Vai trò của công nghiệp nông thôn là rất to lớn đối với kinh tế nông thôn nói riêng và cả nền kinh tế quốc dân nói chung. Để tìm ra một lối đi phù hợp, hiệu quả là một vấn đề đày khó khăn và thử thách, nó phụ thuộc vào điều kiện của mỗi quốc gia, mỗi vùng nông thôn và trong từng giai đoạn cụ thể . Đối với Việt Nam có thể nói phát triển công nghiệp nông thôn là tất yếu khách quan trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá . Quá trình phát triển công nghiệp nông thôn là một quá trình diễn ra từng bước, phải biết khai thác triệt để những điều kiện sẵn có ở nông thôn, phải kết hợp giữa yếu tố truyền thống và hiện đại. Để phát huy vai trò của công nghiệp nông thôn thì không những bản thân nó phải vận động phát triển tốt mà Nhà nước cần có các chính tác động trên tầm vĩ mô để định hướng cho công nghiệp nông thôn phát triển mạnh ổn định và vững chắc.
34 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1526 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số vấn đề phát triển công nghiệp nông thôn trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trọng lao đông các ngành phi nông nghiệp , dân số thành thị sẽ tăng dần lên và dân số nông thôn sẽ giảm đi . Nhìn chung đây là xu hướng tích cực nhưng nó phải gắn vói điều kiện kinh tế xã hội của từng vùng trong từng giai đoạn nhất định .Việc phát triển công nghiệp nông thôn là tiền đề thu hút lao động trong nông nghiệp , đặc biệt lao động trong thời kỳ nông nhàn . Công nghiệp nông thôn phát triển ngày càng mạnh sẽ dẫn đến rút bớt dần một bộ phận lao động nông nghiệp chuyển hẳn sang các hoạt động khác bởi vói công việc trong các ngành nghề ấy người ta vẫn đảm bảo cho cuộc sống và có tích lũy .Chẳng hạn một bộ phận lao đông nông nghiệp có thể chuyển hẳn sang sản xuất gốm sứ mỹ nghệ , sản xuất vật liệu xây dựng , làm dịch vụ sửa chữa và chế tác các công cụ phục vụ sản xuất vào đời sống ở nông thôn … . Và khi công nghiệp nông thôn phát triển mạnh hơn nữa cho phép sản xuất nông nghiệp có thể ứng dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất, một số khâu thủ công sẽ được thay bằng máy móc thiết bị và đương nhiên không cân nhiều lao động nữa, lao động này có thể chuyển sang các ngành nghề khác ( phi nông nghiệp ). Như vậy là công nghiệp nông thôn phát triển sẽ tạo ra việc làm ngay tại chỗ trên đại bàn nông thôn cho dân cư nông thôn, mà thực tế thu nhập từ các hoạt động sản xuất phi cao hơn hẳn so với thu nhập từ hoạt động sản xuất nông nghiệp thuần tuý.Dĩ nhiên thu nhập từ hoạt động sản xuất nông nghiệp cũng tăng lên vì do áp dụng máy móc thiết bị làm năng xuất lao động và công nghiệp chế biến phát triển sẽ làm tăng giá trị nông sản phẩm do công nghiệp và dịch vụ tạo ra, là động lực cho công nghiệp và dịch vụ phát triển và tạo lên sự tăng trưởng của cả nền kinh tế .
Vấn đề việc làm ở nước ta trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay rất cấp bách và bức xúc. Việc làm đang thiếu trầm trọng, tình trạng thất nghiệp gia tăng, cả thất nghiệp hữu hình lẫn vô hình và bán thất nghiệp mà đặc biệt ở nông thôn tình trạng bán thất nghiệp là hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến. Cho đến năm 2000 tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị chiếm 6,44% lực lao động, mức sử dụng thời gian lao động ở nông thôn mới đạt 73,86%.ở vùng nông thôn sử dụng 70% lực lượng lao động nhưng hơn một phần tư thời gian lao động của họ chưa được sử dụng.Vấn đề thiếu việc làm, thất nghiệp ở nông thôn đã gây ra những hiện xã hội phức tạp như chộm cắp, nghiện hút, cờ bạc, mại dâm…, rồi hiện tượng di dân ra thành phố gây ra nhiều bức xúc ở thành thị như chộm cắp, tắc nghẽn giao thông, thiếu nhà ở … Những hiện tượng này hàng năm tốn hàng tỷ đồng của nhà nước để giải quyết nhưng vẫn chưa có kết quả mong muốn. Chính vì vậy phát triển công nghiệp nông thôn có ý nghĩa to lớn trong giải quyết các vấn đề bức xúc trên, góp phần ổn định phát triển đời sống kinh tế xã hội ở địa bàn nông thôn nói riêng và cả nền kinh tế nói chung .
4. Phát triển công nghiệp nông thôn góp phần hiện đại hoá nông thôn, xây dựng nông thôn mới.
Công nghiệp nông thôn phát triển đòi hỏi cần phải có một hệ thống cơ sở hạ tầng như giao thông, điện, thông tin liên lạc….nhất định. Đây là cơ sở để thúc đẩy công nghiệp nông thôn phát triển và thu hút các nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài vào nông thôn, đặc biệt là các vùng miền núi, vùng đặc biệt khó khăn. Thực tế cho thấy có rất nhiều vùng nông thôn có nhiều thế mạnh về tài nguyên, lao động dư thừa nhưng do giao thông khó khăn, thông tin liên lạc không có, dẫn đến các nhà đầu tư không dám đầu tư vào và cơ hội vốn phát triển của các vùng nông thôn đó bị bỏ qua. Vì vậy nhà nước cần phải đầu tư co sở hạ tầng điện, đường, trường, trạm, hệ thống thông tin liên lạc. Đây là yếu tố làm bộ mặt nông thôn đổi mới với cơ sở hạ tầng thì nông thôn sẽ tiếp cận được nhiều tinh hoa từ bên ngoài hơn.
Ngược lại công nghiệp nông thôn phát triển sẽ có điều kiện tích luỹ và đầu tư trở lại cho cơ sở hạ tầng , góp phần nâng cấp pháp triển hơn nữa cơ sở hạ tầng và bộ mặt nông thôn sẽ ngày càng cải thiện. Mối quan hệ tác động biện chứng này sẽ góp phần hiện đại hoá nông thôn, xây dựng nông thôn mới, nhờ đó giảm bớt sự tụt hậu của nông thôn so với thành phố,dân cư nông thôn có điều kiện tiếp cận với các điều kiện sống tốt hơn như y tế, giáo dục, khoa học công nghệ…nó cho phép thực hiện đảm bảo công bằng xã hội cho mọi người dân theo tinh thần của xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Nhà nước ta đã chọn.
5. Phát triển công nghiệp nông thôn góp phần củng cố, duy trì và phát huy giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc
Nền kinh tế thị trường diễn ra sôi động chưa có từng có như hiện nay ở nước ta, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, các quá trình hội nhập hoá quốc tế hoá, đô thị hoá diễn ra cũng hết sức mạnh mẽ. Những quá trình này nó đã làm cho các giá trị truyền thống văn hoá của chúng ta đang bị mai một đi và một số giá trị đó đã mất hẳn. Đây là một nguy cơ lớn đối với truyền thống văn hoá của dân tộc trong quá trình hội nhập bởi quan điểm của ta là hoà nhập chứ không hoà tan. Đặc biệt nguy hiểm hơn hiện tượng này ở địa bàn nông thôn- nơi cất giữ những giá trị văn hoá tinh hoa của dân tộc đang diễn ra phổ biến, một số làng nghề, một số kỹ sảo truyền thống của các nghệ nhân mất dần.
Công nghiệp nông thôn phát triển góp phần củng cố khôi phục lại những giá trị văn hoá tinh hoa của dân tộc mà nó là tiếng nói,là bản sắc, là hình ảnh của dân tộc Việt Nam. Khôi phuc phát triển các làng nghề, các kỹ xảo truyền thống nó sẽ đem laị thu nhập khá cao(cao hơn sản xuất nông nghiệp ), các sản phẩm của các nghệ nhân,của các làng nghề có giá trị xuất khẩu rất lớn, rất phù hợp với thị hiếu của khách nước ngoài, đặc biệt là khách du lịch. Các sản phẩm thể hiện giá trị truyền thống văn hoá của dân tộc Việt Nam chủ yếu từ các làng nghề thủ công, nó rất đa dạng, gắn liền với từng vùng quê, tổ chức sản xuất gắn liền với hộ gia đình, với nhiều kỹ xảo tryền thống truyền từ đời này sang đời khác có tính bền vững và ổn định cao, lại rất phù hợp với đặc điểm khéo tay hay làm của người dân. Do vậy, muốn khai thác và phát huy lợi thế của các vùng nông thôn là khai thác nguồn lao động dồi dào, truyền thống cần cù, khéo tay; muốn vậy phải chú trọng phát triển công nghiệp nông thôn, đặc biệt là các ngành nghề tiểu thủ công truyền thống và nó phải được sự quan tâm thích đáng của mọi cấp mọi ngành từ trung ương đến địa phương.
III. Nội dung chủ yếu phát triển công nghiệp nông thôn
1. Các ngành công nghiệp nông thôn
Các hoạt động sản xuất có tính chất công nghiệp ở nông thôn rất đa dạng được phân bố trên các vùng nông thôn nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của mỗi vùng. Các sản phẩm của nó cũng rất đa dạng đáp ứng cho nhu cầu thị trường của mỗi vùng, cả nước và hướng xuất khẩu ra thị trường quốc tế. Theo đặc điểm của hoạt công nghiệp nông thôn như kỹ thuật sản xuất, nguồn nguyên liệu sử dụng, tính chất sản phẩm đầu ra ….thì có thể thấy công nghiệp nông thôn gồm:
a. Công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ hải sản
Đây là ngành công nghiệp quan trọng nhất ở nông thôn, có mối quan hệ mật thiết với sản xuất nông nghiệp. Phát triển mạnh mẽ công nghiệp chế biến là cơ sở thúc đẩy mạnh nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá, thông qua công nghiệp chế biến làm tăng giá trị sử dụng và giá trị của nông sản phẩm, do đó lợi ích của người sản xuất nông nghiệp được đảm bảo và đem lại hiệu quả cao cho sản xuất nông nghiệp .
Hiện nay ngành công nghiệp chế biến của chúng ta còn nhiều yếu kém chưa khắc phục được như công nghệ lạc hậu, qui hoạch thiếu đồng bộ …dẫn đến việc xuất khẩu nông sản phẩm chủ yếu là nguyên liệu thô, sơ chế hoặc qua chế biến thì chất lượng kém. Vì vậy giá trị đem lại cho sản xuất nông sản phẩm là thấp, người nông dân luôn trong tình trạng bất lợi đời sống khó khăn . Theo xu hướng sản xuất hàng hoá qui mô lớn tiến tới hội nhập kinh tế quốc tế đối với mọi ngành kinh tế nói chung, ngành nông nghiệp noí riêng thì các sản phẩm mà thị trường đòi hỏi ngày càng tăng là các sản phẩm tinh chế, các sản phẩm thô hoặc sơ chế có nhu cầu ngày càng giảm. Chính vì vậy một đòi hỏi bức thiết đối với công nghiệp chế biến là phải làm sao chế biến từ những nông sản phẩm ra những sản phẩm kinh tế đủ khả năng đáp ứng và cạnh tranh trên thị trường trong nước cũng như ngoài nước, đặc biệt hiện nay nước ta lại là một nước nông nghiệp mà sản phẩm chủ yếu của nó là các nông sản phẩm .
Một thực tế cho thấy hiện nay công nghiệp chế biến của chúng ta yếu kém mà khiến các ngành sản xuất nguyên liệu trong nước như cà phê là một điển hình luôn bị phụ thuộc, bị ép giá và bất lợi trong các quan hệ thương mại. Singapo là nước không sản xuất nguyên liệu cà phê, cao su nhưng lại nhập của chúng ta dưới dạng thô hoặc sơ chế vớigiá thành thấp, nhưng họ lại rất mạnh về công nghiệp chế biến với công nghệ tiên tiến nên cho ra các sản phẩm tinhn chế chất lượng cao, giá thành phải chăng từ nguyên liệu của chúng ta và quay sang tiêu thụ ngay trên thị trường thị trường của chúng ta, cạnh tranh với các sản phẩm của chúng ta và đương nhiên cúng ta rất khó có thể cạnh tranh được với các sản phẩm của họ. Điều này nói lên rằng công nghiệp chế biến của chúng rất yếu kém so với các nước trong khu vực, đã đến lúc chúng ta cần phải tập trung đầu tư phát triển ngành công nghiệp chế biến một cách thích đáng bởi chúng ta có một lợi thế rất lớn là có thể sản xuất được nguồn nguyên liệu dồi dào, giá thành thấp, chất lượng khá và đặc biệt nguồn lao động dồi dào, nhân công rẻ.
Có thể nói công nghiệp chế biến phát triển là động lực thúc đảy ngành nông nghiệp phát triển, nó không chỉ chế biến nông sản phẩm mà còn cả thuỷ hải sản nữa. Các nông sản phẩm, thuỷ hải sản muốn có giá trị kinh tế cao cần phải qua chế biến để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và khó tình của thị trường. Tuy nhiên cần lưu ý rằng việc bố chí các cơ sở công nghiệp chế biến cần phải gắn với các vùng sản xuất tập trung và công tác qui hoạch thiết kế phải phù hợp với điều kiện vốn, lao đọng…của từng vùng, tránh tình trạng như hiện nay các nhà máy chế biến như mía đường, hoa quả không có đủ nguyên liệu để hoạt động, nhà máy chỉ hoạt động được khoảng 60%-70% công xuất thiết kế, như vậy dẫn đến lãng phí công nghệ, lãng phí vốn đầu tư và khấu hao tăng lên sẽ làm giá thành sản phẩm cao làm cho sức cạnh tranh của sản phẩm yếu khó có thể tồn tại lâu dài, vững chắc được.
b. Công nghiệp cơ khí và sửa chữa trong nông thôn
Công nghiệp cơ khí và sửa chữa sản xuất các công cụ là các tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng có ảnh hưởng trực tiếp đến các ngành sản xuất, dịch vụ và đời sống ở nông thôn, đặc biệt là ngành nông nghiệp. Ngành công nghiệp này nó đáp ứng kịp thời cho nhu cầu rất đa dạng trong sản xuất và đời sống trên địa bàn nông thôn .
Trong nhiều năm qua trên cơ sở kinh tế hộ tự chủ, nhiều hộ gia đình, hợp tác xã đã đầu tư trang thiết bị máy móc để tự mở sản xuất và sửa chữa các máy móc, công cụ cải tiến phục vụ cho đời sống và sản xuất ngay trên địa bàn nông thôn và thực tế hoạt động này tổ ra rất hiệu quả. Hoạt động sản xuất nông nghiệp thuộc rất lớn vào địa bàn sản xuất cảu từng vùng, chính vì vậy mà công cụ sản xuất cũng rất đa dạng để phù hợp với địa bàn sản xuất. Ngành công nghiệp cơ khí và sửa chữa đã đáp ứng rất tốt điều này. Ngay cả khi cần nhập những máy móc thiết bị mới vào sản xuất nông nghiệp thì những máy móc này thường đã qua sử dụng, nhanh hỏng cần phải sửa chữa mới hoạt động tốt được. Ngành công nghiệp cơ khí và sửa chữa đã đáp ứng nhu cầu rất thường xuyên trong sản xuất và đời sống ở địa bàn nông thôn, nó giảm được chi phí, thời gian hco người dân nông thôn bởi họ không cần phải vận chuyển máy móc lên tận thành phố để sửa chữa hay mua sắm máy móc thiết bị và đặc biệt là mua các công cụ dụng cụ cải tiến phục vụ cho sinh hoạt đời sống và sản xuất. Song hiện nay ngành công nghiệp cơ khí và sửa chữa phát triển vẫn mang tính tự phát là chủ yếu chưa thực sự được quan tâm đầu tư của các cấp ngành trung ương và địa phương trong khi đó vai trò của nó lại không nhỏ, nó đã góp phần rất lớn ổn định đời sống kinh tế xẫ hội trên địa bàn nông thôn. Chính vì vậy các cấp, đặc biệt là cấp huyện và cấp tỉnh cần phải quan tâm đầu tư thích đáng với vị trí của nó trong nền kinh tế nông thôn.
Để phát triển ngành công nghiệp cơ khí và sửa chữa ở nông thôn thì ngay bản thân nó phải đảm nhiệm sản xuất ra được các công cụ cải tiến, phải sửa chữa được các máy móc chuyên dụng phổ biến ở nông thôn. Đồng thời các thành phố thị trấn, thị xã, các trung tâm công nghiệp cần phải đáp ứng các máy công tác, máy động lực và có trách nhiệm đào tạo đọi ngũ lao động, công nhân kỹ thuật cho công nghiệp cơ khí và sửa chữa nông thôn và nhà nước cần phải có chính sách vốn, chính sách thuế…để tác động tạo điều kiện cho nó phát triển. Có như vậy công nghiệp cơ khí và sửa chữa nông thôn sẽ phát triển một cách đồng bộ, đem lại hiệu quả cao và đóng góp ngày càng nhiều vào sự phát triển ổn định lâu dài cho kinh tế xã hội nông thôn .
c. Công nghiệp vật liệu xây dựng
Nhu cầu xây dựng là nhu cầu không thể thiếu trong quá trình phát triển nông thôn nói riêng và cả nước nói chung. ở nông thôn nhu cầu về xây dựng là rất lớn như xây dựng nhà ở, các công trình nước sinh hoạt, giao thông, y tế…. Vì vậy mà nhu cầu vật liệu xây dựng ngày càng nhiều và đa dạng về chủng loại với chất lượng ngày càng cao.
Ngoài hai vậtliệu xây dựng chiến lược là sắt thép và xi măng phải do công nghiệp lớn sản xuất, phần lớn còn lại các vật liệu xây dựng khác có thể do công nghiệp nông thôn đảm nhận. Ngành công nghiệp vật liệu xây dựng ở nông thôn hoạt động dựa trên khai thác các nguồn tài nguyên dồi dào phong phú ở địa bàn nông thôn như đất, đá. Tuỳ vào điều kiện của mỗi vùng mà có thể tổ chức khai thác tạo ra các sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường trong vùng và ngoài vùng.
Nhiều năm qua ngành công nghiệp vật liệu xây dựng phát triển rất sôi động, có tốc dộ phát triển nhanh với hiệu quả cao. ở những vùng có nguồn đất thuận lợi cho sản xuất gạch ngói thì sản xuất gạch ngói, ở những vùng có núi đá vôi thì có thể sản xuất vôi theo kiểu thủ công, ở vùng có trữ kượng đá vôi lớn có thể sản xuất vôi nung theo kiểu lò cải tiến, sản xuất đá dăm. Đặc biệt ở vùng có nguồn đất sét tốt có thể sản xuất những đồ gốm sứ có chất lượng cao như Bát tràng phục vụ cho nhu cầu xây dựng kinh tế văn hoá trong nước và xuất khẩu. Một số vùng có điều kiện cho phép khai thác đá tổ ong làm gạch không nung như ở Hà tây phục vụ xây dựng dân dụng cho dân cư nông thôn .
d. Các nghề tiêủ thủ công nghiệp sử dụng nguyên liệu gỗ, tre, nứa, lá.
Các nghề thủ công nghiệp sử dụng nguyên liệu gỗ, tre nứa, lá là nghề thủ công nghiệp truyên thống ở nông thôn Việt Nam. Các sản phẩm này khá đa dạng phục cho đời sống sinh hoạt và sản xuất ở nông thôn và một phần cho xuất khẩu .
Nghề mộc là môt nghề khá lâu đời và có một vai trò rất lớn đối với đời sống sinh hoạt, văn hoá, y tế của dân cư nông thôn và cả thành thị nữa. Trong đời sống sinh hoạt nghề mộc cung cấp các sản phẩm như bàn ghế, các trang thiếtbị cho trường học, bệnh viện nhà văn hoá, đặc biệt với xu hướng phát triển ngày cao của xã hội thì thị hiếu thích dùng các vật dụng trang trí nội thất bằng đồ gỗ rất cao, do vậy những vật dụng bằng gỗ rất có giá trị, nhất là ở các thành phố lớn. Đây là cơ hội tốt cho nghề mộc phát triển nhưng đội ngũ lao động cần phải được trang bị những kiến thức hiểu biết về thị trường và cần phải trang bị các máy móc phương tiện để có thể đáp ứng các nhu cầu sản phẩm chất lượng cao, mẫu mã đẹp.
Các nghề mây tre đan cũng là một nghề khá phổ biến ở các vùng quê bởi nguồn nguyên liệu mây, tre ở các vùng nông thôn khá phổ biến. Các sản phẩm của nó phục vụ rất nhiều cho nhu cầu đời sống sinh hoạt hàng ngày của người dân nông thôn như rổ rá dần sàng …các sản phẩm từ mây song lại có giá trị kinh tế cao, một số vùng đã dùng mây song để sản xuất các loại ghế, bàn mẫu mã rất đẹp và đã được tiêu thụ rất mạnh ở thị trường các thành phố lớn, các khách sạn nhà hàng và đặc biệt cho xuất khẩu. Các nghề đan nát rất phù hợp với thời kỳ nông nhàn của dân cư nông thôn, nó giải quyết việc làm thời kỳ nhàn rỗi và tạo ra thu nhập đáng kể góp phần ổn định đời sống kinh tế xã hội ở địa bàn nông thôn .
Các nhu cầu về sử dụng nguyên liệu gỗ, tre, nứa, lá rất đa dạng, nó phụ thuộc vào điều kiện nguyên liệu và nhu cầu tiêu dùng mỗi vùng. Hiện nay tuy một số sản phẩm như rổ rá bằng tre đã bị thay thế bằng các sản phẩm đồ nhựa nhưng đối với đại bộ phận nông thôn vẫn có vai trò quan trọng và ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống sinh hoạt và sản xuất của dân cư nông thôn, đặc biệt là nghề mộc có vị trí rất lớn và cần phát triển tốt hơn vì nhu cầu sản phẩm nghề mộc đang được ưa chuộng rất lớn. Nhà nứơc, đặc biệt là cấp cơ sở cần có các chính sách khuyến khích tạo điều kiện cho nó phát triển ngày một tốt hơn.
2. Các nghề thủ công mỹ nghệ, các nghề truyền thống.
Sự hình thành và phát triển các nghề thủ công mỹ nghệ, các nghề truyền thống là một nét đặc trưng về truyền thống kinh tế văn hoá của nông thôn Việt Nam . cơ sở phát triển các nghề thủ công mỹ nghệ, các nghề truyền thống gắn với những kỹ sảo, những bí quyết truyền thống và thường được truyền từ đời này sang đời khác. Các nghề này mang tính đặc trưng vùng rất rõ rệt, có khi chỉ có vùng này có mà vùng kia lại không có, chính vì vậy sản phẩm thể hiện một đặc trưng, một tinh hoa đặc thù của nghề và đương nhiên sản phẩm rất được ưa chuộng.
Các sản phẩm của các nghề chủ yêú là hàng tơ lụa, đúc đồng, sơn mài, chạm khảm, thêu ren…các sản phẩm này kết tinh một giá trị văn hoá rất độc đáo, một phần được tiêu thụ ở thị trường nội địa, một phần đựơc tiêu thụ trên thị trường quốc tế. Các sản này không những đem lại thu nhập cho người sản xuất mà còn có vai trò rất lớn là duy trì nét đẹp truyền thống văn hoá tinh hoa của dân tộc, nó là phương tiện truyền tải tới bạn bè quốc tế nền văn hoá truyền thống của đất nước và con người Việt Nam nghìn năn văn hiến.
Các nghề thủ công mỹ nghệ, các nghề truyền thốn có một lịch sử phát triển khá lâu đời và trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới một số nghề phát triển không ổn định hoặc bị mai một đi. Nhưng một số năm gần đây đã tìm được thị trường tiêu thụ sản phẩm, đặc biệt là thị trường các thành phố lớn và quốc tế mà các nghề này có cơ hội khôi phục lại dần phát triển ổn định. Tuy nhiên để cho các nghề này phát triển vững chắc lâu dài thì sản phẩm cần phải đa dạng, mẫu mã và chất lượng không ngừng cải thiện. Cần phải có chính sách của nhà nước tạo điều kiện cho các nghề này phát triển ngày một tốt hơn và chính sách vĩ mô tác động cần phải xem không chỉ nhìn trên phương diện kinh tế mà còn rất quan trọng là các giảtị văn hoá xã hội được bảo tồn.
3. Các cụm công nghiệp nông thôn nông thôn
a. Bản chất của cụm công nghiệp nông thôn nông thôn
Sự hình thành và phát triển của công nghiệp nông thôn dựa trên tiền đề khách quan là sự phát triển phân công lại lao động xã hội ở nông thôn. Ban đầu là các nghê tiểu thủ công nghiệp hoạt động trong nông thôn với tư cách là các hoạt động phụ trợ, hoạt động sản xuất nông nghiệp vẫn là hoạt động chính. Cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội nông thôn thì nghề tiểu thủ công nghiệp tách dần ra vì nhu cầu sản phẩm của nghề tiểu thủ công nghiệp phục vụ cho đời sống và sinh hoạt ngày một tăng lên và trở thành một ngành sản xuất độc lập ở nông thôn. Một bộ phận dân cư ,hộ gia đình đã chuyển sang hoạt động trong lĩnh vực này, lúc đầu còn phân tán, manh mún nhưng dần dần do yêu cầu của sự phát triển mà họ đã quần tụ lại tại những nơi điều kiện thuận lợi về giao thông, nguồn nước…hoặc các trung tâm ở nông thôn. Cụm công nghiệp nông thôn hình thành giữ vai trò là hạt nhân kỹ thuật, nó thúc đẩy hoạt động sản xuất nông nghiệp và các hoạt động khác phát triển .
Như vậy cụm công nghiệp nông thôn hình thành và phát triển gắn liền với đặc điểm của sản xuất, trước hết là sản xuất nông nghiệp và tập quán truyền thống của mỗi vùng; công nghiệp nông thôn là một bộ phận không thể tách rời của ngành công nghiệp cả nước, làm lưới chân rết của công nghiệp thành thị, công nghiệp lớn .
b. Phương hướng phát triển các cụm công nghiệp nông thôn
Vai trò của các cụm công nghiệp nông thôn là rất to lớn đối với nền kinh tế xã hội của nông thôn, nó là cơ sở để chyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp và tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp, thương mại dịch vụ. Tuy nhiên để cho công nghiệp nông thôn phát huy tốt vai trò của nó đối với kinh tế nông thôn, phát triển một cách vững chắc ổn định cần phải có phương hướng phát triển nhất định
Thứ nhất là coi công nghiệp nông thôn vừa là hạt nhân kinh tế xã hội của mỗi vùng nông thôn, vừa là chân rết của công nghiệp thành thị, công nghiệp hiện đại. Với tư cách là hạt nhân kinh tế kỹ thuật của mỗi vùng nông thôn, cụm công nghiệp nông thôn gắn bó chặt chẽ với đời sống kinh tế xã hội của vùng nông thôn là động lực thúc đẩy kinh tế xã hội nông thôn phát triển. Với tư cách là chân rết của công nghiệp lớn, công nghiệp thành thị thì nó như là phương tiện chuyển giao những máy móc công nghệ mới vào nông nghiệp nông thôn, nó gắn kết với công nghiệp lớn công nghiệp thành thị qua việc sơ chế nguyên liệu, gia công theo đơn đặt hàng của công nghiệp công nghiệp thành thị. Như vậy cụm công nghiệp nông thôn gắn với công nghiệp cả nước thành một thể thống nhất hỗ trợ nhau cùng phát triển .
Thứ hai : trong cụm công nghiệp nông thôn phải phát triển chuyên môn hoá kết hợp với đa dạng hoá. Cụm công nghiệp nông thôn hình thành và phát triển gắn với điều kiện phát triển của từng vùng nông thôn, mỗi vùng có những điềukiện lợi thế nhất định, vì vậy cho phép phát huy khai thác triệt để các lợi thế đó. Chuyên môn hoá là để khai thác lợi thế của vùng so với vùng khác và tạo ra các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh cao, coi đó là mặt hàng chủ lực trong chiến lược sản phẩm của cụm công nghiệp nông thôn. Tuy nhiên nhu cầu sản phẩm, dịch vụ của sản xuất và đời sống ở nông thôn rất đa dạng, vì vậy cụm công nghiệp nông thôn cần phải kết hợp phát triển các sản phẩm dịch vụ đó. Nhìn trong chiến lược kinh doanh, nếu chỉ chuyên môn hoá thì rủi ro sẽ cao, đa dạng sẽ giúp phân tán bớt rủi ro, đảm bảo phát triển ổn định lâu dài .
Thứ ba: kết hợp thủ công nghiệp với hiện đại trong công nghệ sản xuất. Bản chất của công nghiệp nông thôn thường là nhỏ bé, chủ yếu là các ngành tiểu thủ công nghiệp, do vậy cụm công nghiệp nông thôn cũng mang đặc trưng đó. Cụm công nghiệp nông thôn phát triển dựa trên các nghề, kỹ sảo truyền thống do vậy sản xuất thủ công nghiệp hoặc mang tính thủ công nghiệp là luôn tồn tại. Song vơiswj phát triển của nền kinh tế thị trường như hiện nay thì việc áp dụng khoa học kĩ thuật, công nghệ mới vào sản xuất là một đòi hỏi tất yếu, bởi vì việc áp dụng những thành mới khoa học công nghệ cho phép tăng năng suất, nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ giá thành sản phẩm. Đặc biệt là ngành công nghiệp chế biến ở nông thôn cần phải áp dụng mạnh mẽ khoa học công nghệ mới thì mới cho ra được những sản phẩm chất lượng cao, giá thành hạ và đủ sức cạnh tranh đứng vững trên thị trường cho nông sản phẩm nông nghiệp .
Cần phải khuyến khích phát huy các ngành nghề truyền thống,các kỹ sảo truyền thống phát triển, đó là các ngành công nghiệp, thủ công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp nông thôn, nhưng các nghành nghề ấyphải mang tính hiện đại, có thể cơ giới hoá tự động hoá ở một số công đoạn nhất định nhằm không ngừng nâng cao chất lượng đổi mới mẫu mã,hạ giá thành đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường nhưng vẫn giữ được các tinh xảo truyền thống.
Thứ tư: phát triển đa dạng hoá các loại hình doanh nghiệp công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp nông thôn trên cơ sở phát huy tối đa tiềm năng thế mạnh của mọi thành phần kinh tế địa phươ. Điều này cho phép phát huy một cách tổng hợp các tiềm năng ở phương tạo ra sức mạnh tổng hợp. Các loại hình doanh nghiệp chủ yếu là các doanh nghiệp qui mô vừa và nhỏ, đặc biệt coi trọng các hộ gia đình tiểu thủ công nghiệp. Các qui mô này rất phù hợp với tính chất của công nghiệp nông thôn, nó phù hợp vì vốn hạn chế, lao động tay nghề còn thấp, trình đọ tổ chức quản lý yếu.
Thứ năm: phát triển công nghiệp nông thôn gắn chặt vớibảo vệ môi trường sinh thái. Đây là một đòi hỏi cấp bách đối với xã hội hiện nay tình trạng môi trường của chúng ta đang bị tàn phá nghiêm trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống vẩn xuất của xã hội. Do vậy phát triển công nghiệp nông thôn phải đảm bảo không gây ô nhiễm môi trường, muốn vậy cần phải có hệ thống xử lý chất thải được đầu tư đồng bộ trong đầu tư cho cụm công nghiệp nông thôn .
c. Các cụm công nghiệp nông thôn
- Dạng cum công nghiệp nông thôn làm vệ tinh của công nghiệp đô thị, công nghiệp lớn. Các cụm công nghiệp này thường bố trí ở các thị trấn thị tứ, vùng ven đô có cơ sở hạ tầng phát triển.Hướng chuyên môn hoá là sơ chế hoặc bán tinh chế nguyên liệu cho các xí nghiệp công nghiệp lớn ở thành phố. Lắp ráp linh kiện hoặc bán thành phẩm, lắp ráp từng bộ phận cho xí nghiệp công nghiệp lớn.
- Dạng cụm công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ hải sản ở các vùng chuyên canh sản nguyên liệu như cụm công nghiệp khai thác gỗ, chế biến chè, cao su….
- Dạng cụm công nghiệp hình thành và phát triển từ các làng nghề truyền thống. Đây là dạng cụmcn có lịch sử pr lâu đời nhất , thể hiện đậm nét nhất truyền thống văn hoá lâu đời của nông thôn Việt Nam . Theo thống kê cả nước co khoảng 1400 làng nghề , đồng bằng Sông hồng có nơi có 700 làng nghề, trong đó có 200 làng nghề truyền thống . sự phát triển các làng nghề có ý nghĩa to lớn trong quá trình phát triển của nông thôn Việt Nam, góp phần ổn định đời sôngd tăng thu nhập cho dân cư.
IV. Điềukiện tiền đề cho phát triển công nghiệp nông thôn
Công nghiệp nói chung và công nghiệp nông thôn nói riêng muốn phát triển dều phải dựa trên đề cơ sở nhất định. Rõ ràng chúng ta không thể phát triển công nghiệp được nếu không có đủ vốn cần thiết, không có đội ngũ các bộ và công nhân kỹ thuật có trình độ nhất định . Như vậy muốn phát triển công nghiệp nông thôn cần phải dựa trên những điều kiện nhất định, những điều kiện này mang tính quyết định cho sự hình thành và đi lên của công nghiệp nông thôn. Một số điều kiện mang tính quyết định đó là :
1. Sản xuất nông nghiệp phải đạt đến một trình độ nhất định
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất thiết yếu và không thể thiếu của xã hội, do đó sản phẩm của nó cũng là sản phẩm thiết yếu, là sản phẩm tối cần thiết cho sự tồn tại của xã hội. Nói một cách khái quát thì sản xuất nông nghiệp là ngành sản xuất cơ sở nhất của xã hội, xã hội dù muốn phát triển đến đâu thì cũng đều cần đến ngành nông nghiệp, ngành nông nghiệp luôn luôn tồn tại song song với sự tồn tại của xã hội và trình độ sản xuất của nó ngày càng cao.
Từ khi hình thành xã hội loài người đầu tiên là công xã nguyên thuỷ thì hoạt động đầu tiên của con người là săn bắn hái lượm – cơ sở phôi thai của sản xuất nông nghiệp, dần con người đã biết chăn nuôi thay vì săn bắn biết trồng trọt thay vì hái lượm. Đó là sự chuyển biến về mặt chất đầu tiên trong sản xuất nông nghiệp. Trong hoạt động sản xuất nông nghiệp cần phải có các công cụ lao động để xới đất, bừa đất,…và đã có một số người đứng ra chế tác các công cụ đó, nhưng hoạt động đó chỉ chỉ là nghề phụ trợ cho sản xuất nông nghiệp, hoạt động sản xuất nông nghiệp vẫn là hoạt động chính bởi vì trình độ của sản xuất nông nghiệp lúc này chưa thể cho phép các ngành nghề phụ có thể tồn tại một cách độc lập được, những người làm nghề phụ đó không thể chỉ sống bằng nghề đó mà không tham gia trực tiếp vào sản xuất nông nghiệp. Tình trạng này đã kéo dài trong nhiều thế kỷ và cho đến tận ngày nay một số ngành, một số lĩnh vực đã tách hẳn và trở thành một ngành, lĩnh vực độc lập với hoạt động sản xuất nông nghiệp thì tình trạng trên vẫn còn tồn tại, do đặc điểm trình độ phát triển của sản xuất chưa cho phép một số ngành nghề tách hẳn sản xuất nông nghiệp để trở thành một ngành sản xuất độc lập.
ở Việt Nam vào nửa cuối thập kỷ 70 mỗi năm phải nhập hàng triệu tấn lương thực, các ngành kinh tế lao đao, đời sống nhân dân vô cùng khó khăn. Cho đến nay với chủ chương đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước đã giải quyết căn bản vấn đề thiếu lương thực, lương thực không những đã đủ tiêu dùng trong nước mà còn dự trữ cho xuất khẩu mỗi năm trên 2 triệu tấn lương thực. Tổng sản lượng cả nước thời kỳ năm 1976-1980 tăng bình quân 20 vạn tấn mỗi năm, sản lượng là 13 triệu tấn mỗi năm; thời kỳ 1981-1988 sản lượng tăng bình quân 81 vạn tấn một năm. Trong vòng 10 năm sản lượng thực đã tăng từ 19,9 triệu tấn (năm 1990( lên 34,5 triệu tấn (năm 2000), nghĩa là tăng 73,2%. Sản lượng lương thực tăng đã thúc đẩy nhiều nganh kinh tế vàđời sống xã hội. Sản lượng lương thực tăng nhanh kích thích công nghiệp chế biến phát triển mạnh bởi các nông sản phẩm sản xuất ra muốn tiêu thụ tốt, đặc biệt trên thị trường quốc tế thì cần phải chế biến để làm tăng giá trị sử dùng và giá trị thương mại của sản phẩm . Với năng xuất và sản lượng cho phép giải phóng một bộ phận lao động nông nghiệp chuyển sang các ngành lĩnh lực khác , tỷ lệ lao động thực tế huy động vào sản xuất nông nghiệp đã giảm đi rõ rệt. Kết quả điều tra cho thấy ày chỉ còn 60%, như vậy khoảng 40% lao động nông thôn đã chuyển sang các hoạt động phi nông nghiệp. Các hoạt động này trước hết là các ngành nghề ngay tại nông thôn mà trước kia nó chỉ là các hoạt động phụ trợ cho sản xuất nông nghiệp rồi đến các hoạt động dịch vụ và các lĩnh vực khác ở nông thôn và cá thành phố. Sự phát triển mạnh của nông nghiệp làm cho thu nhập của đan cư tăng, đời sống ngày càng cải thiện, cơ cấu trong tiêu dùng của dân cư thay đổi theo hướng giảm tỷ trọng chi tiêu cho các sản phẩm thiết yếu(trong đó có lương thực ) và tăng chi tiêu cho các sản phẩm cao cấp hơn. Đây là cơ sở kích thích các ngành nghề, dịch vụ phát triển không những ở nông thôn mà cả thành phố.
Có thể nói sự phát triển của sản xuất nông nghiệp là một yếu tố có vai trò to lớn cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn ở Việt Nam. Nó cho phép các ngành nghề và các hoạt động phi nông nghiệp khác phát triển tốt hơn, ổn định hơn, thúc đẩy công nghiệp nông thôn phát triển cũng như đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá nông thôn nước ta.
2. Khơi dậy và phát huy các kỹ năng truyền thống.
Công nghiệp nông thôn chủ yếu là qui mô vừa và nhỏ, ngành nghề củ yếu la các nghề truyền thống như các làng nghề truyền thống, các nghề thủ công nghiệp và một số nghành nghề mới được hình thành trong quá trình đổi mới như các làng may mặc làng chế biến, các kỹ năng ngành nghề truyền thống là một yếu tố quan trọng phát triển các ngành nghề truyền thống trong công nghiệp nông thôn .
Các nghề thủ công nghiệp chỉ được coi là hoạt động phụ thêm và bổ sung cho sản xuất nông nghiệp từ xa xưa trong lịch sử Việt Nam đã là một bộ phận cấu thành trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp truyền thống. Do tính thời vụ sản xuất nông nghiệp mà người nông dân phải kiêm làm các nghề thủ công trong lúc nông nhàn, chỉ một bộ phận phát triển thành các làng nghề, đại đa số vẫn không tách khỏi được nông nghiệp và luôn sẵn sàng quay lại với sản xuất nông nghiệp trong quá trình đổi mới một số làng nghề đã bị mai một thậm chí còn mất đi. Nhưng nhờ tìm được thị trường tiêu thụ mà một số kỹ năng kỹ sảo truyền thống được phục hồi và phát triển khá tốt như các nghề dệt thổ, cẩm tơ lụa. ...các nghề này là một nhân tố trong công nghiệp nông thôn. Các sản phẩm ở nhiều làng nghề truyền thống đã vươn tới không những thị trường trong nứơc mà cả thị trường khu vực và quốc tế như Thái lan, Singapo, Hồng kông và nhiều nước bắc âu.
Công nghiệp nông thôn gắn với các kỹ năng, kỹ sảo truyền thống với các làng nghề, ngành nghề truyền thống ở nông thôn. Vì vậy khơi dậy và phát huy các kỹ năng truyền thống là khơi dậy và phát huy các ngành nghề ở nông thôn, thúc đẩy công nghiệp nông thôn cũng như thúc đẩy nền kinh tế nông thôn phát triển .
3. Có một thị trường ổn định và ngày càng mở rộng
trong nền kinh tế thị trường thì sản xuất phải xuấtphát từ thị trường là yếu tố quyết định cho nhà sản xuất cần phải sản xuất cái gì mà nó cần chứ không phải sản xuất cái mà nhà sản xuất muốn và có khả năng sản xuất .
chúng ta không thể phát triển tốt được các ngành nghề nông thôn nếu như không có thị trường tiêu thụ sản phẩm và ổn định cung cấp nguyên liệu đầu vào cho các ngành nghề đó. Đây là đòi hỏi bắt buộc của hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường mà nó đã được đúc kết trong những năm đầu chuyển đổi cơ chế kinh tế ở nước ta. Thực tế cho thấy khi tìm lại được các thị trường tiêu thụ mà các ngành nghề truyền thống được khôi phục và phát triển tốt như nghề dệt ở La Phù (Hà tây), nghề dệt ở Duy trinh (Quảng nam)… nhìn tổng thể thì nếu các làng nghề, ngành nghề trong nông thôn chỉ cung cấp sản phẩm bó hẹp ở thị trường nông thôn, cao hơn nữa là các thành phố trong nước thì khó có thể phát triển một cách vượt trội được mà cần có thị trường rộng lớn hơn nữa là thị trường khu vực và quốc tế.
đối với các vùng thuần nông muốn phát triển một ngành nghề hoặc một hoạt động nông nghiệp nào đấy cần phải chủ động từng bước một, sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế phải là một quá trình diễn ra từng bước. Các ngành nghề cần phải được lựa chọn một cách hợp lý dựa trên những điều kiện tiềm thế mạnh của vùng và đặc biệt các sản phẩm của các ngành nghề, các hoạt động nông nghiệp cũng phải có thị trường tiêu thụ, nếu không có thị trường tiêu thụ cho nó thì sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế không thể thực hiện được. Chúng ta không thể phát triển công nghiệp chế biến được nếu không có thị trường cung cấp nguyên liệu đàu vào ổn định và không có thị trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra. Dù thế nào đi nữa thì trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay muốn phát triển các ngành nghề nào đi nữa thì vấn đề thị trường cho nó vẫn là yếu tố quyết định,muốn phát triển công nghiệp nông thôn nói riêng và công nghiệp cả nước cần phải giải quyêt tốt khâu thị trường, đó là khâu then chốt cho mọi quá trình sản xuất kinh doanh, tất nhiên trên cơ sở phải đáp ứngđược các đòi hỏi của thị trường .
4. Sự phát triển nhất định của cơ sở hạ tầng.
Cơ sở hạ tầng là điều kiện thúc đẩy công nghiệp nông thôn phát triển nhanh ổn định. Các yếu tố cơ sở hạ tầng cơ bản nhất là điện, đường giao thông, thông tin liên lạc, các yếu tố này phát triển tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của công nghiệp nông thôn .
Một thực tế cho thấy ở Việt Nam, trên địa bàn nông thôn cơ sở hạ tầng phát triển rất kém, đặc biệt là các vùng miền núi khiến mọi hoạt động kinh tế xã hội diễn ra khó khăn kém sôi động. Người nông dân sản xuất ra các sản phẩm nhưng không tiêu thụ được do đường giao thông xa, chắc trở, khiến đầu ra của sản phẩm không lối thoát, các sản phẩm dịch vụ bên ngoài đưa vào cũng khó khăn do giao thông không thuận lợi. Các nhà đầu tư đã không rót vốn vào đầu tư các vùng cũng vì lý do cơ sở hạ tầng phát triển yếu kém. Đến nay cơ sở hạ tầng đã được cải thiện đáng kể và bộ mặt nông thôn đã chuyển sắc thái một cách rõ rệt. Nhờ hệ thống giao thông phát triển, mạng lưới điện được che phủ, hệ thống thông tin kiên lạc phát triển mà giao lưu sản phẩm hàng hoá thuận lợi, thúc đảy trao đổi hàng hoá dịch vụ giữa trong vùng và ngoài vùng, kích thích kinh tế xã hội nông thôn phát triển mạnh. Tính đến năm 2000 cả nước có 85% số xã có điện, số xã có đường ô tô đến tận xã là 92,9% và tỷ lệ xã có đường ô tô đến tận thôn là 79,8%. Nhờ có điện mà máy móc, động cơ đã được sử dụng nhiều vào các làng nghề như rèn, mộc, nhờ giao thông tốt mà sản phẩm có thể vận chuyển đi tiêu thụ rễ ràng. Phát triển cơ sở hạ tầng là điều kiện thúc đẩy công nghiệp nông thôn cũng như các ngành kinh tế khác ở nông thôn phát triển nhanh và ổn định, nhưng nó lại đòi hỏi vốn lớn nên nhà nước cần phải có chính sách đầu tư thoả đáng cho cơ sở hạ tầng nông thôn, thúc đẩy nông nghiệp nông thôn chyển dịch cơ cấu kinh tế .
5. Cần có những thay đổi tâm lý tập quán lạc hậu của dân cư nông thôn .
yếu tố tâm lý tập quán canh tác lạc hậu của dân cư nông thôn cũng là một cản trở đối với quá trình phát triển công nghiệp trong đó có công nghiệp nông thôn. Tâm lý tập quán của dân cư nông thôn là chậm đổi mới, sản xuất manh mún theo kiểu tự cấp tự túc đã có từ bao đời nay ; khi chuyển sang cơ chế mới thói quen ấy không thể một sớm một chiều mất ngay được mà cần phải có một thời gian nhất định. Trong đó muốn phát triển các ngành nghề mới thì thói quen ấy cần phải được thay đổi. Sản xuất không thể theo kiểu tự cấp, tự túc được mà phải xuất tập trung, nhạy bén với sự biến động của thị trường .
phát triển công nghiệp cần phải đầu tư trang bị máy móc thiết bị mới thì mới cho phép đạt năng xuất cao, chất lượng tốt, giá thành hạ. Nhưng tâm lý người dân nông thôn chủ yếu là nồn dân lo sợ rủi ro không dám đầuu tư khiến sản xuất trong tình trạng manh mún nhỏ lẻ, không tạo bước đột phá đáng kể. Mặt khác sản xuất theo kiểu công nghiệp thì ý thức cộng đồng cần phải cao như vấn đề về chất thải đúng nơi qui định đẻ xử lý chứ không phải bừa bãi như hiện nay … Nói tóm lại muốn phát triển công nghiệp nông thôn thì cần phải thay đổi tư duy tập quán tâm lý theo kiểu công nghiệp chứ không phải theo kiểu nông nghiệp, có như vậy thì công nghiệp nông thôn mới có thể phát triển nhanh và đi theo đúng định hướng của nhà nước. Tất nhiên muốn làm điều đó phải diễn ra từng bước trong quá trình phát triển và nhà nước cần phải có sự đầu tư bằng các chính sách hiện đại hoá nông thôn như đầu tư cơ sở hạ tầng , giáo dục, y tế…
6. Những điều kiện về thể chế
thể chế trong quá trình phát triển công nghiệp nông thôn được hiểu là các mối quan hệ xã hội nảy sinh tồn tại trong quá trình phát triển đã được điều chỉnh và pháp chế hoá về mặt nhà nước ở các mức độ khác nhau (hiến pháp, luật,các chính sách, …). Nòng cốt của các mối quan hệ trên là các quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu, quan hệ thị trường, quan hệ tổ chức giữa các chủ thể trong quá trình phát triển .
Thể chế có một vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển nông thôn. Nhờ có chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần mà trong nông thôn đã xuất hiện nhiều loại hình doanh nghiệp qui mô khác nhau như công ty TNHH , tư nhân và các hợp tác xã, hộ gia đình, các ngành nghề ở nông thôn cũng phát triển đa dạng và tạo lên một sự phát triển tổng hợp đáng kể ở nông thôn trong những năm gần đây. Nhờ có chính sách khuyến khích đầu tư tạo mọi điều kiện về mặt bằng, thuế, vốn…mà thu hút được vốn đàu tư vào nông thôn ngày càng nhiều hơn. Nhìn lại lịch sử có thể thấy một bước đột phá trong nông nghiệp nông thôn là chính sách về sở hữu và sử dụng đất, chính sách khoán hộ coi trọng vai trò kinh tế hộ mà đã làm cho ngành nông nghiệp phát triển một cách nhảy vọt, nước ta đã giải quyết được cơ bản vấn đề lương thực và có tích luỹ cho xuất khẩu đứng thứ ba trên thế giới.
Tuy nhiên hiện nay thể chế ở nông thôn còn nhiều hạn chế, cơ bản là được thiết lập chủ yếu để giải quyết vấn đề nông nghiệp mà chưa quan tâm đúng mức đến các liên kết phía trước và phía sau của sản xuất nông nghiệp. Chính sách công nghiệp chế biến còn nhiều bất cập, thiếu qui hoạch, chưa chặt chẽ kiên quyết khiến công nghiệp chế biến ở các địa phương phát triển tràn lan, theo phong trào “bình phong” chứ chưa thực sự tính đến hiệu quả kinh tế. Các chính sách về vốn tạo điều kiện phát triển ngành nghề nông thôn thực tế chỉ là khẩu hiệu, thực tế không đạt được hiệu quả mong muốn, thủ tục cho vay vốn thì khó khăn,lượng vốn cho vay thì không đủ lượng cần thiết….Sự quản lý tổ chức đầu tư lỏng lẻo trong nông thôn, tình trạng thất thoát vốn nghiêm trọng dẫn đến công trình chất lượng kém …
để phát triển tốt công nghiệp nông thôn nói riêng và nông thôn nói chung thì thể chế của đảng và nhà nước cần phải hoàn thiện hơn nữa để khuyến khích nội lực ở nông thôn và tận dụng ngoại lực ngoài nông thôn phát triển, tạo điều kiện cho nông thôn phát triển mạnh mẽ một cách tổng hợp vững chắc của nhiều ngành nghề, nhiều thành phần kinh tế, phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá, theo hướng hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.
V. Xu hướng hình thành và phát triển công nghiệp nông thôn
Công nghiệp nông thôn đã phát triển qua nhiều giai đoạn từ thấp đến cao, ban đầu chỉ là các hoạt động tiểu thủ công nghiệp mang tính phụ trợ cho sản xuất nông nghiệp rồi dần dần tách khỏi sản xuất nông nghiệp và trở thành một ngành sản xuất độc lập ở nông thôn và ngày càng phát triển mạnh hơn cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. ở Việt Nam từ khi công nghiệp nông thôn ra đời cho đến nay đã phát triển qua nhiều giai đoạn thăng trầm nhưng đã ngày càng lớn mạnh hơn và đóng góp ngày càng nhiều hơn cho kinh tế xã hội nông thôn nói riêng và cho cả nước nói chung. Với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế nước ta hiện nay, quá công nghiệp hóa hiện đại hoá diễn ra một cách sôi động, nền kinh tế phát triển theo xu thế mở cửa , hội nhập kinh tế quốc tế có thể thấy xu hướng hình thành và phát triển công nghiệp nông thôn trong thời gian tới có một số nét chủ yếu sau:
Thứ nhất :công nghiệp nông thôn tiếp tục phát triển và ngày càng được trang bị các phương tiên máy móc thiết bị hiện đại hơn, có phương thức quản lý hiệu quả hơn. Với sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển theo hướng hội nhập kinh tế quốc tế thì mọi ngành kinh tế trong đó có công nghiệp nông thôn sẽ phải hiện đại hoá, phải trang bị đổi mới công nghệ thì mới cho phép tăng năng suất, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, phải thay đổi phương thức quản lý mới hiệu quả hơn. Có như vậy công nghiệp nông thôn mới phát triển mạnh mẽ và đứng vững trên thị trường .
Thứ hai: vẫn giữ được các yếu tố truyền thống nhưng luôn gắn liền hiện đại hoá. Yếu tố truyền thống là một lợi thế của công nghiệp nông thôn như các kỹ sảo , kỹ năng, bí quyết truyền thống. Yếu tố này kkhông phải ở đâu cũng có, nó tạo lên nét đặc htù của sản phẩm công nghiệp nông thôn công nghiệp nông thôn, do vậy mà nó rất được thị trương ưa chuộng và đương nhiên giá trị đem lại cao. Chính vì vậy phát triển công nghiệp nông thôn phải khai thác phát huy tốt lợi thế này. Nhưng việc khai thác lợi thế này có những thay đổi cho phù hợp với xu thế thời đại như việc sử dụng máymóc thiết bị ở một số khâu, một số công đoạn của sản xuất thay vì làm bằng thủ công thuần tuý .
Thứ ba: xu hướng hình thành các khu công nghiệp vừa và nhỏ trong phát triển công nghiệp nông thôn. Đây là một sự phát triển khách quan trong quá trình phát triển. Việc hình thành các khu công nghiệp nông thôn là để hỗ trợ nhau, khai thác tốt hơn các lợi thế ở nông thôn cùng nhau phát triển. Hình thành các khu công nghiệp nông thôn cho phép phát triển công nghiệp nông thôn theo hướng sản xuất lớn, sản xuất hàng hoá và như thế mới kích thích mạnh mẽ nông thôn phát triển .Hơn nữa với sự phát triển ngày càng cao, các vấn đề đặt ra như xử lý chất thải, tiêu thụ sản phẩm, cung cấp đầu vào cho sản xuất(điện, nước, nguyên liệu …)nếu là các đơn vị nhỏ lẻ, manh mún như hộ gia đình, làng xóm thì khó có thể giải quyết được hoặc giải quyết thì chi phí sẽ lớn còn các khu công nghiệp nông thôn cho phép giải quyết dễ hơn và chi phí thấp hơn.
Thứ tư: hình thành và phát triển các loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ trong phát triển công nghiệp nông thôn. Trong công nghiệp nông thôn hình thức hộ kinh tế gia đình là chủ yếu. Hình thức này hiện chiếm 98% trong tổng số cơ sở sản xuất- kinh doanh trên địa bàn nông thôn. Kinh tế hộ gia đình có ưu điểm là tận dụng lao động và sản xuất công nghiệp , huy động vốn nhàn rỗi ngay tại chỗ trong dân. Nhưng lại hạn chế về các mặt :đổi mới công nghệ, vốn, mở rộng sản xuất, tiếp cận thị trường. Chính vì vậy mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ vớicác khả năng giải quyết các vấn đề thị tồn tại trên sẽ ra đời giúp công nghiệp nông thôn phát triển hiệu quả hơn. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ này sẽ hình thành theo hai cách :
- Từ các hộ kinh tế gia đình tích tụ và tập trung thành các doanh nghiệp vừa và nhỏ - đây là cách chủ yếu.
- Lập mới các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn bằng cách gọi vốn đầu tư từ những người sống ở thành thị và nơi khác.
VI. Chủ chương của đảng và nhà nước ta về phát triển công nghiệp nông thôn trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá hiện nay.
Mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Nền kinh tế phát triển theo hướng hội nhập kinh tế quốc tế. Vì vậy mọi ngành kinh tế quốc dân, trong đó có nông nghiệp cũng phát triển theo đường lối chung đó. Xác định công nghiệp nông thôn có vai trò to lớn đối với kinh tế xã hội nông thôn, Đảng và Nhà nước ta có những chủ chương phát triển công nghiệp nông thôn, góp phần đảy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Những chủ chương đó là:
1. Đa dạng hoá các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế trong phát triển công nghiệp nông thôn
phải tăng cường khai thác phát huy mọi nguồn lực sẵn có ở nông thôn và ngoài nông thôn cho phát triển công nghiệp nông thôn . Tạo điều kiện thuận lợi cho mọi tổ chức cá nhân có điều kiện có thể tham gia vào sản xuất kinh doanh các ngành nghề ở nông thôn, tạo lên một sức bật tổng hợp trong nông thôn. Không phân biệt đối xử hình thức sở hưu nhà nước và tư nhân, tạo lên môi trường công bằng cho các thành phần kinh tế phát triển .
các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước tham gia vào phát triển các ngành nghề công nghiệp nông thôn sẽ được hưởng các chính sách ưu đãi nhất định như lãi suất vay vốn, thuế, mặt bằng…Nhà nước chỉ định hướng ở tầm vĩ mô cho công nghiệp nông thôn phát triển vơí các chủ thể tham gia vào phát triển công nghiệp nông thôn phải trong khuôn khổ của pháp luật Việt Nam hiện hành.
2. Phát triển công nghiệp nông thôn phải kết hợp hài hào giữa yếu tố truyền thống và hiện đại, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới.
Yếu tố truyền thống là yếu tố không thể thiếu trong phát triển công nghiệp nông thôn. Khai thác phát huy các yếu tố truyền thống là một nội dung quan trọng của phát triển công nghiệp nông thôn. Tuy nhiên với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá, với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế thì pải tăng cường hiện đại hoá trong công nghiệp nông thôn, phải đầu tư trang bị máy móc thiết bị, phương thức quản lý tiên tiến để dưa lại hiệu quả cao cho phát triển công nghiệp nông thôn. Hiện đại hoá trong phát triển công nghiệp nông thôn là để đưa các nhan tố mới tiên tiến vào nông thôn, đó là khoa học công nghệ, phương thức quản lý tiên tiến để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp và tăng tỷ trọng các ngành phi nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới văn minh hiện đại, tiếp cận dần với trình độ phát triển của thành thị và theo xu hướng hội nhập ; xoá bỏ các phong tục tập quán lạc hậu ở nông thôn và bảo tồn các giá trị văn hoá bản sắc của dân tộc.
3. Phát triển công nghiệp nông thôn đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái
Phát triển công nghiệp nông thôn phải đảm bảo không gây ô nhiễm môi trường sinh thái. Phải ngăn chặn và xử lý kịp thời các làng nghề, các khu công nghiệp nông thôn gây ô nhiễm môi trường . Sự tác động đến môi trường sinh thái phải là một chỉ tiêu không thể thiếu trong các dự án phát triển công nghiệp nông thôn .
Tình trạng môi trường sinh thái đang bị tàn phá bởi các làng nghề, các cụm công nghiệp nông thôn rất nghiêm trọng, gây ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống sinh hoạt và sản xuất của dân cư. Cần phải có biện pháp xử lý kịp thời, có thể đình chỉ ngừng hoạt động đối với các cơ sở công nghiệp không thực hiện cam kễt xử lý chất thải gây ô nhiễm và coi đây là bài học cho lập dự án phát triển công nghiệp nông thôn trong thời gian tới.
4. Đẩy mạnh công nghiệp chế biến ở nông thôn
cần phải đầu tư phát triển mạnh công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ hải sản ở nông thôn . Phát triển mạnh công nghiệp chế biến nông thôn là để thúc đẩy các ngành sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng đánh bắt thuỷ hải sản, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn một cách toàn diện.
Công nghiệp chế biến thời gian qua phát triển yếu kém, chưa thực sự hiệu quả . Cần phải đánh giá từ công tác qui hoạch mà đi để có chiến lược đầu tư hợp lý. Xây dựng qui hoạch phát triển công nghiệp chế biến phải gắn với vùng sản xuất nguyên liệu tập trung, với số lượng nguyên liệu đủ để cho nhà máy hoạt động thì hiệu quả kinh tế đem lại mới cao. Coi công nghiệp chế biến là nhân tố thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển, góp phần tăng thu nhập và ổn định đời sống của dân cư nông thôn .
VII. kết luận.
Vai trò của công nghiệp nông thôn là rất to lớn đối với kinh tế nông thôn nói riêng và cả nền kinh tế quốc dân nói chung. Để tìm ra một lối đi phù hợp, hiệu quả là một vấn đề đày khó khăn và thử thách, nó phụ thuộc vào điều kiện của mỗi quốc gia, mỗi vùng nông thôn và trong từng giai đoạn cụ thể . Đối với Việt Nam có thể nói phát triển công nghiệp nông thôn là tất yếu khách quan trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá . Quá trình phát triển công nghiệp nông thôn là một quá trình diễn ra từng bước, phải biết khai thác triệt để những điều kiện sẵn có ở nông thôn, phải kết hợp giữa yếu tố truyền thống và hiện đại. Để phát huy vai trò của công nghiệp nông thôn thì không những bản thân nó phải vận động phát triển tốt mà Nhà nước cần có các chính tác động trên tầm vĩ mô để định hướng cho công nghiệp nông thôn phát triển mạnh ổn định và vững chắc.
Với nội dung trình bày trên em mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé công sức của mình trong việc giải bài toán cho phát triển công nghiệp nông thôn ở nước ta trong thời gian tới. Em xin chân thành cảm ở các thầy cô, đặc biệt là thầy Thắng đã đóng góp những ý kiến bổ ích cho em hoàn thành đề tài trên.
Tài liệu tham khảo
1. Công nghiệp hoá ,hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn .một số vấn dề lý luận và thực tiễn- NXB chính trị quốc gia.2001
2. Vấn đề phát triển công nghiệp nông thôn ở nước ta-NXB quốc gia-2002
3. Công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn ở các nước châu á và Việt Nam – NXB chính trị quốc gia-2002
4. Văn kiện đại hội Đảng IX-NXB chính trị quốc gia-2001
5. Tạp chí Thương mại 25/2001
6. Tạp chí Lao động & xã hội 1/2000
7. Tạp chí Quản lý nhà nước 2/2002
8. Tạp chí Thông tin lý luận 1-2001
9. Tạp chí Kinh tế & dự báo 5/2001
10. Tạp chí Kinh tế & dự báo 6/2000
11. Tạp chí Kinh tế và phát triển 5/2002,6/2002,8/2002
12. Tạp chí Nông nghiệp và phát triển nông thôn 2/2001
13. Tạp chí Con số và sự kiện 28/2002
Mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35500.doc