Đề tài Một số vấn đề pháp lý về ký kết và thực hiện Hợp đồng mua bán ngoại thương

Luật pháp của tất cả các nước đều cho phép bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt nhất định do vi phạm hợp đồng nếu như trong hợp đồng mua bán ngoại thương, hoặc trong các văn bản liên quan, có quy định mức phạt. Phạt vi phạm được quy định trong hợp đồng có hai loại phạt do không thực hiện hợp đồng và phạt do thực hiện không đúng hợp đồng. Mức phạt vi phạm theo điều 228 LTM nước CHXHCN Việt Nam quy định là do các bên tự thoả thuận trong hợp đồng nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ bị vi phạm. Công ước Viên không điều chỉnh nội dung về thiệt hại quy ước hay điều khoản phạt.

doc53 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1347 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số vấn đề pháp lý về ký kết và thực hiện Hợp đồng mua bán ngoại thương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g hoá phải được quy định cụ thể thông qua sự mô tả theo hình dạng, màu sắc, kích thước hoặc xác định bởi đặc tính lý hoá của nó, hoặc theo một mẫu nhất định; hoặc theo một tiêu chuẩn (quốc gia, quốc tế) đối với hàng hoá đó. - Giá cả của hàng hoá: Giá cả là một điều khoản cơ bản của hợp đồng mua bán ngoại thương nên nó cần được quy định cụ thể. Giá cả phải được ghi bằng chữ và đồng tiền tính giá. Chú ý khi ghi đồng tiền tính giá phải ghi cụ thể là loại tiền gì, của nước nào, vì thực tế trên thế giới có nhiều loại tiền của các nước tuy tên gọi giống nhau nhưng tên gọi lại khác nhau. - Thời hạn giao hàng: để đảm bảo quyền lợi của mình và tạo điều kiện thuận lợi cho công việc giao nhận hàng, các bên phải thoả thuận thời gian giao hàng. Thời gian giao hàng có thể được các bên ấn định vào một thời điểm cụ thể hoặc vào khoảng thời gian cụ thể. - Phương thức giao hàng: Phương thức giao hàng là những quy định về trách nhiệm của người mua hàng và người bán hàng trong các vấn đề có liên quan đến việc giao hàng như: thuê phương tiện vận chuyển, mua bảo hiểm hàng hoá, xác định thời điểm chuyển dịch quyền sở hữu và rủi ro đối với hàng hoá từ người bán sang người mua... Thông thường người ta áp dụng phương thức giao hàng theo Incoterm 1990. Nếu có vấn đề gì cần thêm bớt vào các điều kiện giao hàng để phù hợp với hoàn cảnh thực tế thì các bên cũng phải thoả thuận ghi rõ trong hợp đồng. Ngoài các điều khoản trên đây, các bên chủ thể có thể thoả thuận đưa vào hợp đồng các điều khoản khác như: điều khoản giám định hàng hoá, điều khoản thanh toán, điều khoản bảo hiểm, điều khoản trọng tài... Điều 50 Luật Thương mại của Việt Nam quy định: “Hợp đồng mua bán hàng hoá phải có các nội dung sau: 1. Tên hàng 2. Số lượng; 3. Quy cách, chất lượng; 4. Giá cả; 5. Phương thức thanh toán; 6. Địa điểm và thời gian giao nhận hàng. Ngoài các nội dung chủ yếu quy định tại điều này các bên có thể thoả thuận các nội dung khác trong hợp đồng”. d. Hợp đồng phải được ký kết trên cơ sở của nguyên tắc tự nguyện. - Nguyên tắc tự nguyện cho phép các bên được hoàn toàn tự do thoả thuận về mọi vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các bên trong khuôn khổ pháp luật. - Nguyên tắc tự nguyện loại bỏ tất cả các hợp đồng được ký kết trên cơ sở dùng bạo lực, bị đe doạ, bị lừa bịp hoặc do có sự nhầm lẫn. 2. Ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương. a. Hình thức, nội dung và trình tự đàm phán giao dịch. * Về hình thức, đàm phán giao dịch có thể chia thành hai loại là: đàm phán miệng và đàm phán giấy tờ. Đàm phán miệng chủ yếu là chỉ đàm phán đối diện trên bàn đàm phán, như tham gia các loại hội nghị giao dịch, hội nghị đàm phán, nhóm buôn bán ra thăm nước ngoài và mới khách tới đàm phán giao dịch... Ngoài ra, đàm phán miệng cũng có thể được tiến hành giữa hai bên thông qua điện thoại. Đàm phán giấy tờ là chỉ tiến hành đàm phán giao dịch thông qua các phương tiện thông tin như thư từ, điện báo, FAX... Thông qua đàm phán miệng và đàm phán giấy tờ, sau khi hai bên đã đi tới thoả thuận về mặt điều kiện giao dịch, thì có thể làm hợp đồng chính thức về mặt giấy tờ. * Nội dung của đàm phán giao dịch có liên quan tới các điều khoản của hợp đồng mua bán ký kết, trong đó bao gồm tên hàng, chất lượng, số lượng, bao bì, giá cả, bốc xếp vận chuyển, bảo hiểm, thanh toán và thương kiểm, bồi thường, trọng tài và trường hợp bất khả kháng... * Trình tự của đàm phán giao dịch có thể khái quát thành 4 khâu: mời báo giá, báo giá, trả giá và chấp nhận. Trong đó báo giá và chấp nhận là hai bước căn bản mà mỗi cuộc giao dịch không thể thiếu được. Mời chào giá. Mời chào giá chỉ là việc một bên giao dịch dự định mua hoặc bán ra một loại hàng nào đó, hỏi đối tác các điều kiện giao dịch có liên quan tới việc mua bán loại hàng này, hoặc đưa ra kiến nghị có điều kiện bảo lưu về cuộc giao dịch đó. Trong nghiệp vụ mua bán thông thường, mời chào giá là khâu không đặc biệt quan trọng, song trong một số phương thức buôn bán đặc thù như gọi thầu, đấu thầu, đấu giá thì tầm quan trọng của nó lại ở mức độ khác. Báo giá. Báo giá là chỉ hành vi mà một bên giao dịch - người báo giá, đưa ra các điều kiện giao dịch mua hoặc bán loại hàng nào đó với bên kia - người nhận báo giá - và tỏ ra muốn cùng đối phương đi đến thoả thuận giao dịch, ký kết hợp đồng theo điều kiện này. * Điều kiện của báo giá. Cầu thành nên một báo giá cần có đủ 3 điều kiện. Báo giá cần phải có người nhận báo giá nhất định, nội dung của báo giá cần xác định chắc chắn và phải tỏ rõ người báo giá chịu ràng buộc của nó. Người nhận báo giá có thể là một người, có thể là một người trở lên, có thể là tự nhiên nhân có thể là pháp nhân nhưng phải chỉ định rõ ràng. Nội dung báo giá cần xác định rõ hàng hoá, quy định rõ về số lượng, quy cách. Khi bên nhận báo giá chấp nhận báo giá thì bên báo giá và bên nhận báo giá có thể lập hợp đồng theo nội dung của báo giá. Trong hợp đồng thông thường đều quy định kỳ hạn có hiệu lực, đó là kỳ hạn người báo giá chịu ràng buộc và thời hạn có hiệu lực để người nhận báo giá chấp nhận. Song, quy định kỳ hạn có hiệu lực không phải là điều kiện tất yếu cấu thành nên báo giá, nếu trong báo giá không quy định thời hạn có hiệu lực, người nhận báo giá chỉ nên chấp nhận trong thời gian hợp lý, nếu không thì vô hiệu. Cần xem xét tình hình cụ thể của giao dịch để quyết định “thời gian hợp lý”, thường là xử lý theo tập quán chung. * Thời điểm có hiệu lực của báo giá và thu hồi báo giá. Điều 15 Công ước Viên 1980 quy định: “1. Báo giá có hiệu lực khi nó được gửi tới người nhận báo giá. 2. Báo giá, cho dù là không thể huỷ bỏ, vẫn có thể thu hồi lại, nếu thông báo thu hồi đến tay người nhận báo giá trước hoặc đồng thời khi báo giá đến tay người nhận báo giá”. Theo điều 15 của Công ước tuy báo giá đã đưa ra, song trước khi đến tay người nhận báo giá sẽ không có sự ràng buộc đối với người báo giá. Người nhận báo giá cũng chỉ sau khi nhận được báo giá rồi mới có thể xem xét tới vấn đề chấp nhận hay không, nếu tỏ ra chấp nhận trước thời điểm đó do dựa vào nghe ngóng dù có trùng hợp cũng không có hiệu lực. Trường hợp báo giá đã đến tay người nhận báo giá, lúc này người báo giá có ý định thay đổi, thì không phải là vấn đề thu hồi, mà là vấn đề hủy bỏ báo giá. * Hủy bỏ báo giá. Huỷ bỏ báo giá khác với thu hồi, huỷ bỏ báo giá là chỉ hành vi sau khi báo giá đã đến tay người nhận báo giá và đã có hiệu lực, người báo giá lại muốn huỷ bỏ báo giá này, xoá bỏ hiệu lực của nó. Vấn đề có thể huỷ bỏ sau khi báo giá đã có hiệu lực hay không, luật hợp đồng của các nước có những quy định khác nhau khá lớn. Các nước theo hệ thống luật thông lệ (Common Law) cho rằng: về nguyên tắc báo giá không có sự ràng buộc đối với người báo giá. Trước khi đưa ra chấp nhận, người báo giá có thể huỷ bỏ báo giá hoặc thay đổi nội dung vào bất cứ lúc nào; trường hợp ngoại lệ là người nhận báo giá đã đưa ra “đối giá” “Đối giá” là một kiểu chế độ của hệ thống Luật Anh, Mỹ, chỉ việc trao đổi cho nhau giữa các bên đương sự hợp đồng, tức hai bên đều có sự đền bù. hoặc người báo giá dùng hình thức đặc biệt ký tên niêm phong để báo giá. Song trong “Sách luật thương mại thống nhất”, Mỹ lại đưa ra sửa đổi về nguyên tắc trên, thừa nhận trong điều kiện nhất định (người báo giá là thương nhân, báo giá bằng hình thức giấy tờ, kỳ hạn có hiệu lực không quá 3 tháng) báo giá chưa có đối giá cũng không thể huỷ bỏ. Các nước theo hệ thống luật Châu Âu lục địa như Đức cho rằng: về nguyên tắc, báo giá có sự ràng buộc đối với người báo giá, trừ phi anh ta đã tỏ ra trong báo giá là không chịu sự ràng buộc của báo giá. Luật của Pháp tuy cho phép người báo giá huỷ bỏ báo giá trong kỳ hạn có hiệu lực, nhưng lại cho thấy, anh ta phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Điều 16 Công ước Viên 1980 quy định: “ 1. Trước khi chưa ký kết hợp đồng, báo giá có thể huỷ bỏ, nếu thông báo huỷ bỏ đến tay người nhận báo giá trước khi người nhận báo giá đưa ra chấp nhận. 2. Tuy nhiên, trong những trường hợp dưới đây báo giá không được huỷ bỏ: a. Trong báo giá đã ghi rõ kỳ hạn có hiệu lực của báo giá hoặc cho thấy báo giá không thể huỷ bỏ, hoặc b. Người nhận báo giá có lý do tin tưởng rằng báo giá này không thể bị huỷ bỏ và đã hành động theo chiều hướng đó.”. * Báo giá mất hiệu lực. Điều 17 Công ước viên 1980 quy định: “Một báo giá, cho dù là không thể huỷ bỏ, sẽ chấm dứt khi thông báo từ chối được gửi tới người báo giá”. Tức là, khi người nhận báo giá không chấp nhận những điều kiện mà người báo giá đưa ra và gửi thông báo từ chối tới tay người báo giá, báo giá sẽ mất hiệu lực, người báo giá không bị ràng buộc nữa. Ngoài ra, trong những trường hợp sau đây cũng có thể làm cho báo giá mất hiệu lực: + Người nhận báo giá đưa ra hoàn giá (trả giá). + Người báo giá dựa vào luật pháp huỷ bỏ báo giá. + Kỳ hạn có hiệu lực trong báo giá đã hết. + Những sự cố bất ngờ mà sức người không thể kháng cự làm cho báo giá mất hiệu lực, như lệnh cấm của chính phủ hoặc biện pháp hạn chế của chính phủ... + Trước khi báo giá được chấp nhận, đương sự mất khả năng hoạt động, hoặc tử vong, hoặc phá sản. Hoàn giá (trả giá) Hoàn giá là chỉ người nhận báo giá không đồng ý hoặc không hoàn toàn đồng ý những điều kiện mà người báo giá đưa ra trong báo giá, để thoả thuận thêm, đưa ra ý kiến sửa đổi đối với báo giá. Hoàn giá có thể nhằm vào giá cả, cũng có thể nhằm vào các điều kiện quan trọng như chất lượng, số lượng, thời gian và địa điểm giao hàng, phương thức thanh toán để đưa ra ý kiến sửa đổi. Hoàn giá là sự từ chối đối với báo giá, một khi đã đưa ra hoàn giá, báo giá trước đó lập tức mất hiệu lực, người báo giá không còn bị ràng buộc nữa. Lúc này người nhận báo giá trở thành người báo giá mới và ngược lại. Chấp nhận. Chấp nhận là sự đồng ý hoàn toàn tất cả mọi điều kiện của người báo giá, khi đó hợp đồng được thành lập. * Điều kiện của chấp nhận. Cấu thành nên một chấp nhận có hiệu lực phải có đủ các điều kiện: chấp nhận phải do người nhận báo giá đưa ra; nội dung của chấp nhận phải phù hợp với báo giá; phải chấp nhận trong thời hạn có hiệu lực của báo giá; và chấp nhận phải được truyền đạt tới người báo giá. * Phát sinh hiệu lực và thu hồi chấp nhận. Chấp nhận phát sinh hiệu lực là một vấn đề quan trọng, các nước có hệ thống luật pháp khác nhau có quy định khác nhau về vấn đề này. Luật pháp các nước Anh, Mỹ thì thực hiện “nguyên tắc gửi bưu điện phát sinh hiệu lực”, đây chỉ là khi dùng phương thức thông tin thư từ, điện báo để biểu thị chấp nhận, thư chấp nhận một khi đã bỏ vào thùng thư hoặc gửi đi thì liền phát sinh hiệu lực, chỉ cần thời gian gửi đi là trong kỳ hạn có hiệu lực, chỉ cần thời gian gửi đi là trong kỳ hạn có hiệu lực, cho dù thư bị chậm trễ hoặc thất lạc trên đường vận chuyển bưu điện, cũng không anh hưởng tới việc thành lập hợp đồng. Trong luật Châu Âu lục địa lấy Đức làm tiêu biểu thì áp dụng “nguyên tắc đến phát sinh hiệu lực” tức là thư biểu thị chấp nhận phải gửi tới tay người báo giá trong thời gian quy định, chấp nhận mới phát sinh hiệu lực, do vậy, thư bị chậm trễ hoặc thất lạc trên đường vận chuyển bưu điện, hợp đồng không thể thành lập. Khoản 2 Điều 18 Công ước Viên 1980 quy định: “Việc chấp nhận báo giá có hiệu lực vào thời điểm khi người báo giá nhận được sự đồng ý đó. Việc chấp nhận báo giá không phát sinh hiệu lực nếu người báo giá không nhận được sự đồng ý đó đúng thời hạn mà họ quy định, còn nếu thời hạn không được quy định như vậy thì trong thời gian hợp lý (có tính đến các tình tiết của giao dịch như tốc độ của các phương tiện thông tin liên lạc mà người báo giá đã sử dụng). Việc chào hàng bằng miệng phải được chấp nhận ngay trừ phi các hoàn cảnh buộc phải thực hiện khác đi”. Vấn đề thu hồi chấp nhận được Công ước Viên 1980 quy định tại điều 22: “Chấp nhận được phép thu hồi nếu thông báo thu hồi tới tay người báo giá trước hoặc đồng thời với thời gian mà chấp nhận phát sinh hiệu lực”. Quy định này cho thấy, sau khi người nhận báo giá đưa ra chấp nhận, nếu thay đổi anh ta có thể thu hồi chấp nhận, nhưng điều kiện là anh ta phải đảm bảo để thông báo thu hồi đến tay người báo giá trước khi chấp nhận đến tay người báo giá. Nếu theo nguyên tắc bỏ thư phát sinh hiệu lực của luật Anh, Mỹ, chấp nhận một khi đã gửi đi là liền phát sinh hiệu lực, hợp đồng cũng được thành lập, như vậy không tồn tại việc thu hồi chấp nhận. b. Ký kết hợp đồng. Sau khi hai bên mua bán tiến hành đàm phán, báo giá của một bên được bên kia chấp nhận hữu hiệu, lập tức đi đến ký kết giao dịch, hợp đồng coi như đã thành lập. Điều 23 Công ước Viên 1980 quy định. “Hợp đồng coi như được ký kết vào thời điểm khi mà việc chấp nhận báo giá có hiệu lực theo đúng quy định của công ước này”. Điều 55 Luật Thương mại CHXHCN Việt Nam quy định: “Hợp đồng mua bán hàng hoá được coi là đã ký kết kể từ thời điểm các bên có mặt ký vào hợp đồng. Trong trường hợp các bên không cùng có mặt để ký hợp đồng, hợp đồng mua bán hàng hoá được coi là đã ký kết kể từ thời điểm bên chào hàng nhận được thông báo chấp nhận toàn các điều kiện đã ghi trong chào hàng trong thời hạn trách nhiệm của người chào hàng”. B - thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thương. Trong buôn bán quốc tế, hợp đồng mua bán khi đã thành lập theo pháp luật, các bên hữu quan phải thực hiện nghĩa vụ quy định trong hợp đồng. Do vậy, thực hiện hợp đồng là nghĩa vụ, trách nhiệm chung của hai bên đương sự. I - các nguyên tắc chấp hành hợp đồng mua bán ngoại thương. Nguyên tắc chấp hành hợp đồng là những tư tưởng chỉ đạo có tính chất bắt buộc đối với các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng đã ký kết. Trong việc thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thương các bên phải tuân theo ba nguyên tắc là chấp hành thực hiện, chấp hành đúng và chấp hành trên tinh thần hợp tác hai bên cùng có lợi. 1. Chấp hành hiện thực. Là chấp hành đúng đối tượng của hợp đồng, không được tự ý thay thế đối tượng này bằng đối tượng khác hay thay thế việc thực hiện nó bằng việc trả một khoản tiền nhất định. 2. Chấp hành đúng hợp đồng. Là chấp hành hiện thực và đầy đủ tất cả các điều khoản đã cam kết. Chấp hành hiện thực cũng là chấp hành đúng nhưng mới chỉ là chấp hành đúng một phần của hợp đồng ở điều khoản đối tượng. Nguyên tắc chấp hành đúng đòi hỏi mỗi bên tham gia ký kết đều phải thực hiện nghiêm chỉnh và đúng đắn tất cả các nghĩa vụ của mình trong quan hệ hợp đồng, đồng thời có quyền yêu cầu phía bên kia thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của họ. 3. Chấp hành trên tinh thần hợp tác các bên cùng có lợi. Là việc làm cân thiết và quan trọng để đáp ứng nhu cầu và đảm bảo quyền lợi của các chủ thể hợp đồng. Theo nguyên tắc này, các bên phải hợp tác chặt chẽ, thường xuyên theo dõi quá trình thực hiện hợp đồng, giúp đỡ nhau khắc phục khó khăn để thực hiện đầy đủ và nghiêm chỉnh các nghĩa vụ đã cam kết. Ngay cả trong trường hợp xảy ra tranh chấp các bên phải chủ động hiệp thương giải quyết. Nguyên tắc này không chỉ có ý nghĩa trong việc thực hiện hợp đồng mà nó còn có ý nghĩa trong việc phòng ngừa, ngăn chặn và giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán ngoại thương. II - Quá trình thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thương. Đối với hợp đồng xuất khẩu, đa số là hợp đồng theo điều kiện CIF hoặc CFR và đều dùng phương thức thanh toán thư tín dụng, do đó khi thực hiện những hợp đồng này phải thực hiện đầy đủ các khâu như: chuẩn bị hàng, giục thư tín dụng, kiểm tra thư tín dụng, sửa đổi thư tín dụng, thuê tàu đặt khoang, báo kiểm nghiệm, khai báo hải quan, bảo hiểm, bốc xếp và kết toán. Đối với hợp đồng nhập khẩu đa số hợp đồng theo điều kiện FOB và phương thức tín dụng trả tiền nay, do vậy trình tự thực hiện hợp đồng này thường là mở thư tín dụng, thuê tàu đặt khoang, bốc xếp vận chuyển, làm bảo hiểm, kiểm tra chứng từ thanh toán, nhận hàng, khai báo hải quan, kiểm nghiệm và chuyển giao hàng hoá. 1. Chuẩn bị hàng. Công việc này yêu cầu phải giao hàng đúng thời gian, đúng chất lượng, đúng số lượng theo quy định và thực hiện tốt công tác yêu cầu kiểm nghiệm, nhận chứng nhận. - Chuẩn bị hàng. Trong việc chuẩn bị hàng cần chú ý: + Chất lượng, quy cách của hàng hoá phải phù hợp với quy định của hợp đồng. + Đảm bảo đáp ứng yêu cầu về số lượng theo yêu cầu của hợp đồng hoặc thư tín dụng. + Bao bì phải bảo vệ được hàng và thích ứng với yêu cầu của vận chuyển. + Tiêu chí vận chuyển hàng hoá cần in theo mẫu quy định của hợp đồng. + Thời gian chuẩn bị hàng phải theo đúng yêu cầu của thư tín dụng. - Báo kiểm nghiệm. Những hàng hoá thuộc quy định của Nhà nước, hoặc hợp đồng có quy định phải qua cơ quan kiểm nghiệm cấp giấy chứng nhận, sau khi hàng đã chuẩn bị đầy đủ, cần cơ quan kiểm nghiệm không hợp lệ đều không được phép xuất khẩu. 2. Mở thư tín dụng, kiểm tra thư tín dụng và sửa đổi thư tín dụng. Phương thức thanh toán = thư tín dụng (viết tắt là L/C) là sự thoả thuận mà một ngân hàng theo yêu cầu của bên mua sẽ trả tiền cho bên bán hoặc cho bất cứ người nào theo lệnh của bên bán, khi bên bán xuất trình đầy đủ các chứng từ và thực hiện đầy đủ các yêu cầu được quy định trong một văn bản gọi là thư tín dụng. Sau khi ký kết hợp đồng, bên mua cần viết đơn xin mở thư tín dụng theo qui định của hợp đồng và tới ngân hàng làm thủ tục mở thư tín dụng. Nội dung thư tín dụng phải đúng với điều khoản của hợp đồng, phải lấy hợp đồng làm căn cứ và đưa ra quy định đối với từng mục một trong thư tín dụng. Sau khi bên bán nhận được thư tín dụng cần phải thực hiện việc kiểm tra thư tín dụng. Về nội dung kiểm tra thư tín dụng thường gồm các mặt sau: + Kiểm tra về mặt chính sách sao cho phù hợp với pháp luật nước mình. + Kiểm tra tài chính của ngân hàng mở thư. + Thẩm tra tính chất của thư tín dụng và trách nhiệm thanh toán của ngân hàng mở thư. + Thẩm tra số tiền và loại tiền của thư tín dụng. + Thẩm tra các điều khoản chất lượng, quy cách, số lượng bao bì của hàng hoá. + Thẩm tra kỳ hạn bốc xếp, kỳ hạn có hiệu lực và địa điểm đến kỳ hạn của thư tín dụng. + Thẩm tra chứng từ. Ngoài ra có thể phải thẩm tra các điều kiện khác tuỳ theo loại hợp đồng. Sau khi tiến hành kiểm tra thư tín dụng, nếu phát hiện vấn đề cần nghiên cứu phân biệt tính chất của vấn đề, lần lượt cùng các nghành hữu quan như ngân hàng, vận tải, thương kiểm...nghiên cứu đưa ra biện pháp xử lý thoả đáng. Nội dung sửa đổi thường hay thấy nhất là kéo dài kỳ hạn bốc xếp vận chuyển và kỳ hạn có hiệu lực của thư tín dụng hoặc thay đổi cảng bốc xếp... Việc kiểm tra và sửa đổi thư tín dụng là tiền đề quan trọng bảo đảm thực hiện thuận lợi hợp đồng và thu tiền về nhanh chóng, an toàn. 3. Thuê tàu đặt khoang và bốc xếp vận chuyển. Với điều kiện CIF hoặc CFR, thuê tàu đặt khoang là một trong những trách nhiệm của bên bán. Tàu này có thể là tày chuyến nếu hàng hoá có khối lượng lớn và để trần (bulk cargo); có thể là tàu chợ (liner) nếu là hàng lẻ tẻ, lặt vặt đóng trong bao kiện. Việc thuê khoang tàu chợ còn gọi là lưu cước ( booking a ship’s space). Với điều kiện CPT hoặc CIP thì bên bán phải thuê container hoặc tàu Ro/Ro để chở hàng. Việc thuê tàu đặt khoang yêu cầu phải có kinh nghiệm nghiệp vụ, có thông tin về tình hình thị trường thuê tàu và tinh thông các điều kiện thuê tàu. Vì vậy, trong nhiều trường hợp, chủ hàng thường uỷ thác việc thuê tàu, đặt khoang cho một Công ty hàng hải như: Công ty thuê tàu và môi giới hàng hải (Viêtfracht), Công ty đại lý tàu biển (VOSA)... Trình tự cơ bản của công tác đặt khoang gồm: - Các Công ty xuất nhập khẩu điền vào phiếu uỷ thác vận chuyển (booking Note B/N), làm căn cứ đặt khoang người vận chuyển căn cứ vào nội dung của phiếu uỷ thác vận chuyển, kết hợp xem xét các điều kiện cảng đậu trên hành trình của tàu, kỳ hạn tàu và vị trí khoang, sau khi cho rằng thích hợp thì chấp nhận uỷ thác này, đóng dấu lên phiếu uỷ thác vận chuyển, lưu lại một bản, trả lại người uỷ thác vận chuyển một bản. - Sau khi chấp nhận phiếu uỷ thác vận chuyển Công ty tàu hoặc người đại diện lập tức cấp hoá đơn xếp hàng cho người uỷ thác vận chuyển. Nội dung hoá đơn sắp xếp hàng đưa ra cụ thể ngày bốc xếp hàng, chuyến tàu số bao nhiêu, tàu nào ... để bên uỷ thác vận chuyển tiện việc chuẩn bị hàng bốc xếp lên tàu. - Sau khi bốc xếp hàng, trưởng tàu hoặc trợ lý ký giấy nhận hàng (Mate’s Receipt). Giấy nhận hàng là chứng từ lâm thời chứng nhận hàng đã bốc xếp do Công ty tàu ký cấp cho người vận chuyển. Người uỷ thác vận chuyển dựa vào giấy nhận hàng để thanh toán cước phí với Công ty đại lý tàu nước ngoài và đổi lấy vận đơn chính thức. Vận đơn chính thức chính là bằng chứng của hợp đồng chuyên chở đường biển và là chứng chỉ về quyền sở hữu hàng hóa. Bên bán sẽ thông báo cho bên mua việc bốc xếp để bên mua kịp thời làm công tác bảo hiểm và tiếp nhận hàng. 4. Thủ tục hải quan. Hàng hoá đi ngang qua biên giới quốc gia đều phải làm thủ tục hải quan. Việc làm thủ tục hải quan gồm ba bước chủ yếu sau: - Khai báo hải quan. Chủ hàng khai báo các chi tiết về hàng hoá lên tờ khai (Customs declaration) để cơ quan hải quan kiểm tra các thủ tục giấy tờ. Tờ khai hải quan phải được xuất trình kèm theo một số các chứng từ khác như giấy phép xuất nhập khẩu, hoá đơn, phiếu đóng gói, bảng kê chi tiết... - Xuất trình hàng hoá Hàng hoá xuất nhập khẩu phải được sắp xếp trật tự, thuận tiện cho việc kiểm soát. Chủ hàng phải chịu chi phí và nhân công về việc mở đóng các kiện hàng. - Thực hiện các quyết định của hải quan. Sau khi kiểm soát giấy tờ và hàng hoá, hải quan sẽ ra những quyết định như: cho hàng được phép ngang qua biên giới (thông quan), cho hàng đi qua một cách có điều kiện (như phải bao bì lại...), cho hàng đi qua sau khi chủ hàng đã nộp thuế; hàng không được phép thông quan... nghĩa vụ của các chủ hàng là phải nghiêm túc thực hiện các quyết định đó. 5. Bảo hiểm. Hàng hoá chuyên chở trên biển thường gặp nhiều rủi ro, tổn thất. Vì vậy, bảo hiểm hàng hoá đường biển là loại bảo hiểm phổ biến nhất trong ngoại thương. Hợp đồng bảo hiểm có thể là hợp đồng bảo hiểm bao (open policy). Khi mua bảo hiểm bao, chủ hàng ký hợp đồng từ đầu năm, còn đến khi giao hàng xuống tàu xong chủ hàng chỉ gửi đến công ty bảo hiểm một thông báo bằng văn bản gọi là “Giấy báo bắt đầu vận chuyển”. Khi mua bảo hiểm chuyến, chủ hàng phải gửi đến công ty bảo hiểm một văn bản gọi là “Giấy yêu cầu bảo hiểm”. Trên cơ sở “Giấy yêu cầu bảo hiểm” này, chủ hàng và công ty bảo hiểm đàm phán ký kết hợp đồng bảo hiểm. 6. Viết chứng từ kết hối. Sau khi bốc xếp hàng hoá xuất khẩu xong, công ty xuất khẩu cần viết chính xác các loại chứng từ theo quy định của L/C. Trong kỳ hạn có hiệu lực giao chứng từ trong quy định của thư tín dụng, giao nộp ngân hàng làm thủ tục thoả thuận thanh toán kết hối. Chứng từ kết hối đòi hỏi phải chính xác, hoàn chỉnh, kịp thời, đơn giản rõ ràng, ngay ngắn sạch đẹp. Dưới đây là một số loại chứng từ kết hối : Hối phiếu (Bill of Exchange, Draft). Hối phiếu là mệnh lệnh thanh toán bằng văn bản vô điều kiện do một người ký cấp cho một người khác, yêu cầu thanh toán một khoản tiền nhất định cho ai đó hoặc người được chỉ định hoặc người cầm hối phiếu, khi nhìn thấy hối phiếu hoặc vào thời gian cố định trong tương lai hoặc thời gian có thể xác định. Hoá đơn (Invoice). Có nhiều loại hoá đơn, thông thường thì là hoá đơn thương nghiệp, ngoài ra còn có các loại hoá đơn khác như hoá đơn hải quan, hoá đơn lãnh sự và hoá đơn hãng sản xuất... - Hoá đơn thương nghiệp: là hoá đơn sạch do bên bán mở có ghi các nội dung như tên hàng, số lượng, giá cả..., là chứng từ chủ yếu để hai bên mua bán giao nhận hàng và kết toán tiền hàng, cũng là một trong những chứng từ không thể thiếu trong khai báo hải quan hoàn thành thuế xuất nhập khẩu. - Hoá đơn hải quan. Hải quan một số nước đặt ra một cách thức hoá đơn cố định, yêu cầu các nhà xuất khẩu điền vào đó. Nước nhập khẩu yêu cầu giao hoá đơn này chủ yếu là để làm căn cứ nộp thuế giá trị hoặc trưng thu thuế quan đãi ngộ khác biệt hoặc trưng thu thuế chống khuynh tiêu. - Hoá đơn hãng sản xuất (Manafacturer’s Invoice) Hoá đơn hãng sản xuất là hoá đơn do hãng chế tạo hàng hoá xuất khẩu cấp, tính theo giá tiền nước mình, dùng để chứng minh giá xuất xưởng của thị trường trong nước của nước xuất khẩu. Mục đích của nó là để hải quan nước nhập khẩu tính giá, tính thuế và trưng thu thuế khuynh tiêu. Nếu thư tín dụng đến của nước ngoài có yêu cầu về điểm này, phải tham khảo cách viết giá trong nước của hoá đơn hải quan để ký. - Hoá đơn lãnh sự (Consular Invoice) là hoá đơn trên đó lãnh sự của nhập khẩu đang công tác tại nước xuất khẩu chứng thực về giá cả và tổng giá trị của lô hàng. Một số nước quy định rằng lãnh sự có thể ký cấp trực tiếp trên hoá đơn thương mại. Một số nước khác lại quy định rằng hoá đơn lãnh sự phải được lập trên giấy in sẵn và phải được lãnh sự kiểm tra lại và thị thực. Việc xuất trình hoá đơn lãnh sự cho cơ quan hải quan là bắt buộc ở những nước mà thuế nhập khẩu được tính theo giá trị hàng (ad valorem duty). Chứng từ vận tải - Vận đơn đường biển (Bill of Lading) là chứng từ do người chuyên chở (chủ tàu, thuyền trưởng) cấp cho người gửi hàng nhằm xác nhận việc hàng hoá đã được tiếp nhận để chở. Vận đơn đường biển có ba chức năng: + Là biên lai của người vận tải về việc đã nhận hàng chế chở. + Là bằng chứng của hợp đồng chuyên chở đường biển. + Là chứng chỉ về quyền sở hữu hàng hoá. Những loại vận đơn đường biển được nói đến một cách phổ biến trong buôn bán quốc tế là vận đơn đích danh, vận đơn theo lệnh và vận đơn vô danh. Vận đơn đích danh là vận đơn trong đó có ghi rõ tên người nhận hàng. Vận đơn theo lệnh là vận đơn theo đó người chuyên chở sẽ giao hàng theo lệnh của người gửi hàng hoặc theo lệnh của người nhận hàng. Vận đơn vô danh là vận đơn theo đó người chuyên chở sẽ giao hàng cho người nào cầm được và xuất trình vận đơn đó. Trong trường hợp một lô hàng được giao cho nhiều người nhận hàng khác nhau, vận đơn dùng vào việc chia lẻ hàng như vậy gọi là “lệnh giao hàng” (Delovely Order). Vận đơn đường biển được lập thành một số bản gốc, những bản gốc này hình thành một bộ vận đơn. Ngoài bộ vận đơn gồm các bản gốc thuyền trưởng còn ký phát một số bản sao. Bản sao không có giá trị pháp lý như bản gốc, thường chỉ cần thiết cho những việc thông báo giao hàng, kiểm tra hàng, thống kê hải quan... - Biên lai thuyền phó (Mate’s receipt): là giấy xác nhận của thuyền phó phụ trách về hàng hải trên tàu về việc đã nhận hàng chuyên chở. Trong biên lai thuyền phó, người ta ghi kết quả của việc kiểm nhận hàng hoá mà các nhân viên kiểm kiện của tàu (ship’s tallymen) đã tiến hành trong khi hàng hoá được bốc lên tàu. Biên lai thuyền phó không phải là chứng chỉ sở hữu hàng hoá vì vậy người chủ sở hữu hàng hoặc người uỷ thác vận chuyển (nếu có) sẽ phải đổi biên lai thuyền phó lấy vận đơn đường biển, trừ trường hợp điều kiện của hợp đồng cho phép. - Giấy gửi hàng đường biển (Sea waybill): là chứng từ thay thế cho vận đơn đường biển. Tuy nhiên, giấy gửi hàng đường biển thường được ký phát đích danh nên không có tác dụng chuyển nhượng. Nó chỉ được dùng trong trường hợp hai bên mua bán quen thuộc và thường thanh toán bằng cách ghi sổ. - Phiếu gửi hàng (Shipping note): do chủ hàng giao cho người chuyên chở để đề nghị lưu khoang xếp hàng lên tàu. Đây là một cam kết gửi hàng và là cơ sở để chuẩn bị lập vận đơn. - Bản lược khai hàng (Manifest) là chứng từ kê khai hàng hoá trên tàu, cung cấp thông tin về tiền cước. Bản lược khai thường do đại lý tàu biển soạn và được dùng để khai hải quan và để cung cấp thông tin cho người giao nhận hoặc cho chủ hàng. - Vận đơn đường sắt (Waybill, Bill of freight, railroad bill of lading): là chứng từ vận tải cơ bản trong việc chuyên chở hàng hoá bằng đường sắt. Vận đơn đường sắt có chức năng là bằng chứng của hợp đồng chuyên chở hàng hoá bằng chứng của hợp đồng chuyên chở hàng hoá bằng đường sắt và là biên lai của cơ quan đường sắt xác nhận đã nhận hàng để chở. Cơ quan đường sắt thường ký phát một bản chính của vận đơn đường sắt và một số bản phụ. Bản chính được gửi kèm theo hàng và sẽ được giao cho người nhận hàng. Bản phụ được giao cho người gửi hàng để người này dùng trong việc của mình như: thanh toán tiền hàng, thông báo giao hàng... - Vận đơn đường không (Air waybill hoặc Aircraft bill of lading) là chứng từ do cơ quan vận tải hàng không cấp cho người gửi hàng để xác nhận việc đã nhận hàng để chở. Vận đơn đường không do người gửi hàng điền vào ba bản chính rồi được giao cho người chuyên chở cùng với hàng hoá. Bản thứ nhất có đóng dấu “để cho người chuyên chở” thì do người gửi hàng ký tên. Bản thứ hai có đóng dấu “để cho người nhận hàng” thì do người chuyên chở và người nhận hàng cùng ký tên. Bản thứ ba có chữ ký của người chuyên chở được trả lại cho người gửi hàng sau khi người chuyên chở đã nhận hàng. Chứng từ bảo hiểm. Chứng từ bảo hiểm là chứng từ do tổ chức bảo hiểm cấp nhằm hợp thức hoá hợp đồng bảo hiểm và được dùng để điều tiết quan hệ giữa tổ chức bảo hiểm với người được bảo hiểm. Trong mối quan hệ này, tổ chức bảo hiểm nhận bồi thường cho những tổn thất xảy ra vì những rủi ro nhất định đến với người mua bảo hiểm, còn người được bảo hiểm phải nộp cho tổ chức bảo hiểm một số tiền nhất định gọi là phí bảo hiểm. Chứng từ bảo hiểm thường được dùng là đơn bảo hiểm và giấy chứng nhận bảo hiểm. - Đơn bảo hiểm (Insurance policy). Là chứng từ do tổ chức bảo hiểm cấp bao gồm những điều khoản chủ yếu của hợp đồng bảo hiểm và nhằm hợp thức hoá hợp đồng này. - Giấy chứng nhận bảo hiểm (Insurance certificate) là chứng từ do tổ chức bảo hiểm cấp cho người được bảo hiểm để xác nhận một lô hàng nào đó đã được bảo hiểm theo điều kiện của một hợp đồng bảo hiểm dài hạn. Giấy chứng nhận xuất xứ (Certificate of Origin) Là chứng từ do cơ quan có thẩm quyền cấp để xác nhận nơi sản xuất hoặc khai thác ra hàng hoá. Những nước không dùng hoá đơn hải quan hoặc hoá đơn lãnh sự thường yêu cầu cung cấp giấy chứng nhận xuất xứ, để tiện việc xác định mức thuế cần thu đối với hàng hoá. Có nước hạn chế những hàng hoá nhập khẩu từ một nước hoặc khu vực nào đó, cũng có khi yêu cầu dùng giấy chứng nhận xuất xứ để chứng minh nguồn gốc của hàng hoá. Giấy chứng nhận xuất xứ thường là do ngành công chứng hoặc đoàn thể công thương nơi xuất khẩu ký. ở Việt Nam là do Phòng Thương Mai và công nghiệp Việt Nam cấp. Chứng từ chế độ ưu đãi phổ biến (Generalized System of Preferences Document) Chế độ ưu đãi phổ biến gọi tắt là GSP, nước được hưởng chế độ ưu đãi này cần đưa ra chứng từ chế độ ưu đãi phổ biến khi xuất khẩu hàng sang các nước cho nước đó hưởng chế độ ưu đãi để hải quan nước nhập khẩu miễn giảm thuế quan. Hiện chứng từ chế độ ưu đãi phổ biến được sử dụng gồm: - Chứng nhận xuất xứ biểu A (GSP Certificate of origin Form A) thích hợp với những hàng hoá thông thường do Công ty xuất khẩu điền vào và được cơ quan thương kiểm ký cấp. - Chứng nhận xuất xứ hàng dệt (Certificate of Origin of Textile Products). Thích hợp với hàng dệt, do cơ quan thương kiểm ký cấp. - Giấy phép xuất khẩu sản phẩm dệt (Export Licence of Textile Products). Thích hợp với hàng dệt phối ngạch, loại hàng hạn ngạch khống chế nghiêm do ngành chủ quản ngoại thương nơi xuất khẩu ký cấp. - Chứng nhận xuất xứ hàng dệt thủ công (Certificate in regard to Handlooms, Textile Handcrafts and Traditional Textile Products of the Cottage Industry). Thích hợp với loại hàng dệt thủ công, do cơ quan thương kiểm ký cấp. - Chứng nhận bốc xếp hàng dệt (Shipment Certificate of Textile Products). Thích hợp với sản phẩm len dạ không có phối ngạch, do cơ quan chủ quản ngoại thương nơi xuất khẩu ký cấp. Khi điền viết các nội dung lưu ý cần phải chính xác và phù hợp yêu cầu của từng hạng mục, nếu viết sai sẽ có thể mất cơ hội được hưởng đãi ngộ chế độ ưu đãi phổ biến. Phiếu đóng gói và phiếu trọng lượng (Packing List and Weight Memo). Hai loại chứng từ này dùng để bổ sung những nội dung thiếu của hoá đơn thương nghiệp, để khi hàng tới cảng đích, bên mua nước ngoài đưa hải quan kiểm tra và đối chiếu hàng hoá. Phiếu đóng gói còn gọi là phiếu mã màu, ghi rõ phối hợp màu sắc từng kiện của mỗi lô hàng; phiếu trọng lượng thì ghi rõ trọng lượng cả bì, trọng lượng tịnh của từng kiện hàng. Giấy chứng nhận kiểm nghiệm Các loại giấy chứng nhận kiểm nghiệm là các giấy tờ dùng để chứng nhận chất lượng, số lượng, trọng lượng và vệ sinh của hàng hoá. Khi viết các loại chứng từ này cần tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của thư tín dụng. 7. Kiểm tra chứng từ và trả tiền. Sau khi ngân hàng bên mua nhận được hối phiếu và chứng từ của bên bán gửi tới, sẽ đối chiếu với quy định của thư tín dụng, kiểm tra số bản và nội dung của chứng từ. Nếu nội dung không có gì sai sót ngân hàng sẽ thanh toán cho bên bán. Đồng thời bên mua sẽ giao tiền cho ngân hàng đổi lấy chứng từ theo tỷ giá quy định của Nhà nước. Nếu kiểm tra chứng từ phát hiện thấy không phù hợp phải có biện pháp giải quyết kịp thời. Có nhiều biện pháp giải quyết như ngừng thanh toán đối ngoại, thanh toán phần phù hợp, từ chối thanh toán phần không phù hợp; hàng đến sau khi kiểm nghiệm đạt tiêu chuẩn mới tiếp tục thanh toán, thanh toán theo bảo đảm mà bên bán hoặc ngân hàng bên bán đưa ra, yêu cầu bên bán sửa đổi thư tín dụng, đưa ra yêu cầu bảo lưu quyền đòi bồi thường... III - Chế độ trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán ngoại thương. Khi vi phạm hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế bên vi phạm phải chịu trách nhiệm dân sự trước bên bị vi phạm. Trách nhiệm dân sự được biểu hiện thông qua bốn chế tài dân sự sau: - Buộc thực hiện đúng hợp đồng. - Phạt vi phạm. - Bồi thường thiệt hại. - Huỷ hợp đồng. 1. Buộc thực hiện đúng hợp đồng. Buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên có quyền lợi bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu phí tổn phát sinh. Trong trường hợp bên bán giao hàng không phù hợp với hợp đồng, người mua có thể yêu cầu người bán khắc phục điều đó bằng cách sửa chữa, trừ những trường hợp mà việc sửa chữa đó là không phù hợp với hoàn cảnh. Nếu hàng hoá không phù hợp hợp đồng thì người mua cũng có thể đòi người bán phải giao hàng thay thế. Tuy nhiên, người mua sẽ mất quyền dựa vào sự không phù hợp của hàng hoá nếu họ không thông báo cho người bán những tin tức về việc không phù hợp đó trong một thời hạn hợp lý kể từ lúc người mua đã phát hiện hay đáng lẽ ra phải phát hiện ra sự không phù hợp đó. Bên có quyền lợi bị vi phạm có thể gia hạn một thời gian hợp lý để bên vi phạm thực hiện nghĩa vụ của mình. Trong trường hợp bên vi phạm không thực hiện chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trong thời hạn ấn định, bên có quyền lợi bị vi phạm có thể áp dụng các chế tài phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại, hoặc huỷ hợp đồng để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình. 2. Phạt vi phạm. Luật pháp của tất cả các nước đều cho phép bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt nhất định do vi phạm hợp đồng nếu như trong hợp đồng mua bán ngoại thương, hoặc trong các văn bản liên quan, có quy định mức phạt. Phạt vi phạm được quy định trong hợp đồng có hai loại phạt do không thực hiện hợp đồng và phạt do thực hiện không đúng hợp đồng. Mức phạt vi phạm theo điều 228 LTM nước CHXHCN Việt Nam quy định là do các bên tự thoả thuận trong hợp đồng nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ bị vi phạm. Công ước Viên không điều chỉnh nội dung về thiệt hại quy ước hay điều khoản phạt. 3. Bồi thường thiệt hại. Bồi thường thiệt hại là việc bên có quyền lợi bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả tiền bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng gây ra. Điều 74 Công ước Viên 1980 và điều 229 LTM nước CHXHCN Việt Nam quy định: Tiền bồi thường thiệt hại của một bên vi phạm hợp đồng là một khoản tiền bao gồm tổn thất và khoản lợi bị bỏ lỡ mà bên kia phải chịu do hậu quả của sự vi phạm hợp đồng. Số tiền bồi thường thiệt hại không thể cao hơn giá trị tổn thất và khoản lợi đáng lẽ được hưởng. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có hành vi vi phạm hợp đồng, có thiệt hại về vật chất, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại vật chất; và có lỗi của bên vi phạm hợp đồng. Muốn được áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại, bên vi phạm phải chứng minh được những thiệt hại thực tế mà mình gánh chịu. Nếu không chứng minh được hoặc chứng minh không đầy đủ có thể bị đối phương từ chối bồi thường. 4. Huỷ hợp đồng. Đây là chế tài nặng nhất mà bên bị vi phạm có quyền áp dụng khi bên vi phạm vi phạm hợp đồng mua bán ngoại thương. Pháp luật các nước thông thường đều quy định khi bên vi phạm vi phạm nghiêm trọng những điều khoản chủ yếu của hợp đồng thì bên bị vi phạm có quyền huỷ hợp đồng. Mục a khoản 1 điều 49 và mục a khoản 1 điều 64 Công ước Viên 1980 quy định: bên bị vi phạm có thể tuyên bố huỷ hợp đồng trong các trường hợp bên vi phạm không hoàn thành bất kỳ một nghĩa vụ nào đó của mình theo hợp đồng hoặc theo Công ước Viên 1980 cấu thành nên một vi phạm chủ yếu của hợp đồng. Điều 235 Luật Thương mại nước CHXHCN Việt Nam cũng quy định: “Bên có quyền lợi bị vi phạm có thể tuyên bố huỷ hợp đồng nếu việc vi phạm của bên kia là điều kiện huỷ hợp đồng mà các bên đã thoả thuận”. Nếu thời gian cho phép, bên có ý định tuyên bố huỷ bỏ hợp đồng phải gửi thông báo cho bên kia để tạo điều kiện cho họ có thể đưa ra những bảo đảm cần thiết cho việc hoàn thành nghĩa vụ. Điều này chỉ không cần thiết khi bên kia tuyên bố rằng họ sẽ không hoàn thành nghĩa vụ của mình theo hợp đồng và theo thời gian đã được gia hạn. Việc áp dụng chế tài huỷ hợp đồng sẽ đưa lại những hậu quả pháp lý nhất định. Cụ thể: khi hợp đồng bị hủy hai bên trở lại trạng thái ban đầu, nếu hợp đồng đã hoàn thành một phần hoặc toàn bộ có thể yêu cầu bên kia trả lại tất cả những gì đã giao hoặc đã thanh toán theo hợp đồng, nếu các bên đều buộc phải trả lại những gì đã nhận được thì họ phải thực hiện điều đó cùng một lúc. Việc huỷ bỏ hợp đồng giải phóng các bên khỏi các nghĩa vụ đã thoả thuận trong hợp đồng, nhưng vẫn giữ quyền đòi bồi thường thiệt hại. Việc huỷ bỏ hợp đồng không ảnh hưởng đến những điều khoản của hợp đồng về thủ tục giải quyết tranh chấp hoặc thủ tục giải quyết các quyền lợi và nghĩa vụ của các bên trong trường hợp huỷ bỏ nó. Điều 82 Công ước Viên quy định: người mua sẽ mất quyền tuyên bố huỷ hợp đồng nếu họ không có khả năng trả lại hàng đúng như trạng thái của nó khi nhận trừ những trường hợp Công ước quy định không được áp dụng quyền đó. Muốn áp dụng chế tài huỷ hợp đồng, cần thỏa mãn các điều kiện theo quy định của pháp luật các nước. Khi đã có dủ các điều kiện để hủy hợp đồng, bên bị vi phạm có quyền hoặc là áp dụng chế tài huỷ hợp đồng hoặc là áp dụng chế tài đòi bồi thường thiệt hại tùy theo quyết định của mình. * Miễn trừ trách nhiệm về việc không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Trong các giao dịch trên thế giới người ta thường quy định những trường hợp mà, nếu xảy ra, bên vi phạm được hoàn toàn hoặc, trong chừng mực nào đó, miễn hay hoãn thực hiện nghĩa vụ của hợp đồng. Những trường hợp như vậy thường xảy ra sau khi ký hợp đồng, có tính chất khách quan và không thể khắc phục được. Khoản 1 & 2 điều 77 Luật Thương mại Việt nam quy định: ” 1. Các bên được miễn trách nhiệm về việc không thực hiện một phần hay toàn bộ nghĩa vụ hợp đồng nếu trong hợp đồng có thỏa thuận về các trường hợp miễn trách nhiệm đó. 2. Các bên được miễn trách nhiệm về việc không thực hiện một phần hay toàn bộ nghĩa vụ hợp đồng nếu việc thực hiện này do trường hợp bất khả kháng gây ra. Trường hợp bất khả kháng là trường hợp xảy ra sau khi ký kết hợp đồng, do những sự kiện bất thường xảy ra mà các bên không thể lường trước được và không thể khắc phục được.”. Công ước Viên 1980 quy định thêm trường hợp bên vi phạm sẽ được miễn trù trách nhiệm nếu họ chứng minh được hành vi vi phạm của họ là do lỗi của người thứ ba hoặc do lỗi của chính bên bị vi phạm. Trong các căn cứ miễn trách nhiệm nêu trên, bất khả kháng là căn cứ miễn trách thường hay gặp nhất trong buôn bán quốc tế. Vì luật pháp các nước có quy định khác nhau về bất khả kháng cho nên, để được hưởng căn cứ miễn trách này, các bên thường liệt kê cụ thể các trường hợp được coi là bất khả kháng trong hợp đồng. Bên không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ hợp đồng phải thông báo ngay bằng văn bản cho bên kia về trường hợp được miễn trách và nhữn hậu quả có thể có. Khi trường hợp miễn trách nhiêm chấm dứt cũng phải thông báo ngay bằng văn bản cho bên kia biết. Nếu không thông báo hoặc thông báo không kịp thời cho bên kia thì phải bồi thường thiệt hại (nếu có). Bên vi phạm hợp đồng có trách nhiệm chứng minh các trường hợp miễn trách nhiệm. Đối với những trường hợp bất khả kháng thì phải được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xác nhận bằng văn bản. Chương III : Pháp luật Việt Nam về HĐMBNT : Thực trạng - Giải pháp. Việt Nam mới chuyển đổi nền kinh tế từ tập chung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Dư âm của một thời gian dài quản lý bao cấp vẫn còn ảnh hưởng đến tư duy của nhiều người và ảnh hưởng đến mọi mặt của nền kinh tế. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, đa dạng hóa các thành phần kinh tế, mở cửa thông thương với các nước trên thế giới nền kinh tế Việt Nam có thể ví như một người đứng sau cánh cửa mà bên ngoài là những điều mới lạ và hấp dẫn. Ông ta hé cửa dòm ra ngoài một chút rồi đóng sập lại, định thần lại một chút ông ta lại hé cửa ra rồi lại đóng sập lại. Mỗi lần chỉ mở thêm ra một chút thăm dò, tìm hiểu, nghi ngờ, lạ lẫm và tất nhiên sau mỗi lần có chút ít mở mang. Sự thiếu hiểu biết với bên ngoài, nền kinh tế thị trường đang ở bước chập chững tất nhiên dẫn đến sự thiếu đồng bộ, toàn diện trong hệ thống pháp luật về kinh tế. Trong bối cảnh kinh tế và pháp luật đó pháp luật về hợp đồng kinh tế nói chung và luật về HĐMBNT nói riêng cũng không tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định. Xét về hợp đồng nói chung, hiện nay có tới ba văn bản pháp luật cùng điều chỉnh về vấn đề này, đó là Bộ luật Dân sự 1995, Pháp lệnh về Hợp đồng kinh tế 1989 và Luật Thương mại 1997. Vấn đề hợp đồng trong Bộ luật Dân sự được quy định khá đầy đủ, cơ bản về hợp đồng nhưng chỉ áp dụng cho quan hệ dân sự và không có điều khoản nào quy định áp dụng cho quan hệ kinh tế mặc dù ở một khía cạnh nhất định quan hệ kinh tế cũng chính là một loại quan hệ dân sự. Pháp lệnh về Hợp đồng kinh tế 1989 được xem như là nhóm hợp đồng riêng có ở Việt Nam, những quy định vẫn còn cứng nhắc và ít được áp dụng khi ký kết và thực hiệ HĐMBNT. Sự ra đời của Luật Thương mại 1997 phản ánh một thực trạng khách quan là nền kinh tế thị trường đang từng bước hình thành và phát triển ở Việt Nam. Luật Thương mại tạo ra khuôn khổ pháp lý cho các hoạt động mua bán hàng hoá và các dịch vụ có liên quan trên cơ sở bảo đảm quyền tự do kinh doanh và tự do hợp đồng của các thương nhân phù hợp với tập quán quốc tế dưới sự chỉ đạo của Nhà nước. Tuy nhiên, cả ba văn bản pháp luật quy định về hợp đồng này không hề có điều khoản nào quy định để kết nối chúng với nhau. Vậy vấn đề đặt ra ở đây là nên coi Bộ luật Dân sự là luật gốc điều chỉnh những vấn đề hợp đồng trừ trường hợp luật khác có quy định cụ thể về từng loại hợp đồng riêng biệt (ví dụ Luật Thương mại). Và, cần ban hành một văn bản pháp luật mới thay thế cho Pháp lệnh về Hợp đồng kinh tế 1989, văn bản pháp luật mới này sẽ làm rõ các nguyên tắc hợp đồng và việc áp dụng đối các loại hợp đồng trong Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại và Pháp lệnh về Hợp đồng kinh tế. Việc sửa đổi bổ sung Luật Thương mại lần tới cũng nên quy định thêm điều khoản quy định sẽ áp dụng luật nào nếu những hành vi thương mại không được quy định cụ thể trong luật. Thực trạng hệ thống luật hiện hành của Việt Nam nói chung Luật thương mại nói riêng là có quá nhiều văn bản hướng dẫn thi hành luật, điều này tạo nên hình ảnh hệ thống pháp luật phức tạp đồ sộ và trên thực tế gây khó khăn cho công tác áp dụng và thực hiện các quy định pháp luật. Vì vậy, khi ban hành văn bản pháp luật cần quy định cụ thể hơn tránh đến mức thấp nhất các văn bản hướng dẫn thi hành. Trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng việc đăng ký doanh nghiệp chưa tập trung hóa trong một cơ quan duy nhất, mỗi loại hình doanh nghiệp được quy định đăng ký tại các cơ quan khác nhau, gây khó khăn cho việc kiểm tra tư các chủ thể của cả phía đối tác và cả phía Hải quan Việt Nam khi làm thủ tục xuất nhập khẩu hàng hóa.Vấn đề đặt ra ở đây là cần có một cơ quan đăng ký kinh doanh tập trung ở cấp quốc gia hoạt động trên phạm vi toàn quốc sẵn sàng đáp ứng các yêu cầu về giải đáp thông tin khi cần thiết. Khi đề cập đến điều ước quốc tế về thương mại không thể không nói đến Công ước Viên 1980. Thực tế cho thấy rằng, ngay từ thời bao cấp, trong quan hệ buôn bán với thương nhân của các nước ngoài xã hội chủ nghĩa, do sự hiểu biết của họ về luật Việt Nam chưa đầy đủ, do sự kém hiểu biết của các Tổng Công ty Việt Nam về luật pháp nước ngoài cho nên để tiết kiệm thời gian đàm phán, để dễ có cơ sở, các Tổng Công ty xuất nhập khẩu của Việt Nam đã từng chọn Công ước Viên làm luật trực tiếp điều chỉnh quan hệ mua bán của mình. Như vậy, Công ước Viên không phải là một điều ước xa lạ với doanh nghiệp Việt Nam. Ngoài ra, từ lời nói, nội dung đến các quy định của công ước đều thể hiện sự bình đẳng của các quốc gia nói chung và của người bán với người mua nói riêng. Công ước còn là kết quả của một quá trình cố gắng và là thành tựu đáng kể của liên hiệp quốc nhằm tiến tới việc nhất thể hoá Luật về mua bán quốc tế, loại bỏ sự cản trở do những quy định quá khác xa nhau trong hệ thống pháp luật quốc gia trong những vấn đề liên quan đến thủ tục ký kết và thực hiện hợp đồng giữa người mua với người bán. Do đó, việc tham gia công ước Viên sẽ tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam, giúp các thương nhân tiết kiệm được thời gian đàm phán, đỡ tốn công sức cho việc tìm hiểu, tiếp cận với các hệ thống luật của các quốc gia xa lạ. Ngoài ra việc tham gia công ước Viên cũng không làm mất đi quyền được bảo lưu, không áp dụng một số điều khoản của công ước nếu thấy cần thiết và đặc biệt, với thủ tục quá rườm ra và kỹ thuật lập pháp của Việt Nam còn non yếu của Việt Nam hiện nay, việc ra đời một Luật Thương mại như vừa qua cũng mới chỉ tạo những nguyên tắc chung nhất cho mua bán quốc tế. Do đó, trước mắc, cần thiết phải tham gia công ước Viên 1980 1980 nhằm tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động mua bán ngoại thương trong giai đoạn hiện nay và cho ít nhất là 10 năm tới. Nền kinh tế thị trường Việt Nam hình thành và phát triển trong xu hướng hội nhập với khu vực và trên thế giới. Nắm vững đặc trưng này đòi hỏi khi xây dựng khung pháp luật kinh tế vừa phải bảo đảm đầy đủ các điều kiện để tham gia vào các tổ chức kinh tế thế giới và khu vực, vừa bảo đảm tính độc lập, tự chủ và đặc điểm truyền thống của Việt Nam. Khung pháp luật kinh tế Việt Nam phải bao quát được mọi nội dung nhằm khơi dậy và phát huy nội lực thông qua việc quy định đầy đủ, rõ ràng, trình tự, thủ tục, bảo hộ đầu tư trong nước, cũng như thiết lập cơ chế pháp lý hiệu quả cho hoạt động sản xuất kinh doanh, từng bước cải thiện cơ sở hạ tầng về kỹ thuật và pháp lý để thực sự huy động, phát huy nội lực, gắn với nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế. Để Việt Nam đạt được mục tiêu trở thành một nước công nghiệp hoá, hiện đại hoá vào 2020, về hoạt động kinh tế cần được ban hành càng sớm càng tốt, trong vòng từ 5-7 năm tới. Bởi vì, kinh nghiệm cho thấy các đạo luật mới được ban hành cần có thời gian để tổ chức thực hiện, rất ít đạo luật có hiệu quả ngay lập tức mà cần một khoảng thời gian để cán bộ, thẩm phán và luật gia cũng như nhân dân tìm hiểu và nắm vững pháp luật. Hơn nữa, về phương diện lý luận và thực tiễn, để hoàn thiện pháp luật cần một quá trình, các đạo luật khi được ban hành lần đầu tiên không thể tránh được những sai sót cần phải sửa đổi, bổ xung. Đối với hầu hết các "Con rồng" Châu á, một khung pháp luật toàn diện được đặt đúng vị trí trước khi có sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng đã được miêu tả như "một phép màu Đông á". Vì vậy, để đạt được mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến năm 2020, cần phải sớm xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật kinh tế cơ bản này. Kết luận. Trên đây là một số nghiên cứu về quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Để việc mua bán hàng hoá diễn ra thuận lợi, thực hiện được mục tiêu chiến lược của quốc gia và mục đích của các nhà kinh doanh, đòi hỏi các doanh nghiệp không chỉ am hiểu về tình hình thương mại quốc tế mà còn phải nắm vững pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, tránh để xảy ra sai sót gây thiệt hại cho các bên ký kết. Về phía Nhà nước cũng cần sớm tạo ra một hệ thống pháp luật về hợp đồng kinh tế hoàn chỉnh hơn tạo điều kiện đẻ các chủ thể tiến hành các giao dịch một cách thuận lợi. Với kinh nghiệm và thời gian còn hạn chế bài luận văn của em mới chỉ là những tìm hiểu thông qua sách báo tài liệu và từ đó đưa ra một số nhận định và giải pháp nên không thể tránh khỏi những sai sót nhất định. Em rất mong tiếp tục nhận được sự góp ý của các thầy cô và các bạn. Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Luật kinh tế đã trang bị cho em những kiến thức quý báu trong bốn năm học vừa qua. Em xin chân thành cảm ơn cô Lưu THị Kim Dung, thầy Nguyễn Am Hiểu và các bạn đã giúp đỡ em trong quá trình thực hiện bản luận văn này. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Luật Thương mại nước CHXHCN Việt Nam - NXB Chính trị quốc gia 1997. 2. Luật mua bán hàng hoá quốc tế - NXB Chính trị quốc gia 1993 3. Bộ Luật dân sự nước CHXHCN Việt Nam - NXB Chính trị quốc gia 1995 4. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989. 5. Giáo trình Pháp luật trong hoạt động kinh tế đối ngoại - Nguyễn Thị Mơ; Hoàng Ngọc Thuyết - Trường ĐH Ngoại Thương 1997. 6. Nghiệp vụ Buôn bán Quốc tế - NXB Thanh niên 1995. 7. Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương - Trường ĐH Ngoại Thương 1996. 8. Giáo trình Tư pháp Quốc tế - Trường ĐH Luật 1997. 9. Giáo trình Luật dân sự Việt Nam - Trường ĐH Luật 1997. 10. Tìm hiểu Luật kinh tế - NXB Thống kê 1995. 11. Văn bản pháp lý hướng dẫn thi hành luật Thương mại - NXB Chính trị quốc gia 1998. 12. Báo cáo kiến nghị về xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật kinh tế tại Việt Nam - NXB văn hoá dân tộc-Bộ Tư pháp 13. Nghệ thuật đàm phán thương vụ quốc tế - NXB trẻ. 14. Hợp đồng thương mại quốc tế - NXB Thống kê 1997. 15. Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 9/1998; số 1/1999. 16. Tạp chí Diễn đàn doanh nghiệp số 4/1999. 17. Tạp chí nghiên cứu ngoại thương số 51/1998. Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docI0036.doc
Tài liệu liên quan