Trước đổi mới, trong cơ chế bao cấp, đời sống, thu nhập giữa nghèo và người giàu đã có sự chênh lệch nhưng không lớn. Nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển, sự phân hóa giàu nghèo diễn ra ngày càng mạnh mẽ, khoảng cách giữa người giàu và người nghèo về thu nhập về mức sống và tiện nghi sinh hoạt ngày càng càng lớn. Để thực hiện mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và những chương trình phát triển kinh tế – xã hội, mà Đại hội VIII của Đảng đã đề ra từ nay đến năm 2020, một trong những vấn đề hết sức quan trọng và bức bách của toàn Đảng toàn dân ta là thực hiện chương trình xóa đói, giảm nghèo, bảo vệ lợi ích của người lao động “ Từng bước thực hiện công bằng xã hội, làm cho mọi người, mọi nhà đều khá giả”
38 trang |
Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1335 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số vấn đề về đầu tư xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệch giàu nghèo thời kỳ 1976 – 1980 cách nhau từ 3 – 4 lần, đến 1981 – 1989 tăng lên 6 – 7 lần, thời kỳ 1990 – 1994 tăng lên 15 – 20 lần. Có những vùng có chênh lệch rất lớn như Tây Nguyên là 43 lần, Nam Bộ là 100 lần.
So sánh mức độ nghèo theo vùng:
Việt Nam có tỷ lệ đói nghèo khá cao nhưng tình trạng nghèo đói này không dàn trải trên phạm vi quốc gia mà tỷ lệ nghèo đói khác nhau khá nhiều tại những vùng khác nhau:
Vùng Bắc Trung Bộ là vùng nghèo nhất với tỷ lệ nghèo lên tới 71%
Vùng núi phía Bắc có tỷ lệ 59% người nghèo cũng cao hơn mức trung bình toàn quốc
Vùng có tỷ lệ nghèo đói thấp nhất là Đông Nam Bộ với 33% dân số là người nghèo Cả 4 vùng còn lại: Tây Nguyên, Đồng bằng sông Hồng, Duyên hải miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long, đều có tỷ lệ nghèo đói xấp xỉ với tỷ lệ nghèo bình quân cả nước, tức là vào khoảng 48- 50%
So sánh nghèo khổ theo giới tính và dân tộc
Theo giới tính
Người nghèo là phụ nữ đông hơn nam giới. Những hộ gia đình nghèo nhất là những hộ gia đình do phụ nữ là chủ hộ. Trong các hộ đói nghèo do đàn ông làm chủ hộ thì phụ nữ khổ hơn nam giới.
- Theo dân tộc: ở Việt Nam nhìn trên tổng thể, dân tộc Kinh có mức độ nghèo khổ nhỏ hơn so vói mức độ nghèo khổ, bình quân toàn quốc, trong khi hầu hết các dân tộc thiểu số đều có một tỷ lệ nghèo khó rất cao so với mức bình quân này. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên vì các dân tộc thiểu số hầu hết đều sống tại các vùng núi cao hay nông thôn khó có điều kiện để cải thiện thu nhập
Thực trạng đầu tư xóa đói giảm nghèo
Tổng quan về hệ thống cung cấp vốn.
Cho đến nay, hệ thống chuyển tải vốn phục vụ cho đầu tư xóa đói, giảm nghèo được thực hiện qua các bộ phận chủ yếu sau: Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, Ngân hàng phục vụ người nghèo: các tổ chức phi Ngân hàng trong và ngoài nước. Các tổ chức tín dụng này có quy mô và mức độ hoạt động rất khác nhau. Riêng Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu đầu tư vốn cho nông nghiệp, nông thôn hiện nay. Theo quyết định 525/TTg ngày 31/8/1995 của Thủ tướng Chính phủ về thành lập Ngân hàng phục vụ người nghèo với trung tâm điều hành tác nghiệp do Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam đảm nhiệm. Hệ thống tín dụng cho người nghèo đã được quốc gia hóa và từ khi bước vào hoạt động, Ngân hàng đã thu được những kết quả đáng khích lệ. Với mục tiêu vốn đến trực tiếp các hộ nông dân nghèo, hệ thống dẫn vốn về nông thôn theo các kênh chính sau:
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông Việt Nam
thoon
Quỹ tín dụng nhân dân
chương trình quốc gia (kho bạc Nhà nước)
Các đoàn thể và các tổ chức xã hội
Các ngân hàng khu vực
Các quỹ khu vực
Ngân hàng cổ phần nông thôn
Tổ tiết kiệm và vay vốn
Hộ nghèo
UBND xã (ban xóa đói giảm nghèo)
Hợp tác xã doanh nghiệp
Cơ quan và các tổ chức cấp xã
Cơ quan và các tổ chức cấp huyện
Các chi nhánh
Các chi nhánh huyện, liên xã
Cơ quan và chức cấp tỉnh
Ngân hàng phục vụ người nghèo
Bộ phận dịch vụ cho Ngân hàng phục vụ người nghèo
Bộ phận dịch vụ cho
Quỹ tín dụng khu vực
Hỗ trợ vốn từ Ngân sách Nhà nước.
Năm 1996, Chính phủ đã phê duyệt “ Chương trình xóa đói, giảm nghèo ” đây là một chương trình chính sách dựa trên khuôn khổ chính sách chung nhằm nâng cao tác động của các chương trình định hướng xóa đói, giảm nghèo. Dự kiến tổng nguồn vốn cho các chương trình này trong năm 1996 – 2000 là 11.000 tỷ đồng, bao gồm các chương trình như: tạo việc làm, phát triển hạ tầng, hỗ trợ đầu tư đào tạo, hỗ trợ viện phí, dạy nghề và chuyển giao công nghệ và quỹ hỗ trợ khi đói, giáp hạt và thiên tai. Trong những năm vừa qua, nguồn vốn hỗ trợ được thực hiện qua các kênh chủ yếu sau:
Trước hết là : “ Chương trình định canh, định cư” chương trình này đã được triển khai từ năm 1991, qua hơn 10 năm thực hiện chương trình đã đạt được kết quả đáng kể như: Bảo vệ rừng được 283.900ha, trồng rừng 28.171ha, khoanh nuôi tái sinh rừng 44.900ha, trồng 36.986ha cây công nghiệp, đặc sản, dược liệu, cây ăn quả, đầu tư chương trình phúc lợi tập trung cho các cụm dân cư, cụm xã, hình thành các trung tâm trao đổi hàng hóa, khoa học kỹ thuật, tạo điểm dân cư mới tiến bộ hơn. Mục tiêu của chương trình này trong cả giai đoạn 1991- 2000 là định canh, định cư cho 31.550 hộ dân, thực hiện 1.265 dự án với tổng vốn 1.560 tỷ đồng.
Thứ hai, hỗ trợ giải quyết việc làm thực hiện thông qua Kho bạc Nhà nước. Ngày 11/04/1992 Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) có Nghị quyết 120/HĐBT về phương hướng và biện pháp giải quyết việc làm cho các năm tới, thực chất, đây là chương trình tín dụng cho nông dân, cho các dự án hiệu quả nhằm thu hút được nhiều lao động. Thực tiễn hoạt động trong những năm qua cho thấy, tiếp cận của tín dụng tạo việc làm tuy không hoàn toàn trực tiếp đến người nghèo, song hiệu quả tổng thể của chương trình đã đóng góp vào xóa đói, giảm nghèo một cách đáng kể
Thứ ba, chương trình “ Phủ xanh đất trống dồi núi trọc”, mục tiêu của chương trình là trồng rừng, phục hồi rừng, nâng độ che phủ, theo hai phương thức: cấp phát và cho vay không phải trả lãi. qua 6 năm thực hiện (1993 - 1996), chương trình đã đạt được những kết quả tốt nhất định về tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập, cải thiện môi trường, môi sinh. Đến cuối năm 1998, Kho bạc Nhà nước đã cấp vốn cho trên 1.300 dự án với tổng nguồn vốn cấp ra là 2.627.41 tỷ đồng, trong đó lâm sinh 1.627,41 tỷ đồng, hạ tầng 565,511 tỷ đồng và chi cho sự nghiệp 246,648 tỷ đồng. Hiện nay chương trình đã kết thúc nhưng thay thế nó là “Dự án trồng 5 triệu ha rừn” vói nhu cầu vốn đầu tư là 31.000 tỷ đồng
Các khoản trên từ Ngân sách Nhà nước, tuy không phải hoàn toàn hỗ trợ trực tiếp người nghèo nhưng có tác động tích cực đến sản xuất và đời sống của bộ phận dân cư này.
Hỗ trợ vốn từ các tổ chức tín dụng nông thôn.
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Đóng vai trò chủ đạo hoạt động tín dụng phục vụ hộ sản xuất trong những năm qua là ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn. ngân hàng này đã xác lập thị trường kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn; bảo đảm cung cấp khối lượng vốn cho nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội, hoạt động tín dụng đầu tư phù hợp với đường lối phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước. Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn có gần 2000 chi nhánh ở tất cả các tỉnh, thành phố, huyện thị xã, chi nhánh ngân hàng lưu động nông thôn. nhờ vậy, ngân hàng và phát triển nông thôn đã tiếp được gần 100% trong 12000 xã ở Việt Nam.
Từ năm 1991 đến đầu năm 2005 đã có trên 55 triệu hộ sản xuất trong đó chủ yếu là hộ nông dân được vay vốn, với doanh số trên 380.000 tỷ đồng, bình quân khoảng 3,5 triệu lượt hộ sản xuất được vay vốn mõi năm; dư nợ cho vay hộ sản xuất đến 31/5/2005 ước đạt gần 100.000 tỷ đồng, số hộ hiện tại có quan hệ tín dụng với ngân hàng gần 6,2 triệu( chưa kể trên triệu hộ nông dân nghèo vay vốn ngân hàng chính sách xã hội) chiếm gần 52% số hộ nông dân của toàn quooc. Cho vay vốn tới hộ sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp có tốc độ nhanh đặc biệt từ sau Quyết định 67/1999/QĐ - TTg. Diện cho vay được mở rộng khắp các vùng kinh tế của đất nước, trỏ thành hoạt động tín dụng chủ yếu của các chi nhánh khu vực nông thôn.
Ngày 28/6/1991, Hội đồng bộ trưởng (nay là Chính phủ) có Quyết định số 202/HĐBT, theo đó Ngân hàng thực hiện cho vay hộ sản xuất, kinh doanh thiếu vốn. Để tạo điều kiện cho hộ nông dân nghèo vay Ngân hàng đã áp dụng cho vay không thế chấp tài sản. trên cơ sở tính toán hiệu quả để cho vay, Ngân hàng đã vận động, hướng dẫn cho họ thành lập các tổ liên đới trách nhiệm trên tinh thần tự nguyện và Ngân hàng cho vay thông qua tổ chức này. Đến ngày 31/12/1995, đã có trên 15 vạn tổ liên đới trách nhiệm được thành lập với trên 1,5 triệu thành viên và doanh số cho vay hộ nông dân nghèo đạt 13.000 tỷ đồng ngoài ra Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn còn chuyển các khoản tiền cho các tổ chức xã hội để các tổ chức này cho các hội viên vay. Sau năm hoạt động, Ngân hàng đã đóng một vai trò quan trọng trong việc cung cấp vốn cho hộ nông dân nhằm mục tiêu xóa đói, giảm nghèo.
Sau đây, ta có bảng diễn biến cho vay hộ sản xuất của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn giai đoạn 1999-2004
chỉ tiêu
1999
2000
2001
2002
2003
2004
Tổng dư nợ ( tỷ đồng)
32.211
43.941
60.030
81.357
117.873
142.287
Riêng dư nợ cho vay
hộ sản xuất
18.869
24.827
37.818
54.760
79.847
87.965
Tỷ trọng dư nợ cho vay hộ trongg tổng dư nợ (%)
58,58
56,50
63,0
67,31
67,74
Số hộ dư nợ ( hộ)
Dư nợ BQ/1 hộ ( (triệu đồng/hộ
Ngân hàng phục vụ người nghèo
Ngân hàng phục vụ người nghèo là một loại hình doanh nghiệp Nhà nước hoạt động công ích nhằm thực hiện chủ trương xóa đói, giảm nghèo. Hiện nay, hệ thống ngân hàng phục vụ người nghèo đã có nhiều chi nhánh cấp huyện, kết hợp với mô hình ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam để hoạt động cho vay vốn đối với hộ nghèo, chủ yếu là cho vay hộ nghèo ở nông thôn.
Trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm các phương thức hỗ trợ vốn cho người nghèo ở nước ta trong mấy năm qua, nghiên cứu kinh nghiệm về hỗ trợ vốn cho người nghèo ở một số nước có hoàn cảnh tương đồng với Việt Nam; kết hợp với những đặc điểm của người nghèo ở nước ta ngày 31/8/1995 Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 525/TTg về việc thành lập ngân hàng phục vụ người nghèo. Theo quyết định này thì Ngân hàng phục vụ người nghèo là tổ chức tín dụng của Nhà nước hoạt động vì mục tiêu xóa đói, giảm nghèo, không vì lợi nhuận, thực hiện cho vay trực tiếp đến hộ nghèo có sức lao động, nhưng thiếu vốn, được vay vốn để phát triển sản xuất, không phải thế chấp tài sản, có hoàn trả vốn vay và theo lãi suất quy định.
Ngân hàng phục vụ người nghèo đã và đang hoạt động có hiệu quả và chiếm được lòng tin của dân chúng, nhất là người nông dân ở nông thôn. tuy nhiên, chúng ta cũng không thể phủ nhận một thực tế là tỷ lệ này còn quá thấp (chiếm 13,1% trong tổng nguồn vốn của Nhà nước ). Sở dĩ như vậy là vì huy động vốn phải được thực hiện trên cơ sở mặt bằng lãi suất huy động của các Ngân hàng thương mại trên thị trường tự do. Do tác động của cạnh tranh, các Ngân hàng thương mại đang giảm chi phí để nâng cao lãi suất, Ngân hàng phục vụ người nghèo huy đông với mức lãi suất huy động thấp hơn thì không thể huy động., các hình thức động viên đóng góp trên tinh thần tương thân tương ái vị người nghèo cũng chỉ được nguồn vốn nhỏ nên nguồn lực này còn rất hạn chế. Tính đến nay, Ngân hàng dã giúp 256000 hộ thoát khỏi nghèo đòi. Về thời hạn cho vay, Ngân hàng cho vay theo chu kỳ sản xuất kinh doanh của từng loại cây trồng nhưng không qua 3 năm; mức cho vay cũng tùy thuộc vào quy mô của từng dự án, từng đối tượng vay, nhưng tối đa không quá không quá 2,5 triệu/ hộ, không quy địn mức vay tối thiểu.về lãi suất từ sau 1/10/1996 tới nay là 0,5%/ tháng; đây là mức lãi suất thấp nhất trong thị trường tín dụng nông thôn. do nguồn vốn có hạn, Ngân hàng phục vụ người nghèo đã ưu tiên tập trung vốn cho các vùng nghèo như : vùng miền núi phía Bắc, vùng Tây Nguyên, Vùng Bắc Trung Bộ, Duyên hải miền Trung và miền Tây Nam Bộ. Tuy nhiên, ở một số vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người như: Lai Châu, Hà Giang, Kon Tum, Cao bằng… mặc dù được ưu tiên về vốn nhưng rất khó giải ngân do hộ nghèo không vay vì hầu hết đồng bào các vùng này không biết sử dụng vốn để làm gì. Điều này càng khẳng định sự đồng bộ trong công tác xóa đói, giảm nghèo là rất quan trọng.
Quỹ tín dụng và ngân hàng cổ phầncác
Sau hơn 5 năm đi vào hoạt động, mô hình Quỹ tín dụng nhân dân tính đến ngày 31/12,1998 đã xây dựng được 977 quỹ tín dụng nhân dân tại 53/61 tỉnh, thành phố trong cả nước, thu hút được 641.701 thành viên tham gia. Tổng nguồn vốn đạt được 1.189.118 triệu đồng, dư nợ là 1.613.296 triệu đồng, tạo công ăn việc làm cho gần 560.00 hộ dân để mở mang phát triển ngành nghề mới.
Hệ thống quỹ tín dụng nhân dân 3 cấp đã ra đời và góp phần tích cực vào phát triển nền kinh tế – xã hội nông thôn. Hệ thống này huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư và cho vay trực tiếp các thành viên góp phần xóa đói, giảm nghèo, hạn chế cho vay nặng lãi ỏ nông thôn. Nhiều vùng nông thôn ở đồng bằng sông Cửu Long, trước đây chưa có Quỹ tín dụng nhân dân tình trạng cho vay nặng lãi phát triển với lãi suất 10 – 15 % đến nay đã giảm hẳn. Đây là một kết quả lớn tác động đến chủ trương xóa đói, giảm nghèo của Chính phủ. Hệ thống này đã khơi dậy nguồn tiềm năng ở địa phương, nhiều ngành nghề được phát triển, đặc biệt một sô nghề truyền thống được phục hồi và đã huy động được lực lượng lao động trong lúc nông nhàn và cũng chính hệ thống này đã tạo nguồn vốn đầu tư cho vay tại chỗ thúc đẩy phát triển sản xuất trên địa bàn. ỏ nhiều địa phương số hộ đói nghèo giảm đáng kể, số hộ có thu nhập cao tăng, các thành viên đã có điều kiện để tương trợ và giúp đỡ lẫn nhau.
Tuy nhiên, hệ thống này vẫn bộc lộ những nhược điểm như: Quỹ tín dụng nhân dân ở cơ sở thoát ly khỏi hoạt động hệ hống Ngân hàng chính thống, do vậy không thể linh hoạt xử lý các trường hợp thừ, thiếu vốn của các quỹ. Thêm vào đó, năng lực quản lý của Hội đồng quản trị các quỹ cơ sở, cán bộ làm công tác của quỹ yếu, hệ thống kiểm soát còn bất cập nên ảnh hưởng tới việc mở rộng quỹ, khối lượng vốn còn ít. Hơn nữa, nhiều người đói nghèo khó có điều kiện trở thành thành viên của Quỹ tín dụng vì mức đóng góp cổ phần, lãi suất cho vay từ quỹ cao và phải thế chấp nên hộ đói nghèo khó tiếp cận.
Bên cạnh hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân là hệ thống các ngân hàng cổ phần nông thôn, đây là một tổ chức tài chính thành lập trên cơ sở góp vốn của các hộ gia đình nông dân khá giả ở nông thôn. hoạt động chủ yếu của tổ chức nay là nó không chỉ huy động vốn ở khu vực nông thôn mà còn cả từ thành thi để đầu tư phát triển nông thôn, trong khi ỏ các quốc gia phát triển thì dòng chảy vốn ngược lại. cơ chế hoạt động của loại hình nay cũng rất linh hoạt, gần với dân và thuận tiện cho việc tiếp cận của nông dân, bao gồm cả người nghèo vốn có trình độ dân trí thấp rất khó tiếp cận với các tổ chức tài chính chính thức khác của Chính phủ, mặt khác dịch vụ thuận tiên và thích hợp với nhu cầu đa dạng của hộ nông dân. tuy nhiên, mặc dù tổng nguồn vốn hoạt động là 44.204 tỷ đồng và tổng vốn cho vay là 40.417 tỷ đồng nhưng tỷ lệ người nghèo cho vay còn thấp. Nguyên nhân là do chế độ lãi suất còn rất khác nhau, không theo sự kiểm soát của Nhà nước và lãi suất cho vay lại cao hơn hệ thống Ngân hàng quốc doanh.
Một số hình thức khác.
Trước hết phải kể đến vai trò của Quỹ hỗ trợ nông dân của Hôi nông dân Việt Nam. Quỹ này được Nhà nước cho phép thành lập theo văn bản số 4035/KTKT ngày 25/7/1995 của Thủ tướng Chính phủ và đi vào hoạt động từ đầu năm 1996. Đây là hình thức tín dụng phi Chính phủ, thực hiện hỗ trợ nông dân về vốn, chuyển giao công nghệ – thông tin, tiêu thụ sản phẩm. Nguồn vốn của quỹ bao gồm sự ủng hộ cho vay với lãi suất thấp của nhân dân và đông bào cả nước, Việt kiều và các tổ chức quốc tế. Ngoài ra, Quỹ cón được sự ủng hộ của Nhà nước theo phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm. mục tiêu của Quỹ là hỗ trợ vốn cho nông dân, trước hết là nông dân nghèo.Từ khi hoạt động đến nãy, theo thống kê chưa đầy đủ thì Quỹ đã có nguồn vốn là 90 tỷ, trong đó vay vốn Ngân hàng phục vụ người nghèo là 40 tỷ đồng, nguồn vốn tự huy động là 50 tỷ đồng. Nhìn chung khả năng nguồn vốn để nông dân nghèo vay là không đáng kể, năng lực quản lý nghiệp vụ cho vay, huy động còn rất hạn chế.
Thứ hai, các Quỹ tương trợ của Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, nguồn vốn của Quỹ là từ các dự án quốc tế, của nhóm phụ nữ tiết kiệm, vay vốn Quỹ quốc gia giải quyết việc làm, vốn vay Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, vốn góp ủng hộ của hội viên cũng như vốn tài trợ trong và ngoài nước.
Ngoài ra còn một bộ phận nữa trong nguồn vốn xóa đói, giảm nghèo, đó là các nguồn có nguồn gốc từ nước ngoài, từ các tổ chức như: Ngân hàng á châu, Ngân hàng Thế giới, chương trình lương thực thế giói, chương trình phát triển Liên hiệp quốc, tổ chức nông lương thề giới, thông qua các dự án như: dự án 80 triệu USD cho chương trình nông nghiệp, dự án khôi phục cơ sở hạ tâng nông thôn, chương trình phục hồi nông nghiệp… và các khoản viện trợ không hoàn lại của UNDP và EU, nguồn này tuy không lớn nhưng nó cũng có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến người nghèo ở Việt Nam.
Đánh giá hoạt động xóa đói, giảm nghèo trong những năm qua
Kết quả hoạt động xóa đói giảm nghèo.
Thứ nhất, vấn đề nhận thức về vai trò của công tác xóa đói, giảm nghèo trong chiến lược phát triển kinh tế. cùng với truyền thông tương thân tương ái, quan điểm chỉ đạo đúng đắn của Đảng ta đã tác động trực tiếp tới vấn đề này của nhân dân. chính vì thế mà công tác xóa đói, giảm nghèo đã từ một phong trào ở cở sở đã được nâng lên thành một chương trình quốc gia xóa đói, giảm nghèo
Thứ hai, trên cơ sở đó, các cơ quan đoàn thể xã hội, quần chúng nhân dân đã phối hợp, hợp tác triển khai nhiều chương trình, biện pháp mạnh mẽ, chúng ta đã áp dụng hai loại giải pháp: phát triển kinh tế tạo tiền đề xóa đói, giảm nghèo và giải pháp hỗ trợ cho người nghèo. Để thực hiện chúng, chúng ta sử dụng những giải pháp cụ thể như: cho người nghèo vay vốn với lãi suất ưu đãi hoặc cho mượn vốn, hướng dẫn cách làm ăn, hỗ trợ khi gặp khó khăn, hoạn nạn.
Thứ ba, tạo nguồn vốn xóa đói, giảm nghèo từ các nguồn cơ bản như ngân sách địa phương, từ cộng đồng, từ các đoàn thể, các tổ chức xã hội, từ Ngân hàng, từ các nguồn hợp tác quốc tế.
Thứ tư, cùng với việc xóa đói, giảm nghèo cho người dân, chúng ta cung đã điều chỉnh lại những quy chế thực hiện quản lý các chính sách xã hội ưu đãi, ưu tiên. Ngân hàng phục vụ người nghèo ra đời và hoạt động tốt giúp cho công tác xóa đói, giảm nghèo đạt hiệu quả cao. Vì vậy trong các năm qua tỷ lệ đói nghèo đã giảm khá nhanh, trung bình giảm hơn 2%
Bảng: Tỷ lệ đói nghèo ở Việt Nam qua các năm
Năm
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
Tỷ lệ hộ đói
nghèo (%)
28,8
26,0
23,3
20,3
19,3
18,3
17,4
15,7
Tồn tại trong công tác đầu tư xóa đói giảm nghèo.
Trong những năm qua, công tác xóa đói, giảm nghèo có những tồn tại sau:
Công tác xóa đói, giảm nghèo chưa được tiến hành đồng đều ở các địa phương, nhiều nơi đã làm tốt nhưng có một số nơi còn làm theo hình thức, phong trào,chưa thấy hết vai trò và khả năn tự lực của mình, tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào Trung ương vẫn còn tồn tại. cho đến nay vẫn còn một số tỉnh chưa xóa đói, giảm nghèo được nguồn lực cho công tác này
Công tác xóa đói, giảm nghèo những năm qua chưa được ưu tiên đúng mức, chưa tạo được điều kiên cho xóa đói, giảm nghèo ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người, vùng căn cứ cách mạng… ở những nơi này, cơ sở hạ tầng còn quá yếu, hầu như chưa có, trình độ dân trí thấp, nên chưa thể tiến hành công tác xóa đói, giảm nghèo có kết quả; ở một số nỡi đặc biệt ở đồng bằng sông Cửu Long một bộ phận dân cư còn chưa có tư liệu sản xuất( ruộng đất)
Trong chỉ đạo thực hiện, chưa tạo được mô hình, một số mô hình đã có thì tổng kết, nhân rộng còn hạn chế. Đặc biệt là các mô hinh của chính người nghèo chưa được địa phương chú ý xóa đói, giảm nghèo, rút kinh nghiệm nhằm giúp cho người nghèo có được cơ hội tốt để tham gia vào nền kinh tế đang tăng trưởng
Môi trường bền vững cho xóa đói, giảm nghèo đã tạo lập được bước đầu, nhưng vẫn chưa gắn tăng trưởng kinh tế với xóa đói, giảm nghèo, phòng chống thiên tai, phòng chống tệ nạn xã hội và các chính sách kinh tế vĩ mô có liên quan tới xóa đói, giảm nghèo như đất đai, thuế nông nghiệp, bảo hộ nông dân.
Những cơ sở pháp pháp lý cho công tác xóa đói, giảm nghèo cũng chưa được thiết lập một cách đồng bộ, còn thiếu nhiều văn bản pháp quy về quản lý Nhà nước và về tổ chức thực hiện, thanh tra đối với vấn đề này.
Chương III Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư cho xóa đói giảm nghèo
Hệ quan điểm chỉ đạo.
Đầu tư cho xóa đói giảm nghèo gắn liền với phát triển kinh tế và giữ vững ổn định chính trị.
Đói nghèo là biểu hiện trực tiếp ở nội dung kinh tế với các dạng khác nhau: thiếu đói, đói gay gắt, đói kinh niên, nghèo tuyệt đối, nghèo tương đối. nét chung của tất cả các dạng nghèo đói là tình trạng dân cư không bảo đảm những nhu cầu cơ bản để tồn tại và phát triển. Đói nghèo là một vấn đề kinh tế – xã hội, một hiện tượng xã hội nhức nhối nó vừa cản trở, vừa thách thức phát triển. Đói nghèo dẫn tới phát sinh các tệ nạn xã hội và có tính chất lây lan. Nó làm cho xã hội mất ổn định, chính điều này ảnh hưởng xấu tới chính trị, gây tác động và hiệu quả tiêu cực. Đặc biệt là phân hóa giai cấp, xung đột xã hội, có nguy cơ làm lệch định hướng xã hội chủ nghĩa và suy giảm nền tảng xã hội, chính trị.
Điểm xuất phát của đói nghèo là kinh tế, nhưng nếu không giải quyết được đói nghèo thì vấn đề kinh tế có thể gây nên các phản ứng tiêu cực về xã hội và trở thành về chính trị. Thực tiễn và kinh nghiệm cho thấy muốn giải quyết một nhiệm vụ kinh tế – xã hội nào đều phải đảm bảo một tiền đề tiên quyết là giữ cho được ổn định chính trị. Không có ổn định chính trị, xã hội sẽ bị mất ổn định, trở nên rối loạn và mọi kế hoạch, mọi nhiệm vụ đổi mới đều khó thực hiện. Vì vậy, đầu tư xóa đói, giảm nghèo phải tập trung ưu tiên cho các vùng đặc biệt khó khăn, cho các đối tượng trọng điểm, nhất là các diện ưu tiên, ưu đãi có công với nước.
ở nông thôn, nông dân chiếm khoảng 80% dân số cả nước và trên 70% lao động xã hội. ở thành thị kinh tế tư bản tư nhân đang gia tăng hoạt động sản xuất kinh doanh. Các thành phần này đang là các thế lực kinh tế. nếu xã hội không giải quyết tốt việc xóa đói, giảm nghèo để cho một bộ phận khá lớn dân cư sống trong nghèo khổ thì họ sẽ bị chi phối bởi các thế lực kinh tế đó, như vậy nó có xu hướng trở thành thế lực chính trị. Xu hướng này cần phải được ngăn chặn không để xảy ra.
Đầu tư xóa đói giảm nghèo phải đảm bảo sự kết hợp, thống nhất kinh tế với xã hội, giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội.
Đầu tư xóa đói, giảm nghèo không thể có hiệu quả nếu giải quyết bằng quan điểm kinh tế thuần túy hoặc bằng quan điểm về mặt xã hội. Muốn trợ giúp người nghèo phát triển thì không thể cứ bao cấp sẵn cho họ để họ sống mà điều quan trọng là phải giúp vốn, giúp nghề, giúp kỹ thuật, phương tiện cho họ. Phải hướng dẫn họ, tập luyện cho họ, thậm chí giúp đỡ họ biết cách làm ăn, sản xuất. Đó chính là tác động của xã hội, nâng cao văn hóa, giáo dục đi liền với tác động kinh tế đối với người nghèo, hộ nghèo.
Do vậy, đầu tư xóa đói, giảm nghèo có hiệu quả thì phải quan tâm đến vấn đề xã hội, đó là giáo dục, tuyên truyền, kiểm tra, quản lý, hạn chế gia tăng dân số, đẩy lùi tệ nạn xã hội.
xóa đói, giảm nghèo là sự quan tâm trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội.
Đảng và Nhà nước ta có chiến lược phát triển kinh tế đến 2020. muốn cho đường lối đó đi vào cuộc sống, Nhà nước phải thể chế hóa nó, phải có rất nhiều đạo luật, quyết sách lao động, Ngân hàng cho người nghèo, quỹ xóa đói giảm nghèo, chương trình quốc gia đầu tư xóa đói, giảm nghèo; đào tạo nghề và việc làm,… Đây là một nỗ lực rất lớn của Nhà nước, song điều đó cuangx chưa đủ, nếu không có xã hội hoa được phong trào xóa đói, giảm nghèo trong toàn dân.
Phải huy động cả cộng đồng xã hội, kể cả nhân tài, vật lực của người Việt Nam ở nước ngoài vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo. Chỉ như vậy đầu tư xóa đói, giảm nghèo mới được ủng hộ, phối hợp hành động của cả dân tộc và mang lại kết quả cao.
đầu tư xóa đói, giảm nghèo phải tạo cơ sở phát huy tính tự chủ tự vươn lên vượt qua đói nghèo, giảm nghèo của người nghèo
Hiện nay, số hộ và số người đói nghèo còn ở tỷ lệ cao, đang là điều nhức nhối lương tâm của cả xã hội. đầu tư cho xóa đói, giảm nghèo còn là nghĩa vụ, đạo đức của cả đầu tư, của mỗi con người Việt Nam. Do đó, giúp đỡ người nghèo, hộ nghèo là phải làm cho họ sớm hòa nhập vào cộng đồng một cách chủ động, tích cực.
Làm cho hộ nghèo, người nghèo có niềm tin vào triển vọng cuộc sống, có điều kiện và môi trường xã hội thuận lợi để phát triển khả năng sẵng có bằng lao động hoặc được đào tạo, bồi dưỡng để hình thành khả năng đó, là cách tốt nhất để đầu tư cho xóa đói, giảm nghèo, có hiệu quả cao. tính chất trợ giúp, hỗ trợ phát triển là nét nổi bật trong chỉ đạo đầu tư xóa đói, giảm nghèo.
Đầu tư xóa đói, giảm nghèo phải xuất phát từ mục tiêu phát triển vì phát triển là chính
chỉ có dựa trên quan điểm này đất nước ta mới thoát được vòng lẩn quẩn của đói nghèo, lạc hậu và chậm phát triển. Chìa khóa của vấn đề này là sản xuất, khoa học kỹ thuật, công nghiệp, giáo dục đào tạo mà mấu chốt là tạo nguồn lực, phát triển nguồn lực lấy nguồn lực con người làm cốt lõi.
Dể phát triển kinh tế xã hội và phát triển con người, để xóa đói, giảm nghèo, tăng giàu… chúng ta phải đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu kinh tế-sản xuất theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Đối với nông thôn đó là công nghiệp hóa nông thôn, chuyển đổi cơ cấu thuần nông sang kinh tế hàng hóa, kết hợp sản xuất kinh doanh, dịch vụ, tạo thêm nghề, tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho hộ nông dân.
Mở rộng hợp tác quốc tế khai thác có hiệu quả mọi nguồn hợp tác quốc tế
Đây là một sự bổ trợ quan trọng cho các nguồn trong nước. Chúng ta dang hòa nhập với khu vực thế giới, đang có nhiều khả năng tìm kiếm các đối tác, phát triển các dự án phối hợp, các nhà tài trợ và các viện trợ nhân đạo cho hoạt động đầu tư xóa đói, giảm nghèo. Cần tăng cường hình thức trao đổi, giao lưu hợp tác đó. Điều quan trọng là có sự quản lý, điều phối, kiểm tra chặt chẽ để sử dụng, khai thác nguồn lực bổ trợ này một cách có hiệu quả.
Sáu quan điểm trên đây tác động và chi phối lẫn nhau, hợp thành hệ quan điểm chỉ đạo chung ở cấp vĩ môn, toàn quốc cũng như từng hoạt động cụ thể ở từng lĩnh vực, từng ngành, từng địa phương và cơ sở.
Một số giải pháp cơ bản cho đầu tư xóa đói, giảm nghèo
Các giải pháp kinh tế
Các giải pháp về vốn đầu tư xóa đói, giảm nghèo
1.1 Nguồn vốn huy đông từ kênh ngân sách Nhà nước
Hiện nay vốn ngân sách Nhà nước chia cho các mục đích liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp cho đầu tư xóa đói, giảm nghèo là con số không phải là nhỏ, mặc du ngân sách vẫn bội chi.
Vốn NSNN có hai dạng: cấp phát hoàn toàn và cấp phát không hoàn lại thông qua các chương trình tín dụng Nhà nước. Thực tế cho thấy phương thức cấp phát, cho vay của NSNN thực hiện chương trình xóa đói, giảm nghèo đạt hiệu quả còn thấp. Chủ yếu vì vốn chưa được thương mại hóa để bảo toàn, tăng trưởng và sinh lời. Bên cạnh đó phương thức chuyển tải chưa đạt đến mức khả dĩ của nó, cũng là nguyên nhân gây hậu quả thấp của nguồn vốn đầu tư xóa đói, giảm nghèo.
Nguồn NSNN cấp cho các chương trình tín dụng có liên quan tới đầu tư xóa đói, giảm nghèo thực hiện thông qua kho bạc Nhà nước. Kênh này bao gồm: nguồn vốn thực hiệnchương trình quốc gia về giải quyết việc làm, nguồn vốn thực hiện chương trình quốc gia về phủ xanh đất trống đồi núi trọc và nguồn vốn khai thác tiềm năng đầm lầy ven biển.
Chuyển một khoản cấp phát NSNN cho mục tiêu, chương trình xóa đói, giảm nghèo nông thôn, chương trình giải quyết vấn đề xã hội lâu dài sang phương thức cho vay có hoàn trả và chuyển nguồn NSNN này giao cho ngân hàng chính sách, ngân hàng phục vụ người nghèo quản lý, thực hiện.
NSNN hỗ trợ kinh phí cho vùng nghèo, xã nghèo xóa đói, giảm nghèo cơ sở hạ tậng xã hội để cải thiện mức sống công cộng.
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi cho các chương trình mục tiêu giải quyết các vấn đề xã hội.
Do đó, để sử dụng vốn ngân sách có hiệu quả trong việc đầu tư xóa đói, giảm nghèo thì việc cấp kinh phí phải dựa trên các dự án của tổ chức đoàn thê cộng đồng
Nguồn vốn từ tiền gửi của các tổ chức kinh tế xã hội và cá nhân trong và ngoài nước gửi tiền vào ngân hàng phục vụ người nghèo. Tuy nhiên, tùy thuộc vào yêu cầu thực tế nguồn vốn mà Ngân hàng người nghèo tổ chức huy động
Nhà nước cần tạo cơ chế để huy động tiền gửi các quỹ bảo hiểm, giữ trợ giá và các quỹ khác với lãi suất thấp để tạo nguồn cho Ngân hàng người nghèo. Thực tế một số quỹ thuộc dạng này có nguồn rất lớn, tạm thời nhàn rỗi chưa sử dụng để sinh lời.
Nguồn vốn huy động từ tài trợ trong và ngoài nước cho đầu tư xóa đói, giảm nghèo
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn và Ngân hàng người nghèo với tư cách đại diên cho Chính phủ tiếp cận mọi nguồn vốn hỗ trợ cho người nghèo. Để khai thác các nguồn tài trợ cho đầu tư xóa đói, giảm nghèo, yếu tố cần thiết trước hết là phải có định hướng, chính sách của Nhà nước. Định hướng chính sách của Nhà nước phải bao gồm các nội dung sau:
Khuyến khích tài trợ của mọi tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước chia sẻ, giúp đỡ người nghèo Việt Nam. Do đó, họ có hành động, chương trình giúp đỡ có tính nhân đạo cho người nghèo, vùng nghèo.
Khuyến khích mọi tổ chức kinh tế, xã hội, đoàn thể và cá nhân trong và ngoài nước hình thành các dự án hút các nguồn tài trợ xóa đói, giảm nghèo, đồng thời tạo điều kiện tốt nhất cho họ tiếp cận các nguồn tài trợ đó. Chính phủ thậm chí có thể bảo lãnh
Ngân hàng phải chủ động phối hợp cùng các cơ quan, tổ chức, đoàn thể, hiệp hội trong nước kêu gọi và ký kết các hiệp ước tài trợ từ nước ngoài thông qua đầu tư vốn vào các chương trịnh và dự án thử nghiệm, giúp đỡ kỹ thuật, đào tạo tri thức cho công đồng ở các vùng nghèo Việt Nam
Ngân hàng người nghèo phải thực hiện quản lý nguồn và cấp tín dụng đạt chất lượng theo yêu cầu của chủ dự án và đúng mục tiêu dự án. thực tế cho thấy tài trợ trong và ngoài nước cho xóa đói, giảm nghèo mang nặng tính chất xã hội từ thiện, nhân đạo. Song không phải vì vậy mà cho phép phía tiếp nhận tài trợ quản lý lỏng lẻo. Ngược lại hoàn toàn, phía quản lý tài trợ chịu sự quản lý gắt gao của phía tài trợ
Trong điều kiện hiện nay, khi các nguồn vốn được huy động qua các kênh chính thức chưa đáp ứng nhu cầu vốn cho người nghèo thì khơi tăng nguồn vốn tài trợ trong và ngoài nước là hết sức quan trọng cho hoạt động của Ngân hàng. Với nỗ lực của các ngân hàng là chưa đủ mà cần sự giúp đỡ của Nhà nước, các cấp, các ngành, các tổ chức kinh tế, xã hội thông qua phong trào tuyên truyền và khích lệ các nhà hảo tâm.
Nguồn vốn từ quỹ bù đắp rủi ro
Cấp tín dụng cho người nghèo bao giờ cũng đồng hành với rủi ro mất vốn. Quả thật, khả năng hoàn trả vốn đúng hạn và đầy đủ của người nghèo vay vốn còn hạn chế, thực tế cho thấy các hộ nghèo chủ yếu tập trung vào vùng nông thôn, sản xuất nông nghiệp, gắn với thiên tai, mất mùa thường xuyên. Do vậy không có quỹ bù đắp rủi ro mất vốn cho ngân hàng thì sự tồn tại của nó hết sức mong manh. Bỏi các nguồn vốn sẽ hao hụt dần cùng với các khoản khoanh nợ, xóa nợ cho vùng nghèo, hộ nghèo. Mặt khác do tâm lý sợ lỗ, người nghèo thích thu lợi nhanh nên tính toán, bỏ vốn làm ăn lẩn quẩn, ít hiệu quả. Cũng không ít trường hợp tiền vốn ngân hàng cho vay không dám làm gì sợ không có khả năng trả nợ( với trường hợp vay ưu đãi lãi suất là 0%), ngoài ra cũng không ít trường hợp tiền vốn cho vay sử dụng vào mục đích khác như: mua lương thực, chữa bệnh, tiền học cho con…
Đầu tư kết cấu hạ tầng cho xã nghèo
Trước hết tập trung vào đầu tư cho 1309 xã, chiếm 15% tổng số xã đó là những xã yếu kém nhất hoặc chưa có kết cấu hạ tầng, nhất là đường giao thông, điện, thủy lợi và nước sinh hoạt và y tế. Để xây dựng kết cấu hạ tầng cho số xã này, Nhà nước cần huy động nguồn vốn khoảng 4237,3 tỷ đồng; đầu tư tối thiểu cho một xã cũng mất 3,32 tỷ đồng.
Tất nhiên không phải là đầu tư cùng một lúc, nhưng cũng có thể kéo dài trong nhiều năm, vì đầu tư kết cấu hạ tầng cho xã là điều quyết định trước tiên cho xóa đói, giảm nghèo, trên thực tế, người nghèo sẽ tiếp nhận chậm các điều kiện khác và do đó không thể xóa đói, giảm nghèo được.
Cơ chế tạo nguồn vốn xây dựng là:
Nhà nước và hợp tác quốc tế khoảng 50%
Nhân dân đóng góp khoảng 25% chủ yếu là sức lao động, vật liệu tại chỗ…
Vốn vay từ các chương trình quốc gia khác.
Ngoài ra Nhà nước nên phát động các doanh nghiệp và những người có điều kiện nhận đỡ đầu, hoàn lại hoặc thu hồi dần các công trình hạ tầng trên ở những nới có điều kiện. Nhà nước chi đầu tư vào nơi mà không thể thu hồi vốn được vì dân quá nghèo, quá xa.
các biện pháp nâng cao sản xuất và thu nhập cho người nghèo
hiện nay có khoảng hơn 75% dân số nông thôn và 75% hộ gia đình nông thôn chủ yếu sống dựa vào nông – lâm – nghiệp. Do đó, khu vực nông thôn là khu vực có tỷ lệ nghèo đói cao nhất. Vì vậy biện pháp tăng khả năng sản xuất và thu nhập từ sản xuất nông nghiệp sẽ có tác dụng tốt đến hoạt động đầu tư xóa đói, giảm nghèo ở toàn bộ khu vực nông thôn.
thứ nhất: Đất đai và thủy lợi là hai yếu tố có thể xem là hai yếu tố có ảnh hưởng lớn tới sản lượng nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay. Vì thế cần phải khẩn trương hoàn thành việc giao đất, giao rừng cho các hộ nông dân sử dụng và phải phân bổ đều các cơ hội sử dụng các yếu tố này giữa các nhóm thu nhập, giúp điều hòa thu nhập gia đình từ sản xuất nông nghiệp. Cụ thể là:
Giao quyền sử dụng đất cho các hội nông dân dưới nhiều hình thức thích hợp cùng với việc quản lý chặt chẽ việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo đúng pháp luật, không để nông dân nghèo sống bằng nghề nông phải bán đất, ngăn chặn xử lý các thủ đoạn chèn ép, cưỡng đoạt ruộng đất của nông dân nghèo.
Khuyến khích nông dân tự bỏ vốn và sức lao động để cải tạo đồng ruộng, xây dựng hệ thống kênh mương và giao thông nông thôn.
Thứ hai: Trang bị công nghệ, vật tư và thiết bị tiên tiến trong nông nghiệp, đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi, sử dụng hợp lý hơn các thiết bị đầu vào( phân bón, thuốc trừ sâu, thủy lợi, cải tiến giống và phương thức canh tác.
Thứ ba: vấn đề khuyến nông có tác dụng quan trọng đến tăng sản lượng nông nghiệp. Trong nền kinh tế hàng hóa, thị hiếu của người tiêu dùng, các thông tin về giống, cây trồng, phân bón và hệ thống phương pháp gieo trồng và khuyến nông sẽ giúp cho người nông dân có quyền quyết định tối ưu về sử dụng các yếu tố sản xuất. Do đó, khuyến nông cần tập trung vào các nội dung sau:
Nghiên cứu hệ thống đất canh tác để thiết lập quá trình sản xuất có hiệu quả với từng loại cây trồng khác nhau nhằm giúp nông dân lựa chọn.
Nghiên cứu thuần dưỡng và phổ biến các loại giống cây trồng và vật nuôi có năng suất, chất lượng cho các hộ gia đình.
Triển khai các dịch vụ bảo vệ thực vật, thú y tới từng thôn xóm.
Hướng dẫn tiếp thị
Thứ tư: Cần thiết phải khôi phục lại các làng nghề truyền thống, đó là các làng nghề có quá trình phát triển từ lâu đời nên nếu khôi phục lại có điều kiện để phát huy các lợi thế về tay nghề của các nghệ nhân, nhãn hiệu truyền thống cũng như các thị trường tiêu thụ truyền thống. Các làng nghề truyền thống Việt Nam trong những năm gần đây cũng đã được phục hồi nhưng tốc độ còn chậm, địa bàn tổ chức chưa được mở rộng, chủng loại, mẫu mã chưa phong phú, đa dạng nên giá trị sản phẩm còn thấp và hiệu quả hoạt động chưa cao. Đó cũng là nội dung cần hoàn thiện trong chiến lược khôi phục làng nghề truyền thống ỏ nước ta.
Thứ năm: Các ngành có khả năng tạo việc làm tại chỗ cho các lao động dư thừa ở nông thôn trong điều kiện vốn ít và công nghệ lạc hậu, sử dụng được các loại lao động trai, gái, già, trẻ…, như các ngành chế biến lương thực, thực phẩm, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, mây tre đan, sản xuất hàng tiêu dùng, vật tư kỹ thuật và tư liệu sản xuất phục cho nông nghiệp, kể cả việc khôi phục, đưa vào sử dụng và khai thác các lợi thế về môi trường thuỷ sản, giao thông, du lịch trên các diện tích mặt nước để tăng thu nhập cho người thu nhập.
Thứ sáu: phát triển mạng lưới dịch vụ trong nông nghiệp, từ dịch vụ tín dụng, bảo hiểm, cung cấp vật tư kỹ thuật, máy móc, thiết bị, cung cấp hàng tiêu dùng, vật liệu xây dựng đến các dịch vụ mua bán, chế biến lương thực, thực phẩm, thủy sản để cung cấp trong nước va xuất khẩu; kể cả dịch vụ bảo vệ thực vật, giao thông vận tải ở nông thôn, xây dựng và sửa chữa nhà cửa.
Chống tham nhũng và buôn lậu
Tham nhũng và buôn lậu là các hoạt động ảnh hưởng tiêu cực đến công bằng xã hội, góp phần tăng nhanh sự phân hóa giàu nghèo. nhiều người đã giàu nhanh lên nhờ buôn lậu và tham nhũng. Sự giàu lên của họ gắn liền với hiện tượng ngân sách Nhà nước bị thất thoát, khả năng tài trợ cho các dịch vụ giáo dục và y tế giảm sút… Tham nhũng và buôn lậu cũng hạn chế tốc độ tăng trưởng. Buôn lậu và trốn thuế còn làm cho hàng hóa trong nước không cạnh tranh được phải thu hẹp, nền sản xuất non trẻ bị thui chột. Tham nhũng làm thất thoát vốn đầu tư nước ngoài trong việc đầu tư vào Việt Nam.
Nếu không có biện pháp kiên quyết hạn chế tham nhũng và buôn lậu sẽ tạo ra những căng thẳng xã hội, mọi chính sách đòn bẩy về kinh tế sẽ bị vô hiệu hóa mà còn làm cho lòng tin cậy của nhân dân ngày càng giảm sút với công tác quản lý Nhà nước.
Các giải pháp về xã hội
Phát triển các dịch vụ xã hội và mạng lưới bảo trợ cho người nghèo
Tăng trưởng kinh tế sẽ tạo ra nhiều cơ hội tăng thu nhập mới cho người nghèo Việt Nam. Tuy nhiên, trong số đó vẫn còn một số người nghèo không tận dụng ddược các cơ hội này do mù chữ, thiếu kỹ năng, kém sức khỏe và thiếu dinh dưỡng. Vì vậy, việc đảm bảo cho người nghèo tiếp cận được với các dịch vụ xã hội, đặc biệt là vể giáo dục, chăm sóc y tế và kế hoạch hóa gia đinh, có tầm quan trong gấp bội. Việc đảm bảo này sẽ làm giảm bớt những hậu quả trước mắt của nghèo đói đồng thời cũng loại bỏ nguồn gốc của sự nghèo đói.
Nâng cao khả năng tiếp cận của người nghèo với vấn đề giáo dục
để tăng khả năng tiếp cận của người nghèo với giáo dục, cần giải quyết được hai vấn để là giảm chi phí cho việc đi học của người nghèo, và nâng cao lợi ích của việc giáo dục, tức là tạo ra những hiệu quả thiết thực nhận từ giáo dục của người nghèo. Và những giải pháp cụ thể nhằm giải quyết được hai vấn để đó là:
- Tăng mức độ sẵn có của giáo dục thông qua chương trình xây dựng trường học để giảm khoảng cách từ nhà đến trường
Thời gian qua, Việt Nam đã giải quyết tương đối thành công việc giảm và chia quãng đường đi hoc tại các trường cấp I cho các nhóm thu nhập bằng cách đặt các trường cấp I, II trong từng xã, từng thôn. tuy vậy theo các số liệu thống kê thì hiện nay vẫn còn khoảng 12% t
Để tăng mức độ sẵn có của giáo dục cho người nghèo, một điều cũng không kem phân quan trọng là phải nâng cao cơ sở hạ tầng cho giáo dục. Bàn ghế của thầy giáo, cho trò, bảng đen, đồ dùng dạy và học tập còn thiếu, chưa đảm bảo các tiêu chuẩn tối thiểu. Tỷ lệ các trường cần được nâng cấp để đạt tiêu chuẩn tối thiểu trong phạm vi cả nước hiện nay: mẫu giáo 93,3%, tiểu học 78%, phổ thông cơ sở 67% và phổ thông trung học 72%.
Giảm chi phí đến trường cho mỗi cá nhân của các gia đình nghèo
Điều tra sơ bộ cho thấy các gia đình phải đóng góp các khoản chi phí không nhỏ cho con em mình trong việc học hành: đối với học sinh cấp I mỗi gia đình phải đóng góp mỗi năm trung bình là: 100 000đ, chi phí này tăng lên đối với học sinh cấp II, cấp III. Định hướng cho các giải pháp này là:
Loại bỏ các chi phí chính thức, cụ thể là xóa bỏ học phí chính thức cho các học sinh thuộc diện gia đình nghèo khó
Tăng trợ cấp đi học để đi học để giảm yêu cầu đóng góp của cha mẹ học sinh như: đóng tiền cho hội phụ huynh, nộp tiền đồng phục, các khoản chi phí đóng góp cho hội hè… Việc trợ cấp giáo dục phải bao gồm cả trợ cấp đầu vào cho giáo dục đối với người nghèo như: trợ cấp vể đào tạo giáo viên, sách giáo khoa, lớp học của các học sinh tàn tật…
Tiến tới cung cấp miễn phí sách giáo khoa cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục tiểu học thay vì phải mua như hiện nay
Đây là những nội dung cải cách khá cơ bản, đòi hỏi phải có những khâu tổ chức, phục vụ cần có khối lượng đầu tư, trợ cấp lớn. Vì vậy không nên cải cách ngay trong cả nước, mà theo mức chi của từng vùng, từng miền khác nhau để áp dụng đối với các trường đóng ở nơi có tỷ lệ nghèo đói cao. Các chính sách trợ giúp về giáo dục cần phải được phân loại theo trình độ và mức độ giáo dục.
Nâng cao chất lượng giáo dục cho người nghèo: Hiện nay cơ sở hạ tầng trường học, đội ngũ giáo viên nhiều nơi, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng cao và các vùng nông thôn có tỷ lệ người nghèo cao, còn thiếu rất nhiều về mặt số lượng, chất lượng. Đời sống vật chất tinh thần của giáo viên ở nông thôn và các vùng nghèo vô cùng thiếu thốn. Chất lượng học tập của học sinh nghèo kém hơn hẳn chất lượng học tập của học sinh thành phố, đặc biệt là hiện tượng bỏ học ở các vùng nông thôn, miền núi lại có xu hướng gia tăng.
Yêu cầu đặt ra trong thời gian tới là phải có quy hoạch tổng thể, toàn diện phát triển giáo dục nói chung và phát triển giáo dục cho người nghèo nói riêng. có nhiều hình thức liên quan tới nâng cao chất lượng giáo dục cho người nghèo, trong đó cần phải nhấn mạnh các yếu tố cơ bản là những yếu tố đầu vào của việc nâng cao chất lượng giáo dục như: sách giáo khoa, xây dựng cơ sở, trường học và bồi dưỡng giáo viên…
Đầu tư tăng cường các dịch vụ y tế cho người nghèo
Việt Nam đã phát triển được mạng lưới rộng lưới các cở sở y tế trong phạm vi cả nước và mật độ cung cấp các dịch vụ y tế ở tất cả các cấp (bao gồm các bệnh viện và trạm y tế) đạt được cao hơn nhiều so với các nước phát triển khác trong khu vực. nhưng theo số liệu điều tra thực tế, người nghèo Việt Nam khó tiếp cận các dịch vụ chăm sóc y tế, họ dường như thiên về điều trị hơn là đến các cỡ sơ cung cấp dịch vụ y tế chính thức. Hiện nay chỉ khoảng 5% ngân sách quốc gia cho lĩnh vực y tế được dùng để phân bổ cho các cơ sở y tế xã mà người nghèo không được hưởng lợi ích từ các cơ sở này một cách không đều: 20% dân số nghèo chỉ nhận 11% tổng số trợ cấp y tế.
Do vậy, mục tiêu cơ bản của việc tăng cường các dịch vụ y tê cho người nghèo là ưu tiên phân phối các nguồn lực công cộng cho những chương trình y tế mà người nghèo có khả năng sử dụng nhiều hơn và phải tạo điều kiện để người nghèo sử dụng được phần lớn các chương trình y tế được trợ cấp. Trong điều kiện nước ta hiện nay, việc tăng sự tiếp cận của người nghèo với các dịch vụ y tế cần thiết phụ thuộc vào việc giải quyết các vấn đề sau:
Đầu tư mở rộng mạng lưới y tế: Việt Nam đã đạt được tỷ lệ bao phủ cao đối với các cơ sở y tế phục vụ nông thôn tại chính các vùng nông thôn. tuy vậy theo số liệu điều tra, chỉ có 6% trong số 20% số người nghèo nhất ở các vùng nông thôn được sống tại các xã có bệnh viện. Đối với người nghèo chưa có cơ sở y tế ở gần nhà thì phải đi trung bình khoảng 8km đến các trạm y tế gần nhất, mà số người nghèo lại nhiều gấp hai lần số người nghèo ở nông thôn. do đó, phải có định hướng đầu tư vào vùng nông thông chưa có trạm y tế.
Giảm chi phí sử dụng các dịch vụ y tế cho người nghèo thông qua các chương trình trợ cấp
Theo số liệu điều tra, chi phí sử dụng y tế và tiền thuốc chữa bệnh trung bình của một người là 85.000 động cho một lần khám và điều trị tại y tế xã, thôn; 77.000 đồng cho một lần khám ngoại trú tại bệnh viện và 210.000 đồng cho một lần chữa bệnh nội trú tại bệnh viện. Số liệu trên cho thấy các gia đình đã trả khá nhiều tiền cho việc sử dụng các dịchvụ y tế. Điều đáng nói là nước ta chưa có quy định cụ thể nào, hoặc có chính sách riêng biệt nào để bảo trợ cho người nghèo trong việc sử dụng các dịch vụ y tế. các giải pháp nhằm giảm chi phí cho người nghèo chủ yếu là: phải thiết lập cơ chế và xây dựng một hệ thống y tế trợ cấp cho người nghèo, người già cả, những người có hoàn cảnh khó khăn. áp dụng các loại giá khác nhau cho việc sử dụng các dịch vụ y tế, khám và chữa bệnh đối các thành phần có các mức thu nhập khác nhau, kể cả áp dụng các chính sách miễn phí dịch vụ y tế cho những người thuộc diện đói nghèo, Để thực hiện biện pháp này phải tiến hành cấp miễn phí thẻ bảo hiểm y tế cho các hộ nghèo theo số người trong gia đình, và phối hợp với các chương trình xã hội khác để chăm sóc sức khỏe cho người nghèo.
- Nâng cao chất lượng dịch vụ y tế chơ người nghèo: Cũng như mạng lưới giáo dục, chất lượng của y tế nông thôn cón tồn tại nhiều vấn đề như: cơ sỏ vật chất kỹ thuật, dụng cụ y tế của các trạm xá còn rất nghèo nàn lạc hậu, nguồn nước sạch chưa được đảm bảo, nhiều nơi chưa có điện, thuốc chữa bệnh còn thiếu, trình độ thầy thuốc ở nông thôn còn thấp…
Có nhiều biện pháp để nâng cao chất lượng dịch vụ y tế cho người nghèo trong đó đặc biệt là tăng kinh phí đầu tư cho đào tạo và cung cấp đầy đủ thuốc chữa bệnh vừa với mức thu nhập của người dân, cần thiết phải quy hoạch đội ngũ nhân viên y tế xã từ ngân sách Nhà nước
Các giải pháp khác nhằm nâng cao khả năng tiếp cận của người nghèo đến các dịch vụ xã hội và mạng lưới bảo trợ xã hội, một mặt tạo ra sự công bằng xã hội, mặt khác nó là cơ hội tạo ra các điều kiện về vật chất, về tri thức… để người nghèo có thể tự xóa bỏ được đói nghèo và đạt được mức sống ngày càng cao hơn.
Thực hiện có kết quả chương trình kế hoạch hóa gia đình và giảm tốc độ tăng dân số
Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến đói nghèo là do sinh đẻ quá nhiều, đặc biệt là ở nông thôn. việc sinh đẻ quá nhiều khiến cho các hộ gia đình không có khả năng tham gia vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh dẫn tới không có khả năng thoát khỏi cảnh đói nghèo lam lũ. Tỷ lệ tăng dân số cao ở nước ta hiện nay đã dẫn đến một hậu quả là: Tốc độ tăng của lao động lớn hơn tốc độ tăng của nhu cầu việc làm, do đó lượng lao động thất nghiệp là rất lớn, đặc biệt là ở khu vực nông nghiệp. Hiện nay khu vực nông nghiệp chỉ cần một số lượng lao động khoảng 18 triệu người, trong khi số lao động hiện có đã lên tới 25 triệu người. Thất nghiệp là nguyên nhân của đói nghèo và những người thất nghiệp thật khó có thể tìm được lối thoát ra khỏi cảnh sống cơ cực. Vì vậy chương trình dân số và kế hoạch hóa gia đình là một chương trình lồng ghép quan trọng nhằm xóa đói giảm nghèo.
chính sách dân số kế hoạch hóa gia đình không nên chỉ tập trung vào các tác động trực tiếp thông qua các biện pháp kỹ thuật y tế đơn thuần, mà cần chú trọng hơn đến các giải pháp có tính chất căn bản của vấn đề, cụ thể là:
- Các giải pháp kinh tế: Để thực hiện được mục tiêu giảm tỷ lệ tăng dân số, phải tìm cách tăng chi phí cơ hội lên. Điều đó sẽ thực hiện được nêu trong chính sách xã hội chúng ta ưu tiên giải quyết việc làm, tạo cơ hội có việc làm, đặc biệt là việc làm có thu nhập khá, cao cho phụ nữ, nâng địa vị của người phụ nữ lên và đây có lẽ là giải pháp hữu hiệu nhất. Mặt khác, việc tăng cường các hoạt động đầu tư công cộng, phúc lợi xã hội và chăm sóc xã hội cho người già cũng là một biện pháp quan trọng để giải tỏa gánh nặng cho người ít con, không có con khi họ về già.
- các giải pháp về xã h`ội: Để thực hiện mục tiêu giảm tỷ lệ tăng dân số, cần thiết phải nâng cao trình độ giáo dục và mức sống vật chất cho người dân, xây dựng mức sống văn minh, tuyên truyền để xóa bỏ các truyền thống tư tưởng lạc hậu, trọng nam khinh nữ và các tư tưởng phong kiến lỗi thời khác.
- kèm theo các giải pháp về kinh tế, chính trị, xã hội, cần thực hiện nghiêm túc các giải pháp hành chính, các nội quy, quy chế về tuổi sinh đẻ, khen thưởng đồn thời có biện pháp xử lý kịp thời các hiện tượng vi phạm quy chế của chương trình dân số và kế hoạch hóa gia đình.
3. phát huy sức mạnh tổng hợp của Đảng, Nhà nước, mặt trận và các đoàn thể
3.1 Nâng cao trách nhiệm của chính quyền các cấp.
đầu tư xóa đói giảm nghèo là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, đặc biệt là của chính quyền các cấp với vai trò pháp luật và chính sách hóa về các giải pháp về tổ chức toàn xã hội, và chính người nghèo thực hiện xóa đói giảm nghèo.
Để biến chủ trương của Đảng, nguyện vọng của dân thành chương trình hành động và thực hiện trong cuộc sống, trước hết phải làm cho mỗi cán bộ, mọi người dân phải có nhận thức đúng đắn về chủ trương xóa đói, giảm nghèo; không đơn thuần cho rằng: đói nghèo là do số phận. Từ đó mà xác định nhiệm vụ xóa đói giảm nghèo là trách nhiệm của từng cấp, mà trực tiếp là cấp xã, phường.
3.2 Nâng cao trách nhiệm là hiệu quả hoạt động của đoàn thể về xóa đói, giảm nghèo.
- Vận động thuyết phục các hội viên tự nguyện tham gia phong trào bằng hành động cụ thể, thích hợp với tính chất của hội quần chúng và hội nghề nghiệp.
- Vận động hội viên có kinh nghiệm hướng dẫ cách làm ăn, chuyển giao công nghệ đối với hộ nghèo.
- Vận động mọi người tham gia đóng góp nguồn lực
- Kiểm tra giám sát việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ở địa phương, cơ sở.
C. Kết luận
trước đổi mới, trong cơ chế bao cấp, đời sống, thu nhập giữa nghèo và người giàu đã có sự chênh lệch nhưng không lớn. Nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển, sự phân hóa giàu nghèo diễn ra ngày càng mạnh mẽ, khoảng cách giữa người giàu và người nghèo về thu nhập về mức sống và tiện nghi sinh hoạt ngày càng càng lớn. Để thực hiện mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và những chương trình phát triển kinh tế – xã hội, mà Đại hội VIII của Đảng đã đề ra từ nay đến năm 2020, một trong những vấn đề hết sức quan trọng và bức bách của toàn Đảng toàn dân ta là thực hiện chương trình xóa đói, giảm nghèo, bảo vệ lợi ích của người lao động “ Từng bước thực hiện công bằng xã hội, làm cho mọi người, mọi nhà đều khá giả”
Tài liệu tham khảo
Đánh giá tình trạng đói nghèo ở nông thôn Việt Nam – Trung tâm nghiên cứu phát triển kinh tế xã hội, tháng 11/1996
Kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội – Bộ lao động thương binh xã hội – tháng 5/1997.
Tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và các vấn đề xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam, GSTS Vũ Thị Ngọc Phùng, nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 1999
tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội ở một số nước châu á và Việt Nam, Lê Bộ Lĩnh, NXB Chính trị Quốc gia - 1997
Vấn đề xóa đói, giảm nghèo ở nông thôn nước ta hiện nay, Nguyễn Thị Hằng, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia – 1997
Giáo trình kinh tế phát triển, Bộ môn kinh tế phát triển, Khoa phát triển, trường Đại học kinh tế quốc dân – Nhà xuất bản thống kê 1997
Giáo trình kinh tế đầu tư . Bộ môn kinh tế đầu tư, trường Đại học kinh tế quốc dân.
làm thế nào nâng cao hiệu quả đầu tư cho vùng đặc biệt khó khăn. Nguyễn Thanh _ tạp chí tài chính 10/1999
tạp chí Ngân hàng
tăng trưởng và phân phối thu nhập: lý thuyết và kinh nghiệm.GS, TS Hart Mult Elerhans. Ban khoa học Chính trị.
nghị quyết TW 5 khóa VII ngày 10/6/1993 về tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh kinh tế nông thôn
Quyết định số 525/TTg ngày 31/8/1995 của Thủ tướng Chính phủ về thành ;ập Ngân hàng phục vụ người nghèo.
Nghị quyết 14/CP của Chính phủ ngày 02/3/1993 quy định chính sách cho hộ sản xuất vay vốn để phát triển nông lâm ngư nghiệp và kinh tế nông thôn.
một số tài liệu khác
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- G0062.doc