... Nếu chủ trang trại không có những thông tin và các vấn đề trên, hoạt động kinh doanh sẽ không có hiệu quả. Vì vậy, tiếp cận thị trường là yêu cầu cấp thiết với trang trại.
1.5. Chủ trang trại là người có ý chí, có năng lực tổ chức quản lý, có kiến thức và kinh nghiệm sản xuất, có hiểu biết nhất định về kinh doanh.
Những nhân tố của người chủ trại nêu trên, về cơ bản không có ở người chủ nông hộ sản xuất tự cấp, tự túc. Tuy nhiên những đặc trưng trên của chủ trang trại không được hội tụ đủ ngay từ đầu nên được hoàn thiện dần cùng với quá trình phát triển của trang trại.
2. Vai trò của trang trại
Trong các nghị quyết Đại hội Đảng gần đây, Đảng ta luôn xác định nông nghiệp vẫn là mặt trận hàng đầu trong quá trình thực hiện, CNH - HĐH đất nước. Trang trại là hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp như chủ yếu của nên sản xuất hàng hoá, vì vậy trang trại có vai trò hết sức to lớn trong việc sản xuất lương thực, thực phẩm cung cấp cho xã hội. Trang trại là tế bào kinh tế quan trọng để phát triển nông nghiệp nông thôn, thực hiện sự phân công lao động xã hội. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta chuyển tư sản xuất tự cấp tự túc sang sản xuất hàng hoá, sự hình thành và phát triển các trang trại có vai trò cực kỳ quan trọng.
ở Việt Nam, kinh tế trang trại mà chủ yếu là trang trại gia đình tuy mới phát triển nhưng những năm gần đây, nhưng vai trò tích cực quan trọng của nó đã thể hiện khá rõ nét cụ thể là:
* Trang trại là hình thức tổ chức sản xuất lấy việc khai thác tiềm năng và lợi thế so sánh phục vụ nhu cầu xã hội làm phương thức sản xuất chủ yếu, vì vậy nó cho phép huy động, khai thác đất đai, sức lao động và nguồn lực khác một cách đầy đủ, hợp lý và có hiệu quả. Nhờ vậy, nó góp phần tích cực thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển của nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
* Trang trại với kết quả và hiệu quả sản xuất cao góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế phát triển các loại cây trồng, vật nuôi có giá trị hàng hoá cao, khắc phục dần tình trạng manh mún, phân tán, tạo vùng chuyên môn hoá cao, đẩy nanh nông nghiệp sang sản xuất hàng hoá. Mặt khác qua thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trang trại góp phần thúc đẩy phát triển công nghiệp đặc biệt là công nghiệp chế biến và dịch vụ sản xuất nông thôn.
* Trang trại là đơn vị sản xuất có quy mô lớn hơn kinh tế hộ nông dân. Do đó có khả năng áp dụng hiệu quả các thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực. Mặt khác với cách thức tổ chức sản xuất và quản lý kinh doanh tiên tiến, trang trại là nơi tiếp nhận và truyền tải các tiến bộ khoa học và công nghệ đến hộ nông dân thông qua chính hoạt động sản xuất của mình.
* Phát triển kinh tế trang trại góp phần quan trọng làm tăng hộ giầu có trong nông thôn, tạo thêm việc làm và tăng thu nhập cho lao động. Điều này rất có ý nghĩa trong giải quyết vấn đề lao động và việc làm, một trong những vấn đề bức súc của nông nghiệp, nông thôn nươc ta hiện nay. Mặt khác phát triển kinh tế trang trại còn góp phần thúc đẩy phát triển kết cấu hạ tầng trong nông thôn và tạo tấm gương cho các hộ nông dân về cách tổ chức và quản lý sản xuất kinh doanh. Do đó phát triển kinh tế trang trại góp phần tích cực vào việc giải quyết các vấn đề xã hội và đổi mới bộ mặt xã hội nông thôn mới.
Về mặt môi trường, do sản xuất kinh doanh tự chủ và vì lợi ích thiết thực, lâu dài của mình mà các chủ trang trại luôn có ý thức khai thác hợp lý và quan tâm bảo vệ các yếu tố môi trường, trước hết là trong phạm vi trang trại và sau nữa là trong phạm vi từng vùng. Các trang trại ở Trung Du, Miền Núi đã góp phần quan trọng vào việc trồng rừng, bảo vệ rừng, phủ xanh đất trống đồi trọc và sử dụng hiệu quả tài nguyên đất đai. Những việc làm này đã góp phần tích cực cải tạo và bảo vệ môi trường sinh thái trên các vùng đất nước.
Như ta đã phân tích chúng ta thấy được tầm quan trọng to lớn của nền kinh tế trang trại trong nền kinh tế hiện nay. Chính vì vậy mà nhà nước cần thực sự tập trung các nguồn lực vốn có, tạo điều kiện cho kinh tế trang trại phát triển đúng hướng, có những bước đi vững chắc sứng đáng là tổ chức sản xuất trọng yếu trong nền nông nghiệp.
III. Chỉ tiêu đánh giá trình độ phát triển trang trại
Do sản xuất hàng hoá là quá trình sản xuất ra sản phẩm để trao đổi, để bán, nên chỉ tiêu quan trọng nhất phảm ánh trình độ của sản xuất hàng hoá là chỉ tiêu tỷ suất sản xuất hàng hoá trong tổng sản phẩm của người sản xuất. Chỉ tiêu này có thể tính bằng tỷ lệ về mặt hiệnvật, nếu trong cơ cấu sản phẩm là đồng nhất, có thể so sánh được về lượng hiện vật.
Ví dụ: Trong sản xuất chăn nuôi gà, nếu sản phẩm của trang trại chỉ là gà nuôi lấy trứng thì tỷ trọng sản phẩm hàng hoá có thể tính được bằng cách so sánh giữa số lượng trứng hàng hoá (đem bán) với số lượng trứng được sản xuất ra. Nếu trong năm sản xuất được 30.000 quả trứng mà bán ra đượ 27.000 quả. Thì tỷ suất hàng hoá là 90%.
Ngoài ra chỉ tiêu này có thể được sử dụng để phân tích trình độ sản xuất hàng hoá khi sản phẩm nằm trong cùng một nhóm có tính chất gần như nhau. (Sản lượng lương thực quy thóc, sản lượng ngũ cốc, rau xanh...)
Bên cạnh tỷ suất sản phẩm hàng hoá tính theo tỷ lệ hiện vật, người ta còn sử dụng chỉ tiêu tỷ suất giá trị sản phẩm hàng hoá. Đây là chỉ tiêu phổ biến khi nghiên cứu trình độ sản xuất hàng hoá của một đơn vị kinh doanh hoặc một vùng kinh tế. Tính chỉ tiêu này, bằng cách so sánh giữa sản lượng của trang trại. Điều cần lưu ý, nếu muốn so sánh chỉ tiêu này qua các năm, có thể dùng giá cố định, hoặc có thể dùng giá hiện hành. Nếu so sánh trình độ sản xuất hàng hoá của các đơn vị trong cùng năm, người ta thường dùng giá hiện hành để tính toán. Trong phân tích trình độ phát triển trang trại, chỉ tiêu tỷ suất hàng hoá là chủ yếu. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, nếu chỉ sử dụng chỉ tiêu này sẽ đánh giá không chính xác trình độ phát triển của trang trại. Ví dụ: Trong một năm, trang trại chăn nuôi được 50 con gà và bán hết cả 50 con, thì tỷ suất hàng hoá là 100%. Nếu trang trại khác nuôi được 100 con nhưng chỉ bán 75 con thì tỷ suất hàng hoá chỉ là 75%. Như vậy thì không thể đánh giá đúng trang trại nào có trình độ sản xuất cao hơn. Để khắc phục hạn chế trên, người ta dùng chỉ tiêu quy mô giá trị sản phẩm hàng hoá đi kèm với chỉ tiêu tỷ suất hàng hoá.
Ngoài ra, để đánhgiá trình độ sản xuất hàng hoá từng loại nông sản người ta còn sử dụng chỉ tiêu cơ cấu giá trị nông sản hàng hoá.
Phần II
Xu hướng hình thành và phát triển
kinh tế trang trại
I. Khái quát về kinh tế trang trại ở một số nước trên thế giới
1. Quá trình hình thành và phát triển
Trong cuộc cách mạng công nghiệp lần 1 diễn ra ở Châu Âu, người ta đã tiến hành tìm các phương thức tổ chức sản xuất nông nghiệp phù hợp với yêu cầu công nghiệp hoá.
Tuy nhiên xu hướng chung giữa thế kỷ XIX, người ta coi các xí nghiệp nông nghiệp lớn với phương thức sản xuất kinh doanh tư bản chủ nghĩa cùng với việc sử dụng nhiều lao động làm thuê là con đường tất yếu cho sự phát triển nông nghiệp.
Khi bước vào thờikỳ công nghiệp hoá. Nhưng vào cuối thế kỷ XIX, khi khoa học công nghệ đã phát triển với trình độ khá cao đã thúc đẩy tăng sản lượng nông nghiệp, giảm giá thành nông sản, cơ sở vật chất kỹ thuật phát triển (giao thông, máy móc, phân bón....) đã làm tăng năng suất lao động, ngành công nghiệp phát triển mạnh kéo theo việc tăng giá lao động nông nghiệp. Vì vậy nông nghiệp không phù hợp hình thức sản xuất với quy mô lớn và sử dụng nhiều lao động làm thuê. Tình trạng này đã làm mất dần ưu thế của trang trại lớn, thúc đẩy sự phát triển của trang trại gia đình. Sang đầu thế kỷ XX, lao động nông nghiệp bắt đầu giảm, số trang trại cũng giảm lao động làm thuê, khoảng 75 - 80% số trang trại gia đình không thuê lao động, số còn lại có thuê nhưng số lượng rất hạn chế. Đây là thời kỳ phát triển mạnh của hình thức trang trại gia đình.
ở Châu á, kinh tế nông nghiệp sản xuất hàng hoá ra đời muộn hơn. Tuy vậy, cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX sự xâm nhập của tư bản phương Tây, cùng việc du nhập phương thức sản xuất kinh doanh tư bản chủ nghĩa đã nảy sinh hình thức kinh tế trang trại trong nông nghiệp. Sau thế, nhiều nước Châu á đã tiến hành cải cách ruộng đất với nội dung, mức độ khác nhau nhằm chuyển ruộng đất cho những người nông dân trực tiếp sản xuất nông nghiệp. Điều này đã có tác động trực tiếp đến quá trình hình thành và phát triển các trang trại gia đình theo hướng sản xuất hàng hoá.
Như vậy kinh tế trang trại sản xuất hàng hoá đã tồn tại hàng trăm năm gắn liền với sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên, kinh tế trang trại ở các nước trên thế giới có sự khác biệt nhất định về quy mô, về phương pháp điều hành sản xuất kinh doanh và hướng kinh doanh. Điều đó phản ánh tính đa dạng của kinh tế trang trại phù hợp với điều kiện tự nhiên, xã hội, phong tục, tập quán truyền thống.
II. Xu hướng hình thành và phát triển kinh tế trang trại ở nước ta
1. Xu hướng hình thành.
ở nước ta hiện nay, phần lớn các nông hộ đều là các hộ tiểu nông. Tuy nhiên trên thực tế đã và đang có xu hướng hình thành các hộ sản xuất hàng hoá theo kiểu trang trại. Các trang trại xuất hiện không những ở vùng sản xuất hàng hoá, mà cả ở vùng sản xuất hàng hoá chưa phát triển, ở vùng có diện tích đất bình quân theo đầu người cao mà cả ở vùng diện tích đất bình quân đầu người thấp.
Hướng hình thành trang trại diễn ra không đồng đều giữa các vùng do các vùng có điều kiện khác nhau về đất đai, dân số, vốn trong dân, cơ sở sản xuất đang hình thành, sự phát triển của kết cấu hạ tầng.
* Vùng Trung du và miền núi: Về thực chất đã xuất hiện các trang trại từ trước những năm đổi mới kinh tế, nhưng quy mô còn nhỏ bé dưới hình thức các mô hình kinh tế gia đình kiểu vườn rừng, vườn đồi.... Trong những năm đổi mới kinh tế trang trại ở đây hình thành và phát triển tương đối nhanh do có nhiều đất rừng, đất trồng cây công nghiệp lâu năm. Nó được hình thành từ 3 dạng chủ yếu:
Từ các bộ vùng đồng bằng lên xây dựng vùng kinh tế mới; các hộ vốn là các thành viên của các nông lâm trường, một số tư nhân đến xin nhận hoặc thuê đất lập trang trại tiến hành sản xuất kinh doanh.
Phương hướng kinh doanh chủ yếu của các trang trại ở vùng Đồng Bằng là chủ yếu phát triển cây ăn quả như cam, hồng, mận, vải và kinh doanh nông lâm nghiệp, trồng rừng kết hợp.
Các trang trại ở vùng Tây Bắc chủ yếu phát triển cây công nghiệp như chè, cà phê và trồng rừng. Tuy số lượng trang trại nhiều nhưng quy mô của các trang trại phần lớn là nhỏ, khoảng 2ha (từ các trang trại trồng rừng). Nguyên nhân chủ yếu là sản xuất nông nghiệp ở đây có nhiều khó khăn nhất là đầu ra, trình độ sản xuất thấp, kết cấu hạ tầng mà đặc biệt là giao thông, thuỷ lợi còn thấp kém, lạc hậu hơn so với các vùng khác.
* Vùng đồng bằng: Đã xuất hiện các trang trại trồng trọt và chăn nuôi, nhưng quy mô nhỏ trong đó có sự kết hợp với ngành nghề phi nông nghiệp.
ở đây sông Hồng, diện tích ruộng đất ít, việc giao đất cho các hộ nông dân cơ bản đã hình thành, sức ép dân số và lao động cao không cho phép tập trung ruộng đất với quy mô lớn. Do vậy, việc hình thành các trang trại ở đây diễn ra chậm chạp và quy mô diện tích ruộng đất khá thường là dựa vào hình thức nhận thầu hoặc thuê các diện tích đất thùng đào, thùng đấu, đất hoang hoá, đất bãi ven sông, ven biển, mặt nước.... Ngoài ra trang trại hình thành dựa trên cơ sở nhận thầu hoặc thuê đất, một số trang trại hình thành trên cơ sở cơ cấu lại sản xuất của nông hộ theo hướng chuyển sang sản xuất các loại, nông sản phẩm có giá trị kinh tế lớn và tỷ suất hàng hoá cao.
ở đồng bằng Sông Cửu Long ruộng đất nhiều, ruộng đất bình quân đầu người bằng 3 - 4 lần đồng bằng Sông Hồng. Vùng này có truyền thống sản xuất hàng hoá, việc chuyển nhượng đất đai giữa các hộ nông dân tương đối thuận lợi, cho phép các hộ có vốn có thể mở rộng quy mô đất đai, thên vào đó diện tích đất đai ruộng, cho phép áp dụng máy móc và kỹ thuật thuận lợi. Do vậy trong những năm qua nhiều hộ nông dân đã phát triển sản xuất lúa hàng hoá theo phương thức trang trại. Ngoài sản xuất lúa ở đồng bằng Sông Cửu Long còn hình thành các trang trại khác như: sản xuất cây ăn quả, chăn nuôi gia cầm, nuôi thuỷ sản...
ở Tây Nguyên và Đông - Nam bộ, các trang trại được hình thành do có điều kiện thuận lợi về đất đai. Vừa có quỹ đất ruộng, vườn thuận lợi phát triển công nghiệp dài ngày như: cao su, cà phê, và trồng rừng. Các trang trại hình thành từ nhiều nguồn gốc khác nhau: nhân dân địa phương được giao đất trồng cà phê, cao su, nhân dân từ các nơi khác đến được nhận đất mở mang trang trại. Quy mô của trang trại ở đây là tương đối lớn.
Cơ cấu suất thân của chủ trang trại ở nước ta rất đa dạng, trong đó các chủ trang trại có nguồn gốc từ hộ nông dân làm ăn giỏi là chủ yếu ( 71,19%). Ngoài ra chủ trang trại còn là các thành phần xuất thân khác như cán bộ, hưu trí, công chức, đương chức nhưng nhìn chung đều suất thân từ nông dân.
Quy mô của các trang trại ở các mức độ khác nhau, tuỳ theo loại hình kinh doanh, vùng và thành phần xuất thân.
Nhưng nhìn chung các trang trại có quy mô nhỏ là chủ yếu. Qúa trình chuyển kinh doanh hộ sang kinh tế trang trại đã trở thành xu hướng chung nhưng còn tồn tại một số khó khăn cụ thể là: Vẫn còn có những nhận thức chưa đúng về trang trại và kinh tế trang trại, băn khăn về phát triển kinh tế trang trại, quỹ đất đai hạn hẹp đang là một trong các nguyên nhân hạn chế phát triển kinh tế hạn hẹp đang là một trong các nguyên nhân hạn chế phát triển kinh tế theo hướng trang trại, việc quy hoạch, định hướng phát triển các vùng sản xuất hàng hoá tập trung còn chưa tốt, thị trường nông sản không ổn định, sản phẩm làm ra khó tiêu thụ, quan hệ giữa nông dân và các tổ chức thương mại, các doanh nghiệp chế biến chưa thoả đáng gây trở ngại cho sản xuất và sự đầu tư theo hướng sản xuất hàng hoá, trình độ công nghệ thấp dẫn đến chất lượng nông sản kém, khó cạnh tranh và không thích ứng với nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng nên khó tiêu thụ.
Các chính sách vĩ mô của nhà nước chưa thực sự tác động đồng bộ, chưa theo kịp yêu cầu yêu cầu sản xuất, nên chưa thực sự khuyến khích hộ phát triển theo hướng trang trại.
Trình độ của chủ trang trại chưa đáp ứng yêu cầu của thực tế sản xuất kinh doanh nông nghiệp.
2. Xu hướng phát triển của kinh tế trang trại ở Việt Nam
Phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng kinh tế trang trại là con đường tất yếu của nước ta trong những năm tới nên phải tạo những điều kiện cần thiết cho kinh tế hộ phát triển theo hướng trang trại vừa cơ bản, vừa lâu dài. Bởi vì, quá trình phát triển kinh tế trang trại gắn liền với quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi và thực hiện sự phân công lao động theo vùng và trong nông thôn. Nhìn chung sự phát triển kinh tế trang trại diễn ra theo những xu hướng cơ bản sau:
a. Tích tụ và tập trung sản xuất
Sau khi hình thành, nhìn chung các trang trại vẫn diễn ra quá trình tích tụ và tập trung sản xuất nhưng còn ở mức độ thấp, các yếu tố còn trong tình trạng manh mún, phân tán. Trong quá trình phát triển, tích tụ và tập trung sản xuất luôn được coi trọng và tích cực thực hiện vì đó là điều kiện đảo bảo cho việc mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các trang trại.
Tích tụ và tập trung các trại chủ yếu là tích tụ vốn và tập trung ruộng đất. Tích tụ vốn thực chất là tích lỹ vốn, làm tăng vốn tự có của trang trại để đầu tư mở rộng sản xuất, chủ yếu là đầu tư theo chiều sâu, nghĩa là đầu tư thâm canh, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, về ruộng đất, việc mở rộng diện tích được thực hiện thông qua khai phá đất hoang hoá, nhận thầu sử dụng đất, nhận chuyển nhượng, thuê đất để sản xuất...
Đây là một xu hướng phát triển của trang trại, tuỳ theo điều kiện cụ thể từng nơi cần có chính sách và biện pháp tác động và điều tiết phù hợp nhằm thúc đẩy kinh tế trang trại phát triển.
b.Khuyến khích mọi hình thức kinh doanh của trang trại, nhưng tập trung phát triển các lâm trại, trang trại chuyên môn hoá cây công nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi đại gia súc.
Sản xuất ngày càng đi vào chuyên môn hoá là xu hướng tất yếu trong phát triển kinh tế trang trại, phù hợp với sự phân công lao động xã hội ngày càng cao. Tuy nhiên các trang trại phải kết hợp chuyên môn hoá sản xuất với đa dạng hoá sản xuất một cách hợp lý mới có thể khai thác có hiệu quả các nguồn lực đất đai, khí hậu, cơ sở vật chất kỹ thuật dao động, đồng thời để hạn chế rủi ro về thiên tai và biến động của thị trường. Cụ thể là: trên cơ sở phân vùng quy hoạch của cả nước, của từng vùng và địa phương, các trang trại bố trí sản xuất một số sản phẩm hàng hoá chính có giá trị cao phù hợp với yêu cầu của thị trường và điều kiện sản xuất hiện có. Đồng thời kết hợp sản xuất một số loại sản phẩm bổ sung để hỗ trợ cho sản phẩm chính, sử dụng đầy đủ các điều kiện đất đai, lao động và tư liệu sản xuất của trang trại.
Chính nhờ phát triển theo xu hướng này mà hiện nay ở nhiều vùng địa phương trong cả nước đã hình thành nhiều trang trại sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao như các trang trại chuyên môn hoá, cà phê, cao su, ở Tây Nguyên cây ăn quả chè, rau cao cấp, Thuỷ sản, chăn nuôi gia súc, gia cầm....
c. Nâng cao trình độ kỹ thuật, đưa các thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất, thực hiện thâm canh hợp lý trong sản xuất.
Xu hướng nâng cao trình độ kỹ thuật và thâm canh sản xuất trong các trang trại là xu hướng tất yếu và gắn liền với việc nâng cao năng suất lao động, nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi .
Để nâng cao trình độ kỹ thuật và thâm canh hoá sản xuất. Các trang trại, đầu tư xây dựng và phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật cho sản xuất, tăng cường áp dụng tiến bộ kỹ thuật đặc biệt là công nghệ sinh học. Mặt khác, kết hợp xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật trong từng trang trại mới phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật từng địa bàn của vùng (kênh mương, tưới tiêu nước, giao thông, điện....) theo quy hoạch thống nhất.
Tuy nhiên ở đây các trang trại không thể tự mình đơn độc cải tiến, nâng cao trình độ kỹ thuật được mà cần phải có sự hợp tác chặt chẽ, thống nhất giữa bản thân trang trại với nhau, giữa trang trại và sự hỗ trợ của nhà nước. Các trang trại phải tự mình xem xét trong từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể để có thể tham gia hợp tác với nhau, đảm bảo tính hiệu quả của việc nâng cao trình độ kỹ thuật sản xuất, cơ sở vật chất của từng trang trại và trên cả địa bàn. Nhà nước hỗ trợ đầu tư các công trình có tính thiết yếu, cơ bản đồng thời hỗ trợ nghiên cứu và phổ biến kỹ thuật thâm canh, hướng dẫn các trang trại áp dụng kỹ thuật vào sản xuất.
d. Trong cơ chế thị trường hiện nay trang trại cần hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng với các đơn vị và tổ chức kinh tế khác.
Để mục đích sản xuất hàng hoá được thực hiện có hiệu quả thì các trang trại cần phải hợp tác với nhau và với các đơn vị, tổ chức kinh tế khác. Chỉ có hợp tác trên cơ sở tự nguyện, cùng có lợi giữa các trang trại mới có thể giải quyết tốt hơn những vấn đề sản xuất kinh doanh với các tổ chức cung ứng vật tư để mua vật tư, với các tổ chức thuỷ nông để có nước tưới, với các tổ chức bảo vệ thực vật để phòng trừ sâu bệnh, hợp tác với các tổ chức thương mại dịch vụ để tiêu thụ nông sản, mặt khác có những hoạt động bản thân từng trang trại không thể thực hiện được do thiếu vốn, thiếu thiết bị máy móc... mà phải liên kết với các trang trại và với các tổ chức khác để thực hiện như: xây dựng hệ thống kênh mương, đường giao thông, chế biến, tiêu thụ nông sản phẩm. Các trang trại có thể hợp tác với nhau và với hộ nông dân, với hợp tác xã, nông lâm trường, với các cơ sở công nghiệp, thương mại, dịch vụ, tác dụng, vật tư, thậm chí trong một số trường hợp có thể cả với đối tác nước ngoài.
Ngoài ra các trang trại còn cạnh tranh với tổ chức và đơn vị kinh tế khác để tiêu thụ nông sản phẩm làm ra với giá cả hợp lý để có tích luỹ, tái sản xuất mở rộng. Để thực hiện được điều này cần không ngừng cải tiến máy móc thiết bị sản xuất, thực hiện thâm canh tăng năng suất cây trồng, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra một ưu thế cạnh tranh chung.
III.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển kinh tế trang trại.
Trong nền kinh tế thị trường, kinh tế hộ nông dân từng bước phát triển làm nền kinh tế trang trại theo xu hướng tích tụ và tập trung. Các nhân tố tác động đến quá trình hình thành và phát triển của trang trại chia thành 2 nhóm.
* Các yếu tố bên trong, đây là nguồn nội lực chính trong quá trình vận động này bao gồm: đất đai, vốn, chủ trang trại....
* Các yếu tố bên ngoài, là sự tác động của ngoại lực: môi trường kinh tế, pháp lý, chính sách....) trong đó quan trọng nhất là hệ thống quan điểm chính sách của nhà nước.
3.1. Những nhân tố nội lực:
a. Đất đai: là một trong những nhân tố hình thành nên trang trại dựa trên những sự tập trung đất đai quy mô lớn và trang trại là một trong những hình thức sử dụng đất đai có hiệu quả nhất trong sản xuất nông nghiệp. Nó có sự tác động lớn đến quá trình hình thành và phát triển kinh tế trang trại vì nguồn lực đất đai với quy mô lớn là cơ sở tự nhiên chủ yếu tạo ra sự dư thừa nông sản dẫn đến trao đổi hàng hoá trong nông nghiệp. Đất đai là nhân tố tạo nên sự thu hút các yếu tố khác (vốn, lao động....) như vậy đất đai là tư liệu sản xuất chính và trang trại hình thành trên sự tập trung đất đai, điều này đòi hỏi phải tạo điều kiện tập trung đất đai hợp lý vào những người có khả năng sử dụng hiệu quả để hình thành và thúc đẩy trang trại phát triển.
b. Vốn:
Trang trại là đơn vị sản xuất cơ sở trong nông nghiệp có quy mô, trình độ sản xuất cao hơn nông hộ và vốn của trang trại (chủ yếu là vốn tự có), phải được tích tụ và tập trung có quy mô đủ lớn để phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh, đầu tư và tái đầu tư. Tập trung nguồn vốn cho trang trại là một trong những điều kiện cần thiết để hình thành và phát triển trang trại. Ngoài vốn tự có cần khuyến khích các trang trại sử dụng vốn vay để mở rộng sản xuất và nguồn vốn phải ổn định để đảm bảo quá trình sản xuất được diễn ra thường xuyên, liên tục.
c. Lao động
Sức lao động là một trong những yếu tố sản xuất quan trọng của trang trại, nó bao gồm lao động gia đình thông qua tư liệu sản xuất, tác động lên đối tượng sản xuất trong lao động thông qua tư liệu sản xuất trực tiếp tạo ra sản phẩm. Để phục vụ qúa trình sản xuất hàng hoá của trang trại, phải tập trung được sức lao động và trình độ chuyên môn hoá, có kỹ thuật, kinh nghiệm....
d. Chủ Trang trại:
Phát triển kinh tế trang trại trong nông nghiệp cần có sự đầu tư tổ chức và công sức nhiều hơn so với nông hộ để sản xuất kinh doanh. Hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại chịu sự quản lý chi phối toàn bộ của chủ trang trại - nhân tố quan trọng nhất trong quá trình hình thành và phát triển trang trại. Do đó người chủ trang trại cần phải có những điều kiện sau:
Chủ trang trại là người có ý trí quyết tâm làm giầu từ nghề nông, phải có sự tích luỹ nhất định về kinh nghiệm sản xuất, chi thức và năng lực tổ chức sản xuất kinh doanh, biết hoạch toán kinh doanh phân tích kinh doanh, nghiên cứu thị trường.
Như vậy các nhân tố nội lực với vai trò quan trọng của chủ trang trại là nhân tố tác động đến quá trình hình thành và phát triển của trang trại nhưng đây mới chỉ là điều kiện cần của quá trình này, muốn cho trang trại phát triển phải có sự tác động của nhân tố ngoại lực đặc biệt là vai trò của nhà nước.
3.2. Nhân tố ngoại lực:
Sự tác động của nhà nước có vai trò to lớn trong qúa trình phát triển của trang trại hoặc sự kìm hãm của nhà nước bằng pháp luật, các chính sách tạo ra môi trường pháp lý kinh doanh....quyết định các quan hệ sản xuất của trang trại cũng như sự tồn tại hoạt động và phát triển, tác động của nhà nước được thông qua các quan điểm chủ trương chính sách.
a. Có sự tác động tích cực thích hợp của nhà nước
Nhà nước cần định hướng cho sự hình thành phát triển kinh tế trang trại thông qua quy hoạch phát triển và ban hành các chính sách kinh tế xã hội theo hướng khuyến khích trang trại phát triển. Trong đó đặc biệt quan trọng là các chính sách về đất đai, thị trường, khoa học - công nghệ - đầu tư .
b. Có chính sách tập trung ruộng đất
Tập trung ruộng đất là điều kiện xây dựng trang trại, nông nghiệp phải có chính sách thích hợp về ruộng đất (giao đất, giao rừng....) phải đảm bảo cho quá trình sử dụng đất đai hợp lý có hiệu quả.
c. Có sự hỗ trợ trong công nghiệp chế biến nông sản
Sự phát triển của công nghệ chế biến có ý nghĩa quan trọng và là điều kiện cần thiết đối với sự hình thành và phát triển trang trại, đó là mỗi quan hệ giữa đặc tính của sản phẩm nông nghiệp với công nghiệp chế biến.
d. Có sự phát triển, nhất định của cơ sở hạ tầng
Quan trọng hơn cả là giao thông và thuỷ lợi, nó góp phần quan trọng.....thiên nhiên và đẩy nhanh khâu lưu thông. Liên kết đẩy mạnh sản xuất hàng hoá trao đổi giao lưu.... cơ sở hạ tầng này phải có sự trợ giúp của nhà nước để tạo điều kiện hỗ trợ xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật để phát triển sản xuất kinh doanh trong mỗi trang trại.
e. Có sự hình thành vùng sản xuất chuyên môn hoá và phát triển các hình thức liên kết trong nông nghiệp.
Sự hình thành các vùng chuyên môn hoá là kết quả có sự trợ giúp của nhà nước tác động và do phân công lao động, trình độ chuyên môn hoá càng cao, yêu cầu liên kết càng lớn, xây dựng vùng chuyên môn hoá để sản xuất hàng hoá tập trung các yếu tố sản xuất dựa trên lợi thế của vùng. Sự hình thành trang trại là quá trình phát triển theo hướng chuyên môn hoá sản xuất trang trại và sản xuất hàng hoá trang trại sẽ đòi hỏi có sự đổi mới nhịp nhàng cân đối để đạt hiệu quả cao. Khi chuyên môn hoá phát triển một số khâu của trang trại tách ra. Liên kết kinh tế càng trở thành điều kiện cần thiết cho phát triển trang trại.
f. Có môi trường pháp lý thuận lợi cho trang trại ra đời và phát triển.
Sự công nhận của nhà nước đối với trang trại là cơ sở để trang trai có tư cách pháp nhân và một vị trí pháp lý để tạo cơ sở pháp lý cho chủ trang trại yên tâm đầu tư sản xuất kinh doanh.
Như vậy các tác động của nhà nước là những điều kiện đủ cho quá trình xây dựng và phát triển kinh tế trang trại, phải kết hợp và phát huy tác động tích cực của nhân tố nội lực, ngoại lực, xây dựng hệ thống kinh tế trang trại sản xuất hàng hoá phát triển. Thúc đẩy nông nghiệp nông thôn Việt Nam ngày càng phát triển.
Phần III
Một số nhận định về chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước về phát triển kinh tế trang trại
I. Những đánh giá chung về một số văn bản chính sách liên quan đến phát triển kinh tế trang trại.
Trêm phạm vi cả nước, từ đầu thập niên 80 đến nay Đảng và nhà nước ta đang thực hiện những chủ trương, biện pháp nhất quán theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế trang trại phát triển. Qua các kỳ đại hội Đảng VI, VII, VIII, Đảng ta đã thừa nhận sự tồn tại cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, khẳng định chính sách khuyến khích phát triển kinh tế . Nhiều thành phần trong đó có kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân. Điều đó đã tạo nên bối cảnh ra đời, phát triển mạnh mẽ và đúng hướng của kinh tế trang trại ở nước ta trong những năm qua.
Có thể nói nước ngoặt đầu tiên, lớn nhất trong nông nghiệp nói chung và cho kinh tế trang trại nói riêng chính là chỉ thị 100/CT - TW của ban Bí thư Trung ương ngày 13/1/1981.
Trên tinh thần chỉ thị này việc giao quyền sử dụng cho nông dân được thực hiện từng bước từ thấp đến cao. Bước đi đầu tiên thể hiện lập trường kiên định với sự nghiệp đổi mới nhưng thận trọng trong việc tìm kiếm những bước đi thích hợp trên con đường phát triển nông nghiệp là việc khoán sản phẩm cho nhóm và người lao động trong các hợp tác xã nông nghiệp. Đảng và nhà nước đã chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Hiến pháp, luật đất đai năm 1993 và các nghị quyết của Đảng đã khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy định, kế hoạch và pháp luật, bảo đảm sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả. Nhà nước giao đất, cho thuê đất để các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài, thúc đẩy kinh tế hộ và kinh tế trang trại phát triển.
Ngày 05/04/1988 Nghị quyết 10 của Bộ chính trị được ban hành và nghị quyết hội nghị lần VI ban chấp hành Trung ương " Khoá VI" tháng 3 năm 1989 đã công nhận hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ ở vùng nông thôn, đồng thời các chính sách khuyến khích phát triển kinh tế gia đình, kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân trong nông, lâm, ngư nghiệp. Có thể nói từ đây, kinh tế trang trại nước ta thực sự khởi động trở lại sau khi nghị quyết 10 ngày 14 tháng 11 năm 1988 hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành nghị định 170/HĐBT nhằm thể chế hoá chủ trương của Đảng về khuyến khích hộ cá thể, tư nhân trong sản xuất nông nghiệp mà nội dung cụ thể là:
* Nhà nước công nhân sự tồn tại lâu dài, tác dụng tích cực của các hộ kinh tế cá thể, tư nhân, thừa nhận các pháp nhân và bảo đảm quyền bình đẳng về quyền làm ăn trong sản xuất nông nghiệp.
* Nhà nước tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho kinh tế cá thể, tư nhân, phát triển sản xuất.
* Nhà nước bảo hộ các quyền về tài sản và thu nhập hợp pháp của các hộ gia đình cá thể, tư nhân.
* Các hộ kinh tế cá thể trong nông nghiệp, lâm nghiệp có điều kiện phát triển sản xuất được nhà nước cho thuê mọi giao quyền sử dụng đất lâu dài, ổn định để tổ chức sản xuất - kinh doanh, được thuê lao động theo yêu cầu phát triển sản xuất, được quyền tự do tiêu thụ sản phẩm....
Như vậy ngoài đất đai, các yếu tố vốn, lao động cũng được giải phóng và khuyến khích sử dụng một cách năng động vào việc phát triển trang trại. Ngoài việc được thừa nhận bằng pháp luật đối với các quyền sử dụng đất đai, quyền sở hữu và sử dụng vốn, lao động một cách năng động, các hộ và tư nhân sản xuất kinh doanh, vươn lên sản xuất hàng hoá theo mô hình kinh tế trang trại với những hình thức tổ chức đa dạng, trang trại gia đình, trang trại tiểu chủ, trang trại tư nhân. Như vậy nhờ những chính sách của Đảng và nhà nước các chủ trang trại có thể lựa chọn hình thức phát triển phù hợp cho bản thân mình, phát huy được lợi thế sẵn có của trang trại.
Sau nghị quyết 10, một loạt các chủ trương, biện pháp tiếp theo của Đảng và nhà nước đã ra đời và thực thi, có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của kinh tế trang trại. Trước hết là việc quy định 5 quyền của người sử dụngđất, quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp quyền sử dụng đất . Tiếp đến là những chủ trương quan trọng trong nghị quyết trung ương V (khoá 7) cũng đã nhấn mạnh một cách rõ hơn về việc khuyến khích phát triển các trang trại như sau: "khuyến khích phát triển kinh tế cá thể, tư nhân trong nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ nông thôn. Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư khai thác đồi núi trọc, bãi bồi ven biển, nuôi trồng thuỷ sản, đánh bắt ngoài khơi, xây dựng các nông lâm, ngư trang trại với quy mô thích hợp... khuyến khích các nhà kinh doanh từ thành phố, thị xã về nông thôn.
Sản xuất kinh doanh nông nghiệp. Sau luật đất đai 1993 nhiều văn bản pháp luật liên quan đến việc giao quyền sử dụng đất, thuế và chuyển quyền sử dụng đất được ban hành, trong đó đáng chú ý là nghị định số 02/CP ngày 5/7/1994 về giao đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp và lâm nghiệp. Sau nghị quyết 10, đồng thời với việc chủ động hoàn toàn chi phối của sản phẩm đầu ra, hộ nông dân có quyền chủ động hoàn toàn trong việc tìm kiếm các nguồn nhân lực cho sản xuất. Việc sản xuất ra sản phẩm gì là do thị trường đòi hỏi và nông dân quyết định được việc tìm kiếm nguồn lực sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của họ theo hướng có lợi nhất.
Để tạo điều kiện cho các trang trại yên tâm đầu tư cho sản xuất. Thực hiện cạnh tranh lành mạnh trong cơ chế thị trường tháng 3 năm 1989 nhà nước thi hành Chính sách 1 giá, bỏ hoàn toàn việc bù giá thực hiện bao cấp qua giá các mặt hàng thiết yếu cho tiêu dùng, kể cả gạo chế độ nghĩa vụ nông dân bán sản phẩm cho nhà nước theo giá thấp để được mua vật tư nông nghệp theo giá cố định bị xoá bỏ hoàn toàn đã buộc phần lớn giá cả trong nông nghiệp chuyển nhanh sang giá thị trường. Quá trình hoàn toàn tự do hoá giá cả trong nông nghiệp sau nghị quyết 10 lại tạo thêm động lực mạnh mang tính "áp lực" đẩy các hộ nông dân tự chủ phải tiếp cận với thị trường nhanh hơn. Họ buộc phải học cách tính toán lỗ lãi, tính hướng kinh doanh mang lại hiệu quả cao hơn.
Vốn sản xuất kinh doanh là nhân tố rất quan trọng đối với các trang trại. Nhưng ở nước ta các trang trại hầu như là chỉ sử dụng vốn tự có, còn các nguồn vốn khác, đặc biệt là vốn vay của ngân hàng, các tổ chức tín dụng thì lại rất hạn chế. Nguyên nhân chủ yếu là do cơ chế hoạt động của các tổ chức tài chính, tín dụng chưa thông thoáng, điều kiện và thủ tục vay vốn thích hợp, phụ thuộc vào nguyên tắc hành chính. Mặt khác các chủ trang trại cũng chưa thật sự chủ động quy hoạch, kế hoạch cụ thể đảm bảo tính khả thi của dự án để trình bày với Ngân hàng chấp nhận cho vay. Chính vì vậy đã hạn chế rất nhiều trong quá trình huy động vốn sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Các trang trại, ngày 2/3/1993 Chính phủ ban hành Nghị định 14/ CP về chính sách cho hộ nông dân vay vốn sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp. Đối tượng được ưu tiên vay vốn là các hộ gia đình, nông dân tự chủ. Do vậy, vai trò tự chủ của hộ nông dân được sáp lập về mặt pháp lý sau nghị quyết 10 về từng bước củng cố và khẳng định về mặt kinh tế bằng các chính sách cụ thể khác, trước hết là chính sách cho vay vốn sản xuất. Tuy nhiên đến nay một số hộ đã chuyển sang sản xuất hàng hoá với quy mô lớn hơn theo mô hình kinh tế trang trại thì việc vay vốn chính sách chung với kinh tế hộ và không đáp ứng đủ nhu cầu về vốn cho sản xuất của họ. Do đó, nhà nước phải từng bước điều chỉnh chính sách cho vay vốn phù hợp với sự phát triển của kinh tế trang trại, đảm bảo vốn sản xuất kinh doanh ổn định cho các trang trại.
Như vậy là chỉ trong thời gian ngắn, với những chủ trương và biện pháp mạnh mẽ làm thay đổi về sở hữu và sử dụng các quyền, nguồn nhân lực đầu vào cho sản xuất, bối cảnh gia đời và phát triển của kinh tế trang trại đã được xác định từ việc khẳng định chủ trương đường lối của Đảng đến việc thể chế hoá các chủ trương đường lối đó bằng các văn bản pháp quy của nhà nước. Mặc dù còn những vướng mắc trên con đường phát triển cần tháo gỡ nhưng về cơ bản đến nay kinh tế trang trại đã có bối cảnh gia đời và phát triển khá thuận lợi.
II. Nhận định tổng quát về môi trường chính sách cho phát triển trang trại.
Sự phát triển kinh tế trang trại ở nước ta trong những năm qua đã góp phần tích cực vào quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn, nâng cao khối lượng nông sản hàng hoá và góp phần giải quyết những vấn đề xã hội (giải quyết việc làm, nâng cao đời sống, hạn chế di dân từ nông thôn ra thành thị....) để có được những kết quả đó Đảng và nhà nước ta đã và đang phát triển. Nhà nước ta đã thực sự có những quan điểm, chủ trương đúng đắn tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế trang trại phát triển. Nhà nước đã từng bước thừa nhận và khẳng định kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất phù hợp, do đó đã liên tục ban hành những chính sách khuyến kinh tế trang trại phát triển như: chính sách đất đai, chính sách tài chính, thuế, chính sách khoa học và công nghệ, chính sách tiêu thụ sản phẩm, chính sách đào tạo bồi dưỡng đối với chủ trang trại. Trên cơ sở các chính sách đó, các ngành, các cấp hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các nghị định của nghị quyết tạo điều kiện cho các trang trại thực hiện hiệu quả.
Bên cạnh những khởi sắc và tiến bộ, kinh tế trang trại hiện nay cũng đang gặp không ít khó khăn, sự hình thành phát triển kinh tế trang trại còn mang nặng tính tự phát, phân tán, thiếu sự hướng dẫn và giúp đỡ của nhà nước. Vấn đề nổi cộm nhất là quyền sử dụng đất lâu dài của chủ trang trại chưa được nhà nước thừa nhận chính thức, nhất là đất vượt hạn điều 30% quỹ đất của trang trại đang sử dụng vẫn mang tính tạm thời. Nên họ chưa yên tâm đầu tư vốn rất thiếu nhưng ngân hàng chưa có cơ chế cho vay hợp lý. Trong thực tế trang trại vẫn chỉ được vay vốn như một hộ nông dân bình thường. Việc đào tạo, bồi dưỡng trình độ kỹ thuật quản lý cho các chủ trang trại theo cơ chế thị trường chưa có hệ thống, nên sản phẩm sản xuất chưa phù hợp với yêu cầu thị trường dẫn đến nông sản hàng hoá nhiều nhưng khó tiêu thụ, giá thấp, tích tụ phát trong sản xuất , kinh doanh còn phổ biến.
Nguyên nhân của những tồn tại trên đây có nhiều, trong đó chủ yếu là do nhận thức vào quan điểm về kinh tế trang trại chưa thống nhất. Nhà nước chưa có các chính sách kinh tế tài chính rõ ràng. Cụ thể để hỗ trợ hoặc khuyến khích mô hình này phát triển tương xứng với vai trò và vị trí của nó trong nền kinh tế nước ta. Vì vậy giải pháp cần thiết hiện nay là nhà nước các ngành, các cấp từ Trung ương đến địa phương cần có sự thống nhất nhận thức về quan điểm coi kinh tế trang trại là mô hình tổ chức sản xuất tiến bộ phù hợp với yêu cầu phát triển nông nghiệp hàng hoá ở nước ta cả hiện tại và tương lai.
Trên cơ sở nhận thức, nhà nước cần có chủ trương và các chính sách kinh tế - tài chính khuyến khích phát triển và nhân công mô hình này để biến tiềm năng đất đai, lao động, tiền vốn và kinh nghiệm của hàng triệu hộ nông dân thành của các vật chất, làm giầu cho đất nước.
Trên cơ sở kết quả điều tra và kiến nghị của Bộ, Ngành và các địa phương, Chính phủ đang xem xét để có quyết định hợp thức hoá mô hình kinh tế trang trại trong thời gian sớm nhất. Chúng ta có thể tin tưởng rằng trong một tương lai gần kinh tế trang trại gia đình ở nước ta sẽ có bước phát triển mới vững chắc hơn, toàn diện hơn, sứng đáng là một mô hình nông nghiệp hàng hoá có hiệu quả của Việt Nam trong thiên niên kỷ mới.
C. Kết luận
ở Việt Nam trong những năm gần đây kinh tế trang trại đã phát triển mạnh mẽ ở nhiều địa phương trong các nước, nhất là trung du miền núi và ven biển. Mặc dù đang trong quá trình phát triển nhưng kinh tế trang trại đã thực sự là hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá ngày càng lớn, một mặt đã tạo ra lượng giá trị lớn về nông, lâm, thuỷ sản hàng hoá mà quy mô của nó vượt trội nhiều lần so với kinh tế hộ nông dân, mặt khác là mô hình lấy sản xuất hàng hoá làm mục tiêu chính. Kinh tế trang trại được coi là nhân tố mới ở nông thôn. Phát triển kinh tế trang trại là động lực mới nối tiếp và phát huy động lực của kinh tế hội, là điểm đột phá trong bước chuyển sang sản xuất nông nghiệp hàng hoá lớn. Phát triển kinh tế trang trại đã góp phần tích cực trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Xu hướng phát triển kinh tế trang trại là tích tụ và tập trung ruộng đất, chuyên môn hoá sản xuất, nâng cao trình độ kỹ thuật và thâm canh hoá sản xuất, cùng hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Đảng và nhà nước ta rất coi trọng phát triển kinh tế trang trại cụ thể là các chủ trương chính sách được thể chế hoá bằng các văn bản Nghị định, Nghị quyết, chỉ thị... nhà nước tạo ra một môi trương thuận lợi bằng hệ thống các chính sách như chính sách ruộng đất, chính sách vốn, tín dụng, chính sách thị trường, chính sách khoa học công nghệ, chính sách đào tạo chủ trang trại.... là động lực rất to lớn và quan trọng thúc đẩy kinh tế trang trại phát triển. Như vậy có thể nói rằng phát triển kinh tế trang trại là con đường tất yếu, là bước đi thích hợp để chuyển nền nông nghiệp từ tự cung, tự cấp sang sản xuất hàng hoá lớn, tăng thu nhập nâng cao đời sống dân cư, góp phần xoá đói giảm nghèo và thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
Tài liệu tham khảo
1. GS.TS. Nguyễn Đình Hương -Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế trang trại trong thời kỳ CNH - HĐH ở Việt Nam
NXB chính trị Quốc gia - 2000
2. Giáo trình kinh tế nông nghiệp - NXB Thống kê 2002
3. Kỷ yếu hội nghị khoa học sinh viên năm học 2001 - 2002
Khoa KTNN & PTNN
4. Giá trình quản trị doanh nghiệp nông nghiệp
NXB Thống kê 2001
5. Tạp chí con số và sự kiện số 18
6. Tạp chí hoạt động khoa học số 8/2000
7. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 265 - tháng 6/2000.
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- G0067.doc