Việc đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý chất lượng công trình xây dựng ở xí nghiệp xây dựng số 2 cũng cần phải có sự hỗ trợ kết hợp cuả Nhà nước. Nhà nước cần có chính sách, biện pháp của mình để tạo ra một môi trường thuận lợi cho các công ty nói chung và xí nghiệp xây dựng số 2 nói riêng trong việc thực hiện công tác quản lý chất lượng sản phẩm.
106 trang |
Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1543 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số vấn đề về công tác quản lý chất lượng công trình xây dựng ở xí nghiệp xây dựng số 2 thuộc công ty xây dựng số 4, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
công trình ở xí nghiệp xây dựng số 2.
Thứ tư là trong công tác kiểm tra , kiểm soát chất lượng công trình ở xí nghiệp xây dựng số 2 chỉ dừng lại ở việc giải quyết được việc yêu cầu về thông tin liên quan tới chất lượng công trình. Chẳng hạn qua kiểm tra giám sát biết được ở khâu này, khâu kia chất lượng chưa đạt yêu cầu tiến hành từ đó sửa chữa lại, điều chỉnh lại, chứ xí nghiệp chưa thực sự chú ý đi sâu phân tích tìm nguyên nhân dẫn đến kết quả trên . Điều này thường gây ra sự lãng phí nhiều khi rất lớn mà tác dụng lại thấp.
Thứ năm là xí nghiệp xây dựng số 2 cũng như công ty xây dựng khác đang phải cchịu sự tác động theo hướng cản trở tới công tác, tác động theo hướng cản trở tới công tác quản lý chất lượng công trình từ phía môi trường kinh tế xã hội, cụ thể là:
Trong công tác đấu thầu, thông thường chủ đầu tư thường chọn những nhà xây dựng nào đưa ra mức giá thấp nhất chứ ít quan tâm tới chỉ tiêu về chất lượng cũng như năng lực thực tế của xí nghiệp đang chọn một điều này dẫn đến một thực tế là có khi xí nghiệp vì muốn giải quyết việc làm trong hiện tại đã tự đưa ra mức giá thấp để trúng thầu và khi tiến hành côngviệc do mức vốn đầu tư thấp mà xí nghiệp có thể bỏ qua hoặc không thể thực hiện được đầy đủ các chỉ tiêu chất lượng công trình.
Trong hệ thống tiêu chuẩn xây dựng, hiện nay có rất nhiều loại, như hệ thống tiêu chuẩn chất lượng của nhà nướcViệt Nam, hệ thống tiêu chuẩn nước ngoài (Anh, Pháp, Nhật ...), hệ thống tiêu chuẩn quốc tế (ISO)...điều này gây khó khăn cho xí nghiệp trong việc lựa chọn, áp dụng, có những công trình thì tiêu chuẩn này là phù hợp nhưng ở công trình khác thì không đạt yêu cầu, và như vậy cũng gây khó khăn cho công tác kiểm tra đánh giá mức chất lượng công trình vì chưa có một tiêu chuẩn thực sự chuẩn để đánh giá so sánh.
Về hệ thống quản lý chất lượng nhà nước từ cục giám định nhà nước về chất lượng công trình xây dựng tới các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương và các bộ ngành, cơ quan ngang bộ, các tổng công ty lớn, cũng như các tổ chức tư vấn hành nghề bảo đảm hoàn thành các chỉ tiêu chất lượng đặt ra, mà vẫn có thể tồn tại được. Đây cũng là một vấn đề rất quan trọng ảnh hưởng tới chất lượng công trình cũng như công tác quản lý chất lượng công trình.
CHƯƠNG III: MỘT SỐ BIỆN PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ VỀ VIỆC HOÀN THIỆN TRONG CÔNG TÁC QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG Ở XÍ NGHIỆP XÂY DỰNG SỐ 2
I – CÁC BIỆN PHÁP
Thời gian vừa qua xí nghiệp đã áp dụng thành công QTM thường vận dụng khéo léo các biện pháp sau:
1. Khuyến khích.
Việc khuyến khích động viên nhân sự bắt đầu từ khi họ hiểu rõ nhiệm vụ mà họ sẽ thực hiện và tác động của chúng đến các hoạt động. Mọi nhân viên phải hiểu rõ lợi ích của việc hoàn thành tốt các công việc ở tất cả các giai đoạn và tác haị của việc làm chưa tốt đối với người khác, đối với sự thoả mãn khách hàng đối với chi phí và đối với lợi ích của xí nghiệp.
Việc khuyến khích mọi công nhân viên hướng về chất lượng không phải chỉ áp dụng đối với công nhân trực tiếp sản xuất mà là đối với tất cả mọi người trong các lĩnh vực như Marketing, thiết kế, cung ứng vật tư nguyên vật liệu, kiểm tra và dịch vụ kể cả nhân viên hành chính và đội ngũ lãnh đạo.
Việc khuyến khích phải tuân theo nguyên tắc sau:
Gắn quyền lợi với chất lượng công việc. Lấy chất lượng làm tiêu chuẩn đánh giá trong việc trả lương, thưởng và các quyền lợi khác.
Kết hợp giữa khuyến khích vật chấtvà khuýen khích tinh thần. Thiên lệch về một phía dễ mất tác dụng.
Công bố công khai các phép đánh giá chính xác về kết quả chất lượng của công việc.
Cần phải công nhận kết quả của công việc khi các mức chất lượng yêu cầu được đáp ứng.
Để thực hiện khuyến khích xí nghiệp cần thực hiện các việc sau:
Hệ thống truyền thông: Truyền thông có tác dụng kích thích mạnh mẽ, tạo ra một không khí làm việc hăng hái, tích cực, tạo ra sự chan hoà hợp tác trong công việc. Có thể xây dựng hệ thống truyền thông bằng các phương pháp sau:
- Truyền thông bằng lời trực tiếp như báo cáo, nói chuyện, mạn dàm nhóm...
- Truyền thông viết dưới hình thức thông báo, tập san, bảng tin báo cáo...
- Truyền thông bằng thị giác như áp phích, băng video, triển lãm.
- Yêu cầu của hệ thống truyền thông là động viên mọi người làm việc tốt và thông tin nhanh chóng kịp thời chính xác tình hình hoạt động của xí nghiệp.
Hệ thống kiến nghị: hệ thống kiến nghị nhằm:
- Tạo điều kiện để mọi thành viên có thể đóng góp ý kiến cải tiến nâng cao chất lượng ở mọi khía cạnh một cách dễ dàng. Các phiếu kiến nghị được in sẵn.
- Các ý kiến đóng góp được phân loại ( a,b,c,d...) và nghiên cứu áp dụng.
- Ghi nhận sự đóng góp của từng cá nhân, đơn vị có hình thức khen thưởng thích hợp.
Hệ thống khen thưởng: Ghi nhận công lao đóng góp cải tiến chất lượng của từng cá nhân đơn vị trong xí nghiệp.
2. Đào tạo - huấn luyện:
Một phần quan trọng của quản lý chất lượng đồng bộ (TQM) là đào tạo và huấn luyện đội ngũ. Đào tạo huấn luyện là phần tiếp theo tự nhiên của khái niệm gắn chất lượng vào con người. Để thực hiện TQM thì việc đầu tiên phải làm cho toàn thể công nhân viên thấm nhuần khái niệm TQM, nghĩa là phải làm một cuộc cách mạng về nhận thức đào tào và huấn luyện là một nhân tố hết sức quan trọng để thực hiện cải tiến chất lượng. Ở Nhật Bản, câu nói “ TQM bắt đầu bằng huấn luyện, kết thúc bằng huấn luyện” rất phổ biến. Hỗu hết các công ty Nhật đều có chương trình huấn luyện nhân viên, thường xuyên về lĩnh vực chất lượng. Các chương trình huấn luyện về chất lượng được xây dựng cho cán bộ cấp cao nhất, đến cấp trung gian, cho công nhân lâu năm bậc cao, đến các công nhân làm việc bán thời gian. Tất cả mọi người được huấn luyện một cách thích hợp về chất lượng.
Đào tạo huấn luyện là một nhân tố hết sức quan trọng để thực hiên cải tiến chất lượng. Tuy nhiên, muốn có hiệu quả thì việc huấn luyện phải được hoạch định một cách có hệ thống và thiết thực. Việc huấn luyện phải được tiến hành liên tục để dáp ứng không những thay đổi về công nghệ mà cả những thay đổi về môi trường hoạt động của xí nghiệp cũng như những thay đổi về cơ cấu tổ chức. Bản thân mỗi nhân viên phải được huấn luyện tương ứng về vai trò của họ trong việc thực hiên cải tiến chất lượng. Trong các nỗ lực cải tiến của họ phải có khả năng phát hiện các vấn đề giải quyết chúng. Việc phát hiện các vấn đề không pahỉ bằng cảm tính mà phải bằng các cứ liệu định lượng. Việc phân tích vấn đề phải được thực hiện qua các số liệu với phương pháp phân tích thích hợp. Mỗi người phải hiểu biết về kiểm tra chất lượng và biết sử dụng các công cụ kiểm tra chất lượng... Họ cần phải có kiến thức về quản lý chất lượng, biết rõ mục tiêu đang theo đuổi, hiểu đúng đắn các yêu cầu của khách hàng bên trong cũng như bên ngoài... Các nội dung đó phải được đưa vào chương trình huấn luyện.
Để có hiệu quả huấn luyện, cân xác định đào tạo huấn luyện là một bộ phận của chính sách chất lượng của xí nghiệp, phải phân công lãnh đạo phụ trách, phải xác định rõ từng mục tiêu từng đợt huấn luyện, có chương trình tài liệu, tổ chức chu đáo và qua mỗi đợt phải có đánh giá kết quả rút kinh nghiệm.
Về hình thức huấn luyện có thể sử dụng các phương tiện như nghe, nhìn, thuyết trình, hội thảo ...
Cần tổ chức nhẹ nhàng, không ảnh hưởng tới tác nghiệp để mọi người đều được huấn luyện về chất lượng.
3.Hợp tác nhóm:
Xí nghiệp đã thực thi TQM đều hình thành các nhóm nhỏ về hoạt động chất lượng. Có thể định nghĩa các nhóm nhỏ là các hoạt động có tính cách tình nguyệ và không chính thức, tổ chức trong xí nghiệp nhằm thực thi các nhiệm vụ cụ thể của từng tổ đội có nhiều hình thức tuỳ thuộc vào tổ đội, có những nhóm, đội tổ như nhóm thợ cả, nhóm kiểm chất lượng, nhóm kiến nghị, nhóm an toàn ... các nhóm này hình thành và hoạt động trong các phong trào cải tiến chất lượng, phng trào làm việc không sai sót. Có một sự trùng hơp ở các xí nghiệp thực hiện QTM thành công thì các nhóm nhỏ hoạt động rất hiệu quả và thành công ngược lại ở các xí nghiệp thực hiện QTM một cách hình thức không có hiệu quả thì các nhóm này được thành lập không có hiệu quả.
Nhóm hợp tác là hệ quả trực tiếp của quan điểm coi trọng vai trò con người, coi con người là nhân tố quyết định chất lượng. Chất lượng của sản phẩm cuối cùng là kết quả nỗ lực chung của mọi người trong tổ chức. Sự liên kết tổ đội để giải quyết chất lượng là lẽ tự nhiên. Tính chất phức tạp trong quy trình xây dựng chúng vượt quá tầm kiểm soát của bất kì cá nhân nào. Cách duy nhất để giải quyết các quy trình đó là phải hợp tác với nhau. Việc dùng hình thức hợp tác để giải quyết vấn đề có nhiều lợi thế hơn là để cá nhân giải quyết khó khăn một cách đơn độc. Sự liên kết tổ đội là tổ chức không chính thức, cho nên nó có thể vượt ra ngoài phạm vi chức năng của phòng ban. Nó sử lý các vấn đề vượt phạm vi chức năng phòng ban dễ dàng hơn linh hoạt hơn. Cho nên các vấn đề nảy sinh sẽ được giải quyết nhanh chóng. Đó là ưu việt của hình thức hợp tác tổ đội. Hợp tác tổ đội chỉ có động lực hoạt động khi con người được đề cao, giới quản lý có sự tin tưởng, khuyến khích nâng đỡ, trân trọng những đóng góp của họ. Nếu các cá nhân không có ý thức về chất lượng, không nhận thấy lợi ích của việc cải tiến quản lý chất lượng, không gắn bó với xí nghiệp ... nghĩa là họ chưa thấm nhuần TQM thì cũng không có hợp tác lắm.
4. Phối hợp chức năng – quản lý chéo:
Xí nghiệp thường được tổ chức với các chức năng nghiên cứu thiết kế xây lắp công trình, cung ứng nguyên vật liệu. Thông qua các chức năng của các bộ phân mà xí nghiệp thức hiện được chức năng của mình, mục tiêu là nâng cao chất lượng công trình.
Mục đích của việc nâng cao chất lượng công trình nhằm cải tiến tổng quát trên các lĩnh vực đảm bảo chất lượng công trình, giảm chi phí để phục vụ khách hàng tốt hơn, đảm bảo bàn giao công trình đúng thời hạn, phát triển những công trình mới. Những mục tiêu này đòi hỏi sự nỗ lực của toàn xí nghiệp. Chỉ riêng phòng đảm bảo chất lượng và kiểm tra chất lượng không thể thực hiện được, cần có sự tham gia của tất cả các phòng ban chức năng. Từ đó có khái niệm phối hơpn chức năng: quản lý chức năng.
Quản lý chức năng chéo nhằm khắc phục tính cục bộ, giảm ngăn cách giữa phong ban tạo sự phối hợp nhịp nhàng để đạt được mục đích chung. Thực hiện quản lý chức năng chéo không làm yếu chức năng chính của các bộ phận mà ngược lại giúp các bộ phận thực hiện chức năng chính tốt hơn thuận lợi hơn.
Những người phụ trách các phòng ban thường dành ưu tiên cho các chức năng thuộc phòng ban của họ hơn là việc thực hiên mục tiêu chung của toàn xí nghiệp.
Mục đích của quản lý chức năng chéo giúp cho nhà quản lý giữ được cân bằng trong công việc, tạo sự phối hợp giữa các phòng ban vì mục tiêu tối hậu của xí nghiệp chứ không vì lợi ích của bộ phận nào.
Lãnh đạo cao nhất quyết định mục tiêu cho quản lý chức năng chéo. Để quản lý mục tiêu này cần lập hội đồng hoặc uỷ ban phụ trách quản lý chức năng chéo. Hội đồng quản lý chức năng chéo có quyền hạn cao để quyết định của hội đồng được các bộ phân thực thi. Hội đồng này thường có đại diện các phòng liên quan tới chất lượng công trình, những chuyên gia có uy tín. Ban lãnh đạo cấp cao ( chủ tịch hoặc phó chủ tịch ).
Mục tiêu của chức năng chéo là chất lượng, chi phí và thời gian bàn giao công trình.
Không đạt được mục tiêu chất lượng chi phí và thời gian bàn giao công trình thì xí nghiệp sẽ không đạt được mục tiêu lợi nhuận công trình.
II. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ VIỆC HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG Ở XÍ NGHIỆP XÂY DỰNG SỐ 2
Kiến nghị 1 :
Cần nhanh chóng hoà nhập quan điểm mới về chất lượng và quản lý chất lượng sản phẩm nói chung cũng như chất lượng công trình xây dựng nói riêng
_ Quan điểm mới về chất lượng sản phẩm và quản lý chất lượng sản phẩm : nó là kết quả của một quá trình không ngừng đổi mới và hoàn thiện .
Về nhận thức trong lĩnh vực quản lý chất lượng sản phẩm và hiện tại nó là một quan điểm tiến bộ nhất , đúng đắn nhất .Việc hoà nhập với quan niệm mới này là một việc làm cần thiết và đúng đắn đối với mỗi công ty xí nghiệp . Nó cho phép xí nghiệp có được những cái nhìn hoàn thiện và đầy đủ về chất lượng công trình . Có được một hệ thống quản lý chất lượng cũng như có một cơ chế hoạt động của hệ thống hoàn hảo hơn . Cuối cùng nó tạo khả năng cho xí nghiệp có thể cung cấp cho thị trường những sản phẩm là các công trình xây dựng có chất lượng cao và ngày càng phù hợp với nhu cầu xã hội với mức chi phí thấp nhất .
_ Xuất phát từ thực tiễn trong những năm qua xí nghiệp xây dựng số 2 trong việc nhận thức và quán triệt quan điểm mới về chất lượng sản phẩm và quản lý chất lượng sản phẩm . Theo tôi xí nghiệp cần nhanh chóng hoà nhập quan điểm mới ở các khía cạnh sau :
+ xí nghiệp cần tiến hành các công tác quản lý chất lượng công trình ở tất cả các khâu , các giai đoạn trong suốt qúa trình tạo ra sản phẩm là các công trình xây dựng . . Qúa trình quản lý đó không chỉ dừng lại ở việc quản lý cuói mỗi khâu mỗi giai đoạn mà nó phải được thực hiện một cách liên tục , thông suốt . ở đây có nghĩa là quán triệt nguyên tắc ngay từ đầu . Để thực hiện nguyên tắc này tốt ngay từ đầu thì phải thực hiện những yêu cầu sau :
Khâu nghiên cứu thị trường : như mẫu mã , loại hình công trình nào đang được ưa chuộng và trong tương lai sẽ được ưa chuộng tức là xác định được nhu cầu thị hiếu hiện tại và thị hiếu tương lai .
Xác định những loại nguyên vật liệu và nơi cung cấp nguyên vật liệu sẽ có chất lượng tốt , thuận tiện trong công tác cung ứng .
Xác định được trình độ công nghệ của xí nghiệp, của ngành , của khu vực , trên thế giới hiện tại , lựa chọn và tìm ra những loại công nghệ tiên tiến có thể trang bị cho xí nghiệp để đảm bảo sản xuất phù hợp với khả năng hiện có của xí nghiệp
Nghiên cứu cứu và tìm ra các nguyên vật liệu mới có thể sử dụng để nâng cao và đảm bảo chất lượng công trình , hạ giá thành công trình xây dựng
Khâu thiết kế : là khâu quan trọng tạo ra hình dáng sản phẩm, khả năng thoả mãn nhu cầu sử dụng của công trình đây là một trong những khâu quan trọng quyết định đến chất lượng công trình
Các bản thiết kế phải được giao cho các kỹ sư có trình độ cao, phải được phê duyệt trước khi đi vào thực hiện khi thiết kế. Phải căn cứ vào các kết quả nghiên cứu của bộ phận Marketing để làm sao cho công trình thể hiện qua bản thiết kế là hoàn hảo và phù hợp với nhu cầu , thị hiếu của khách hàng cả trong hiện tại và trong tương lai và thiết kế làm sao bảo đảm công trình xây dựng có tuổi thọ cao, công trình có khả năng lâu bị lạc hậu tức là thời gian công trình vẫn thích nghi phù hợp phong tục tập quán, văn hoá, môi trường ...
+) Tóm lại thiết kế công trình xây dựng hoàn hảo khi nó bảo đảm yêu cầu: mẫu mã đẹp, đảm bảo kết cấu bền vững, diện tích xây dựng nhỏ, diện tích sử dụng lớn thuận tiện sử dụng, tạo khả năng hạ chi phí giá thành có khả năng thích ứng với nhu cầu thị trường, công trình đó phải phù hợp với khả năng thực hiện.
- Khâu cung cấp nguyên vật liệu: là một bộ phận cấu thành công trình. Do đó nó ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng công trình nếu nguyên vật liệu tốt chất lượng công trình sẽ tốt và ngược lại. Vì vậy nó phải đảm bảo các yêu cầu sau:
+) Việc cung cấp nguyên vật liệu: luôn đảm bảo đúng tiến độ thi công xây lắp và có thể nhanh chóng hơn để rút gọn thời gian thi công.
+) Có khả năng làm hạ giá thành công trình: để đạt được những yêu cầu này thì xí nghiệp cần thực hiện các bước sau:
Khi đã trúng thầu xây dựng thì xí nghiệp cần xác định rõ ràng thời gian thi công - xác định rõ các phần việc và các loại nguyên vật liệu cần dùng tương ứng với từng thời điểm từng phần việc.
Tính toán khối lượng nguyên vật liệu cung cấp nó là bao nhiêu nguyên vật liệu cần dùng ứng từng thời điểm từng phần công việc và lượng nguyên vật liệu cần cung cấp. Có ý nghĩa chiến lược ( tức là mua hôm nay đem lại hiệu quả cao hơn ngày mai mặc dù ngày mai vẫn chưa dùng ). Và từ đây ta lợi dụng được chính sách bán hàng của nhà máy cung ứng
+ Đúng chủng loại :
+ Nguyên vật liệu có chất lượng cao .
- Lựa chọn những nguyên vật liệu nơi cung ứng có chất lượng tốt giá cả ưu đãi, thuận tiện trong công tác vận chuyển.
- Luôn nghiên cứu tìm ra những loại nguyên vật liệu mới, nguyên vật liệu thay thế
- Khâu thi công xây lắp :
Để quản lý chất lượng công trình xây dựng được tốt thì một trong những khâu quan trọng nhất cần được ưu tiên , chú trọng đó là khâu thi công xây lắp . Bởi lẽ khâu thi công xây lắp là qúa trình kết hợp các yếu tố vật chất ( vật tư ) kỹ thuật được bàn tay của những người thợ xây dựng để tạo ra những công trình theo thiết kế ban đầu , cuối khâu này một sản phẩm là công trình xây dựng hoàn chỉnh sẽ ra đời.
+ Việc quản lý chất lượng trong khâu thi công xây lắp cần thực hiện tốt các nội dung sau :
Tiến hành tiếp nhận vật tư theo đúng chủng loại quy cách thiết kế và tiến độ đã xác định trước. Bố trí nhân lực theo đúng ngành nghề bậc thợ do công việc yêu cầu, đồng thời với việc đảm bảo trang bị máy móc, thiết bị công cụ.
+ Hướng dẫn giám sát cán bộ kỹ thuật hiện trường xác định vị trí , kích thước, yêu cầu chất lượng, khối lượng và tiến độ cho các tổ , nhóm thợ , thường xuyên kiểm tra và điều chỉnh ( nếu có sai sót ) cho thợ làm đúng với những yêu cầu kỹ thuật đã nêu. Trong khâu này hình dáng kích thước của công trình được hình thành do vậy việc hướng dẫn kiểm tra cùng với tay nghề người thợ quyết định lớn tới chất lượng công trình xây dựng
Khâu nghiệm thu - bàn giao sử dụng bảo hành công trình xây dựng của xí nghiệp số 2 ( từ trang 56 đến cuối trang 58 )
Trước đây coi thường khâu này là chủ yếu là các thủ tục hành chính ít có tác dụng thúc đẩy chất lượng công trình xây dựng , nói như vậy không hoàn toàn sai , nếu như khâu bàn giao - sử dụng - bảo hành chủ yếu là những thủ tục hành chính thuần tuý thì nó tạo ra một chỗ hở lớn , tạo ra sự dựa dẫm , nương nhẹ trong việc quản lý chất lượng công trình ở các khâu khác , bởi lẽ nếu chất lượng công trình có thể được nghiệm thu , điều này thật là đáng ngại . Chính vì vậy mà hiện nay các xí nghiệp cần chú ý quan tâm nhiều hơn đến công tác nghiệm thu bàn giao và sử dụng và bảo hành công trình xây dựng trong khâu nghiệm thu bàn giao và sử dụng , bảo hành cần được thực hiện tốt các nội dung sau đây :
Công ty phải xác định rõ ràng công trình xây dựng chỉ được bàn giao toàn bộ cho người sử dụng khi đã xây dựng hoàn chỉnh theo thiết kế được phê duyệt và nghiệm thu đạt yêu cầu chất lượng ( kể cả việc hoàn thiện nội ngoại thất công trình và thu dọn vệ sinh môi trường ) .
Khi bàn giao công trình , phải bàn giao cả hồ sơ , hoàn thành công trình và những tài liệu về các vấn đề có liên quan đến công trình được bàn giao .
Để đảm bảo cho việc bàn giao sử dụng công trình được thuận tiện thì công tác nghiệm thu phải hết sức cẩn thận , cần được quản lý , giám sát chặt chẽ tư những người làm công tác nghiệm thu , đó là những người phải đối chiếu các chỉ tiêu chất lượng công trình xây dựng , đó phải là những máy móc thiết bi hiện đại , độ chính xác cao, cần đặc biệt chú ý không để các hiện tượng buông lỏng, nương nhẹ cố tình làm sai trong công tác nghiệm thu công trình xây dựng gây ảnh hưởng tới việc bàn giao và bảo hành công trình. Sau khi đã bàn giao sử dụng công trình thì xí nghiệp tiếp tục bảo hành công trình. Cần loại bỏ quan điểm cho rằng quản lý chất lượng công trình đươc kết thúc khi đã tiến hành bàn giao công trình sử dụng xong bởi lẽ việc bảo hành công trình trong qúa trình sử dụng là một trong những công việc có tác dụng duy trì , khôi phục kéo dài thêm giá trị sử dụng của công trình xây dựng trong qúa trình sử dụng điều này cũng có ý nghĩa là nó cũng có tác dụng rất lớn trong việc nâng cao chất lượng công trình xây dựng. Do đó mà cần phải tiếp tục công tác quản lý chất lượng công trình trong khâu bảo hành công trình.
Nội dung của công tác quản lý chất lượng công trình ở giai đoạn bảo hành công trình trong qúa trình công trình đi vào sử dụng thể hiện.
Công ty cần cần xác định rõ trách nhiệm trước pháp luật, trước xí nghiệp về chất lượng công trình bao gồm những người như : người cung cấp tài liệu , số liệu khảo sát (kể cả sản phẩm sao chụp, do vẽ, thí nghiệm) phục vụ thiết kế, xây lắp nghiệm thu, giám định công trình, chủ nhiệm đề án thiết kế, chủ thầu xây lắp, người cung ứng vật tư cho xây dựng và người giám sát xây dựng .
Xí nghiệp cần xác định rõ thời hạn bảo hành đối với từng người trên. Trong đó đối với bộ phận khảo sát, thiết kế xây lắp công trình thì do bộ xây dựng quy định , còn đối với bộ phận cung ứng vật tư thiết bị là do bộ khoa học - công nghệ và môi trường quy định .
Xí nghiệp cần tiến hành việc hướng dẫn sử dụng và cũng với việc vận hành thử công trình cho người sử dụng . xí nghiệp cần thiết phải xác định rõ lịch kiểm tra, bảo hành công trình, tiếp thu ý kiến phản ánh của người sử dụng đáp ứng một cách nhanh chóng những yêu cầu của người sử dụng để làm sao đảm bảo cho khách hàng người sử dụng luôn tin tưởng vào xí nghiệp.
Trong đổi mới nhận thức thì luận điểm ( giai đoạn sau qúa trình sản xuất là người tiêu dùng sản phẩm của bạn ) là điều kiện bắt buộc đối với hoạt động bình thường của cả qúa trình sản xuất của xí nghiệp .
Mục tiêu chủ yếu của qúa trình quản lý chất lượng của xí nghiệp là thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Đối với xí nghiệp, người tiêu dùng là giai đoạn sau của qúa trình sản xuất, là người trực tiếp được hưởng những ưu đãi về những yếu tố chất lượng của sản phẩm và như vậy hiển nhiên ngươì tiêu dùng sẽ là người đánh giá và đánh giá chính xác mức chất lượng của sản phẩm thông qua các mức độ thoả mãn những nhu cầu của họ. Như vậy một sản phẩm công trình xây dựng có chất lượng cao thì trước hết nó phải thoả mãn những yêu cầu của người tiêu dùng chứ không phải là nó thoả mãn những yêu cầu của các tiêu chuẩn quốc gia hoặc các điều kiện kỹ thuật.
Quản lý chất lượng không thể thiếu được sự điều chỉnh giá cả, thu nhập và chi phí. Đó là một quan điểm nữa mà xí nghiệp cần đổi mới, xí nghiệp cần phải có sự điều chỉnh chi phí hợp lý sao cho ứng với một mức chất lượng nhất định của công trình xây dựng là một mức chi phí nhất định mà mức chi phí này phải làm sao cho trước hết là phải phù hợp với khả năng hiện có của xí nghiệp và sau nữa là phải được thị trường chấp nhận. Khi mà xí nghiệp đã bảo đảm được những điều kiện trên thì cần phải tiếp tục cố gắng điều chỉnh mức chi phí sao cho có thể hạ thấp mức chi phí xuống mà mức chất lượng vẫn tăng hoặc không thay đổi để tạo sức mạnh cho xí nghiệp trong thị trường. Muốn đạt được những điều kiện trên thì xí nghiệp cần phải xác lập về kế hoạch chi phí cho chất lượng một cách rõ ràng, chính xác, cân đối chi phí với chất lượng, cần tính toán một cách cụ thể mức chi cần bỏ ra trước khi muốn cải thiện hoặc nâng cao chất lượng công trình, sau đó so sánh mức chi phí đó với khả năng của bản thân công trình, so sánh chi phí bình quân để cải thiện, hoặc nâng cấp chất lượng của ngành sau đó mới quyết định có nên thực hiện hay không để sao cho các công trình xây dựng do xí nghiệp tiến hành đều có chất lượng cao với mức chi phí hợp lý được người tiêu dùng chấp nhận.
Kiến nghị 2 :
Đẩy mạnh phát triển công nghệ mới và đầu tư trang thiết bị ngày càng nâng cao trình độ công nghệ xây dựng của xí nghiệp.
Đẩy mạnh phát triển công nghệ mới.
Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ xây dựng trong vài năm gần đây là kết quả của đường lối đổi mới nền kinh tế quốc dân và hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước. Sự gia tăng nhanh chóng của các công trình xây dựng công nghệ và dân dụng đã đặt ra yêu cầu mới cho đổi mới và hoàn thiện công nghệ máy móc xây dựng của xí nghiệp nhằm phục vụ mục tiêu phát triển trước mắt và lâu dài của mình.
Trước đây nguồn vốn đầu tư chủ yếu của xí nghiệp là do Nhà nước cấp, quản lý đầu tư Nhà nước, thực hiện cũng là Nhà nước. Từ đặc điểm hành chính bao cấp này dẫn đến sự thiếu coi trọng chất lượng công trình.
Hiện nay do cơ chế thị trường người chủ đầu tư công trình muốn có công trình đẹp nhất tốt nhất nhà thầu xây dựng muốn có chi phí thấp nhất trong thiết kế và thi công xây lắp, do vậy mà cần phải có một hệ thống công nghệ hiện đại tiên tiến để tăng cường hiệu quả vốn đầu tư và thi công xây lắp.
Các loại công trình trong giai đoạn hiện nay rất đa dạng và có yêu cầu cao về nhiều mặt, nhiều công trình cao tầng, kiến trúc đa dạng đòi hỏi kết cấu và trang thiết bị , tiện nghi hiện đại sử dụng nhiều loại vật liệu mới, có yều cầu về mỹ quan cũng như độ bền vững cao, yêu cầu thời gian thi công ngắn, chi phí xây dựng và vận hành công trình hợp lý.
Mặt khác nhiều công trình sử dụng vốn nước ngoài cũng như các công trình liên doanh yêu cầu chất lượng cao, theo tiêu chuẩn kỹ thuật nước ngoài đòi hỏi công nghệ xây dựng đổi mới hoàn thiện.
Thời gian qua do trình độ công nghệ xây lắp của xí nghiệp còn thấp, chủ yếu vẫn đang sử dụng các phương tiện, vật liệu xây dựng, công nghệ của công ty mang tính truyền thống, hiệu quả kinh tế thấp, tốc độ xây dựng chậm mặt bằng thi công công trình ảnh hưởng nhiều đến công tác môi trường đố cũng là nguyên nhân tạo nên những khó khăn làm cho việc đáp ứng các giải pháp kết cấu và hình thức kiến trúc hiện đại.
Chính vì lẽ đó mà yêu cầu cấp bách đặt ra với xí nghiệp hiện nay là phải tìm cách nâng cao trình độ công nghệ của mình một cách nhanh nhất để nắm bắt, đi tắt, làm chủ các công nghệ hiện đại từ đó tạo được sức mạnh, ưu thế trên thị trường xây dựng trong nước cũng như tạo điều kiện trong nước có khả năng vươn ra thị trường nước ngoài đặc biêt là một số nước láng giềng trong khu vực ...
Trong thời gian vừa qua xí nghiệp đã tiến hành đổi mới và mua sắm một số thiết bị máy móc mới như công nghệ thi công khoan coc nhồi, công nghệ kéo căng ứng trước bê tông cốt thép của Pháp, tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế là hầu hết các công nghệ mới này mới chỉ được đầu tư mua sắm để đi vào hoạt động chứ chưa kịp đầu tư nắm bắt sâu về công nghệ, việc tổng kết rút kinh nghiệm nhận chuyển giao và phân tích đánh giá các công nghệ xây dựng hiện nay vẫn chưa được thực hiện. Từ những lý do trên xét thấy xí nghiệp cần nhanh chóng đổi mới đầu tư tăng cường trình độ công nghệ xây dựng của mình theo các khía cạnh sau:
Trước hết xí nghiệp phải ý thức được trong việc đổi mới công nghệ và đầu tư cho công nghệ có ý nghĩa chiến lược cho sự sống còn trong sự nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh của xí nghiệp.
Tiến hành đầu tư phát triển các công nghệ tiên tiến về thiết kế và thi công các loại công trình cao tầng
Đầu tư phát triển các công nghệ đảm bảo an toàn, chất lượng đặc biệt coi trọng các giải pháp công nghệ mới về nền móng trong trường hợp đất yếu, giải pháp về công nghệ kỹ thuật công trình đảm bảo với điều kiện khí hậu và môi trường ở Việt Nam, bảo đảm an toàn phòng hoả, tiết kiệm sử dụng năng lượng ...
Đầu tư phát triển các công nghệ sản xuất trang bị hiện đại trong kinh doanh. Muốn đạt được những công trình có chất lượng cao phải sử dụng trang thiết bị hiện đại và đồng bộ.
Ví dụ: Công nghệ bê tông trộn sẵn phải đi đôi với xe ôtô vận chuyển vừa đi vừa trộn và máy trộn bê tông, nếu không có hai thiết bị này thi không thể sử dụng bê tông trộn sẵn có hiệu quả được. Hoặc xây dựng nhà ở cao tầng phải đi đôi với các phương tiện chuyên chở theo chiều cao nhanh chóng có hiệu quả và hiệu quả ..và hiện nay những công nghệ sản xuất, trang bị xí nghiệp cần và có thể đầu tư phát triển bao gồm :
Công nghệ giàn giáo
Công nghệ vận chuyển theo chiều cao cần trục tháp, cần cẩu bánh xích và bánh hơi, vận thăng.
Công nghệ bê tông, trạm trộn bê tông đồng bộ, xe chuyển bê tông, máy bơm bê tông các loại .
Công nghệ chế độ các loại cầu kiện, cốp pha kim loại, kích căng ứn xuất trước.
Các loại máy đào đất ...
Hình thành và trang bị hệ thống máy móc , công cụ kiểm tra chất lượng của các bộ phận làm chất lượng từ với mọi cấp tổ đội , xí nghiệp
Hệ thống các máy móc thiết bi , dụngcụ kiểm tra chất lượng là một bộ phận hết sức quan trọng trong công tác quản lý chất lượng sản phẩm. Nó là bộ phận không thể thiếu được bởi lẽ nó là tiếng nói bằng số trong công tác quản lý chất lượng xây dựng. Nếu như khách hàng không có hệ thống máy móc, công cụ này thì không thể có cách gì xác định chất lượng xây dựng cao hay thấp của công trình .
Hiện nay ở xí nghiệp xây dựng số 2, hệ thống máy móc, công cụ kiểm chất lượng đã bước đầu được trang bị, nhưng với xu hướng quốc tế hoá như hiện nay, để công ty có nhiều khả năng và cơ hội liên doanh hợp tác với những hãng xây dựng nước ngoài cùng thi công xây lắp các công trình lớn đòi hỏi kỹ thuật cao, độ chính xác lớn thì yêu cầu đặt ra với công ty là cần tiếp tục đầu tư trang thiết bị hệ thống máy móc, công cụ kiểm tra chất lượng, sao cho xí nghiệp có được một hệ thống công cụ kiểm tra chất lượng hiện đại , đầy đủ các công cụ này có độ chính xác cao , tốc độ xử lý thông tin nhanh, dễ dàng thuận tiện trong sử dụng và được sự thừa nhận của cộng đồng.
Để có thể trang bị được hệ thống công cụ chất lượng công trình tiên tiến hiện đại và đầy đủ thì xí nghiệp cần phải có nguồn kinh phí, nguồn kinh phí trong công tác đầu tư này là lấy từ sản xuất. Tiếp đó xí nghiệp phải tiếp tục nghiên cứu nắm bắt các thông tin về thị trường công nghệ xây dựng nói chung và các công nghệ kiểm tra chất lượng công trình nói riêng, xác định các loại công nghệ kiểm tra nạo là tiên tiến, hiện đại nhất là những loại nào để có thể phù hợp nhất với khả năng và điều kiện thực tế của xí nghiệp cũng như toàn ngành xây dựng hiện nay, từ đó mà xí nghiệp xác định được những loại công nghệ mà xí nghiệp cần và có thể đầu tư trang bị. Cuối cùng xí nghiệp tiến hành bỏ chi phí để đầu tư trang bị. Cũng cần chú ý rằng việc xác định loại máy móc công cụ kiểm tra chất lượng công trình cần quan tâm giá cả của chúng ra sao cho khi chọn công nghệ có được những công cụ, thiết bị vừa đảm bảo tính tiên tiến hiện đại vừa đảm bảo mức chi phí hợp lý. Với tình hình như hiện nay thì công ty cần trang bị một số loại máy móc, công cụ kiểm tra chất lượng công trình sau:
_ Máy siêu âm để kiểm tra độ khít kín của mối hàn
_ Máy súng bắn điện tử để kiểm tra cường độ bê tông
_ Máy động lực thuỷ tĩnh để kiểm tra tâm mốc
_ Đồng hồ vạn năng để kiểm tra các thiết bị điện chống sét
_ Máy bơm áp lực để kiểm tra các đường ống.
Kiến nghị 3 : Xây dựng và kiện toàn hệ thống tổ chức nói chung và bộ phận quản lý chất lượng sản phẩm - công trình nói riêng.
Trước hết xí nghiệp cần chú ý xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý nói chung và cán bộ làm công tác quản lý chất lượng nói riêng. Sắp xếp đội ngũ cán bộ này theo các phong ban, các chức danh cụ thể trên cơ sở căn cứ vào trình độ chuyên môn của từng người. Muốn vậy xí nghiệp cần xây dựng các tiêu chuẩn chuyên môn cho từng chức danh quản lý và cần nghiêm túc, chặt chẽ trong qúa trình tuyển dụng cán bộ quản lý vào xí nghiệp, làm sao cho người cán bộ quản lý phải có trình độ học vấn cao ( đại học và trên đại học ) và thực sự am hiểu sâu sắc về lĩnh vực mình đang phụ trách.
Về bộ phận quản lý chất lượng công trình thì xí nghiệp cần xây dựng một hệ thống suốt từ trên xuống dưới ( xí nghiệp - tổ, đội ) tức là xây dựng ở mỗi đơn vị trực thuộc một bộ phận, các phong ban, hay những người trực tiếp làm công tác quản lý chất lượng công trình , của cấp trên giao xuống phổ biến thực hiện ở đơn vị mình phụ trách, báo cáo kết quả và chịu trách nhiệm trực tiếp về kết quả thực hiện với cấp trên mình.
Cụ thể: ở xí nghiệp thành lập một phong ban chất lượng công trình, bao gồm những cán bộ có đầy đủ năng lực về kinh tế, kỹ thuật, am hiểu sâu sắc về chất lượng công trình có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch và chiến lược chất lượng công trình cho toàn bộ xí nghiệp, sau đó xây dựng kế hoạch thực hiện và phân nhiệm xuống các phân xưởng trực thuộc.
Ở phân xưởng cũng xây dựng một bộ phận lam chất lượng công trình ( chẳng hạn đội ngũ chất lượng công trình ) có nhiệm vụ tiếp nhận kế hoạch nhiệm vụ về chất lượng công trình từ phòng ban chất lượng công trình ở xí nghiệp phổ biến thực hiện ở phân xưởng mình đồng thới báo cáo và chịu trách nhiệm với cấp trên xí nghiệp về kết quả thực hiện của phòng ban mình.
Sự phân cấp rõ ràng nay vừa bảo đảm tính thống nhất trong quản lý, giúp cho xí nghiệp dễ dàng trong công tác quản lý nói chung và quản lý chất lượng nói riêng như qúa trình ra quyết định, quy trách nhiệm về điều chỉnh những sai lệch dễ dàng hơn , nhanh chóng hơn , ở các đơn vị trực thuộc thi thực hiện một cách năng động hơn , hiệu quả hơn .
Tiếp đó xí nghiệp cần tiến hành đào tạo cán bộ làm công tác giám sát , quản lý xây dựng nói chung và làm công tác quản lý chất lượng nói riêng .
Chúng ta cần phải nhận thức được một điều rằng quản lý chất lượng bắt đầu băng đào tạo và kết thúc từng bước đào tạo cán bộ
Đào tạo cán bộ là một công việc cấp bách bởi lẽ khách hàng không dễ gì có một đội ngũ có kiến thức về pháp luật về kinh tế và kỹ thuật với chất lượng cao cả về chuyên môn lẫn nhân cách , trong thời gian ngắn . Nếu không có lớp cán bộ được đào tạo thì dù có các phương tiện hiện đại thì công tác quản lý chất lượng sẽ trở thành lời bàn xuông .
Quản lý chất lượng đòi hỏi sự đổi mới cơ chế quản lý của toàn xí nghiệp, do đó đòi hỏi có sự thay đổi tư duy của tất cả cán bộ của xí nghiệp. Để giải quyết vấn đề này thì qúa trình đào tạo phải được tiến hành liên tục.
Côngtác đào tạo cán bộ làm công tác giám sát, quản lý xây dựng nói chung và làm công tác quản lý chất lượng xây dựng nói riêng ở xí nghiệp hiện nay cần được tiến hành theo các hướng sau:
Dạng các phương pháp quản lý ở tất cả các cấp. xí nghiệp cần triển khai những chương trình đào tạo chi tiết cho mọi cấp công tác bao gồm giám đốc các ban, các kỹ sư, đốc công, những người phổ biến hoạt động của các nhóm, công nhân sản xuất, tổ chức các khoá chuyên cho cán bộ phòng cung ứng vật tư, kỹ thuật, phòng kinh tế thị trường.
Huấn luyện dài ngày ở xí nghiệp trong thời gian vừa qua, việc dạy các phương pháp quản lý chất lượng thông thường kéo dài năm sáu ngày. Thế chưa đủ, xí nghiệp tổ chức các lớp khoá học dài hơn chẳng hạn ba, bốn tháng, hơn nữa cần có nhiều buổi trong tháng. Học viên trong mỗi tuần hoặc tháng học thì đem những kiến thức đã học áp dụng vào thực tiễn nơi làm việc. Sau đó họ chuyển sang giai đoạn học sau đã được trang bị những kết quả hoạt động thực tiễn vừa qua, nói cách khác chương trình đó đòi hỏi lý thuyết và thực hành luân phiên nhau. Có như vậy thì chương trình đào tạo mới thu được kết quả cao.
Sự huấn luyện phải liên tục. Hằng năm chương trình huấn luyện tổng hợp đều bổ sung những khoá mới bởi lẽ mỗi năm mỗi người qua thêm một tuổi và lại có những cán bộ mới đến làm ở xí nghiệp do đó qúa trình huấn luyện phải xây dựng sao cho đáp ứng được những nhu cầu của xí nghiệp và của các thành viên trong xí nghiệp .
Kiến nghị 4: xí nghiệp cần dựa vào đội ngũ công nhân kỹ thuật bậc cao, thợ đầu đàn làm nòng cốt đồng thời có những chính sách khuyến khích lợi ích vật chất cho cán bộ công nhân để nâng cao chất lượng công trình xây dựng.
Để có nhiều công trình có chất lượng cao xí nghiệp cần phải dựa vào lực lượng công nhân kỹ thuật bậc cao thợ đầu đàn của các ngành nghề của xí nghiệp, giao trách nhiệm và động viên công nhân giữ gìn vai trò hạt nhân trong công việc giúp đỡ công nhân trong tổ sản xuất, thi công theo quy trình quy phạm, tiêu chuẩn kỹ thuật, bảo nhau làm theo bản thiết kế, chống làm dối làm ẩu để đảm bảo công trình đạt chất lượng cao theo yêu cầu công việc. Mặt khác xí nghiệp cũng cần phải chú ý đến chế độ lương thưởng theo số lượng và chất lượng công việc, trong đó có khuyến khích đơn giá lương, khoán với những công việc đạt chất lượng theo yêu cầu, tiêu chuẩn quy định của xí nghiệp. Đồng thời cần có chế độ trợ cấp cho công nhân, thợ đầu đàn trong những trường hợp tạm thiếu việc làm, trong trừong hợp gia đình có hiếu, hỷ ... Nhờ đó mà tạo ra sự gắn bó lâu dài giữa công nhân với xí nghiệp. Đây là những việc cần làm bởi lẽ công nhân là người trực tiếp làm ra sản phẩm, công trình đạt chất lượng cao.
Ở xí nghiệp số 2 chú ý hết sức đến việc động viên công nhân viên chức trong toàn xí nghiệp phát huy sáng kiến, cái tiến bộ kỹ thuật áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đổi mới công nghệ trong sản xuất xây lắp nhằm đạt được năng suất, chất lượng hiệu quả cao.
Ở xí nghiệp sử dụng số 2 hiện nay cũng bao công ty, xí nghiệp xây dựng khác công nhân của xí nghiệp gồm 2 bộ phận đã qua biên chế đào tạo và một bộ phận hợp đồng theo thời vụ chưa qua đào tạo hoặc có chăng thì cũng chỉ qua tập huấn 1-2 ngày. Đây hiện đang là một trong những khó khăn đối với xí nghiệp trong việc quản lý chất lượng công trình xây dựng. Tỉ lệ công nhân được đào tạo theo biên chế , giảm số công nhan hợp đồng theo thời vụ hoặc là tiến hành đào tạo nâng cao trình độ tay nghề của đội ngũ công nhân hợp đồng theo thời vụ , tăng cường công tác kiểm tra đánh giá tay nghề trong khâu tuyển dụng ký hợp đồng với đội ngũ công nhân hợp đồng theo thời vụ này .
Trong qúa trình làm việc cần tổ chức theo dõi , giám sát chặt chẽ để tránh hiện tượng bỏ bê công việc, làm việc thiếu trách nhiệm của công nhân. Cần cho công nhân nhận thức được rằng quản lý chất lượng công trình không phải là công việc của một ai mà của mọi ngươì cùng tham gia làm công trình. Công nhân cũng phải chịu trách nhiệm đối với chất lượng công trình.
Kiến nghị 5 : áp dụng các phương pháp thống kê trong quản lý chất lượng công trình có thể nói từ trước đến giờ, ở xí nghiệp xây dựng số 2 vẫn tồn tại một cách thuần tuý một phương pháp quản lý chất lượng công trình đó là kiểm tra và điều chỉnh, điều này như đã phân tích là gây ra sự lãng phí lớn và khó khăn cho khách hàng năng tránh khỏi sự lặp lại. Để khách hàng khắc phục điều này thì xí nghiệp nên đổi mới phương pháp quản lý theo hướng kiểm tra phân tích, điều chỉnh tức là tiến hành kiểm tra phát hiện sai hỏng sau đó tiến hành điều chỉnh. Cái mới ở đây là thêm bước phân tích - phân tích thống kê.
Phân tích thống kê thường được áp dụng và tiến hành phân tích chất lượng sản phẩm và qúa trình nó cho phép làm rõ mọi liên hệ giữa các yếu tố nguyên nhân và kết quả, cho phép tìm kiếm các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm.
Đá
CƯỜNG ĐỘ BÊ TÔNG THẤP
CÔNG NGHỆ
MÔI TRƯỜNG
NGUYÊN VẬT LIỆU
CON NGƯỜI
THIẾT BỊ
Độ bẩn
Phụ gia
Tính chất
Độ bẩn
Cát
Xi măng
Độ ẩm
Nhiệt độ
Cách thức
Đường bộ
Thời gian
Máy
Trộn
Động lực
Thời gian
Tình trạng
Thời gian
Máy đầm
Tư tưởng
Phân tán
Trách nhiệm
Không
nghiêm
Quản lý
Cấp bậc bình quân
Trình độ kỹ thuật
Giáo dục chưa tốt
Năng lượng
Định lượng
Cỡ hạt
Định
lượng
Định
lượng
Định
lượng
Bảo quản
Ở đây xin giới thiệu cụ thể về phương pháp sơ đồ nhân quả còn gọi là sơ đồ cành cây, sơ đồ xương cá.
Chất lượng sản phẩm chịu ảnh hưởng ở mức độ khác nhau của các yếu tố chính lại chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố có liên quan theo thứ bậc từ lớn tới nhỏ. Có thể đưa ra năm yếu tố cơ bản thường gây ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm - công trình xây dựng là: Vật liệu, thiết bị máy móc, phương pháp công nghệ và môi trường sản xuất kinh doanh (xem sơ đồ trang 77).
Khi phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng công trình phải đi từ tổng quát đến cụ thể, từ ngoài vào trong, từ lớn đến nhỏ, để nắm bắt đúng, chi tiết về bản chất. Loại sơ đồ này được sử dụng thuận lợi trong quản lý chất lượng toàn diện cho phép xí nghiệp tìm ra những nguyên nhân từ lớn đến nhỏ nằm trong qúa trình sản xuất kinh doanh của xí nghiệp.
Ta ví dụ: Theo dõi kiểm tra cường độ kết cấu bê tông do một đội xây dựng thực hiện thấy cường độ bê tông thấp hơn so với quy định, ta có thể vẽ sơ đồ xương cá để phân tích và tìm ra nguyên nhân hiện tượng này như sơ đồ xương cá (trang 77)
Phương pháp sơ đồ nhân quả (Sơ đồ xương cá trang 77) còn giúp xí nghiệp đưa ra những biện pháp cải tiến nâng cao chất lượng công trình đúng nơi, đúng chỗ và có hiệu qủa, nó là một công cụ quan trọng đáp ứng kiểm soát chất lượng toàn diện trong đó có kiểm tra chất lượng.
Kiến nghị 6: Trong qúa trình tham gia dự thầu xây dựng công trình, xí nghiệp cần nhận rõ yêu cầu về kỹ thuật không đơn thuần là một tài liệu giải thích kỹ thuật cho bản vẽ mà nó còn là một bộ phận cấu thành hồ sơ mời thầu và quyết định giá thành của hợp đồng mà nhà thầu thắng thầu sẽ ký kết với chủ đầu tư .
Trong bất kỳ hồ sơ mời thầu nào cũng bao gồm 2 nội dung cơ bản đó là nhà đầu tư đưa ra mức giá dự thầu và các yêu cầu về kỹ thuật về công trình của mình, trong đó các yêu cầu kỹ thuật là tài liệu bằng văn bản mô tả chi tiết nội dung công việc, vật liệu sử dụng, phương pháp lắp đặt và yêu cầu chất lượng nhằm nhân công để thực hiện một công việc đã được ký kết trong hợp đồng kinh tế.
Nhiều năm trước đây trong xây dựng chưa bắt buộc tiến hành đấu thầu chỉ từ khi ban hành quy chế đầu thâù xây lắp số 60 BXD/ VKT ngày 30 /3/1994 điều lệ quản lý xây dựng cơ bản có những quy định về đấu thầu xây lắp thì công việc soạn thảo " các yếu tố kỹ thuật " trong hồ sơ đấu thầu mới được thực hiện. Chính vì vậy mà xí nghiệp xây dựng số 2 cũng như các công ty xây dựng khác ít nhiều chưa quan tâm đến các yêu cầu kỹ thuật này, họ chỉ coi đó là những tài liệu giải thích kỹ thuật cho bản thiết kế. Họ chỉ chú trọng đến khối lượng và thời gian khi đưa ra giá trị thầu, điều này đã làm cho giá thầu nhiều khi chưa đủ để thực hiện công việc với các yêu cầu kỹ thuật tương ứng. Do vậy mà khi thắng thầu, tiến hành xây dựng thì không đảm bảo đúng yêu cầu kỹ thuật dẫn đến chất lượng công trình kém hay nếu đảm bảo được các yêu cầu kỹ thuật thì sẽ làm cho giá công trình tăng lên.
Ta lấy ví dụ:
Trong một cuộc đấu thầu trong các yêu cầu kỹ thuật chủ đầu tư đưa ra yêu cầu sử dụng đá đổ bê tông là một loại đá có cường độ cao chỉ có ở miền trung nước ta để chế tạo bê tông có cường độ cao. Công ty thắng thầu đã không để ý tới việc này vì cho rằng đá để đổ bê tông là loại vật liệu thông thường, khi thi công công ty đã buộc phải bỏ qua yêu cầu kỹ thuật này vì công trình lại ở Hà nội, điều này dẫn đến chất lượng bê tông nói riêng hay chất lượng công trình nói chung đã giảm thấp.
Trong cuộc đấu thầu khác trong các yêu cầu kỹ thuật nối xây là một dọc một ngang công ty không tính đến nên để tốn nhiều nhân công để thực hiện công việc này gây tốn phí lớn.
Qua phân tích ở trên ta thấy công tác quản lý chất lượng công trình thì yêu cầu xí nghiệp cần có sự quản lý ngay cả trong khâu đấu thầu, cần quan tâm nghiên cứu kỹ về yêu cầu kỹ thuật trong hồ sơ mời thầu khi quyết định định giá trị dự thầu ,để đảm bảo khả năng thực hiện và bảo đam chất lượng công trình xây dựng.
Một số ý kiến với nhà nước
Về phía nhà nước để đảm bảo tốt, tạo điều kiện, môi trường thuân lợi cho công tác quản lý chất lượng công trình ở xí nghiệp xây dựng số 2 cũng như các công ty khác trong cả nước thì theo tôi Nhà nước tiến hành thực hiện một số việc sau đây :
Thứ nhất: Nhà nước cần tiếp tục, sửa đổi, bổ sung và ban hành quy chế đấu thầu nhằm tiếp tục đổi mới quản lý đầu tư xây dựng, đáp ứng tăng cường quản lý lĩnh vực này trong giai đoạn đổi mới. Trong đó Nhà nước cần quan tâm chú ý đến " các yêu cầu kỹ thuật " trong các hồ sơ mời thầu bắt buộc các hồ sơ 2 phải có và làm sao cho trong đấu thầu ngày mội nghiêm về đấu các yêu cầu kỹ thuật hơn là về đấu giá, tức là nhà đầu tư đưa ra các yêu cầu kỹ thuật cao và ngày càng cao trong hồ sơ mời thầu. Các nhà đấu thầu sẽ xem đánh giá nếu bảo đảm được hơn thì thắng thầu, lấy các yêu cầu kỹ thuật là tiêu chuẩn để nghiệm thu bàn giao công trình khi đã hoàn thành.
Thứ hai: phải thiết lập một chính sách chiến lược trong ngành xây dựng và vạch ra các bước thực hiện cụ thể trong đó cần nhìn rộng ra thế giới và khu vực để học tập nhằm tăng tốc độ và đuổi kịp trình độ chung trong thời gian ngắn nhất.
Thứ ba: Phải hoàn thiện quản lý chất lượng thống nhất từ Cục giám định Nhà nước về chất lượng công trình xây dựng tới các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương, các bộ và cơ quan ngang bộ, các tổng công ty lớn. Thực hiện chế độ phân cấp, nhằm quản lý cho công tác quản lý chất lượng của các công trình xây dựng trong phạm vi toàn quyền.
Thứ tư : Phải đánh giá phân loại và quản lý được các tổ chức tư vấn hành nghề đảm bảo chất lượng cho các sản phẩm à công trình xây dựng. Muốn quản lý chất lượng công trình thì phải quản lý và kiểm tra các chất lượng hoạt động của các tổ chức này trong qúa trình làm ra sản phẩm thiết kế, khảo sát lập dự án thiết kế - các giai đoạn thi công xây lắp và cả trong quy trình khai thác sử dụng hoạt động có chất lượng của thị trường cung cấp dịch vụ chất xám này sẽ đảm bảo cho thị trường xây dựng lành mạnh.
Thứ năm: Phải đầu tư thiết bị đo lường và thí nghiệm ở cấp độ khác nhau để tạo thành một hệ thống các phòng thí nghiệm sắp tới các phòng thí nghiệm phải được phân theo ba cấp:
Phòng thí nghiệm của các nhà đầu tư xây dựng, phòng thí nghiệm này đảm bảo chất lượng công việc của nhà thầu xây lắp.
Phòng thí nghiệm tĩnh hoặc phòng thí nghiệm hậu trường của các đơn vị tư vấn, quản lý chất lượng. Các phòng thí nghiệm này giúp cho chủ đầu tư kiểm soát chất lượng công trình của các nhà thầu xây lắp.
Phòng thí nghiệm trọng điểm thực hiện các xí nghiệp trọng tài hoặc phúc tra, phục vụ các cơ quan quản lý Nhà nước về chất lượng. Các phòng thí nghiệm này có thể đặt ở các viện nghiên cứu lớn, các trường đại học lớn vì ở đó có đội ngũ chuyên gia giỏi đủ năng lực tổ chức thực hiện và đánh giá.
Hệ thống các phong thí nghiệm với trang thiết bị hiện đại đội ngũ cán bộ thí nghiệm viên tinh thông nghề nghiệp và đội ngũ kỹ sư giỏi sẽ là công cụ không thể thiếu được trong qúa trình quản lý chất lượng công trình xây dựng.
Tới một thời điểm nào đó chỉ các tổ chức tư vấn các phòng thí nghiệm được công nhận theo ISO-9000 mới có quyền tham gia công việc đảm bảo chất lượng công trình xây dựng. Thời điểm đó sẽ không còn xa nữa vì qúa trình công nhận lẫn nhau giữa các nước ASEAN đã tới gần.
Thứ 6 là: Nhà nước cần tổ chức hội nghị chất lượng công trình xây dựng trong toàn quốc để bàn về các biện pháp lớn nhằm tăng cường năng lực của các Nhà nước trong lĩnh vực khảo sát thiết kế thi công xây lắp và nghiệm thu công trình, sản xuất vật liệu xây dựng, cung ứng vật tư thiết bị, phục vụ xây dựng công trình, tăng cường năng lực của ban quản lý dự án, công trình các công ty tư vấn đầu tư và xây dựng, hệ thống kiểm định và đánh giá chất lượng công trình, hệ thống giám định Nhà nước về chất lượng.
Thứ bảy: Cần có quy chế khuyến khích các doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp Trách nhiệm hữu hạn trong việc áp dụng tiêu chuẩn Quốc tế về chất lượng như ISO 9000 trong xây dựng và tiêu chuẩn chất lượng Việt Nam
ISO 8402-1994
TCVN 5814-1994
ISO 9000-1
TCVN 5200-1994
ISO 9001-1994
TCVN 5201-1995
ISO 9002-1994
TCVN 5202-1995
ISO 9003-1994
TCVN 5203-1995
ISO 9004-1-1994
TCVN 5204-1-1995
ISO 9004-2-1994
TCVN 5204-2- 995
ISO 10011-1- 1994
TCVN 5950-1-1995
ISO 10011-2- 1994
TCVN 5950-2-995
ISO 10011-3- 1994
TCVN 5950-3-1995
ISO 10013-1994
TCVN 5951-1995
Thứ tám là: Nhà nước cần có chương trình, kế hoạch văn bản pháp quy biên soạn các phương pháp luận của đảm bảo và nâng cao chất lượng công trình xây dựng, những người thẩm định viên, thẩm kế viên và giám định viên xây dựng.
KẾT LUẬN
Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước như nước ta hiện nay. Mọi tổ chức sản xuất kinh doanh đều đang đứng trước những khó khăn thử thách lớn trong việc làm như thế nào để tồn tại và phát triển được trước các tổ chức sản xuất kinh doanh trong và ở khu vực cũng như trên thế giới. Khó khăn và thách thức này chỉ có thể giải quyết khi doanh nghiệp chú trọng đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm của mình mà muốn vậy thì không còn gì khác là phải nâng cao chất lượng của công trình quản lý chất lượng sản phẩm.
Quản lý chất lượng công trình ở xí nghiệp số 2 hiện nay cũng như ở một số công ty xây dựng khác vẫn đang ở bước giao thời từ nhận thức đến thực hiện, vẫn chưa được đúng đắn và hiệu quả do đó mà nó đòi hỏi sự đổi mới và hoàn thiện việc đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý chất lượng công trình xây dựng ở xí nghiệp xây dựng số 2 chỉ có thể thành công khi xí nghiệp xác định được những tồn tại của công tác quản lý chất lượng tìm ra những nguyên nhân của nó từ đó đưa ra một hệ thống các giải pháp khắc phục, đối chiếu với các giải pháp với khả năng hiện thực của công ty để tìm ra biện pháp hiệu quả nhất , có tính khả thi cao để rồi áp dụng một cách triệt để.
Việc đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý chất lượng công trình xây dựng ở xí nghiệp xây dựng số 2 cũng cần phải có sự hỗ trợ kết hợp cuả Nhà nước. Nhà nước cần có chính sách, biện pháp của mình để tạo ra một môi trường thuận lợi cho các công ty nói chung và xí nghiệp xây dựng số 2 nói riêng trong việc thực hiện công tác quản lý chất lượng sản phẩm.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Quản trị kinh doanh – NXB thống kê - 2000
Nguyễn Trí Tụng – QTCL – sản phẩm
Quản trị dự án đầu tư - NXB thống kê - 2000
Quản tri chất lượng sản phẩm theo phương pháp Nhật bản
Giáo trình tổ chức thi công - ĐHXD
Quản lý chất lượng đồng bộ
Điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng
Các tiêu chuẩn nghiệm thu kỹ thuật công tác bê tông, lề cốt thép – Bộ XD
Các tạp chí xây dựng
Các điều lệ xây dựng cơ bản
Báo cáo tổng kết của xí nghiệp xây dựng số 2 giai đoạn 1994-2001
MỤC LỤC
Bảng kê những chữ viết tắt
NHẬN XÉT CỦA XÍ NGHIỆP XÂY DỰNG SỐ 2
Trong thời gian thực tập tại xí nghiệp xây dựng số 2 sinh viên Trịnh Ngọc Chuân luôn chấp hành tốt nội quy, quy chế của xí nghiệp đề ra.
Sinh viên Chuân đi sâu vào tìm hiểu, nghiên cứu tình hình thực tế về công tác chất lượng công trình xây dựng của xí nghiệp.
Chuyên đề của sinh viên Chuân đã phản ánh xác thực công tác chất lượng sản phẩm công trình mà xí nghiệp đang áp dụng. Đồng thời đã đề xuất một số biện pháp với xí nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả chất lượng công trình trong những năm tới.
Hà Nội, ngày 23 tháng 04 năm 2002
BẢNG KÊ CÁC CHỮ VIẾT TẮT
IOTC: Tổ chức tiêu chuẩn chất lượng Nhà nước Liên Xô
ISO: Tổ chức tiêu chuẩn chất lượng thế giới
CP: Chính phủ
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
KCS: Kiểm tra chất lượng sản phẩm
PDCA: Phòng quản lý chất lượng
P: Cải tiến
D: Kiểm tra
C: Thực hiện
A: Củng cố
TQM: Quản lý chất lượng đồng bộ
SDCA: Tiêu chuẩn hoá, thực hiện, kiểm tra, hành động
TCVN: Tiêu chuẩn chất lượng Việt Nam
MEC: Uỷ ban điện kỹ thuật
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- E0024.doc