Ở đây nguyên nhân khách quan thì không ít, nguyên nhân chủ quan thì quá nhiều. Ta có thể kể ra một số như sau: thứ nhất, bên đối tác, một mặt muốn thao túng phần góp của phía Việt Nam để chuyển doanh nghiệp liên doanh sang doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, do đó đã tạo ra tình trạng lỗ giả lãi thật. Bởi với sự độc quyền cung cấp nguyên vật liệu đầu vào, họ được quyền định giá cao, lương trả cho chuyên gia người nước ngoài quá cao. Các chi phí quảng cáo cao như: liên doanh Coca-cola đã chi đến 14% doanh thu cho quảng cáo thì thử hỏi tại sao lại không lỗ ? Nhưng một thực tế chỉ là doanh nghiệp liên doanh bị lỗ còn bên đối tác họ vẫn lãi. Vì họ có cả một tập đoàn cung cấp nguyên vật liệu và tiêu thụ sản phẩm. Thứ hai, là phải kể đến tình trạng các bên đều nâng cao phần định giá tài sản đóng góp vào liên doanh so với thực tế. Cho nên, dẫn đến giá thành sản phẩm cao. Thứ ba, chính là sự phán đoán về thị trường tiêu thụ trong nước bị sai lệch như tình trạng của các liên doanh sản xuất và lắp đặt ô tô, thứ đến đó là trình độ quản lý cũng như đạo đức kinh doanh của cán bộ tham gia liên doanh của phía Việt Nam cũng là nguyên nhân cơ bản “giúp” cho doanh nghiệp liên doanh đến tình trạng này. Ngoài ra, còn một số các nguyên nhân khác cần kể ra như môi trường đầu tư, chính sách điều tiến vĩ mô của Nhà nước.
Vậy làm gì để khắc phục tình trạng này ? Phải chăng, đó chính là một dấu hỏi đặt ra mà chưa một cấp, một ngành nào có biện pháp để giải quyết ?
37 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1430 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số vấn đề về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam thời gian qua, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
EAN nói riêng như Singapore, Thailand, Malaysia... là những nước có tỷ trọng đầu tư lớn vào Việt Nam. Bởi Việt Nam nằm trong khu vực Châu á - Thái Bình Dương thì với lợi thế về điều kiện địa lý, tương đồng về văn hoá - xã hội là môt điều kiện tốt để thu hút vốn của các nước thuộc khu vực Châu á. Số lượng vốn thực hiện cũng như số lượng vốn cam kết được thực hiện qua bảng sau:
Bảng IV - Việt Nam đầu tư trực tiếp nước ngoài phân theo nước
1988 - 1998
Đơn vị: Triệu USD
STT
Chỉ tiêu
Quốc gia
Vốn cam kết
Vốn thực hiện
Giải ngân của vốn pháp định
Nợ nước ngoài
Vốn cam kết chưa được giải ngân
1
2
3
4 = 2 - 3
5 = 1 - 2
1
Singapore
5.857
998
564
434
4.859
2
Taiwan
4.028
1.375
913
462
2.653
3
Japan
3.266
1.197
683
514
2.069
4
Korea
2.903
941
491
450
1.962
5
British virgin
Islans
2.772
352
241
110
2.420
6
Hồng Kông
2.671
982
583
400
1.689
7
France
1.489
328
190
138
1.161
8
Malaysia
1.182
763
308
455
418
9
USA
1.052
270
171
99
789
10
Australia
873
398
286
112
474
11
UK
693
586
260
327
107
12
Sweden
653
303
127
176
305
13
Other Country
4.102
1.436
836
573
2.666
14
Total
32.542
10.265
5.843
4.422
22.277
Nguồn: Theo Bộ KH và Đầu tư, ngân hàng Nhà nước và theo ước tính của cán bộ quỹ IMF
Như vậy, trong tổng số 13 nước có khối lượng vốn lớn đầu tư vào Việt Nam thì có 7 nước thuộc khu vực Châu á chiếm 20.901 triệu USD trên tổng số 32.542 triệu USD ước khoảng 64,3% trong tổng số. Các nước lớn: Pháp chỉ có 1.489 triệu USD chiếm 4,6% trong tổng số vốn cam kết. Mỹ chỉ có 1.052 triệu USD chiếm 3,3% trong tổng số vốn cam kết. Bên cạnh tổng số 32.542 triệu USD vốn cam kết thì có 10.265 triệu là vốn thực hiện chiếm có 31,54% trong tổng số còn lại là 68,46% vẫn cam kết nhưng chưa được giải ngân.
Như vậy là trong thời gian tới chúng ta không những chỉ có những giải pháp nhằm thu hút thêm các đối tác đầu tư mới mà còn phải thực hiện những biện pháp để nâng cao mức vốn cam kết của các nhà đầu tư lớn trong khu vực Châu á và các đối tác như Mỹ và Tây Âu. Thêm nữa cần thiết phải có những biện pháp để các đối tác thực hiện giải ngân khoản vốn đã cam kết.
Mỹ và Tây Âu là những nước có thị trường rộng lớn, có nguồn tiềm năng lớn về vốn mà chỉ đóng vai trò nhỏ trong lượng vốn chính đầu tư vào Việt Nam thì quả là sai lầm và thiếu sói với những chính sách thu hút vốn của ta. Thiết nghĩ mục tiêu trước mắt cũng như mục tiêu lâu dài là phải làm sao có được những nhà đầu tư mới, đặc biệt là những nước như: Mỹ, Canada, và Tây Âu để nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực sự là nguồn vốn quan trọng đóng góp vào nhịp độ tăng trưởng của Việt Nam trong thế kỷ mới - thế kỷ XXI.
2-/ Đầu tư trực tiếp nước ngoài tính theo ngành phân bổ.
Đảng và Nhà nước ta trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã xác định phát triển lấy công nghiệp là ngành phát triển mũi nhọn, nông nghiệp là chủ yếu, thương mại dịch vụ là quan trọng. Chính vì thế, hơn 10 năm qua các ngành công nghiệp đã chiếm được một vị trí xứng đáng trong hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài với lượng vốn chiếm 62,2% tổng vốn đầu tư của hơn 37,6 tỷ USD đăng ký ở Việt Nam. Nếu tính về số dự án thì lĩnh vực công nghiệp cũng chiếm đến 63,6% tổng số dự án đã được cấp giấy phép. Ngành nông lâm ngư nghiệp và dịch vụ chưa phát triển tương xứng với khả năng có được ở Việt Nam ta. Cụ thể được thể hiện ở bảng sau:
Bảng V - Vốn cam kết và vốn thực hiện đầu tư nước ngoài cộng dồn phân theo ngành 1994 - 1998
Đơn vị: Triệu USD
STT
Chỉ tiêu
Ngành
1994
1995
1996
1997
1998
Trung bình
1994 - 1998
Vốn cam kết (Ck)
Vốn thực hiện (T/h)
Vốn cam kết (Ck)
Vốn thực hiện (T/h)
Vốn cam kết (Ck)
Vốn thực hiện (T/h)
Vốn cam kết (Ck)
Vốn thực hiện (T/h)
Vốn cam kết (Ck)
Vốn thực hiện (T/h)
Vốn cam kết (Ck)
Vốn thực hiện (T/h)
1
Công nghiệp
4.142
934
6.609
1.671
9.344
2.514
11.002
3.484
12.187
3.814
-
-
+ CN nặng
1.464
417
2.943
713
4.226
1.044
5.211
1.466
5.683
1.568
-
-
+ Khu chế xuất
366
15
612
55
612
177
830
252
892
277
-
-
+ CN nhẹ
1.305
214
1.815
446
2.677
770
2.995
1.135
3.642
1.258
-
-
+ CN thực phẩm
1.007
288
1.239
459
1.829
523
1.966
631
1.970
711
-
-
2
Dầu khí
1.213
1.133
1.213
1.715
1.265
2.016
1.316
2.018
2.588
2.068
-
-
3
Xây dựng
919
89
1.605
202
2.235
475
2.946
627
3.013
877
-
-
4
Giao thông và
BC viễn thông
799
124
1.238
283
1.926
364
2.710
441
3.108
465
-
-
5
Bất động sản
3.903
474
6.601
907
9.901
1.273
10.239
1.696
8.841
1.808
-
-
+ KS và du lịch
2.701
354
3.511
607
3.446
827
3.558
1.124
4.320
1.197
-
-
+ VP và căn hộ
1.202
120
3.090
299
6.456
446
6.681
572
4.520
612
-
-
6
Nông lâm ngư nghiệp
573
95
891
216
1.004
292
1.593
576
2.014
617
-
-
7
Dịch vụ
375
193
489
308
673
331
997
498
792
500
-
-
Tổng
11.924
3.042
18.646
5.302
26.348
7.265
30.804
9.339
32.542
10.140
-
-
% so với tổng số
1
Công nghiệp
34,7
30,7
35,4
31,5
35,5
34,6
35,7
37,3
37,4
37,6
35,8
34,4
+ CN nặng
12,3
13,7
15,8
13,4
16,0
14,4
16,9
15,7
17,5
15,5
15,7
14,5
+ Khu chế xuất
3,1
0,5
3,3
1,0
2,3
2,4
2,7
2,7
2,7
2,7
2,8
1,9
+ CN nhẹ
10,9
7,0
9,7
8,4
10,2
10,6
9,7
12,1
11,2
12,4
10,4
10,1
+ CN thực phẩm
8,4
9,5
6,6
8,6
6,9
7,2
6,4
6,8
6,1
7,0
6,9
7,8
2
Dầu khí
10,2
37,2
6,5
32,3
4,8
27,8
4,3
21,6
8,0
20,4
6,7
27,9
3
Xây dựng
7,7
2,9
8,6
3,8
8,5
6,5
9,6
6,7
9,3
8,6
8,7
5,7
4
Giao thông và
BC viễn thông
6,7
4,1
6,6
5,3
7,3
5,0
8,8
4,7
9,6
4,5
7,8
4,7
5
Bất động sản
32,7
15,6
35,4
17,1
37,6
17,5
33,2
18,2
27,2
17,8
33,2
17,2
+ KS và du lịch
22,7
11,6
18,8
11,5
13,1
11,4
11,6
12,0
13,3
11,8
15,9
11,7
+ VP và căn hộ
10,1
3,9
16,6
5,6
24,5
6,1
21,7
6,1
13,9
6,0
17,3
5,6
6
Nông lâm ngư nghiệp
4,8
3,1
4,8
4,1
3,8
4,0
5,2
6,2
6,2
6,1
5,0
4,7
7
Dịch vụ
3,1
6,3
2,6
5,8
2,6
4,6
3,2
5,3
2,4
4,9
2,8
5,4
Tổng
100
100
100
100
100
100
100
100
100
100
-
-
Nguồn theo số liệu của Bộ KH và đầu tư ngân hàng nông nghiệp và theo ước tính của cán bộ IMF
Với cơ cấu ngành theo bảng số liệu trên cho ta thấy: tỷ trọng của các ngành truyền thống như nông lâm ngư nghiệp chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số và có xu hướng ngày càng giảm. Tính trung bình trong giai đoạn 1994 đến 1998 chỉ chiếm dao động trong mức 5%. Sở dĩ như vậy là do các ngành này thời gian đầu tư thì dài mà lợi nhuận lại không cao, mức độ rủi ro lại lớn, bên cạnh các ngành truyền thống thì ngành dầu khí cũng có xu hướng giảm và chỉ còn chiếm 8,0% trong tổng số vốn đầu tư trong năm 1998. Còn lại các ngành khác tương đối tăng qua các năm, đặc biệt là ngành công nghiệp đã có mức thu hút xứng đáng với tiềm năng của nó chiếm đến 37,4% so với tổng số và tính trung bình cho cả giai đoạn 1994 đến 1998 chiếm là 35,8%. Phải kể đến ngành kinh doanh bất động sản được gọi là ngành “công nghiệp không khói” dù bị tác động mạnh của khủng hoảng nhưng vẫn chiếm 27,2% năm 1998. Trên đây là một số mặt được của cơ cấu vốn đầu tư phân theo ngành. Nhưng bên cạnh đó, vẫn còn những mặt bất cập nổi lên như cơ cấu ngành chưa hợp lý. Như ta thấy, ngành dịch vụ chiếm một tỷ trọng quá nhỏ nếu không muốn nói là què quặt, kém phát triển chỉ chiếm có 3,2% năm 1997 và chỉ còn 2,4% năm 1998. Một số ngành thuộc nông lâm ngư nghiệp cũng chưa xứng đáng với một quốc gia có khoảng 80 triệu dân mà hơn 70% sống trong khu vực nông nghiệp. Bên cạnh đó, Việt Nam có một bờ biển dài có nhiều lợi thế về tài nguyên nghề biển thì thiết nghĩ cần có những giải pháp để nâng cao mức thu hút về các ngành truyền thống và đặc biệt phải nâng cao mức vốn trong ngành dịch vụ khoảng trên dưới 30% trong tổng số khi bước vào thiên niên kỷ mới. Để ngành công nghiệp và dịch vụ thực sự là những đóng góp chính cho tăng trưởng và phát triển của Việt Nam.
3-/ Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hình thức đầu tư:
Như ta đã biết ở chương I thì hình thức đầu tư chủ yếu ở Việt Nam là tập trung vào doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh. Ngoài ra, còn một số hình thức như BOT, BTO, BT...
Ngay từ những ngày đầu, khi có những dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài thì các hình thức này đồng loạt được xuất hiện. Tuy ở mức độ khác nhau nhưng nó đã làm đa dạng hoá hình thức đầu tư tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài cũng như phía Việt Nam chọn được những hình thức phù hợp nhất với mình trong quá trình hợp tác đầu tư. Bảng sau sẽ cho ta rõ hơn về các chỉ tiêu như vốn cam kết, vốn thực hiện, vốn nước ngoài, nợ nước ngoài của các hình thức đầu tư trong các năm từ năm 1991 đến năm 1998.
Bảng VI - Việt Nam đầu tư nước ngoài phân theo hình thức đầu tư
1991 - 1998.
Đơn vị: Triệu USD
Năm
Chỉ tiêu
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
Tổng 91 - 98
Trung bình 91 - 98 %
I. Vốn cam kết
1. 100% vốn nước ngoài
264
426
1.022
823
1.683
1.151
1.199
439
7.005
21,5
2. Liên doanh
1.444
1.292
2.397
2.714
4.642
5.907
2.235
996
21.627
66,5
- Với DNNN
1.423
1.276
2.359
2.631
4.515
5.787
2.118
908
21.018
64,6
- Với KVTN
21
16
38
84
127
120
117
87
609
1,1
3. BCC
674
575
167
127
363
90
795
304
3.096
9,5
4. BOT
0
0
0
0
32
554
227
0
814
2,5
Tổng số
2.381
2.293
3.585
3.664
6.722
7.702
4.456
1.738
32.542
II. Vốn thực hiện
1. 100% vốn nước ngoài
3
80
186
263
413
554
689
84
2.271
22,4
2. Liên doanh
104
145
435
837
1.160
1.146
1.337
278
5.449
53,7
- Với DNNN
100
140
423
812
1.145
1.122
1.288
270
5.301
52,3
- Với KVTN
3
5
12
24
24
24
49
8
149
1,5
3. BCC
61
92
302
537
674
263
47
435
2.410
23,8
4. BOT
0
0
0
0
0
0
2
3
9
0,1
Tổng số
168
316
922
1.636
2.260
1.963
2.074
800
10.140
III. Vốn nước ngoài
1. 100% vốn nước ngoài
4
85
142
166
214
250
358
75
1.294
23,1
2. Liên doanh
79
130
350
556
727
475
628
135
3.080
55,0
- Với DNNN
76
127
342
546
712
464
594
125
2.985
53,3
- Với KVTN
3
3
8
11
16
10
34
10
95
1,7
3. BCC
75
79
205
311
342
166
14
25
1.217
21,7
4. BOT
0
0
0
0
4
0
2
5
11
0,2
Tổng số
158
294
697
1.033
1.207
897
1.002
240
5.601
IV. Nợ nước ngoài
1. 100% vốn nước ngoài
0
4
47
95
208
263
333
35
977
2. Liên doanh
8
20
95
273
431
626
706
170
2.369
- Với DNNN
8
19
91
259
423
614
690
168
2.315
- Với KVTN
0
1
4
14
8
12
16
2
54
3. BCC
2
14
97
226
350
32
32
355
1.194
4. BOT
0
0
0
0
0
0
0
0
-2
Tổng số
10
38
238
594
989
921
1.072
560
4.538
Nguồn: Theo số liệu báo cáo của Bộ KH đầu tư trình Chính phủ.
Bảng trên cho ta thấy 2/3 tổng số các cam kết đầu tư trực tiếp nước ngoài trong giai đoạn 1991 đến 1998 được tiến hành bằng các liên doanh chiếm 66,5% trong đó với các doanh nghiệp nước ngoài 64,6% và chỉ 1,1% là ở các liên doanh với khu vực tư nhân, đầu tư vào các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài chiếm 22% tổng số cam kết trong khi hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) và BOT chiếm khoảng 12% tổng số cam kết, các nhà đầu tư lúc đầu (1991) do còn e ngại nên chủ yếu đầu tư dưới dạng liên doanh (chiếm đến 60%) và hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (chỉ chiếm 10%) nhưng đến năm 1998 do sự ổn định về luật pháp và ưu đãi cho doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thì hình thức này đã chiếm đến 25% còn doanh nghiệp liên doanh chỉ còn 57% và hình thức BCC là 18% so với 30% năm 1991. Tuy xét về mặt giải ngân, các liên doanh với các doanh nghiệp nước ngoài chiếm một phần lớn hơn trong tổng số giải ngân 52,3% trong khi giải ngân dưới hình thức BCC là 23,8%. Điều này cho thấy nhiều nhà đầu tư gặp phải những trở ngại về mặt hành chính và phải thay đổi cách tiếp cận sau khi cam kết bước đầu về các khoản đầu tư vào hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC).
Phần góp vốn pháp định chiếm bình quân khoảng 56% số giải ngân đầu tư trực tiếp nước ngoài, cao hơn nhiều so với vốn pháp định cần thiết là 30%. Phần đóng góp vốn bình quân của phía Việt Nam ước tính khoảng 20% chủ yếu là đóng góp bằng quyền sở hữu đất. Đây là một vấn đề cần giải quyết trong những năm tới để làm sao nâng cao được mức đóng góp của phía Việt Nam mà cần thiết phải có sự đóng góp bằng tài sản khác chứ không chỉ là quyền sử dụng đất. Để phía Việt Nam cũng như phía nước ngoài bình đẳng hơn trong điều hành sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để tránh thua lỗ trong hợp tác.
Bên cạnh đó, ta cũng thấy một thực tế là phần vay nợ trong các luồng đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng mạnh, nó chiếm đến 70% vốn thực hiện năm 1998 và chiếm 44,7% trong suốt khoảng thời gian từ 1991 đến năm 1998. Nó cho thấy một thực tế là vốn đầu tư trực tiếp vào Việt Nam chịu ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài. Do đó, cần phải làm gì để mức ảnh hưởng ít xuống nhưng lượng vốn vẫn tăng lên trong quá trình thu hút vốn đầu tư vào Việt Nam trong những thời gian tới là một yêu cầu bức bách đặt ra.
III-/ Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam qua các năm
1-/ Doanh thu của một số ngành có vốn đầu tư nước ngoài
Mặc dù chịu nhiều sự tác động của các yếu tố bên ngoài, nhưng con thuyền đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam trong thời gian qua vẫn không ngừng lớn mạnh về cả lượng và chất. Ví như năm 1997 doanh thu của các doanh nghiệp được thành lập do vốn đầu tư nước ngoài là 3.628 triệu USD. Và khủng hoảng khu vực đã tác động mạnh đến nền kinh tế thế giới và kinh tế khu vực nói chung và kinh tế Việt Nam nói riêng đã không làm cho doanh thu của các doanh nghiệp này năm 1998 giảm mạnh. Nó vẫn giữ được ở mức 3.343 triệu USD chỉ giảm 7,85% so với năm 1997.
Bảng sau sẽ cho ta thấy được tổng doanh thu của các ngành được thành lập do vốn đầu tư nước ngoài từ năm 1991 đến nay.
Bảng VII - Doanh thu của một số ngành có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đơn vị: Triệu USD
Năm
Ngành
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1. Các ngành CN nặng
7
28
65
167
414
683
1.232
1.526
2. Ngành dầu khí
0
0
0
0
0
100
1
0
3. Các ngành CN nhẹ
7
19
73
180
380
582
734
787
4. CN thực phẩm
1
3
63
162
362
442
434
317
5. Nông lâm nghiệp
8
11
29
86
141
165
313
278
6. Ngư nghiệp
55
19
11
11
19
23
20
12
7. Xây dựng
0
0
3
14
69
43
152
181
8. Cơ sở hạ tầng KCN/KCX
0
0
0
5
6
7
17
12
9. Khách sạn và du lịch
10
17
31
80
169
89
182
47
10. Văn phòng và căn hộ
0
3
4
2
25
40
37
24
11. Đô thị mới
0
6
8
28
23
12
12
15
12. GTVT và BCVT
63
113
191
250
399
445
361
54
13. Ngân hàng và tài chính
0
0
0
0
26
41
92
43
14. VH - Y tế và giáo dục
0
2
6
18
25
27
46
48
Tổng số
151
224
485
1.025
2.057
2.699
3.628
3.343
Phần trăm so với tổng số
1. Các ngành CN nặng
4,7
12,4
13,4
16,3
20,1
25,3
33,9
45,6
2. Ngành dầu khí
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
3,7
0,0
0,0
3. Các ngành CN nhẹ
4,8
8,5
15,0
17,6
18,3
21,6
20,2
23,5
4. CN thực phẩm
0,7
1,3
13,1
15,8
17,6
16,4
12,0
9,5
5. Nông lâm nghiệp
5,0
5,1
6,0
8,4
6,9
6,1
8,6
8,3
6. Ngư nghiệp
36,3
8,6
2,3
1,1
0,9
0,8
0,5
0,3
7. Xây dựng
0,0
0,1
0,6
1,4
3,3
1,6
4,2
5,4
8. Cơ sở hạ tầng KCN/KCX
0,0
0,0
0,0
0,5
0,3
0,3
0,5
0,4
9. Khách sạn và du lịch
6,8
7,6
6,4
7,8
8,2
3,3
5,0
1,4
10. Văn phòng và căn hộ
0,0
1,5
0,8
2,2
1,2
1,5
1,0
0,7
11. Đô thị mới
0,0
2,6
1,6
2,7
1,1
0,5
0,3
0,4
12. GTVT và BCVT
41,4
51,2
39,4
24,4
19,4
16,5
10,0
1,6
13. Ngân hàng và tài chính
0,0
0,0
0,0
0,0
1,3
1,5
2,5
1,3
14. VH - Y tế và giáo dục
0,3
1,0
1,3
1,8
1,2
1,0
1,1
1,4
Tổng số
100
100
100
100
100
100
100
100
Dthu tính bằng % GDP
1,9
2,3
3,8
6,9
10,2
11,5
14,2
13,3
Nguồn: Số liệu của Bộ KH và Đầu tư có sự điều chỉnh của ngân hàng Nhà nước và ước lượng của cán bộ IMF.
Như vậy, với sự không ngừng lớn mạnh về đầu tư cho ngành công nghiệp đã cho ngành này một thế mạnh đứng vững chắc trong nền kinh tế quốc dân. Ngành công nghiệp nói chung, công nghiệp nặng nói riêng đã tạo ra một khoản doanh thu chiếm một vị trí xứng đáng trong tổng doanh thu các ngành là 1.526 triệu USD chiếm 45,6% trên tổng doanh thu năm 1998. Mặc dù tác động của khủng hoảng nhưng so với năm 1997, năm 1998 chỉ có một số ngành như công nghiệp thực phẩm, nông lâm nghiệp, ngư nghiệp, cơ sở hạ tầng, khu công nghiệp (KCN), khu chế xuất (KCX), khách sạn và du lịch, ngân hàng - tài chính ... là thiên giảm chút ít còn hầu như các ngành đều tăng mạnh như công nghiệp nặng tăng 23,8%, công nghiệp nhẹ tăng 7,2% ... so với năm 1997. Tuy vậy, đứng trên giác độ tổng nền kinh tế mà xét thì thấy rằng với một mức GDP không lớn như Việt Nam hiện nay, mà doanh thu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ chiếm 14,2% năm 1997 trên GDP, 13,3% năm 1998 thì quả thực là còn nhỏ. Bên cạnh đó ta thấy rằng nhiều ngành ở nước ngoài nói chung và các nước Nics nói riêng thì có doanh thu lớn như ngân hàng - tài chính hoặc cơ sở hạ tầng KCN - KCX thì Việt Nam chúng đóng vai trò thứ yếu ví như doanh thu của ngân hàng tài chính chỉ chiếm 2,5% năm 1997, 1,3% năm 1998 và hầu như không có doanh thu trong những năm từ trước năm 1995.
Thiết nghĩ mục tiêu trước mắt cũng như mục tiêu lâu dài từ năm 2000 là phải làm sao tạo thêm những ngành nghề mới, phát huy những ngành nghề hiện có để chúng có mức doanh thu tương xứng, đóng góp vào nền kinh tế quốc dân.
2-/ Đóng góp của đầu tư trực tiếp nước ngoài với vốn đầu tư tại Việt Nam
Tính đến hết năm 1998 tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam (được cam kết) khoảng 32.542 triệu USD, trong đó vốn thực hiện là 10.265 triệu USD chiếm 31,5% và vốn cam kết chưa được giải ngân là 22.277 triệu USD (chiếm 68,5%). Đây là một nguồn vốn quan trọng đóng góp lớn vào tăng trưởng và phát triển của Việt Nam trong thời gian qua. Nó đã góp phần lớn trong việc giải quyết vấn đề thiếu vốn trầm trọng của Việt Nam trong những năm trước đó. Nhưng theo dự báo thì trong những năm tới mức độ tăng vốn đầu tư vào Việt Nam có xu hướng giảm do nhiều nguyên nhân mà nguyên nhân chủ yếu đó là sự tác động mạnh của cuộc khủng hoảng kinh tế gây nên tâm lý hoang mang không chắc chắn khi đầu tư vào khu vực Châu á - Thái Bình Dương trong đó có Việt Nam. Vấn đề đặt ra hiện nay là chúng ta phải làm sao cho vốn đầu tư nước ngoài trong những năm tới tuy giảm nhưng không được giảm mạnh và trong kế hoạch lâu dài phải dần phục hồi lại nhịp độ tăng của vốn đầu tư ít nhất cũng bằng những năm trước khủng hoảng.
3-/ Vai trò của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong xuất khẩu.
Hàng năm cán cân thanh toán của chúng ta thường xuyên có tình trạng mất cân đối chủ yếu là nhập khẩu, còn xuất khẩu thì chủ yếu nằm trong lĩnh vực truyền thống như: nông lâm ngư nghiệp hoặc ngành khai thác như dầu khí, chế biến thực phẩm ... dẫn đến tình trạng chu chuyển một khoản lớn ngoại tệ ra nước ngoài, nợ nước ngoài triền miên... Do đó, chúng ta đã phải chủ trương tăng cường xuất khẩu để thu ngoại tệ, thực hiện thu hút các ngành vào các lĩnh vực sản xuất hàng hoá mà trong đó có các doanh nghiệp sử dụng vốn đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp này từ khi đi vào hoạt động đã làm đa dạng hoá thêm những hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam trên trường quốc tế.
Bảng dưới đây sẽ cho ta thấy những đóng góp của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong những năm gần đây mà đặc biệt là từ năm 1993 đến nay.
Bảng VIII - Việt nam doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu 1991 - 1998
Đơn vị: Triệu USD
Năm
Ngành
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
- Các ngành CN nặng
0
0
0
0
0
0
0
0
- Ngành dầu khí
0
0
58
8
29
154
441
653
- Các ngành CN nhẹ
0
0
0
0
0
0
15
11
- CN thực phẩm
2
6
145
146
260
446
539
686
- Nông - lâm nghiệp
0
0
3
10
23
52
67
60
- Ngư nghiệp
0
0
3
1
1
2
3
5
- Xây dựng
0
0
15
1
2
8
4
7
- Cơ sở hạ tầng KCN - KCX
0
0
0
0
0
100
1
0
- Khách sạn và du lịch
0
0
58
48
590
102
86
68
- Văn phòng và căn hộ
0
0
3
3
0
2
3
6
- Đô thị mới
0
0
1
0
0
0
12
5
- Dịch vụ
0
0
14
12
14
15
18
9
- GTVT và BCVT
0
0
0
0
0
0
0
0
- Ngân hàng và tài chính
0
0
27
9
10
9
16
15
- VH, Y tế và giáo dục
0
0
1
0
1
3
19
6
Tổng
2
6
356
238
397
893
1.225
1.531
Phần trăm so với tổng số
- Các ngành CN nặng
0
0
0
0
0
0
0
0
- Ngành dầu khí
0
0
16
3
7
17
36
43
- Các ngành CN nhẹ
0
0
0
0
0
0
1
1
- CN thực phẩm
100
100
41
61
65
50
44
45
- Nông - lâm nghiệp
0
0
9
4
6
6
5
4
- Ngư nghiệp
0
0
1
1
0
0
0
0
- Xây dựng
0
0
4
0
0
1
0
0
- Cơ sở hạ tầng KCN - KCX
0
0
0
0
0
11
0
0
- Khách sạn và du lịch
0
0
16
20
15
11
7
4
- Văn phòng và căn hộ
0
0
1
1
0
0
0
0
- Đô thị mới
0
0
0
0
0
0
1
0
- Dịch vụ
0
0
4
5
4
2
1
1
- GTVT và BCVT
0
0
0
0
0
0
0
0
- Ngân hàng và tài chính
0
0
8
4
2
2
1
1
- VH, Y tế và giáo dục
0
0
0
0
0
0
2
0
Tổng
100
100
100
100
100
100
100
100
Các mục cần ghi nhớ
XK của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
+ Theo % tổng XK
0,1
0,2
11,9
5,9
7,6
12,2
13,4
16,3
+ Theo % DT của các DN có vốn ĐTNN
1,1
2,7
73,4
23,2
19,3
33,1
33,8
45,8
Nguồn: Theo ước tính của cán bộ IMF dựa trên số liệu của bộ KH và Đầu tư.
Mức độ đóng góp xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vào tổng xuất khẩu rất nhỏ chỉ chiếm 16,3% năm 1998 mà trong đó lại tập trung chủ yếu vào một số ngành như dầu khí, công nghệ thực phẩm, khách sạn và du lịch, dịch vụ... Đây là một trong những ngành khai thác mạnh các lợi thế của Việt Nam, còn lại các ngành hầu như là không có sản phẩm xuất khẩu; công nghiệp nặng và những ngành khác có sản phẩm xuất khẩu nhưng rất nhỏ, không đáng kể.
Trong các ngành có xuất khẩu chủ yếu thì ngành khách sạn và du lịch, dịch vụ có tỷ trọng không lớn nhưng có thể coi đây là ngành mang lại lợi ích cao, bởi hai ngành này là thực hiện xuất khẩu tại chỗ mang lại ngoại tệ cho quốc gia. Còn lại các ngành khác như dầu khí, khai thác tài nguyên thiên nhiên, nông lâm ngư nghiệp và công nghiệp thực phẩm là những ngành chủ yếu là khai thác tài nguyên thiên nhiên. Hoặc là tận dụng ưu thế về sức lao động rẻ mạt để xuất khẩu. Từ đây đã làm nảy sinh ra câu hỏi: phải chăng xuất khẩu của các doanh nghiệp này càng lớn thì Việt Nam càng nghèo đi ?
Câu hỏi này thực tế không phải không có cơ sở. Nếu như năm 1998 Việt Nam có 1.531 triệu USD xuất khẩu thì các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì ngành công nghiệp thực phẩm chiếm 15%, ngành dầu khí chiếm 43% so với tổng số. Như vậy với việc khai thác tài nguyên thiên nhiên đặc biệt là ngành dầu khí chủ yếu xuất khẩu dầu thô thì thử hỏi bao lâu nữa thì tài nguyên thiên nhiên Việt Nam sẽ cạn kiệt.
Như vậy, câu hỏi đặt ra với các nhà hoạch định chính sách là phải làm như thế nào để các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đẩy mạnh xuất khẩu những sản phẩm đã qua chế biến, chứ không phải những sản phẩm khai thác nên và mang xuất khẩu ngay, để duy trì và bảo tồn các nguồn tài nguyên cho thế hệ sau ?
4-/ ảnh hưởng của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến đầu tư trong nước
Phân tích tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian qua cho thấy đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần đáng kể trong việc thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng và giải quyết vấn đề cấp bách của kinh tế - xã hội Việt Nam.
Từ những ngày có chủ trương của Đảng và Nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài thì môi trường đầu tư của Việt Nam đã được cải thiện cả ở trong nước cũng như nước ngoài. Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài xuất hiện đã tạo một môi trường cạnh tranh giúp cho các doanh nghiệp trong nước vươn lên học tập kinh nghiệm quản lý, trang thiết bị hiện đại hơn, thay đổi cách nhìn về tư tưởng và quen dần với tập quán làm ăn quốc tế. Doanh nghiệp trong nước nhờ sự tác động đó đã đủ khả năng sản xuất kinh doanh những mặt hàng có thể cạnh tranh với những sản phẩm của liên doanh, của doanh nghiệp đầu tư nước ngoài... Và những sản phẩm này cũng còn là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Nhưng đặc biệt hơn là những doanh nghiệp được đầu tư bằng vốn trong nước có một nguồn đầu ra chính là những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bằng cách sản xuất những sản phẩm đáp ứng trực tiếp nhu cầu của doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Cùng với những khuyến khích đầu tư của Nhà nước và những lợi thế trên, doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước đã không ngừng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Nhưng bên cạnh mặt được thì những trở ngại của đầu tư trong nước càng ngày càng hiện rõ nét hơn, đó chính là sự mất công bằng trong chính sách đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Điển hình như việc giành ưu đãi cho các nhà đầu tư nước ngoài - để thu hút mạnh đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo cho các doanh nghiệp nước ngoài được giảm thuế, miễn thuế trong một thời gian khá dài hoặc việc trả tiền của họ cho việc thuế đất nhà xưởng và một số dịch vụ trong nước là rất thấp so với các nhà đầu tư trong nước. Ngoài ra các doanh nghiệp nước ngoài còn được Nhà nước bảo hộ trong một số lĩnh vực như về thuế quan, Nhà nước còn cho phép họ miễn hoặc miễn giảm thuế lợi tức. Khi số lợi tức này được tái đầu tư, mà nhà đầu tư trong nước không có được.
Trên đây là một số điểm chính trong sự mất cân bằng trong luật đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài của Việt Nam. Nó đã tạo ra tâm lý không tốt cho các nhà đầu tư trong nước. Như vậy vấn đề cần phải giải quyết là làm thế nào để không chỉ phát huy mạnh đầu tư nước ngoài mà còn có thể đẩy mạnh đầu tư trong nước để nó thực sự là nguồn vốn chủ yếu trong tăng trưởng và phát triển kinh tế.
5-/ ảnh hưởng của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến các lĩnh vực khác.
Như trên đã đề cập đầu tư trực tiếp nước ngoài là một nguồn động lực mạnh góp phần vào tăng trưởng và phát triển kinh tế. Ngoài ra, nó còn là một nguồn động lực tốt trong việc giải quyết các vấn đề mang tính chất xã hội, văn hoá, chính trị...
Tính đến đầu năm 1999 đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo ra 290.995 việc làm tương đối ổn định và có thu nhập khá đối với người lao động Việt Nam. Nó đã góp phần tích cực trong việc giải quyết việc làm cho hàng triệu lao động của Việt Nam trong thời gian qua.
Bảng số liệu sau đây sẽ cho thấy rõ hơn về việc sử dụng lao động của một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong các ngành chủ yếu.
Bảng IX - Việt Nam sử dụng lao động trong doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (1998)
Đơn vị: Người
STT
Chỉ tiêu
Ngành
Số lao động
% so với tổng số (%)
1
Ngành công nghiệp nặng
40.539
13,9
2
Dầu khí
803
0,3
3
Ngành công nghiệp nhẹ
148.755
51,1
4
Công nghiệp thực phẩm
12.956
4,5
5
Lâm nghiệp
34.366
11,8
6
Ngư nghiệp
5.957
2,0
7
Xây dựng
9.664
3,3
8
Cơ sở hạ tầng KCN - KCX
499
0,2
9
Khách sạn và du lịch
15.734
6,0
10
Đô thị mới
32
0,0
11
Dịch vụ
2.200
0,8
12
GTVT và BCVT
8.799
3,0
13
Ngân hàng và tài chính
1.237
0,4
14
Văn phòng và căn hộ
3.576
1,2
15
Văn hoá - Y tế - giáo dục
4.083
1,4
16
Tổng
290.995
100
Nguồn: Theo IMF và ngân hàng trung ương Việt Nam
Với một quốc gia đông dân như Việt Nam thì con số 290.995 lao động được sử dụng trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài quả thậy là chưa lớn mà phần lớn số lao động này lại nằm trong ngành công nghiệp nhẹ (chiếm 51,1%) là ngành chủ yếu sử dụng lao động thủ công: như giầy da, may mặc... không có kỹ năng, kỹ sảo cao, trình độ chuyên môn hoá thấp còn các ngành khác yêu cầu sử dụng những lao động có trình độ thì hầu như các doanh nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài phải thuê các chuyên gia nước ngoài. Bởi người lao động có trình độ của Việt Nam chưa đủ hoặc chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Một thực tế đang tồn tại ở Việt Nam đó là quá nhiều lao động được đào tạo ra nhưng khi cần đến thì lại không tìm được người có đủ năng lực đáp ứng với trình độ và tác phong của công nghiệp hoá và chuyên môn hoá trong các doanh nghiệp.
Đây là một vấn đề bức bối không chỉ của riêng ai, đặt ra yêu cầu chung trong việc tổ chức đào tạo lao động mới và đào tạo lại lao động theo phương thức hiện đại và tiên tiến hơn.
Về mặt xã hội thì đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tác động trực tiếp đến vấn đề giải quyết việc làm cho lao động Việt Nam. Nhưng còn các lĩnh vực chính trị thì sao ?
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã phần nào làm tăng thêm sức mạnh của Việt Nam trong quan hệ hợp tác song phương, cũng như đa phương của Việt Nam với các nước khác trên thế giới cả về chính trị, kinh tế cũng như xã hội. Nhưng tấm huy chương nào cũng có hai mặt của nó. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tuy giúp cho vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế nhưng không phải nhà đầu tư nào cũng hoạt động vì mục đích lợi nhuận mà hoạt động của họ có thể nhằm vào hoạt động tình báo, gây rối an ninh trật tự nhằm phát hoại thành quả mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã đạt được.
IV-/ Khó khăn của một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Tính đến ngày 30 tháng 9 năm 1998 đã có 1.052 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đi vào hoạt động. Theo số liệu thống kê năm 1997 các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo ra 7,5% GDP nhưng tỷ trọng nộp thuế và phí của các doanh nghiệp chỉ chiếm 4,5% bởi còn nhiều doanh nghiệp đang trong thời kỳ được miễn hoặc giảm thuế lợi tức hoặc một số doanh nghiệp làm ăn thua lỗ.
Về tình trạng thua lỗ thì trong số 901 doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài đi vào hoạt động thì 206 doanh nghiệp có lãi (chiếm 22,8%) còn lại là làm ăn chưa có hiệu quả hoặc thua lỗ nặng như hai liên doanh giải khát Coca-cola lỗ 281 tỷ đồng, doanh nghiệp liên doanh G & P sau hai năm hoạt động lỗ đến 28 triệu USD trên tổng số vốn đầu tư chỉ có 37 triệu USD. Ngoài ra còn có các doanh nghiệp khác như các liên doanh sản xuất và lắp đặt ô tô - môtô, một số liên doanh Bia... Vậy nguyên nhân do đâu dẫn tới tình trạng này ?
ở đây nguyên nhân khách quan thì không ít, nguyên nhân chủ quan thì quá nhiều. Ta có thể kể ra một số như sau: thứ nhất, bên đối tác, một mặt muốn thao túng phần góp của phía Việt Nam để chuyển doanh nghiệp liên doanh sang doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, do đó đã tạo ra tình trạng lỗ giả lãi thật. Bởi với sự độc quyền cung cấp nguyên vật liệu đầu vào, họ được quyền định giá cao, lương trả cho chuyên gia người nước ngoài quá cao. Các chi phí quảng cáo cao như: liên doanh Coca-cola đã chi đến 14% doanh thu cho quảng cáo thì thử hỏi tại sao lại không lỗ ? Nhưng một thực tế chỉ là doanh nghiệp liên doanh bị lỗ còn bên đối tác họ vẫn lãi. Vì họ có cả một tập đoàn cung cấp nguyên vật liệu và tiêu thụ sản phẩm. Thứ hai, là phải kể đến tình trạng các bên đều nâng cao phần định giá tài sản đóng góp vào liên doanh so với thực tế. Cho nên, dẫn đến giá thành sản phẩm cao. Thứ ba, chính là sự phán đoán về thị trường tiêu thụ trong nước bị sai lệch như tình trạng của các liên doanh sản xuất và lắp đặt ô tô, thứ đến đó là trình độ quản lý cũng như đạo đức kinh doanh của cán bộ tham gia liên doanh của phía Việt Nam cũng là nguyên nhân cơ bản “giúp” cho doanh nghiệp liên doanh đến tình trạng này. Ngoài ra, còn một số các nguyên nhân khác cần kể ra như môi trường đầu tư, chính sách điều tiến vĩ mô của Nhà nước...
Vậy làm gì để khắc phục tình trạng này ? Phải chăng, đó chính là một dấu hỏi đặt ra mà chưa một cấp, một ngành nào có biện pháp để giải quyết ?
V-/ Thực trạng khu công nghiệp - khu chế xuất hiện nay tại Việt Nam
Phát triển các khu công nghiệp - khu chế xuất là một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm xây dựng một mô hình kinh tế mới thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của ta. Nhưng tình hình hoạt động của nó ra sao và hiệu quả kinh tế xã hội của nó như thế nào ? thì lại làm đau đầu các nhà hoạch định chính sách!
Đến tháng 5 năm 1999 cả nước có 63 khu công nghiệp - khu chế xuất trong đó có 48 khu công nghiệp - khu chế xuất đã đi vào hoạt động góp phần tích cực trong hoạt động đầu tư nước ngoài. Không ít các khu công nghiệp - khu chế xuất được xây dựng trên các khu đầm lầy, hoang hoá và tạo cơ hội cho các vùng này “lột xác”. Từ khi, có khu công nghiệp - khu chế xuất xuất hiện thì các vùng này trở thành những khu đô thị sầm uất, đời sống dân cư phát triển nhờ lao động trong khu công nghiệp - khu chế xuất hoặc làm “vệ tinh” cho các liên doanh ở đây. Nhưng một thực tế, đó là tình trạng dư thừa đất đai tại các khu công nghiệp ngày càng rõ nét. Đến đầu năm 1999 chỉ có 24% diện tích quy hoạch cho khu công nghiệp - khu chế xuất được lấp kín bằng những dự án đầu tư: 8 khu công nghiệp cho thuê 50% diện tích, 10% khu công nghiệp cho thuê 30 - 35%, 17 khu công nghiệp dưới 30% và 17 khu công nghiệp chưa thực hiện được một dự án nào. Khu công nghiệp Nomura Hải Phòng xây dựng trên diện tích 153 ha với hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại, tiện nghi thì đến tháng 4 năm 1999 chỉ có 3 ha được thuê chiếm 1,95% quỹ đất xây dựng, và còn rất nhiều khu công nghiệp gặp phải tình trạng này.
Sở dĩ có tình trạng trên, trước hết là do công tác chuẩn bị cho sự ra đời của khu công nghiệp - khu chế xuất còn yếu kém như thiếu cán bộ quản lý có năng lực, thiếu đội ngũ lao động lành nghề... Bên cạnh đó là sự ồ ạt xây dựng về số lượng không chú ý về chất lượng, dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt ở những sản phẩm giống nhau của các khu công nghiệp - khu chế xuất làm nản lòng nhà đầu tư. Ngoài ra, còn có các nguyên nhân khách quan như khủng hoảng kinh tế tác động đến đầu tư làm chậm nhịp độ, hoặc môi trường pháp luật đối với khu công nghiệp - khu chế xuất chưa hoàn chỉnh...
Tóm lại, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam có nhiều mặt tích cực nhưng cũng không ít những tiêu cực đang chờ đợi sự khắc phục dần của các chính sách vĩ mô cũng như năng lực của các doanh nghiệp để thực sự phát huy được vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong đời sống kinh tế - văn hoá - xã hội của Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung.
Chương III
Một số giải pháp và kiến nghị
I-/ Những triển vọng đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam thời gian tới
Để phát huy những thành quả đã đạt được của hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, chúng ta đã phấn đấu đến năm 20 sẽ thu hút được khoảng
triệu USD trong đó triệu USD là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm %. Nhưng như chúng ta biết thì đặc điểm hoạt động đầu tư nước ngoài không chỉ phụ thuộc vào các nỗ lực chủ quan của nước sở tại mà còn phụ thuộc rất lớn vào những điều kiện khách quan trong bối cảnh nền kinh tế thế giới cũng như trong khu vực.
Trong những năm qua bằng sự cải thiện môi trường đầu tư ngày càng thoáng, Việt Nam đã thu được rất nhiều thành quả trong thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài. Nhưng cuối năm 1997 đầu năm 1998 do tác động mạnh của khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực mà nhịp độ vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam giảm mạnh.
Như ta đã biết những đối tác chủ yếu của Việt Nam trong đầu tư nước ngoài là những nước trong khu vực. Cuộc khủng hoảng xảy ra đã và đang tác động mạnh đến các nước này, làm cho sự phát triển kinh tế - chính trị - xã hội của họ bị xáo trộn và giảm mạnh. Chính vì vậy, đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian tới có thể có những nét sau:
Thứ nhất, Đầu tư của các nước Châu á vào Việt Nam bị hạn chế bởi những quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước ASEAN gặp nhiều khó khăn tại chính quốc gia họ, dẫn đến các nhà đầu tư của những nước này phải tạm dừng hoạt động hoặc làm ăn cầm chừng hoặc xin rút giấy phép đầu tư. Một điều chắc chắn xảy ra là trong những năm tới số dự án mới sẽ giảm hẳn.
Thứ hai, Hiện nay các nước trong khu vực đang trong tình trạng phục hồi nền kinh tế dẫn đến họ sẽ áp dụng nhiều biện pháp ưu đãi mạnh để thu hút vốn đầu tư. Chính điều này sẽ ảnh hưởng lớn đến việc thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam do phải cạnh tranh với các quốc gia trong khu vực. Bởi Việt Nam có rất nhiều điểm tương đồng về lợi thế và điều kiện so với những nước như: Trung Quốc hoặc những nước trong khu vực Đông Nam á.
Một yếu tố khác có thể tác động không nhỏ đến việc giảm sút đầu tư vào Việt Nam. Đó chính là dư âm của khủng hoảng sẽ làm cho các chủ đầu tư của Mỹ và Châu Âu dừng hoạt động lại để đánh giá xem xét tình hình đầu tư lâu dài. Do khủng hoảng mà một số nhà đầu tư đánh giá khu vực này chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro... Do đó mà trong những năm tới đầu tư vào Việt Nam không tránh khỏi những khó khăn chung này.
Ngoài các yếu tố kể trên, việc Việt Nam gia nhập APEC (tháng 11 năm 1998) và khu vực mậu dịch tự do AFTA với sự cắt giảm thuế quan vào năm 2006 sẽ làm cho hàng hoá của các nước trong khối thâm nhập và cạnh tranh gay gắt với nhau hơn. Nếu như Việt Nam không có một môi trường đầu tư có hiệu quả thì sẽ dẫn đến các nhà đầu tư chuyển sang đầu tư tại những nơi khác thuận lợi hơn rồi chuyển hàng vào tiêu thụ tại thị trường nước ta.
Trên đây là những yếu tố mang tính chất khách quan tác động vào hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thời gian tới. Bên cạnh đó, các yếu tố như cơ cấu đầu tư của Việt Nam chưa hợp lý điển hình là những đối tác mạnh trên thế giới có vị thế chưa xứng đáng trong đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam lĩnh vực sử dụng vốn đầu tư của Việt Nam chưa hợp lý dẫn đến nhiều ngành còn nhỏ lẻ. Hình thức đầu tư chưa thực sự đa dạng...
Như vậy là trong những năm tới đầu tư nước ngoài vào Việt Nam thuận lợi thì ít mà khó khăn thì quá nhiều. Đặt ra yêu cầu là Việt Nam cần phải có những biện pháp về cả tầm vĩ mô cũng như vi mô để ngày càng cải thiện môi trường để thu hút có hiệu quả nguồn vốn đầu tư trong những năm tới.
II-/ Một số giải pháp chủ yếu để sử dụng và thu hút có hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài thời gian tới.
1-/ Những giải pháp ở tầm vĩ mô - cấp Nhà nước.
a-/ Môi trường pháp luật và thủ tục hành chính.
Nhiều nhà kinh tế và nhà quản lý cho rằng việc cải thiện môi trường pháp luật và thủ tục hành chính là biện pháp mang tính “nội lực” nhất. Bởi lẽ việc cải cách luật pháp và thủ tục phụ thuộc chủ yếu vào “chất xám” cũng như hệ thống quản lý của chúng ta. Những biện pháp này đòi hỏi vừa mang tính lâu dài song cũng cần tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc trước mắt nhất là khâu thủ tục.
Trong thời gian tới chúng ta cần tiếp tục xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh đồng bộ rõ ràng vừa mang tính ổn định, vừa mang tính linh hoạt trong thời gian dài để nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư cả trong nước cũng như nước ngoài như bổ sung các loại luật mới như luật về cạnh tranh, bảo hiểm, thị trường chứng khoán... tạo môi trường bình đẳng giữa nhà đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài.
Như vậy chúng ta cần đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính và thủ tục cấp giấy phép đầu tư để tránh phiền hà, nhũng nhiễu, tạo khó khăn cho nhà đầu tư. Tạo chủ trương “một cửa, một dấu” chứ không phải là “một cửa, nhiều khoá” để làm ăn quan niêu tham nhũng. Thêm vào đó thì cần thiết phải xoá bỏ các ràng buộc các nhà đầu tư phải xác định rõ một địa điểm đầu tư nhất định ngay từ đầu, mà cứ xét duyệt dự án sau đó để nhà đầu tư tự tìm địa điểm xây dựng, triển khai và báo cáo lại, chúng ta chỉ nên cần báo cáo lại chứ không nhất thiết là phải phê duyệt lại mỗi khi dự án có thay đổi. Như phân tích ở trên việc liên doanh của Việt Nam lại chủ yếu với doanh nghiệp nước ngoài và có phân biệt đối xử với khu vực tư nhân, do đó cần thiết phải có sự xoá bỏ những ràng buộc khó khăn này và tiến tới cho phép các khu vực kinh tế được bình đẳng khi tham gia liên doanh, làm ăn với nước ngoài/
b-/ Về mặt tài chính
Để thu hút nhanh chóng và sử dụng có hiệu quả cả vốn trong nước và vốn nước ngoài thì một điều cần thiết là phải tạo ra được một thị trường vốn ổn định, một hệ thống ngân hàng hoàn chỉnh. Muốn vậy, Nhà nước phải nhanh chóng tạo được thị trường chứng khoán, lành mạnh hoá hệ thống tài chính góp phần chu chuyển vốn từ nước ngoài vào trong nước và ngược lại được thuận tiện. Như vậy, Nhà nước cần phải soạn thảo và đưa ra luật cho thị trường chứng khoán, đào tạo con người có đủ khả năng và trình độ hoạt động tốt trên thị trường và hệ thống tài chính, nhanh chóng có biện pháp đẩy nhanh cổ phần hoá các doanh nghiệp. Ngoài ra chúng ta không nên để hình thức đầu tư của các doanh nghiệp có vốn nước ngoài hoạt động trên cơ sở một công ty trách nhiệm hữu hạn mà nên để các công ty này theo hình thức công ty cổ phần thì như vậy vừa tạo điều kiện tốt cho thị trường chứng khoán ra đời, vừa tăng thêm vốn bổ sung của các doanh nghiệp và các nhà đầu tư nước ngoài khác khi tham gia đóng góp cổ phần. Về mặt tài chính chúng ta cần có biện pháp để các nhà đầu tư tiếp cận một cách dễ dàng với nguồn ngoại hối hơn vì ngoại hối chính là dòng máu nuôi sống hoạt động đầu tư mà một khi khó khăn trong việc tiếp cận sẽ làm cho dự án không thể hoạt động trong thời gian lâu dài được.
Thêm vào đó là cần phải xoá bỏ những quy định về việc trả lương cho lao động Việt Nam bằng ngoại tệ điều đó sẽ làm cho nhà đầu tư giảm được chi phí, khuyến khích đầu tư vào các ngành nghề sử dụng nhiều lao động.
Từ khủng hoảng kinh tế khu vực đã cho ta thấy cần phải thực hiện một chính sách về tỷ giá hối đoái sao cho linh hoạt có hiệu quả. Bên cạnh đó, việc thực hiện và điều chỉnh cán cân thanh toán cũng cần đặt ra cho chúng ta phải hạn chế nhập khẩu tăng cường xuất khẩu.
Như chương II ta đã đề cập, các nhà đầu tư vẫn phàn nàn về chi phí kinh doanh ở Việt Nam cao, tiến độ hoạt động trong khu công nghiệp - khu chế xuất còn quá thấp. Do vậy, Nhà nước nên xem xét và giải quyết những thắc mắc của nhà đầu tư. Thêm vào đó, Nhà nước nên giảm một số lệ phí cũng như tiền thuê đất, mặt nước, mặt biển, để tăng việc sử dụng diện tích trong các khu công nghiệp - khu chế xuất để giảm giá thành sản phẩm cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước và nước ngoài, tránh tình trạng lỗ nặng như hiện nay.
c-/ Hoàn thiện hơn các loại hình dịch vụ tư vấn đầu tư.
Theo kinh nghiệm của một số nước trong khu vực như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan... về các dịch vụ tư vấn đầu tư thiết nghĩ chúng ta ngày càng hoàn thiện các loại hình dịch vụ này để tham gia tư vấn cho các nhà đầu tư nước ngoài cũng như trong nước biết các thông tin về đầu tư như: lĩnh vực nào Nhà nước cho phép đầu tư, lĩnh vực nào hạn chế và lĩnh vực nào không cho phép đầu tư. Ngoài ra, còn cung cấp cho các nhà đầu tư biết hiện tại lĩnh vực nào đang có lợi nhuận, hoặc các thông tin khác về tài chính, thuế, phí,... kinh nghiệm cho thấy các loại hình dịch vụ này ở các nước làm ăn rất có hiệu quả, thúc đẩy hoạt động thu hút đầu tư, cũng như hiệu quả của những đồng vốn bỏ ra.
Bên cạnh việc cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư thì dịch vụ tư vấn cần được tổ chức để tăng cường phục vụ thông tin cho các bên hợp doanh cho Nhà nước để từ đó giảm tối thiểu mức thiệt hại do việc nâng giá nguyên liệu đầu vào, nâng giá công nghệ hoặc nâng giá đất... làm được như vậy sẽ tránh được phần nào tình trạng “lỗ giả, lãi thật” hiện nay của các doanh nghiệp liên doanh.
d-/ Những giải pháp khác trong tầm vĩ mô.
Như ta đã biết là có rất nhiều doanh nghiệp liên doanh bị thua lỗ nặng, hoạt động theo kiểu hợp doanh không có hiệu quả. Vì thế, Nhà nước nên cho phép các doanh nghiệp này chuyển sang thành các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài để tránh hai bên “ghìm” nhau dẫn đến vốn đầu tư vào không hiệu quả.
Ngày nay, cơ sở hạ tầng của Việt Nam bị đánh giá là tồi tàn, yếu kém. Một số nơi cơ sở hạ tầng được nâng cấp thì sinh ra quá nhiều khoản phí dẫn đến các nhà đầu tư cảm thấy “nản lòng” không muốn đầu tư. Việc đầu tư cho lĩnh vực cơ sở hạ tầng là cần thiết cho hoạt động thu hút đầu tư nhưng lại đòi hỏi một lượng vốn lớn mà chỉ có Nhà nước mới làm được. Do đó, Nhà nước cần phải tập trung xây dựng và tăng cường việc cho phép bên nước ngoài sử dụng các hình thức BOT, BTO, BT... để ngày càng hoàn thiện và xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng mới giúp ích cho hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài.
Ngoài ra, Nhà nước cần tổ chức thêm nhiều loại hình đào tạo khác để có khả năng đào tạo được một đội ngũ cán bộ có trình độ cao, có đạo đức kinh doanh cử vào các doanh nghiệp để tham gia liên doanh với đối tác nước ngoài chứ, không thể mang tiêu thức giỏi ngoại ngữ, thông thạo vi tính làm tiêu chuẩn chính để chọn cán bộ, có làm được như vậy thì mới tránh được tình trạng thua lỗ triền miên trong liên doanh hoặc cán bộ ăn hối lộ để phía Việt Nam luôn chịu thiệt, liên doanh luôn lỗ mà đối tác nước ngoài thì vẫn có lãi.
Bên cạnh những giải pháp trên thì Nhà nước nên tìm cách để giải quyết các vấn đề còn tồn đọng khác mang tính chất xã hội như tệ nạn tham ô, tham nhũng cửa quyền của cán bộ Nhà nước hiện nay.
Tóm lại, trên bình diện quan sát ở tầm vĩ mô thì hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam còn rất nhiều tồn đọng cần thiết phải có sự thay đỏi, cải tổ của Đảng và Nhà nước. Nhưng bên cạnh sự nỗ lực của Nhà nước thì các doanh nghiệp cần phải làm gì để thu hút và sử dụng có hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài thời gian tới ?
2-/ Những giải pháp tầm vi mô - cấp doanh nghiệp
Việc thu hút đầu tư và hiệu quả đầu tư còn phụ thuộc rất lớn vào khả năng của các doanh nghiệp cũng như hiệu quả của từng dự án cụ thể. Như đã đề cập ở trên sự yếu kém của các doanh nghiệp Việt Nam là nguyên nhân giảm hiệu quả đầu tư cũng như hạn chế vai trò của phía Việt Nam trong hoạt động đầu tư. Chính vì vậy, từng doanh nghiệp cần có những giải pháp riêng ở tầm vi mô.
Một vấn đề cấp thiết là làm thế nào để tăng tiềm lực của các doanh nghiệp Việt Nam. Cho đến nay, trong quá trình cải cách chúng ta đã chú ý đến vấn đề này, tuy vậy vẫn còn không ít những khó khăn đặt ra như: chủ trương thành lập các tổng công ty để tăng tiềm lực thực tế của doanh nghiệp Việt Nam nhưng rõ ràng tổng công ty không phải là một phương thức mầu nhiệm. Bởi lẽ đó mới chỉ là sự tập hợp lại của một hệ thống doanh nghiệp Nhà nước có vốn chưa phải là mạnh, mà vốn này chủ yếu do Nhà nước “rót” xuống cho nên thành lập tổng công ty theo kiểu “tập đoàn” như hiện nay không thể có kết quả tốt mà không sớm thì muộn nó sẽ trở thành một “ung nhọt” cho nền kinh tế, bởi sự thành lập của nó đã chứa đựng quá nhiều “mầm bệnh” như phân tích ở trên.
Theo kinh nghiệm của một số nước Châu á như Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kông... thì giải pháp thành lập các doanh nghiệp vừa và nhỏ là phù hợp với thực tế và hoàn cảnh của nền kinh tế hơn là xây dựng các “tập đoàn” lớn như của Hàn Quốc hoặc nếu muốn tạo ra các doanh nghiệp có tiềm lực lớn thì nó phải được xây dựng trên cơ sở khách quan như việc sáp nhập các công ty phát hành cổ phiếu, các doanh nghiệp Nhà nước cần được cổ phần hoá...
Ngoài ra các doanh nghiệp cần phải có kế hoạch kinh doanh dài hạn tránh tình trạng làm ăn theo kiểu “chụp giựt”. Các doanh nghiệp cần thiết phải xác định rõ lợi thế của mình khi tham gia vào thị trường cả trong nước cũng như nước ngoài. Chính vì vậy, yêu cầu đặt ra cho các doanh nghiệp phải tiến hành các hoạt động xâm nhập các thị trường mới có tiềm năng.
Việc thua lỗ của các doanh nghiệp liên doanh không chỉ do một số ý đồ chủ quan của phía đối tác mà vấn đề quản lý của phía Việt Nam cũng cần phải xem xét lại do đó các doanh nghiệp cần phải tăng cường quản lý từ khâu đầu vào cũng như đầu ra để ngày càng sử dụng có hiệu quả vốn bỏ ra trong liên doanh. Bên cạnh đó, chúng ta phải có các biện pháp kiểm tra, giám sát thường xuyên hoạt động sản xuất kinh doanh và có những mối quan hệ chặt chẽ với các cơ quan quản lý tầm vĩ mô để có đủ thông tin về biến động trên thị trường thế giới để nhanh chóng có các biện pháp thích nghi.
Về vấn đề đội ngũ lao động thì không chỉ ở tầm vĩ mô mà ngay cả ở tầm vi các doanh nghiệp cũng cần có những kế hoạch đào tạo lao động phù hợp với kế hoạch sản xuất kinh doanh của mình, thường xuyên theo dõi và đôn đốc người lao động tự học hỏi, tự nâng cao tay nghề.
Trên đây là một số những giải pháp nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian tới cả ở tầm vi mô và vĩ mô đặt ra cho Đảng và Nhà nước, các Bộ, các ngành nói chung và các doanh nghiệp nói riêng phải có những giải pháp tốt, phù hợp làm cho đầu tư trực tiếp nước ngoài là một nguồn vốn chủ yếu tạo tăng trưởng cho nền kinh tế Việt Nam vững mạnh trên con đường tiến lên xã hội chủ nghĩa trong thiên niên kỷ mới.
Phần kết
Xu thế toàn cầu nền kinh tế thế giới đặt tất cả các quốc gia trước những cơ hội và thách thức to lớn. Trong xu thế đó, đầu tư nước ngoài là một tất yếu và là điều kiện về vốn công nghệ cho sự hội nhập và phát triển của các quốc gia. Tuy thời gian qua, Việt Nam đã có những thành tựu nhất định nhưng chúng ta không phải không còn những khó khăn trong việc tạo lập và tạo dựng một nguồn đầu tư hiệu quả.
Chính vì vậy, trước ngưỡng cửa của thế kỷ 21, Việt Nam cần tiếp tục đổi mới toàn diện, tập trung nguồn lực và tranh thủ các cơ hội để hoà nhập và phát triển kinh tế. Thúc đẩy đầu tư nước ngoài trong thời kỳ tới tạo điều kiện cho đầu tư trong nước và nâng cao tiềm lực nền kinh tế là thực hiện mục tiêu của Việt Nam trong thế kỷ tới.
Với mục tiêu góp phần nhỏ của mình trong sự phát triển chung của đất nước. Trong chuyên đề này em xin đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường hoạt động đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Nhưng do còn hạn chế về kiến thức và thời gian nên không tránh khỏi các sai lầm và thiếu sót, em rất mong có sự đóng góp của thầy cô để những lần viết sau được hoàn thành tốt hơn.
Phần phụ lục
Tài liệu tham khảo
1-/ Giáo trình kinh tế quốc tế - ĐH KTQD - 1998
2-/ Việt Nam một số vấn đề kinh tế (29-7-1999) - Cơ sở thảo luận của Chính phủ Việt Nam và quỹ IMF.
3-/ Văn kiện đại hội VIII
4-/ Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam - 1996
5-/ Một số báo cáo của ngân hàng Nhà nước và Bộ KH và Đầu tư trình Chính phủ - 1999.
6-/ Tạp chí kinh tế Việt Nam và thế giới 1998 - 1999
7-/ Các tạp chí và báo: kinh tế phát triển, nghiên cứu kinh tế đầu tư, thời báo kinh tế, dự báo, ngân hàng - 1997 - 1998.
8-/ Vốn nước ngoài và chiến lược phát triển kinh tế
Lê Văn Châu - NXB Chính trị quốc gia - 1995.
9-/ Giáo trình quản trị dự án đầu tư quốc tế và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài - ĐH KTQD - 1998.
mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- B0015.doc