Đề tài Một số vấn đề về công tác quản lý tài chính tại công ty Dệt kim Thăng Long - Đánh giá phân tích các giải pháp

Ngoài nguồn vốn mà Nhà nước đầu tư, doanh nghiệp Nhà nước còn được quyền huy động vốn phục vụ mục tiêu kinh doanh dưới các hình thức phát hành trái phiếu để vay nợ dài hạn, ngắn hạn, nhận góp vốn kinh doanh, vốn tín dụng và các hình thức khác. Việc huy động các nguồn vốn này không được làm thay đổi các hình thức sở hữu của doanh nghiệp. + Nguồn vốn liên doanh liên kết: đây là một hình thức huy động vốn cho doanh nghiệp, nó làm nổi bật vai trò tạo lập vốn cho doanh nghiệp, khai thác được lợi thế của các bên tham gia. + Nguồn vốn huy động thông qua phát hành trái phiếu. Trái phiếu là một công cụ tài chính quan trọng dễ sử dụng vào mục đích vay dài hạn, đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh. Việc phát hành trái phiếu cho phép các doanh nghiệp có thể thu được rộng rãi số tiền nhàn rỗi trong xã hội để mở rộng sản xuất kinh doanh của mình.

doc68 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1118 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số vấn đề về công tác quản lý tài chính tại công ty Dệt kim Thăng Long - Đánh giá phân tích các giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uá cao so với tổng tài sản lưu động. Do vậy công ty cần phải có những biện pháp thúc đẩy lưu chuyển nhanh từng hàng hoá tránh tình trạng ứ đọng vốn. - Về nguồn vốn Vốn vay của công ty trong 2 năm 1999-2000 chiếm tỷ trọng không lớn (22,99% và 19,49%) trong năm 2000 đã có tăng hơn so với năm 1999 là 138338252 VNĐ. Trong đó tổng số phải trả tiền hàng chiếm tỷ lệ nhỏ, còn phần vốn vay ngân hàng lại chiếm tỉ lệ lớn. Cho nên lãi phải trả nhiều, ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Vốn chủ sở hữu rất cao thể hiện khả năng tự tài trợ của doanh nghiệp ngày càng tăng lên (72,2% năm 1999 và 80,5% năm 2000). Điều đó chứng tỏ doanh nghiệp có khả năng đứng ta tự chủ về tài chính trong kinh doanh. Đây là một cố gắng vượt bậc của lãnh đạo công ty cũng như các cán bộ công nhân viên trong kinh doanh, mặc dù thị trường may mặc còn nhiều khó khăn. 3. Đánh giá tình hình tài chính tại công ty Dệt kim Thăng Long 3.1. Tình hình công nợ và khả năng thanh toán công nợ Bảng 8 (trang bên) - Phân tích tình hình vốn phải thu Nhìn vào bảng ta thấy các khoản phải thu trong năm 2000 tăng so với 2 năm trước đây và tăng lên một cách đáng kể so với năm 1998. Điều này cho thấy công tác quản lý tài chính tại công ty là chưa tốt, công ty đang rơi vào tình trạng bị chiếm dụng vốn lớn. Nguyên nhân chủ yếu là do các khoản phải thu của khách hàng tăng lên. Năm 2000 khoản phải thu của khách hàng lên tới 1099968362 VNĐ chiếm tỷ trọng 87,5% trong tổng số công nợ phải thu. Đây là vấn đề còn tồn tại trong công tác tài chính của công ty. Mặc dù đã có cố gắng trong công tác thu nợ, nhưng trong 3 năm gần đây số thu hồi được không nhiều. Do đó, số tiền khách hàng chiếm dụng vốn của công ty còn cao. Tuy nhiên, với đặc thù là một công ty sản xuất kinh doanh trong ngành may mặc, hoạt động trong thị trường có cạnh tranh cao, hơn nữa cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực Đông Nam á đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới hoạt động kinh doanh của công ty Dệt kim Thăng Long, các khách hàng phần lớn là các doanh nghiệp nhà nước có nguồn vốn do ngân sách nhà nước cấp. Các nguyên nhân này gây ra khó khăn trong việc thu hồi nợ của công ty. Tóm lại, trong thời gian tới công ty cần xem xét nghiêm túc các khoản tài chính phải thu, tránh bị chiếm dụng vốn kinh doanh, qua đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, mang lại hiệu quả cao nhất cho công ty. - Phân tích các khoản phải trả Trong năm 1998 khi các khoản thu hồi nợ của công ty giảm thì các khoản nợ lại tăng cao tăng 189595988 VNĐ so với năm 1999 và tăng 151237736 VNĐ so với năm 2000 Con số này phản ánh tình hình công ty chiếm dụng vốn kinh doanh của các đơn vị khác. Để làm rõ hơn, ta cần đi sâu vào phân tích các nhân tố ảnh hưởng. + Công ty không có các khoản vay dài hạn. + Vay ngắn hạn (nguồn vốn chủ yếu từ ngân hàng). Năm 1999 vốn vay từ ngân hàng đã giảm đi 600000 VNĐ so với năm 1998. Đây là dấu hiệu đáng mừng, điều đó chứng tỏ công ty đã tích cực chiếm dụng vốn hợp pháp, thu hồi vốn công nợ để bổ xung vào vốn kinh doanh. Từ đó tránh phải vay nguồn vốn ngắn hạn từ ngân hàng, tăng lợi nhuận lên vào năm 1999 từ việc tránh phải trả lãi. Sang đến năm 2000 vốn vay từ ngân hàng lại tăng lên so với năm 1999, tăng 40.000.000 VNĐ so với năm 1999. Nhưng điều quan trọng hơn, trong tình hình kinh doanh khó khăn, các ngân hàng xiết chặt các khoản vay nợ, công ty đã điều chỉnh lại phương hướng kinh doanh, qua đó đã vượt qua khó khăn, từng bước đưa công ty phát triển. + Phải trả cho người bán Trong điều kiện bị chiếm dụng vốn kinh doanh, công ty đã tìm cách bù đắp nguồn vốn kinh doanh của mình bằng việc chiếm dụng vốn của người bán. Nhưng trên thực tế số tiền chiếm dụng hợp pháp mà công ty có được từ phía người bán năm cao nhất chỉ lên tới 99.783.388 VNĐ (vào năm 2000). Việc chiếm dụng vốn hợp pháp là việc làm bình thường của các doanh kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Điều này cũng chứng tỏ công ty chưa có uy tín cao trong lĩnh vực kinh doanh. + Người mua trả tiền trước Khoản chiếm dụng này vào năm 1999 tăng cao nhất trong 3 năm, nhưng chỉ đạt 24925000 VNĐ. Điều này nói lên công ty chưa thực sự có chính sách kinh doanh hợp lý. Trong điều kiện thị trường có tính cạnh tranh cao công ty cần có chiến lược kinh doanh tốt để từ đó giữ được uy tín trên thị trường, thu hút được khách hàng, tăng khả năng cạnh tranh nhưng vẫn đảm bảo độ an toàn, hạn chế rủi ro, nâng cao lợi nhuận. - Phân tích khả năng thanh toán của công ty Hệ số khả năng thanh toán tổng quát = Hệ số khả năng thanh toán tạm thời = Hệ số khả năng thanh toán nhanh = Bảng 9: Khả năng thanh toán của công ty Chỉ tiêu Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 1. Hệ số khả năng thanh toán tổng quát 7,38 4,76 5,64 2. Hệ số khả năng thanh toán nhanh 1,1 0,51 1,09 3. Hệ số khả năng thanh toán tạm thời 2,16 1,33 1,81 (Nguồn: Báo cáo quyết năm 1998, 1999, 2000 Công ty Dệt kim Thăng Long) + Hệ số thanh toán tổng quát như trên là rất tốt, chứng tỏ tất cả các khoản huy động bên ngoài đều có tài sản đảm bảo. Hệ số này khá khả quan vào năm 1998 (năm 1998 doanh nghiệp cứ đi vay 1đ thì có 7,38 đồng tài sản đảm bảo). Năm 1999 tuy có giảm hơn so với năm 1998 và 2000 nhưng vẫn đạt tỷ lệ cao (4,76 lần). Sang năm 2000 doanh nghiệp cứ đi vay 1đ thì có 5,64 đồng tài sản để đảm bảo). + Hệ số khả năng thanh toán tạm thời vào năm 1999 là nhỏ nhất so với năm 1998 và năm 2000 nhưng vẫn có thể coi là an toàn. Điều này chứng tỏ công ty luôn có khả năng chi trả các món nợ, các khoản chi phí hiện thời. Tuy nhiên không phải hệ số này càng lớn càng tốt, vì khi có một lượng TSLĐ tồn trữ lớn phản ánh việc sử dụng tài sản không hiệu quả vì bộ phận này không vận động, không sinh lời. - Về tình hình tài chính và khả năng thanh toán nhanh vào năm 1999 có kém lạc quan hơn, tỉ lệ thanh toán nhanh chỉ còn 51% (trong khi năm 1988 là 110%) và năm 2000 là 109%). Tuy vậy các khoản vay ngân hàng công ty luôn đảm bảo đúng hạn cả nợ gốc lẫn lãi suất, không để tình trạng quá hạn. 3.2. Một số chỉ tiêu và tỷ lệ tài chính chủ yếu của công ty Bảng 10: Một số chỉ tiêu tài chính chủ yếu trong 3 năm 1998-1999-2000 Chỉ tiêu 1998 1999 2000 1. Hệ số nợ tổng tài sản 0,22 0,228 0,195 2. Hệ số cơ cấu nguồn vốn CSH 0,78 0,7772 0,805 3. Vòng quay hàng tồn kho 3,49 3,37 4,57 - Kỳ luân chuyển hàng tồn kho 103 ngày 106 ngày 78 ngày 4. Vòng quay các khoản phải thu 21,6 vòng 10,8 vòng 5,32vòng 5. Kỳ thu tiền trung bình 16,6 ngfy 33,3 ngày 67,6 ngày 6. Tỷ suất doanh lợi vốn chủ sở hữu 0,01 0,02 0,01 7. Tỷ suất doanh lợi doanh thu 0,014 0,021 0,011 8. Tỷ suất doanh lợi tổng vốn 0,009 0,016 0,008 (Nguồn: Báo cáo quyết toán 3 năm 1998-1999-2000 công ty Dệt kim Thăng Long) - Chỉ tiêu lợi nhuận và phân phối lợi nhuận + Cả 3 chỉ tiêu về khả năng sinh lợi của doanh nghiệp đều phản ánh rõ khả năng sinh lợi của doanh nghiệp là chưa tốt. Tỷ suất doanh lợi doanh thu năm 1998 là 1,4%, năm 1999 là 2,1% và năm 2000 là 1,1%. Trong 3 năm, năm 1999 là năm công ty đạt được tỷ suất doanh lợi doanh thu cao nhất 2,1% (con số này thể hiện trong 1 đồng doanh thu mà doanh nghiệp thực hiện chỉ có 0,021 đồng lợi nhuận) Đặc biệt nhìn vào chỉ tiêu tỷ suất doanh lợi vốn chủ sở hữu, ta thấy cứ 1 đồng vốn bỏ ra thì năm 1998 thu được 0,01 đồng lợi nhuận, năm 1999 thu được 0,02 đồng và năm 2000 thu được 0,01 đồng. Mặc dù năm 1999 các chỉ tiêu doanh lợi đều cao hơn các năm 1997, 2000. Nhưng đây là con số quá thấp đối với công ty. Chính vì lẽ đó mà công ty Dệt kim Thăng Long cần cố gắng hết sức mình vượt qua sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường để đạt được kết quả tốt. - Chỉ tiêu về cơ cấu tài chính + Chỉ tiêu trong bảng trên ta thấy nguồn vốn chủ sở hữu của công ty là tương đối cao Năm 1998 chiếm 78%, năm 1999 chiếm 77,2% và năm 2000 chiếm 80,5% trong tổng nguồn vốn. Điều đó cho thấy hoạt động của công ty chủ yếu dựa vào nguồn vốn chủ sở hữu. + Về chỉ số nợ tổng tài sản. Trong 3 năm ta thấy mức độ phụ thuộc của công ty đối với các chủ nợ là tương đối thấp. Năm 1998 là 22%, năm 1999 là 22,8% và năm 2000 là 19,5%. Đây là con số đáng khích lệ, chứng tỏ công ty có tính độc lập cao với các chủ nợ, do đó không bị ràng buộc hoặc bị sức ép của các khoản nợ vay. - Chỉ tiêu về năng lực hoạt động + Vòng quay hàng tồn kho của công ty trong 3 năm gần đây là không cao, điều đó cho thấy hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty chưa tốt. Năm 1998 số vòng quay hàng tồn kho là 3,49 vòng, tương ứng với 103 ngày. Năm 1999 là 3,37 vòng tương ứng với 106 ngày và năm 2000 tuy là năm đạt số vòng quay cao nhất, nhưng dữ đạt được 4,57 vòng tương ứng 78 ngày. Như vậy kỳ luân chuyển hàng tồn kho (hay kỳ đặt hàng bình quân của doanh nghiệp) quá dài (năm cao nhất lên tới 106 ngày). Như vậy công ty cần xem xét lại hoạt động sản xuất kinh doanh của mình để từ đó tăng số vòng quay hàng tồn kho và do đó giảm được kỳ luân chuyển hàng tồn kho + Vòng quay các khoản phải thu Vòng quay lớn nhất vào năm 1998, chứng tỏ tốc độ thu hồi các khoản phải thu nhanh nhất trong 3 năm (đạt 21,6 vòng), năm 1999 đạt 10,8 vòng, và năm 2000 công ty gặp khó khăn trong việc thu hồi khoản nợ (đạt 5,32 vòng) + Kỳ thu tiền trung bình Kỳ thu tiền trung bình phản ánh số ngày cần thiết để thu được các khoản phải thu (số ngày của một vòng quay các khoản phải thu). Vòng quay các khoản phải thu càng lớn thì kỳ thu tiền trung bình càng nhỏ. Tương ứng với số vòng quay các khoản phải thu trong 3 năm 1998, 1999, 20000 là 21,6 vòng, 10,8 vòng, 5,32 vòng thì số ngày của một vòng quay đó là 16,6 ngày; 33,3 ngày và 67,6 ngày. Tóm lại: Qua phân tích tình hình tài chính trên có thể đánh giá trong 3 năm 1998-1999-2000 công tác quản lý tài chính tại công ty Dệt kim Thăng Long chưa thực sự tốt. Xong với khí thế sôi động của thị trường, xu hướng đô thị hoá đang diễn ra khắp mọi nơi đã làm bùng nổ nhu cầu may mặc. Thêm vào đó công ty Dệt kim Thăng Long trong những năm tới chắc chắn sẽ có những nỗ lực phấn đấu, phát huy những lợi thế sẵn có tiếp cận với sự đổi mới của kinh tế thị trường từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng như hiệu quả công tác quản lý tài chính. Phần III Đánh giá công tác quản lý tài chính tại công ty Dệt kim Thăng Long Trong quá trình hoạt động kinh doanh đặc biệt là những năm gần đây công ty Dệt kim Thăng Long đã trải qua một giai đoạn đầy khó khăn và thách thức, là một doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh trong lĩnh vực may mặc. Chuyển sang cơ chế thị trường công ty đã gặp phải nhiều khó khăn trong việc đổi mới tư duy làm việc, phong cách kinh doanh, cũng như phải đương đầu với sự cạnh tranh mạnh mẽ của các đơn vị sản xuất kinh doanh hàng may mặc cả trong và ngoài nước. Mặt khác, lại là một công ty có quy mô vừa nên đã đầu tư cho quá trình sản xuất kinh doanh công ty gặp không ít khó khăn. Tuy nhiên trong năm vừa qua công ty đã từng bước khắc phục những khó khăn, luôn phát huy những lợi thế sẵn có của mình để không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Với khí thế sôi động của cơ chế thị trường, thêm vào đó đời sống dân cư cũng đã và đang không ngừng được nâng cao, xu hướng đô thị hoá đang diễn ra ở khắp mọi nơi đã làm bùng nổ nhu cầu may mặc. Công ty Dệt kim Thăng Long với nỗ lực phần đầu để tiếp cận với sự đổi mới của kinh tế thị trường đã đạt được một số ưu điểm, nhưng bên cạnh những ưu điểm công ty còn một số tồn tại cần phải khắc phục. I. Ưu điểm - Đối với khoản mục chi phí quản lý doanh nghiệp, thực tế chi phí này năm 2000 giảm so với năm 1999. Đây được coi là thành tích của công ty đã biết sắp xếp, bố trí hợp lý bộ máy lao động gián tiếp, cắt giảm được chi phí gián tiếp trong giá thành. - Về thu nhập: tổng doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty tăng dần trong những năm gần đây. Năm 2000 tổng doanh thu của công ty đạt được là 6899996000 tức là tăng lên so với năm 1998 và 1999. - Trong những năm gần đây, công ty đã và đang tăng cường đầu tư trong kinh doanh. Cụ thể năm 1999 cơ cấu TSCĐ và TSLĐ chiếm trong tổng tài sản là 72% và 28% thì năm 2000 cơ cấu này là 67,8% và 32,19% thể hiện sự dịch chuyển theo hướng tăng của TSLĐ cũng như TSCĐ. - Về nguồn vốn: Dựa vào kết cấu tài sản và nguồn vốn trong 3 năm 98-99-2000 của công ty ta thấy vốn vay của công ty trong những năm gần đây chiếm tỉ trọng không lớn (21,1% năm 98, 22,8% năm 99 và 19,5% năm 2000). Còn vốn chủ sở hữu rất cao thể hiện khả năng tự tài trợ của doanh nghiệp ngày càng tăng lên (77,9% năm 1998, 72,2% năm 1999 và 80,5% năm 2000). Con số này thể hiện doanh nghiệp có khả năng đứng ra tự chủ về tài chính trong kinh doanh. Đây là một cố gắng vượt bậc của lãnh đạo công ty cũng như cán bộ công nhân viên, mặc dù mới chuyển sang nền kinh tế thị trường, ngành may mặc còn nhiều khó khăn. - Về công tác thu mua hàng hoá công ty đã chủ động bám sát các nguồn hàng. Phân tích các thông tin kinh tế đã ký kết các hợp đồng mua hàng với mọi đơn vị, chủ hàng có cơ cấu hàng hoá hợp lý, phong phú về chủng loại, chất lượng tốt đáp ứng cho nhu cầu sử dụng đồng thời đảm bảo được lợi ích của doanh nghiệp và duy trì được mối quan hệ trong kinh doanh. - Về công tác quản lý hàng bán ra công ty có được lực lượng hàng hoá kịp thời tạo cơ sở cho các cửa hàng đẩy mạnh việc bán ra đồng thời công ty đã có kế hoạch điều chỉnh phương thức bán kết hợp chặt chẽ giữa bán lẻ và chủ động tìm bạn hàng để bán buôn. Bán thu tiền tại quầy và bán theo lệnh, theo hợp đồng ký với các cơ quan. - Về công tác thực hiện nghĩa vụ nộp ngân sách Nhà nước trong năm 1999 công ty bắt đầu thực hiện luật thuế mới là thuế VAT. Để thực hiện luật thuế này công ty đã tổ chức học tập huấn luyện cho CBCNV trực tiếp bán hàng cùng với các tổ trưởng, kế toán trưởng ở các quầy tiến hành lập các bảng kê, báo cáo, viết hoá đơn giá trị gia tăng theo quy định mới. Do có sự chuẩn bị chu đáo, hướng dẫn cụ thể, kiểm tra giám sát chặt chẽ từ công ty đến các quầy bán lẻ cho đến nay việc lập các chứng từ theo quy định phục vụ cho việc kiểm tra nộp thuế theo yêu cầu đã đi vào nề nếp. - Về lực lượng lao động: Công ty Dệt kim Thăng Long có đội ngũ lao động với chuyên môn cao, có sự sáng tạo trong công việc, đội ngũ cán bộ quản lý nhiệt tình có năng lực, giầu kinh nghiệm đã được tôi luyện qua những năm đầy khó khăn qua quá trình chuyển đổi nền kinh tế, nhờ cậy mà công ty đã khẳng định được uy tín của mình và đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm so với những năm trước. - Về thị trường tiêu thụ sản phẩm: Hiện nay, cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân, thu nhập của người dân cũng càng ngày càng cao dẫn đến nhu cầu tiêu dùng của con người càng ngày càng nhiều, trong đó nhu cầu may mặc tăng đáng kể. Đây là một thuận lợi giúp cho công ty mở rộng được thị trường tiêu thụ sản phẩm, đáp ứng được thị hiếu người tiêu dùng. - Ngoài ra, từ công ty đến các quầy hàng cũng đã chú trọng và tăng cường công tác kiểm tra mọi mặt như thực hiện các quy định trong công tác bán hàng, phục vụ khách, quản lý số lượng, chất lượng hàng hoá... Kiểm tra công tác an toàn lao động, an toàn phòng cháy chữa cháy, phòng chống lụt bão, thực hiện chế độ Nhà nước đối với người lao động trên cơ sở kết quả hoạt động kinh doanh, quan tâm đến người lao động ở những hoàn cảnh cụ thể và tổ chức cho CBCNV đạt lao động giỏi được đi tham quan nghỉ ngơi và khen thưởng cho con CBCNV đạt thành tích xuất sắc trong học tập góp phần cho gia đình phấn khởi trong công tác. Với những ưu điểm kể trên nếu công ty biết tận dụng hợp lý thì hiệu quả kinh doanh sẽ nâng cao. II. Một số điểm tồn tại Bên cạnh những ưu điểm như trên thì công ty Dệt kim Thăng Long vẫn còn một số tồn tại cần phải khắc phục như: - Quản lý chi phí: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công và chi phí sản xuất chung trong 3 năm gần đây đều tăng. Công ty cần có những giải pháp để quản lý chi phí này được tốt hơn. - Lợi nhuận: Công ty đã thu được những thành công nhất định. Nhưng sang năm 2000 - một năm nhiều thử thách đối với công ty Dệt kim Thăng Long, hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty gặp không ít khó khăn. Kết quả sản xuất kinh doanh của công ty trong năm 2000 so với các năm trước là chưa thực sự tốt mặc dù sản lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ cũng như doanh thu tiêu thụ tăng lên, nhưng lợi nhuận năm 2000 lại giảm nhiều so với 2 năm 1998, 1999. - Hệ thống sử dụng vốn chung (vốn cố định vốn lưu động) của công ty chưa được thực sự tốt. Vòng quay vốn của công ty còn chậm, số ngày một vòng quay vốn lưu động còn nhiều. Doanh lợi vốn sản xuất chung năm cao nhất chỉ đạt 1,63%/năm. - Mặc dù đã cố gắng trong công tác thu hồi nợ, nhưng các khoản phải thu trong năm 2000 tăng lên đáng kể so với 2 năm trước đây. Công ty đang rơi vào tình trạng bị chiếm dụng vốn lớn. Nguyên nhân chủ yếu là do các khoản phải thu của khách hàng tăng lên. Năm 2000 các khoản phải thu của khách hàng chiếm 87,5% trong tổng số công nợ phải thu. - Khó khăn lớn nhất của công ty là tình hình trang thiết bị, công nghệ lạc hậu, không đồng bộ làm ảnh hưởng đến năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Phần lớn máy móc thiết bị của công ty là mua từ những năm 1970 và 1980, do đó không thể tránh khỏi bị lạc hậu so với những máy móc tiên tiến hiện nay. Mặt khác, do sự tiến bộ nhanh chóng của khoa học kỹ thuật đã làm xuất hiện các thế hệ máy mới có công dụng và tính năng cao hơn. Mặc dù trong năm 1999 công ty đã đầu tư để mua sắm và sửa chữa tài sản cố định nhưng số lượng lớn máy móc cũ kỹ và lạc hậu mua từ nhiều năm trước hiện vẫn đang được sử dụng. - Khó khăn cơ bản đối với khâu tiêu thụ là áp lực cạnh tranh. Công ty Dệt kim Thăng Long đang phải đối đầu với sự cạnh tranh mạnh mẽ của các đơn vị sản xuất kinh doanh hàng may mặc trong nước như công ty may 10, may Thăng Long, may Đức Giang, công ty dệt kim Đông Xuân... So với các doanh nghiệp may lớn thì sản phẩm của công ty Dệt kim Thăng Long còn nhiều hạn chế, chưa được nhiều người biết đến. Và đồng thời chính sách mở cửa của nhà nước ta trong những năm qua đã tạo điều kiện cho những lượng hàng hoá khổng lồ nhập ngoại tràn lan vào thị trường Việt Nam với kiểu dáng mẫu mã phong phú, giá rẻ như hàng Trung Quốc, Thái Lan... đánh vào sở thích của người Việt Nam là ưa dùng hàng ngoại. Đây là một trở ngại và thách thức rất lớn đối với công ty Dệt kim Thăng Long nói riêng và ngành may mặc nước ta nói chung. Đối với thị trường xuất khẩu cũng chẳng lấy gì làm êm ả khi đối thủ cạnh tranh là các tập đoàn, công ty may mặc của Trung Quốc, Thái Lan, Inđônêxia, Singapo, Hàn Quốc... của khu vực Đông Nam ?á, nơi mà ngành may mặc được đưa vào ngành mũi nhọn trong việc tăng cường xuất khẩu, tăng ngoại tệ. Điều này đã dẫn đến sự chèn ép giá không riêng gì công ty Dệt kim Thăng Long mà còn cả các công ty may mặc khác của Việt Nam. Là một công ty chủ yếu nhận may gia công cho nước ngoài nhưng công ty chưa chủ động tìm kiếm khách hàng mà chủ yếu là do khách hàng tìm đến, vì vậy thị trường tiêu thụ của công ty còn nhỏ hẹp. Từ những khó khăn này sẽ thách thức công ty phải có những giải pháp hữu hiệu để chiếm lĩnh thị trường và đẩy mạnh số sản phẩm tiêu thụ. Đây là vấn đề hết sức cấp bách đòi hỏi sự năng động sáng tạo liên tục của ban lãnh đạo công ty. Với thực trạng công tác quản lý tài chính của Công ty Dệt kim Thăng Long như trên ta có thể đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý như sau: - Quản lý, tiết kiệm chi phí và phụ giá thành sản phẩm trong công ty. - Quản lý tốt thu nhập và lợi nhuận của công ty. - Quản lý chặt chẽ, phấn đấu nâng cao hiệu quả quản lý vá4 vốn. - Hoàn thiện công tác tổ chức và quản lý cán bộ. Phần IV Phân tích một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý tài chính tại công ty Dệt kim Thăng Long I. Quản lý tiết kiệm chi phí và hạ giá thành sản phẩm trong công ty Công ty phải sát sao hơn nữa trong việc quản lý chi phí, tránh tình trạng khoán trắng. Phòng kế hoạch phải dựa vào dự toán, thanh quyết toán của từng phân xưởng để theo dõi chi phí của các phân xưởng có hợp lý không, từ đó có biện pháp cụ thể với từng nhân công khi họ vi phạm. Bên cạnh đó kế toán phải tổ chức theo dõi yếu tố chi phí trên máy vi tính để có thể đáp ứng kịp thời yêu cầu quản lý của cấp trên khi cần biết chi phí cụ thể về chi phí phân xưởng, tránh sai sót trong việc báo cáo. Các phòng ban chức năng phải phối hợp rất chặt chẽ với nhau để theo dõi danh mục hợp đồng, tiền về của các hợp đồng. Từ đó hàng quý phòng kế hoạch và phòng tài vụ đi đối chiếu công nợ với các bên đặt hàng xác định rõ số tiền các bên đã thực trả cho công ty là bao nhiêu, có khớp với sổ sách kế toán công ty không? Ngoài ra, phải lập được kế hoạch chi phí, dùng hình thức tiền tệ tính toán trước mọi chi phí cho sản xuất - kinh doanh kỳ kế hoạch, phải xây dựng ý thức thường xuyên tiết kiệm chi phí để đạt được mục tiêu kinh doanh mà doanh nghiệp đã đề ra. Muốn tiết kiệm chi phí kinh doanh, ngoài việc lập kế hoạch chi phí, công ty cần phải: - Phân biệt rõ chi phí hoạt động kinh doanh và các chi phí hoạt động khác với các khoản chi phí không đúng tính chất là chi phí kinh doanh hoặc những chi phí đã có nguồn kinh phí khai thác tài trợ. - Đối với các khoản chi về nguyên, nhiên vật liệu, thông thường nhưng khoản này thường chiếm tỷ trọng lớn trong chi phí sản xuất - kinh doanh và giá thành sản phẩm, nếu tiết kiệm những khoản chi phí này sẽ có tác động rất lớn đến hạ giá thành sản phẩm. - Để tiết kiệm chi phí về lao động, công ty cần xây dựng mức lao động khoa học và hợp lý đến từng người, từng bộ phận và định mức tổng hợp phù hợp với những thông lệ mà nhà nước đã hướng dẫn và ban hành. - Công ty phải tự xây dựng đơn giá tiền lương, thường xuyên kiểm tra định mức lao động, đơn giá tiền lương, đảm bảo tốc độ tăng năng suất lao động và tốc độ tăng thu nhập thực tế có một quan hệ tỷ lệ phù hợp. Xác định tổng quỹ lương của công ty căn cứ vào đơn giá tiền lương và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, nếu gặp khó khăn trong kinh doanh thì vẫn phải đảm bảo mức lương cơ bản, tối thiểu cho người lao động trong công ty. Để tiết kiệm chi tiêu quỹ tiền lương, thì quỹ tiền lương phải được dùng đúng mục đích, không được sử dụng quỹ tiền lương một cách tuỳ tiện và dùng quỹ lương để chi cho các mục đích khác. - Để tiết kiệm chi phí tiền mặt, chi phí giao dịch tiếp khách, hội họp thường xuyên xảy ra trong điều kiện kinh tế thị trường, công ty phải hết sức chú ý đến các chỉ tiêu này. Những khoản chi tiêu này rất khó kiểm tra, kiểm soát và rất dễ lạm dụng. Đối với các khoản chi tiếp khách, hội họp giao dịch, chi đối ngoại, công ty cần xây dựng định mức chi tiêu, các khoản chi phải có chứng từ hợp lệ, phải gắn với kết quả kinh doanh và không được vượt quá mức khống chế tối đa theo tỷ lệ % tính trên doanh thu. Trên đây là một số biện pháp tiết kiệm đối với những khoản chi phí cơ bản trong chi phí kinh doanh. Ngoài ra trong hoạt động kinh doanh công ty cũng phải quan tâm đến việc hạ giá thành sản phẩm. Đối với công ty, việc hạ giá thành có ý nghĩa rất lớn thể hiện: - Hạ giá thành sản phẩm là một trong những nhân tố tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện tốt việc tiêu thụ sản phẩm. Việc hạ giá thành sẽ tạo được lợi thế cho công ty trong cạnh tranh, công ty có thể giảm bớt giá bán để nhanh tiêu thụ sản phẩm, thu hồi vốn nhanh. - Hạ giá thành sẽ trực tiếp làm tăng lợi nhuận công ty. - Hạ giá thành có thể tạo điều kiện cho công ty mở rộng thêm sản xuất sản phẩm, do công ty đã tiết kiệm được các chi phí nguyên, nhiên vật liệu và chi phí quản lý, nhu cầu vốn lưu động được giảm bớt. Trong điều kiện đó, công ty có thể rút bớt lượng vốn lưu động dùng trong sản xuất hoặc có thể mở rộng sản xuất... Để thực hiện được điều đó, các nhà quản trị tài chính trong công ty phải thấy được các nhân tố tác động để giảm giá thành sản phẩm. Đó là: - Sự tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ, việc áp dụng nhanh chóng những thành tựu khoa học và công nghệ và sản xuất. - Việc tổ chức lao động và sử dụng con người một cách khoa học. - Tổ chức quản lý sản xuất và tài chính. II. Quản lý tốt thu nhập và lợi nhuận của công ty Bên cạnh việc quản lý sát sao trong nội bộ công ty, thì một việc không kém phần quan trọng để tăng doanh thu đó là việc thúc đẩy thanh quyết toán với bên đặt hàng, tránh tình trạng sản phẩm đã bàn giao nhưng vẫn chưa làm thủ tục thanh quyết toán. Điều này không những làm cho doanh thu của công ty bị giảm mà còn có ảnh hưởng rất lớn đến lợi nhuận của công ty, do chi phí của công trình phải tăng lên vì lãi tiền vay lớn. Ngoài ra hàng năm, công ty phải lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, trên cơ sở đó, xác định số doanh thu về tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá dịch vụ trong năm. Kế hoạch này lập có chính xác hay không, có ảnh hưởng tới kế hoạch lợi nhuận và các kế hoạch khác của doanh nghiệp. Chính vì vậy cần phải quan tâm và không ngừng cải tiến việc lập chỉ tiêu kế hoạch này. Ngày nay, căn cứ phổ biến để lập kế hoạch doanh thu bán hàng là dựa vào các đơn đặt hàng và các hợp đồng kinh doanh đã được ký kết với các đơn vị khác và tình hình thị trường. Kế hoạch này lập ra có mối quan hệ chặt chẽ với kế hoạch sản xuất của công ty và có mối quan hệ trực tiếp giữa công ty và khách hàng (người tiêu dùng). Về cơ bản, công ty lập kế hoạch doanh thu bao gồm hai phần: - Thứ nhất lập kế hoạch doanh thu từ các hoạt động kinh doanh - Thứ hai, lập kế hoạch doanh thu từ các hoạt động khác. * Việc phấn đấu tăng lợi nhuận và hơn nữa làm tăng tỷ suất lợi nhuận là nhiệm vụ thường xuyên mà công ty phải làm. Muốn vậy, công ty có thể phấn đấu theo những hướng cơ bản sau: - Phấn đấu giảm chi phí hoạt động kinh doanh hạ giá thành sản phẩm. - Tăng thêm sản lượng và nâng cao chất lượng sản phẩm. Ngoài ra kế hoạch lợi nhuận cũng giúp cho các nhà quản trị trong công ty biết trước được quy mô số lãi mà công ty sẽ tạo ra, từ đó giúp công ty có kế hoạch sắp xếp nhiệm vụ hoạt động kinh doanh và tìm các giải pháp phấn đấu thực hiện. Kế hoạch lợi nhuận hàng năm là một bộ phận của kế hoạch tài chính, do đó nó cũng phải lập được đồng thời với các bộ phận kế hoạch khác. Việc dự tính trước được quy mô của lợi nhuận sẽ tạo ra, sẽ giúp cho công ty chủ động sử dụng nó, chủ động phân phối, chủ động lập kế hoạch đầu tư, đổi mới thiết bị v.v... Việc lập kế hoạch lợi nhuận phải kết hợp với việc phân tích tình hình hoạt động kinh doanh, phân tích tài chính và phân tích điểm hoá vốn. Hơn nữa sau một quá trình hoạt động kinh doanh, công ty thu được một khoản lợi nhuận nhất định và phải tiến hành phân phối lợi nhuận đó. Việc phân phối lợi nhuận phải đáp ứng những yêu cầu cơ bản sau đây: - Công ty cần phải giải quyết hài hoà mối quan hệ về lợi ích giữa nhà nước, công ty và công nhân viên, trước hết cần làm nghĩa vụ và hoàn thành trách nhiệm đối với nhà nước theo quy định như nộp thuế thu nhập doanh nghiệp. - Công ty phải giành phần lợi nhuận để lại thích đáng để giải quyết các nhu cầu sản xuất - kinh doanh của mình, đồng thời chú trọng đảm bảo lợi ích của các thành viên trong đơn vị mình. III. Quản lý chặt chẽ, phấn đấu nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng vốn 1. Chiến lược sử dụng vốn của công ty Chiến lược sử dụng vốn gắn liền với chiến lược kinh tế xã hội ở việc bố trí cơ cấu vốn đầu tư giữa các chi nhánh, doanh nghiệp và vùng kinh tế. Vì vậy, nguồn vốn kinh doanh của công ty cần bố trí trên cơ sở tập trung mạnh mẽ cho lĩnh vực sản xuất, đồng thời chú trọng đầu tư thực hiện công tác tu bổ máy móc, thiết bị để từ đó nâng cao chất lượng sản phẩm theo đơn đặt hàng với phương châm thu hồi vốn nhanh và tạo ra sự phong phú cho hoạt động của mình. Đồng thời, công ty tích cực tìm kiếm thị trường và tiến tới ổn định, tiến nhanh, tiến mạnh, tiến chắc với hoạt động kinh doanh chính là sản xuất sản phẩm. Với chiến lược sử dụng vốn như vậy, công ty có thể thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội của chiến lược phát triển. Định hướng phân bổ vốn đầu tư cho từng dự án. Khuyến khích và tạo điều kiện cho đầu tư mua sắm trang thiết bị, máy móc công nghệ mới. ?áp dụng các tiến bộ khoa học, dây chuyền máy móc hiện đại vào trong sản xuất, có như vậy vốn đầu tư mới có thể đem lại hiệu quả cao nhất với chất lượng sản phẩm tốt có khả năng cạnh tranh trên thị trường. Bên cạnh đó phải nâng cao hệ số đổi mới thiết bị, sử dụng tối đa công suất máy móc, thiết bị, khai thác hết khả năng tiềm tàng về lao động, vật tư, tài nguyên thiên nhiên của đất nước. Bố trí hợp lý khối lượng vốn cho quá trình tiếp nhận và sử dụng các nguồn huy động từ bên ngoài. Chủ động tính toán và bố trí kịp thời đầy đủ vốn cho các nhu cầu cần thiết khi tiếp nhận vốn từ nước ngoài. Như vậy, mới đảm bảo hiệu quả của nguồn vốn nước ngoài, đảm bảo sự giao lưu và cung ứng bình đẳng các nguồn vốn trong nước, tránh xáo trộn trong thế bị động và cung cấp vốn bị gián đoạn. Bên cạnh đó có thể đánh giá hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế, cần thiết phải xây dựng và khuyến khích áp dụng các định mức kinh tế kỹ thuật, các chỉ tiêu về hiệu quả, chất lượng và đặc biệt là phải có hệ thống pháp luật thực thi một cách nghiêm minh trong tất cả các lĩnh vực về huy động nguồn vật tư, lao động, khai thác tài nguyên quy hoạch tổng thể thống nhất. 2. Giải pháp tạo vốn cho công ty Đối với công ty, vốn là điều kiện cần thiết không thể thiếu được trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Thiếu vốn là mất đi một nguồn lực quan trọng phục vụ cho hoạt động kinh doanh của công ty. Ngược lại, bảo đảm vốn cho công ty là đảm bảo quá trình hoạt động kinh doanh của công ty. Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty còn phụ thuộc vào lượng vốn nhiều hay ít. Xuất phát từ tầm quan trọng của việc bảo đảm nguồn vốn, trong tình hình hiện nay vấn đề đặt ra đối với công ty Dệt kim Thăng Long là bằng cách nào công ty có thể tạo ra các nguồn vốn có chất lượng cao phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình (nguồn vốn có chi phí vay thấp, đủ, kịp thời). Dưới đây là một vài biện pháp để tạo nguồn vốn cho công ty. 2.1. Khai thác triệt để mọi nguồn vốn cho công ty Nguồn vốn bên trong là nguồn vốn có thể huy động được từ hoạt động từ bản thân công ty. Nhìn nhận về cơ bản và lâu dài, nguồn vốn bên trong là yếu tố đảm bảo cho sự phát triển vững chắc của một doanh nghiệp và cũng chính là thể hiện sự phát huy nỗ lực của doanh nghiệp. Hơn nữa thực hiện tốt biện pháp này công ty sẽ có một lượng vốn đáng kể mà không phải trả thêm lãi vay hay các chi phí liên quan khác. + Tiền khấu hao cơ bản TSCĐ Việc trích khấu hao cơ bản TSCĐ là nhằm tái sản xuất giản đơn TSCĐ. Tuy nhiên với số tiền khấu hao cơ bản được để lại, doanh nghiệp có thể sử dụng để đầu tư đổi mới máy móc thiết bị và công nghệ. Nhà nước cho phép các doanh nghiệp được tự xác định thời gian sử dụng TSCĐ trong khuôn khổ của khung thời gian Nhà nước đã quy định, điều đó cũng tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể thực hiện khấu hao nhanh hơn để tập trung vốn. + Lợi nhuận để tái đầu tư Đây là nguồn vốn quan trọng để mở rộng đầu tư của doanh nghiệp. Trong doanh nghiệp Nhà nước phần lớn lợi nhuận này được thông qua việc trích lập quỹ đầu tư phát triển. Việc hình thành quỹ này chủ yếu phụ thuộc vào lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp. Thực tế hiện nay, một phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước đã đạt được lợi nhuận ở mức độ thấp hoặc bị lỗ, do vậy khả năng tự tích luỹ từ lợi nhuận còn rất nhỏ bé. Tuy nhiên về lâu dài đây là nguồn vốn chủ yếu cho một doanh nghiệp tự đầu tư tăng trưởng. + Giải phóng thu hồi nhanh vốn các tài sản vật tư ứ đọng không cần dùng. Huy động tối đa các nguồn vốn hiện có vào hoạt động kinh doanh cũng là biện pháp rất quan trọng của việc huy động vốn. Trong việc huy động nguồn vốn này cần quán triệt quan điểm là mọi tài sản hiện có của doanh nghiệp cần phải được huy động sử dụng, mọi đồng vốn phải không ngừng vận động và không ngừng sinh lời. Hiện nay một số vốn không nhỏ của các doanh nghiệp Nhà nước bị tồn đọng dưới dạng TSCĐ không cần sử dụng, vật tư tồn kho kém phẩm chất... Việc tạo ra một cơ chế thuận lợi, dễ dàng là vấn đề hết sức quan trọng để thúc đẩy và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp giải phóng nhanh các đồng vốn chết thành đồng vốn hoạt động sinh lời. + Đẩy mạnh tiến độ sản xuất kinh doanh để rút ngắn thời gian cho chi phí sản phẩm dở dang. + Nhanh chóng làm thủ tục thanh toán thu hồi vốn, giảm bớt lượng phải thu của khách hàng. Đồng thời tìm cách giảm bớt số tạm ứng và chi phí trả trước để tăng số vốn cho hoạt động kinh doanh. + Tận dụng các khoản phải nộp, phải trả cho ngân sách, công nhân viên hoặc các đối tượng khác nhưng chưa nộp, chưa trả. Khoản tài trợ này không lớn nhưng đôi khi nó cũng giúp cho công ty thanh toán các khoản chi phí tạm thời. Muốn làm được điều này, công ty phải có chính sách quản lý phù hợp, đội ngũ quản lý có năng lực, trình độ và có sự phối hợp chặt chẽ giữa các phòng ban để thực hiện triệt để các chính sách đó. 2.2. Huy động nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp Nhìn chung nguồn vốn bên trong của phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay còn nhỏ bé. Để đáp ứng yêu cầu về vốn các doanh nghiệp phải tìm kiếm nguồn vốn từ bên ngoài. Sự phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đã nảy sinh nhiều hình thức huy động vốn ngày càng phong phú. Điều đó cho phép các doanh nghiệp Nhà nước lựa chọn các hình thức huy động vốn phù hợp với tình hình của doanh nghiệp mình. ã Những hình thức chủ yếu huy động vốn từ bên ngoài * Vay ngắn hạn và trung hạn, dài hạn của ngân hàng và các tổ chức tín dụng trong nước và nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam. Đây là hình thức huy động vốn từ bên ngoài có tính chất truyền thống của các doanh nghiệp. Hiện nay, nguồn vốn này vẫn là nguồn vốn rất quan trọng của các doanh nghiệp Nhà nước. Việc sử dụng nguồn vốn này đưa lại cho doanh nghiệp những điểm lợi sau: + Tăng thêm nguồn vốn cho doanh nghiệp mở rộng kinh doanh. + Lãi suất tiền vay được giới hạn ở mức độ nhất định, nếu doanh nghiệp kinh doanh tốt đạt được tỷ suất lợi nhuận vốn cao hơn lãi suất tiền vay thì sẽ làm cho tỷ suất lợi nhuận trên vốn Nhà nước tăng lên. * Mua thiết bị trả chậm của các hãng cung cấp máy móc thiết bị nước ngoài. Đây cũng là nguồn vốn trung hạn giúp cho các doanh nghiệp thiếu vốn nhưng có dự án khả thi có thể thực hiện được đầu tư. Huy động qua nguồn vồn này doanh nghiệp còn có thể có lợi là thường phải trả mức lãi suất thấp hơn vay vốn ở trong nước. * Công ty có thể gọi vốn đầu tư, chọn đối tác liên doanh cùng tham gia liên doanh. Đây cũng là xu hướng tích cực của các doanh nghiệp hiện nay. Quá trình liên doanh, công ty vừa có thể thu hút vốn vừa có thể hoà nhập vào thế giới khoa học hiện đại, nhờ đó mà có thể có thể nâng khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. - Ngoài ra công ty có thể huy động vay vốn của cán bộ công nhân viên doanh nghiệp. Huy động vốn trong hình thức này tạo cho doanh nghiệp có thêm vốn cho hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, thường chỉ những doanh nghiệp có dự án đầu tư khả thi và mức thu nhập của công nhân viên không quá thấp mới có khả năng thực hiện hình thức huy động này. Một khi doanh nghiệp có triển vọng phát triển kinh doanh, tạo thêm việc làm và tăng thu nhập của công nhân viên thì doanh nghiệp có khả năng động viên họ cho vay vốn. * Công ty có thể huy động vốn bằng cách thuê tài sản Trong hoạt động kinh doanh, thuê tài sản là một phương thức giúp cho các doanh nghiệp thiếu vốn vẫn có được tài sản cần thiết sử dụng vào các hoạt động kinh doanh của mình. Đặc biệt với Công ty Dệt kim Thăng Long hoạt động trong lĩnh vực sản xuất nhưng năng lực về máy móc thiết bị còn nhiều hạn chế nên công ty cần nghiên cứu hình thức này để tăng năng lực hoạt động của công ty, nâng cao chất lượng sản phẩm. Thuê tài sản là hợp đồng thoả thuận giữa các bên, giữa người mua và người cho thuê, trong đó người thuê được quyền sử dụng tài sản và phải trả tiền thuê cho người cho thuê theo thời hạn mà 2 bên đã thoả thuận, người cho thuê là người sở hữu tài sản và nhận được tiền cho thuê tài sản. Thuê tài sản có 2 phương thức giao dịch chủ yếu: Thuê vận hành và thuê tài chính. * Phát hành trái phiếu công ty Trái phiếu là một công cụ quan trọng dễ sử dụng vào mục đích vay dài hạn, đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh. Các doanh nghiệp thường sử dụng hình thức phát hành trái phiếu để huy động vốn. Hình thức phát hành trái phiếu giúp cho công ty có thể thu hút được đông đảo số tiền nhàn rỗi trong xã hội để mở rộng hoạt động - kinh doanh của doanh nghiệp mình. Công ty có thể phát hành nhiều loại trái phiếu tuỳ theo sự phát triển của nền kinh tế thị trường, nhưng thông thường họ phát hành loại trái phiếu có bảo đảm để thu hút vốn dài hạn. 2.3. Tạo dựng và bảo vệ uy tín Trong kinh doanh vốn là tiền cộng lòng tin. Đây là biện pháp tạo nguồn vốn quan trọng bằng phương pháp tâm lý. Trong kinh doanh chữ tín đáng giá ngàn vàng, nhất là kinh doanh tiền tệ. Vì thế công ty phải làm thế nào để tạo được uy tín vững chắc, lòng tin của ngân hàng cũng như các khách hàng về sản phẩm và dịch vụ mà công ty cung cấp. Có như vậy, công ty mới có khả năng giữ được cạnh tranh như hiện nay. Các phương pháp trên đây nhằm bảo đảm vốn hoạt động kinh doanh của công ty về lâu dài. Vì vậy, nó phải được đi kèm theo một hệ thống các thể chế hợp tác hoá, luật pháp hoá như luật thương mại, cổ phần, chứng khoán. Trong điều kiện hiện nay, công ty nên áp dụng các giải pháp này vào hoạt động kinh doanh của mình nhằm tăng cường hiệu quả. Việc đem lại hiệu quả còn tuỳ thuộc vào sự vận dụng khéo léo đồng vốn cũng như tình hình tài chính của công ty. 3. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là vấn đề quan trọng, nó quyết định hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp cao hay thấp. Trong cơ chế hoá tập trung, tính hiệu quả của sản xuất kinh doanh hầu như không được quan tâm tới, các chỉ tiêu sản xuất được ra quyết định từ trên xuống. Công ty chỉ là người thực hiện theo kế hoạch của Nhà nước nên lãi hay lỗ đều do Nhà nước đứng ra chịu trách nhiệm. Ngày nay, nền kinh tế thị trường với những quy luật khắt khe của nó, buộc công ty phải tính toán đến hiệu quả sản xuất kinh doanh để có thể tồn tại. Do đó để nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh doanh thì trước tiên phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Sử dụng vốn tốt sẽ đảm bảo nhu cầu vốn được đáp ứng thường xuyên cho sản xuất kinh doanh, đảm bảo khả năng sinh lời cao. Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho kinh doanh đang là mục tiêu vươn tới của công ty hiện nay và trong những năm tới, bởi nó góp phần làm lành mạnh hoạt động tài chính của công ty. Để đạt được mục tiêu này, công ty cần tổ chức và quản lý tốt quá trình kinh doanh nhằm đảm bảo hoạt động kinh doanh được tiến hành thông suốt đều đặn, nhịp nhàng giữa các khâu mua dự trữ và sử dụng đảm bảo chặt chẽ giữa các bộ phận của công ty. Cơ cấu vốn hợp lý sẽ nâng cao hiệu quả kinh doanh thông qua việc nâng cao hiệu quả sử dụng từng loại vốn, tránh tình trạng ứ đọng vốn cố định trong khi đó vốn lưu động lại thiếu hụt và ngược lại. 3.1. Nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ Trên cơ sở các giải pháp về tài chính nói chung để phù hợp với tình hình thực tế của công ty, xem xin đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hướng sử dụng VCĐ đối với công ty như sau. Một là, công ty điều chỉnh lại cơ cấu VCĐ sắp xếp, bố trí lại sao cho hợp lý. Việc xác định và thiết lập mục tiêu cơ cấu vốn là yêu cầu bắt buộc đối với mỗi doanh nghiệp, nó có thể thay đổi theo thời gian khi các điều kiện bên ngoài và bên trong doanh nghiệp thay đổi, nhưng tại bất kỳ một thời điểm nào doanh nghiệp đều phải có một cơ cấu vốn nhất định và những quyết định tài trợ riêng lẻ cho mục tiêu này. Hơn nữa, với một cơ cấu vốn hợp lý sẽ tránh được rủi ro trong kinh doanh của doanh nghiệp, đem lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp, như vậy doanh nghiệp đã sử dụng vốn có hiệu quả. Để quyết định về cơ cấu vốn hợp lý, công ty nên dựa vào các nhân tố: - Rủi ro kinh doanh, đây là nhân tố quan trọng quyết định nên cơ cấu vốn. - Khả năng linh hoạt tài chính của công ty hay nói cách khác đây chính là khả năng tăng vốn một cách hợp lý trong điều kiện có tác động xấu. - Sự bảo thủ hay phóng khoáng trong quản lý. Hai là, công ty nên đẩy mạnh công tác thu hồi công nợ để đảm bảo VCĐ cho công ty. Để làm được điều này, công ty nên chọn các phương pháp khấu hao hợp lý, thường xuyên hay định kỳ đánh giá lại TSCĐ khi có biến động về giá cả trên thị trường để nhanh chóng thu hồi phần giá trị còn lại của TSCĐ vào phần VCĐ. Thu hồi vốn nhanh tạo điều kiện tăng nhanh hoạt động sản xuất của công ty vào tái sản xuất, góp phần tăng lợi nhuận, nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ. Ba là, công ty luôn phải đảm bảo khả năng thanh toán đối với việc hoàn trả các nguồn tài trợ cho đầu tư TSCĐ, các quan hệ thanh toán về mua thiết bị máy móc trên thị trường hoặc thanh lý TSCĐ không cần dùng. Như ta đã biết trong quá trình sản xuất kinh doanh, chữ tín rất quan trọng, vì vậy để tạo ra được uy tín giữa các nhà đầu tư và các tổ chức kinh tế khác trong quan hệ vay mượn, đòi hỏi công ty luôn đảm bảo khả năng thanh toán của mình bằng việc nâng cao khả năng thanh toán lớn hơn một số tiêu thức về khả năng thanh toán. Muốn vậy, công ty phải có một lượng vốn bằng tiền lớn, mọi khoản thanh toán chuyển về khả năng thanh toán thành tiền tránh để dạng hiện vật gây khó khăn cho quá trình thanh toán. Bốn là, sử dụng triệt để các đòn bẩy kinh tế nhằm nâng cao năng suất sử dụng máy móc thiết bị. Công ty nên có chế độ thưởng phạt rõ ràng, khen thưởng đối với những người quản lý, sử dụng tốt TSCĐ... Kỷ luật những người vô trách nhiệm không có ý thức xây dựng công ty. Trên cơ sở đó, công ty cần phân tích tình hình sử dụng máy móc thiết bị, tận dụng tối đa công suất, góp phần vào việc nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ. Qua các chỉ tiêu này, công ty biết được việc sử dụng vốn đầu tư của mình có đúng mục đích không và nên đầu tư TSCĐ cho bộ phận nào. Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng VCĐ giúp cho người quản lý biết rõ hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Vì vậy, việc phân tích các chỉ tiêu nên tiến hành định kỳ 6 tháng một lần và từ việc phân tích thường xuyên chỉ tiêu này người quản lý sẽ có đầy đủ các thông tin về tài chính... Từ đó có thể đưa ra chính xác các quyết định, nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ. Để tăng thêm hiệu quả sử dụng TSCĐ, ngoài việc thanh lý TSCĐ, phân tích hiệu quả sử dụng TSCĐ, hệ số đổi mới máy móc thiết bị, nâng cao công suất máy móc thiết bị, công ty còn phải quản lý chặt chẽ các chi phí sửa chữa TSCĐ, đẩy mạnh việc tiêu thụ sản phẩm, đảm bảo cung cấp tư liệu sản xuất đầy đủ cho sản xuất. 3.2. Nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ Nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ của công ty nghĩa là với một lượng VLĐ ít nhất làm thế nào có thể đạt được số lợi nhuận ròng hoặc doanh thu bán hàng là lớn nhất. Để đạt được mục đích đó, công ty cần tập trung vào một số vấn đề: Thứ nhất, kế hoạch tốc độ luân chuyển của VLĐ, tức là tìm mọi cách rút ngắn thời gian ở mỗi khâu mà vốn đi qua. Đây là biện pháp quan trọng nhằm tăng nhanh vòng quay của vốn, để số vốn tham gia nhiều lần vào sản xuất. Để đạt được mục tiêu đó, ở mỗi khâu công ty phải tăng nhanh tốc độ hoạt động sao cho ít ngày mà vẫn đạt được hiệu quả. ?ở khâu sản xuất trước đây do chưa đủ trình độ khoa học kỹ thuật công nghệ áp dụng vào sản xuất nên quá trình sản xuất diễn ra còn chậm, vì vậy, công ty nên tăng cường hoạt động ở khâu sản xuất nhằm rút ngắn thời gian hoàn thành sản phẩm... do đó giảm bớt các khoản phải thu ở phần phí sản xuất dở dang mà hiện nay còn khá lớn. Đồng thời đẩy mạnh việc thanh quyết toán các sản phẩm đã hoàn thành để mau chóng thu hồi vốn cho sản xuất, hạn chế tối đa các khoản vốn bị chiếm dụng, để đẩy nhanh tốc độ quay vòng của đồng vốn, tăng nhanh khả năng sinh sôi của vốn đầu tư. Thứ hai, phân cấp quản lý VLĐ cho các phòng ban và trong trường hợp cần thiết đến tận người lao động, người sản xuất. Đồng thời, công ty phải thường xuyên kiểm kê, kiểm soát để phát hiện kịp thời vật tư, NVL còn tồn đọng tránh thất thoát. Thứ ba, về tổ chức thu mua NVL cho sản xuất. Ngày nay, NVL cho ngành dệt rất nhiều cả về số lượng và chủng loại, giá cả lại khá ổn định. Do vậy, việc dự trữ NVL là điều không cần thiết vì như vậy vừa phải tốn chi phí bảo quản, đồng vốn lại không được sử dụng. Như vậy công ty nên tìm hiểu, nắm chắc về nguồn nguyên liệu ở các địa bàn cần hoạt động của mình cả về chất lượng, chủng loại, chất lượng và giá cả hợp lý. Thứ tư, trong quá trình quản lý TSCĐ, công ty cần lập thẻ để quản lý các TSCĐ nhằm tránh hao hụt mất mát, ảnh hưởng đến hoạt động của công ty. Đồng thời, công ty nên áp dụng triệt để các chính sách về lãi suất tiền vay, các chế độ thưởng phạt vào quá trình quản lý và sử dụng VLĐ. Trong trường hợp lãi suất thấp, công ty có thể vay thêm vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó có chế độ thưởng phạt nhất định để khuyến khích CBCNV làm việc có hiệu quả hơn. Đổi mới VLĐ, đặc trưng nhất của nó là tăng nhanh vòng vốn quay. Dựa vào đặc trưng này mà công ty tìm mọi cách để giảm số ngày của một vòng luân chuyển đảm bảo nguồn vốn hoạt động cho công ty. Khi tăng được vòng vốn quay của VLĐ thì ta có khả năng tiết kiệm được VLĐ. IV. Hoàn thiện công tác tổ chức và quản lý cán bộ Vấn đề cốt lõi để quản trị tài chính hiệu quả là dựa vào con người. Con người phối hợp với quá trình quản trị để chúng liên tục có hệ thống, từ đó nâng cao hiệu quả quản trị nói chung và quản trị tài chính nói riêng. Để có được hoạt động kinh doanh hiệu quả công ty nên có một cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý hợp lý, thống nhất từ trên xuống dưới, có sự kết hợp giữa các phòng ban, tạo điều kiện hỗ trợ nhau làm việc và phải phân định rõ ràng tới từng bộ phận. Thường xuyên đào tạo, nâng cao đội ngũ cán bộ mới có năng lực, trình độ, nâng cao sự hiểu biết của cán bộ lãnh đạo. Có như vậy mới lãnh đạo công ty hoạt động có hiệu quả, đáp ứng kịp thời nhu cầu và nhiệm vụ mới. Tạo sự đoàn kết cao giữa ban giám đốc và cán bộ các phòng ban, đặc biệt quan tâm đến yếu tố con người để phát triển hết tiềm năng. Bổ sung cán bộ trẻ giỏi cho các phân xưởng, hết sức quan tâm đến công tác đào tạo cán bộ để chuẩn bị cho kế hoạch phát triển lâu dài. Tổ chức một số lớp học về chuyên đề tài chính cũng như quản lý doanh nghiệp, quản lý đầu tư. Các cán bộ quản lý có trách nhiệm điều hành công ty bằng những quy chế văn bản hướng dẫn cụ thể đồng thời tháo gỡ kịp thời mọi khó khăn và thủ tục hành chính. Với những giải pháp hữu hiệu nêu trên nếu công ty biết tận dụng hợp lý thì hiệu quả kinh doanh cũng như hiệu quả quản trị tài chính sẽ nâng cao. Kết luận Công tác quản lý tài chính luôn là vấn đề được các doanh nghiệp quan tâm vì nó thật sự là một vấn đề thiết thực liên quan đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh là một tế bào của nền kinh tế. Để thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế phát triển thì mỗi tế bào phải biết vận động tìm chỗ đứng cho bản thân mình, đây chính là cơ sở, là tiền đề xây dựng một nền kinh tế vững mạnh. Sự phát triển của mỗi doanh nghiệp sẽ tạo đà phát triển cho toàn bộ nền kinh tế. Từ lý thuyết về hoạt động tài chính có thể giúp cho người phân tích đánh giá được tình hình tài chính nói riêng và tình hình kinh doanh của doanh nghiệp nói chung. Công ty Dệt kim Thăng Long là một đơn vị hạch toán kinh doanh độc lập, hoạt động trong cơ chế thị trường, công ty cũng tồn tại và cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp khác. Vì vậy để đáp ứng cạnh tranh và không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, công ty đã và đang tìm mọi biện pháp đổi mới máy móc thiết bị, mở rộng quy mô, địa bàn hoạt động và tăng cường chất lượng sản phẩm để có khả năng cạnh tranh trên thị trường. Khi nghiên cứu số liệu thực tế và hiện trạng lao động, đồng thời đi sâu vào phân tích ưu điểm và những vấn đề tồn tại trong công tác quản lý tài chính ở công ty Dệt kim Thăng Long sẽ thấy được rằng vấn đề hoàn thiện công tác quản lý tài chính của doanh nghiệp là vô cùng quan trọng. Nhờ những thông tin chính xác về tài chính đã giúp cho Ban giám đốc đưa ra những quyết định đúng đắn, mang lại lợi ích kinh tế cao và cố gắng đưa doanh thu ngày càng tăng lên, đảm bảo lấy thu bù chi có lãi, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với ngân sách Nhà nước và không ngừng nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên. Mặc dù hoạt động tài chính của công ty còn nhiều khó khăn như bị chiếm dụng vốn, hiệu quả sử dụng vốn chưa tốt, tình hình trang thiết bị công nghệ lạc hậu, không đồng bộ và hơn nữa là áp lực cạnh tranh nhưng bên cạnh đó công ty cũng có những thuận lợi như về vị trí địa lý, lực lượng lao động, thị trường tiêu thụ sản phẩm. Với những thuận lợi này hàng năm công ty đã giải quyết được hơn 600 công ăn việc làm, góp phần xây dựng nền kinh tế phát triển. Vì lẽ đó, công ty luôn cố gắng hoàn thiện công tác kế toán mà tập trung vào các hoạt động tài chính để cố gắng hạ giá thành, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Qua phân tích cụ thể và căn cứ vào những tồn tại thực tế của có thể, em đã mạnh dạn nêu lên một số giải pháp nhằm góp phần củng cốm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động tài chính. Những giải pháp trên đây mới chỉ là những bước đầu qua một thời gian ngắn tìm hiểu thực tế, với trình độ nhận thức còn hạn chế nên bài luận văn với đề tài "Một số vấn đề về công tác quản lý tài chính tại công ty Dệt kim Thăng Long. Đánh giá phân tích các giải pháp" sẽ không thể tránh khỏi những sai sót. Em rất mong được sự xem xét đánh giá, chỉ bảo của các thầy, cô giáo và các bạn. Em xin cảm ơn các thầy, cô giáo trường ĐHDL Đông Đô Hà Nội. Đặc biệt là sự hướng dẫn và giúp đỡ tận tình của cô giáo - Dr: Phan Thị Cẩm Vân. Các cán bộ, nhân viên phòng kế toán công ty Dệt kim Thăng Long đã tạo điều kiện cho em hoàn thành bài luận văn này. Xin chân thành cảm ơn! Sinh viên Vũ Thị Thanh Thuỷ Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình kế toán doanh nghiệp sản xuất Nguyễn Đình Đỗ - Vương Đinh Huệ Trường đại học Tài chính Kế toán NXB Tài chính - Hà Nội 1997 2. Giáo trình phân tích hoạt động kinh doanh Phạm Thị Gái Khoa Kế toán - Trường đại học Kinh tế quốc dân NXB Giáo dục - Hà Nội 1997 3. Giáo trình Quản trị Tài chính doanh nghiệp Nguyễn Hải Sản NXB Thống kê - Hà Nội 1996 4. Giáo trình Phân tích tài chính doanh nghiệp JOSETTF PEYRARO NXB Thống kê - Hà Nội 1997 5. Quản trị kinh doanh thương mại Trường đại học Kinh tế quốc dân 6. Báo Đầu tư 7. Thuyết minh Báo cáo tài chính năm 1998 - 1999 - 2000 của công ty Dệt kim Thăng Long 8. Báo cáo tổng kết năm 1998-1999-2000 của Công ty Dệt kim Thăng Long 9. Các văn bản quyết định thành lập Công ty Dệt kim Thăng Long.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc3425.doc
Tài liệu liên quan