Đề tài Một số vấn đề về điều hành tỷ giá tại ngân hàng trung ương Việt Nam

Có thể nói rằng, tỷ giá hối đoái là một phạm trù kinh tế rất phức tạp và rất nhạy cảm. Một chính sách tỷ giá phù hợp với nền kinh tế sẽ trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự tăng trưởng, nhưng ngược lại một chính sách tỷ giá không phù hợp sẽ trở thành lực cản và thậm chí còn có thể gây nên những hậu quả khó lường. Vì vậy, việc xây dựng chính sách tỷ giá hối đoái như thế nào để có thể thực hiện được những mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước là vấn đề mà các quốc gia trên thế giới đều quan tâm. Là một nước mới chuyển sang nền kinh tế thị trường như Việt Nam thì vấn đề quản lý tỷ giá ít nhiều cũng còn khá mới mẻ đối với chúng ta. Tuy nhiên, với những kết quả đạt được sau hơn 10 năm đổi mới, có thể khẳng định rằng chính sách tỷ giá của Việt Nam đã từng bước được điều chỉnh để phù hợp với các giai đoạn phát triển của đất nước. Điều này thể hiện những nỗ lực quan trọng của chính phủ trong việc đổi mới và hoàn thiện chính sách kinh tế vĩ mô nói chung và chính sách điều hành tỷ giá nói riêng. Mặc dù vậy, chính sách tỷ giá vẫn cần được cải cách hơn nữa, đặc biệt khi thời gian thực hiện AFTA đang tới gần để chúng ta không bị thiệt hại khi tham gia hội nhập quốc tế mà trái lại, luôn ở vào thế có lợi trong tiến trình này. Ngoài ra, những diễn biến phức tạp của tình hình quốc tế và khu vực đòi hỏi chúng ta phải đẩy mạnh công cuộc đổi mới,

doc96 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 972 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số vấn đề về điều hành tỷ giá tại ngân hàng trung ương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i cũng không chào giá mua bằng giá bán, tiền mặt bằng chuyển khoản như những thời điểm căng thẳng cung cầu ngoại tệ năm trước tuy rằng vẫn đặt giá bán kịch trần 0,1% biên độ được phép. Giá trên thị trường chợ đen cũng giảm tương ứng, chỉ còn ở mức 14.600 – 14.620 đồng/USD do không còn hiện tượng ồ ạt mua gom ngoại tệ để găm giữ của doanh nghiệp và dân cư như năm trước. Việc mua ngoại tệ theo giá vượt trần giảm và chỉ tập trung vào một số những doanh nghiệp nhập khẩu hàng tiêu dùng. Tuy không dư thừa như năm 1999, nhưng nhìn chung “sốt” ngoại tệ đã giảm. Cung ngoại tệ của các ngân hàng dồi dào hơn do các doanh nghiệp không còn tư tưởng găm giữ ngoại tệ trên tài khoản nữa, hơn nữa cơn sốt VND vào thời điểm ngay trước và sau Tết nguyên đán cũng đã buộc nhiều doanh nghiệp phải bán bớt lượng ngoại tệ mà họ đã đầu cơ suốt năm 2000. Đồng thời, sự can thiệp của NHNN đã mạnh mẽ hơn, việc Thống đốc NHNN công bố sẽ bán can thiệp cho mọi nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu của nền kinh tế có tác dụng như một liều thuốc trấn an tinh thần của các doanh nghiệp và cả ngân hàng thương mại. Cầu ngoại tệ không còn quá căng như trước do các doanh nghiệp không còn đổ xô mua gom ngoại tệ mà có tâm lý khi nào đến hạn thanh toán mới xin mua của ngân hàng để tránh bị lỗ do tỷ giá đang có xu hướng xuống. Các ngân hàng cũng không duy trì trạng thái ngoại tệ dương lớn mà chỉ để một lượng thích hợp nhằm đảm bảo cân đối được nhu cầu khách hàng của mình. Tất cả những động thái trên cho thấy thị trường ngoại tệ đang chuyển mình theo hướng tích cực, cung cầu ngoại tệ chắc chắn sẽ giảm căng thẳng và nhiều chuyên gia đã mạnh dạn dự đoán là tỷ giá USD/VND sẽ chỉ đứng hoặc giảm nhẹ mà không tăng ồ ạt như năm 2000. Sở dĩ có những thay đổi trên là do các chính sách can thiệp thị trường tiền tệ của NHNN đã bắt đầu phát huy tác dụng cùng với những thay đổi khách quan trên thị trường tiền tệ quốc tế. Việc NHNN hai lần liên tục điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 5% lên 7% và lên 12% cũng như việc Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed) cắt giảm lãi suất chủ đạo xuống còn 6% rồi 5,5% đã khiến cho các ngân hàng đang phải đau đầu với bài toán lợi nhuận. Để đảm bảo an toàn và có lãi, việc các ngân hàng giảm lãi suất huy động là một tất yếu khách quan mà các chuyên gia phân tích đều dự đoán được. Hiện nay và trong thời gian tới, các ngân hàng sẽ phải chú trọng hơn đến việc đẩy mạnh tín dụng chứ không thể trông chờ vào việc hưởng lãi tiền gửi nước ngoài như trước đây dù rằng đây vẫn và tiếp tục là nguồn thu lợi nhuận lớn cho ngân hàng. Như vậy, trong 4 tháng đầu năm, tỷ giá giữa VND và USD tương đối ổn định. Đến hết tháng 4/2001, tỷ giá bình quân liên ngân hàng chỉ tăng 0,34% so với đầu năm 2001, mức tăng này của tỷ giá USD/VND ở thị trường tự do Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh cũng chỉ từ 0,27 đến 0,38. Nguyên nhân chủ yếu làm cho tỷ giá thời kỳ này ổn định là do mức thâm hụt cán cân thương mại 4 tháng đầu năm 2001 chỉ là 134 triệu USD, giảm đáng kể (49,63%) so với cùng kỳ năm ngoái (ở mức 266 triệu USD), trong khi đó lượng kiều hối về trong 4 tháng này là 575 triệu USD, tăng 5% so với cùng kỳ năm 2000, giúp cải thiện cán cân vãng lai và cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Tình hình tỷ giá tương đối ổn định trong 4 tháng đầu năm đã góp phần hỗ trợ các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, đặc biệt phục vụ Tết nguyên đán. Riêng từ sau tháng 5/2001, tỷ giá trên thị trường tự do có thay đổi rõ nét. Chỉ từ 1/5/2001 đến 30/6/2001, tỷ giá bình quân liên ngân hàng đã tăng 1,9% (gấp hơn 5 lần so với cả 4 tháng đầu năm 2001). Tỷ giá USD/VND tại các ngân hàng thương mại cũng tăng tương ứng và luôn ở mức kịch trần. Cá biệt một số ngân hàng thương mại cổ phần và chi nhánh ngân hàng Ngoại Thương TP HCM luôn để tỷ giá mua bán chuyển khoản, tiền mặt bằng nhau nhằm thu hút các nguồn ngoại tệ. Mức giảm giá kể trên của đồng Việt Nam là phù hợp với xu hướng lên giá của đồng đô la Mỹ trên thị trường quốc tế, cũng như tình hình cung cầu ngoại tệ ở Việt Nam. Trong tháng 5/2001, thâm hụt cán cân thương mại tăng lên mức 130 triệu USD, xấp xỉ với mức thâm hụt của cả 4 tháng đầu năm, trong khi đó, lượng kiều hối chuyển về nước lại ước giảm so với các tháng trước khoảng 16%, không giúp bù đắp được thâm hụt cán cân thương mại và góp phần tạo căng thẳng cung cầu ngoại tệ. Bên cạnh đó, tỷ lệ kết hối giảm từ 50% xuống còn 40% được áp dụng từ tháng 5/2001 đã làm giảm nguồn cung ngoại tệ. Trong khi đó, sự lo ngại giá dầu trên thế giới tăng do Irắc thông báo ngừng xuất khẩu dầu để phản đối quyết định của Liên hiệp quốc về thay đổi gia hạn chính sách đổi dầu lấy lương thực khiến nhiều doanh nghiệp nhập khẩu xăng dầu có biểu hiện tích trữ ngoại tệ, tăng cầu ngoại tệ trên thị trường. Tỷ giá trên thị trường chính thức tăng kéo theo sự tăng giá đô la Mỹ trên thị trường tự do, đến cuối tháng 6/2001 tỷ giá trên thị trường tự do ở cả Hà Nội và TP Hồ Chí Minh đều vượt mức14.900 VND/USD, đây là mức cao nhất trong vòng 3 năm trở lại đây. Diễn biến tỷ giá USD trong năm 2000 và nửa đầu năm 2001 Trong năm 2000 1/01 2/01 3/01 4/01 5/01 6/01 Tỷ giá liên ngân hàng Tăng so với tháng trước 14.022 - 14.501 14.534 33 14.558 24 14.573 15 14.595 22 14.696 101 14.865 169 Tỷ giá thị trường tự do Tăng so với tháng trước 14.160 - 14.540 14.630 90 14.680 50 14.730 50 14.790 60 14.910 120 15.050 140 (Nguồn VN Express (năm 2000, thời điểm cuối năm, đơn vị VND)) Tình hình mua bán ngoại tệ của các ngân hàng thương mại: Tổng doanh số giao dịch (mua bán giao ngay + kỳ hạn) trên thị trường giữa ngân hàng với khách hàng tăng 13,6% so với cùng kỳ năm ngoái, ở mức trung bình 60,7 triệu USD/ngày. Doanh số giao dịch tăng lên là nhờ tỷ lệ tăng trưởng xuất nhập khẩu trong 6 tháng đầu năm 2001 vẫn duy trì ở mức cao (tăng 16,2% so với cùng kỳ năm ngoái) đã góp phần làm tăng cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Chênh lệch tỷ giá của các ngân hàng thương mại và thị trường tự do trong 5 tháng đầu năm ở mức thấp, sự tham gia của NHNN vào thị trường ngoại tệ liên ngân hàng nhằm đáp ứng ngoại tệ cho nhu cầu nhập khẩu xăng dầu và phân bón... Về cơ cấu doanh số: So với cùng kỳ năm 2000, cả doanh số mua và bán với khách hàng của 5 tháng đầu năm 2001 đều tăng: doanh số mua với khách hàng tăng 8,57%; doanh số bán cho khách hàng tăng 24,88%. Doanh số bán cho khách hàng vẫn lớn hơn doanh số mua. Lượng ngoại tệ thiếu hụt này đã được bù đắp thông qua hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Doanh số mua bán trên thị trường ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng trong 5 tháng đầu năm 2001 đạt mức trung bình 290 triệu USD/tháng (tăng 78,95% so với cùng kỳ năm ngoái). Tuy nhiên, giao dịch ngoại tệ kỳ hạn giảm 32% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt mức trung bình 3,435% triệu USD/ngày, tập trung chủ yếu vào các giao dịch bán kỳ hạn (chiếm 77% tổng doanh số mua bán kỳ hạn) Thị trường ngoại tệ những tháng cuối năm 2001: nhu cầu ngoại tệ tăng cao hơn do quy luật nhu cầu nhập khẩu nguyên liệu của doanh nghiệp tăng cao vào các tháng cuối năm, có nhiều dự án lớn đã đi vào giai đoạn giải ngân như dự án Nam Côn Sơn, dự án xây dựng nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ... Trong khi đó, tăng trưởng xuất khẩu bị nhiều sức ép khó có thể đạt sự tăng cao. Vì vậy, để đảm bảo thị trường ngoại tệ không bị sức ép, vấn đề quan trọng là kiểm soát chặt chẽ việc nhập khẩu, hạn chế thấp nhất nhu cầu sử dụng ngoại tệ để nhập khẩu những mặt hàng không thiết yếu, tăng cường công tác chống buôn lậu, hạn chế nạn chảy máu ngoại tệ, đồng thời áp dụng nhiều biện pháp tăng cường xuất khẩu, khuyến khích đầu tư nước ngoài tạo thêm nguồn ngoại tệ. Một biện pháp cũng không kém phần quan trọng là phải có chính sách tỷ giá phù hợp, diều chỉnh tỷ giá ở mức hợp lý để khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu đảm bảo hoạt động bình thường của các doanh nghiệp, hạn chế tình trạng găm giữ ngoại tệ do tâm lý sợ tỷ giá tăng liên tục. Trong 5 tháng đầu năm 2002, NHNN Việt Nam vẫn tiếp tục thực hiện cơ chế điều hành lãi suất cơ bản Đồng Việt Nam, mức lãi suất cơ bản được công bố trong các tháng này là 0,6%/tháng. Còn lãi suất ngoại tệ đã được tự do hoá từ tháng 6/2001, nên bám sát diễn biến của thị trường quốc tế. Trong giai đoạn này, Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) vẫn giữ nguyên mức lãi suất USD, ổn định ở mức 1,75%/năm từ đầu năm 2001 cho đến đầu tháng 11/2002. Từ 6/11/2002 FED đã cắt giảm lãi suất xuống còn 1,75%/năm. Do đó lãi suất USD ở nước ta trong suốt 10 tháng đầu năm và ngay cả hai tháng cuối năm sau khi FED cắt giảm tới 50 điểm lãi suất của mình cũng ổn định và đứng ở mức thấp; 2,0% - 2,2%/năm đối với lãi suất huy động vốn và 2,75% - 5,0%/năm đối với lãi suất cho vay. Trước yêu cầu khách quan của thực tiễn, từ ngày 1/6/2002, NHNN quyết định chuyển sang cơ chế lãi suất thoả thuận Đồng Việt Nam của các Tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Theo đó, các Tổ chức tín dụng được chủ động thoả thuận lãi suất đối với khách hàng trên cơ sở cung cầu vốn, lãi suất cơ bản do NHNN công bố chỉ có tính chất tham khảo. NHNN vẫn tiếp tục điều hành và thực hiện lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn đối với các Tổ chức tín dụng. Từ ngày 1/7/2002, NHNN quyết định nới rộng biên độ quy định tỷ giá của các Tổ chức tín dụng trong giao dịch mua bán ngoại tệ đối với khách hàng lên ±0,25% so với mức ±0,10% trước đó đối với nghiệp vụ giao ngay; lên ±0,50% so với mức ±0,40% của nghiệp vụ giao dịch kỳ hạn 30 ngày; lên ±2,5% so với mức 2,35% của nghiệp vụ giao dịch kỳ hạn trên 90 ngày... Việc điều chỉnh tăng này đáp ứng được yêu cầu của các Tổ chức tín dụng cũng như các doanh nghiệp có nhu cầu mua bán ngoại tệ với các ngân hàng, không bị gò bó trong khuôn khổ chật hẹp như trước đây. Thị trường vốn phản ứng rất tích cực về sự thay đổi này, vì nó giảm dần những quy định mang tính chất hành chính can thiệp vào quyền tự chủ kinh doanh của các Tổ chức tín dụng, nhân tố chủ lực trên thị trường. Đồng thời sự thay đổi đó cho phép tiến tới tự do hoá thị trường giao dịch ngoại hối phù hợp với thông lệ quốc tế, nhất là Việt Nam đang tiến tới thực hiện đầy đủ các nội dung của Hiệp định thương mại Việt – Mỹ, gia nhập WTO... Ngày 13/9/2002, Thống đốc NHNN đã ban hành quyết định số 958/2002/QĐ - NHNN về quản lý ngoại hối đối với việc mua bán chứng khoán của tổ chức cá nhân nước ngoài tại Trung tâm giao dịch chứng khoán. Từ tháng 10/2002, Thống đốc NHNN đã ban hành quy định mới về trạng thái ngoại tệ đối với các NHTM. Theo đó tỷ lệ số dư ngoại tệ so với vốn tự có của các NHTM trước đây quy định là 15%, thì nay đã tăng lên 30%; phương pháp tính cũng thay đổi, không chỉ tính đối với Đô la Mỹ (USD), mà còn được tính chung gộp các loại ngoại tệ khác... Đó là những thay đổi về quản lý ngoại hối mang tính rất tích cực, tháo gỡ khó khăn về kinh doanh ngoại hối, tạo điều kiện cho các NHTM chủ động đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho các doanh nghiệp thực hiện các hợp đồng nhập khẩu. Một điểm mới khác nữa là đầu tháng 10/2002, NHNN đã chấp thuận cho hai doanh nghiệp trong nước thí điểm đầu tư vốn ngoại tệ ra nước ngoài. Đây là biện pháp quan trọng làm tăng nhu cầu vay vốn ngoại tệ của các doanh nghiệp từ các NHTM trong nước, khuyến khích họ thu hút vốn ngoại tệ trong dân vào ngân hàng. Cũng từ đầu tháng 9/2002, Chính phủ có chủ trương, NHNN đã sửa đổi Thông tư số 02/2000 về việc khuyến khích người Việt Nam ở nước ngoài chuyển tiền về nước. Theo đó, NHNN cho phép các Tổ chức tín dụng làm đại lý cho các tổ chức kinh tế và Tổ chức tín dụng khác được nhận chi trả ngoại tệ không phải xin phép NHNN, mà chỉ cần gửi bản sao hợp đồng đại lý cho chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố. Quy định mới tạo điều kiện mở rộng đối tượng được làm dịch vụ chi trả ngoại hối, trong đó có cả các NHTM được làm đại lý cho các công ty dịch vụ kiều hối về vấn đề này. Ngày 4/12/2002, Thống đốc NHNN quyết định tăng lãi suất tiền gửi ngoại tệ của các Tổ chức tín dụng và Kho bạc nhà nước từ 1,2%/năm lên1,35%/năm, cao hơn lãi suất của FED, có tác động tích cực về việc tăng lãi suất huy động vốn USD, thu hút ngoại tệ từ xã hội vào hệ thống ngân hàng. Cùng với việc thay đổi nói trên, NHNN vẫn duy trì và vận hành có hiệu quả hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, thực hiện nghiệp vụ Swap trong giao dịch hoán đổi ngoại tệ lấy vốn nội tệ giữa NHTM và NHNN. Với tổng thể các biện pháp nói trên, thị trường ngoại hối nước ta trong năm 2002 tương đối ổn định, tỷ giá biến động không nhiều. Trong suốt cả năm 2002 tỷ giá VND/USD chỉ tăng 2,0%, trong tháng 12 – tháng cuối năm chỉ xoay quanh mức 15.400 VND/USD. 3. Giai đoạn từ tháng 01/2003 đến nay Từ đầu năm đến nay, trên thị trường thế giới đồng USD liên tục mất giá so với đồng Euro, Yên (Nhật), đồng Bạt (Thái Lan) và một số ngoại tệ khác. Thật vậy, đầu tháng 3 năm 2003, đồng Euro tiếp tục tăng giá mạnh so với USD, gây nhiều lo ngại mới cho giới kinh doanh. Nếu như ngày 21/1/2003, 1 USD đổi được 0,9402 Euro và 118 Yên Nhật, hay 1 Euro đổi được 1,0636 USD, khi đó đã được coi là mức kỷ lục kể từ khi nó chính thức lưu hành. Sau đó có một số đợt biến động giảm, thì cho đến ngày 10/3/2003, đồng Euro lại tăng giá lên mức kỷ lục mới, 1 Euro đổi được 1,104 USD. Trong khi cách đây đúng một năm 1 Euro chỉ đổi được 1,055 USD. Đồng Euro trên thị trường tiền tệ quốc tế tăng cao, các NHTM trong nước cũng nhạy bén kịp thời điều chỉnh tăng tỷ giá mua bán đồng tiền này của mình. Giá bán Euro của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) trong ngày 10/3 tăng thêm 55 đ so với mức tỷ giá ngày 5/3 là 17.031 VND/Euro, lên 17.080 VND/Euro. Còn NHTM cổ phần xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank) thì đưa ra dự báo tỷ giá trong vài ngày tới là trên 17.100 VND/Euro. Ở thời điểm hiện nay giá bán Euro của các NHTM trong nước đã tăng tới 5% so với thời điểm đầu năm 2003. Do đó, việc dự đoán sự biến động của hai đồng tiền chủ đạo của thế giới nói trên thật là khó. Bởi vì đầu tháng 3, nhiều chuyên gia tài chính dự đoán rằng Euro sẽ phải giảm giá so với USD chứ không thể ở mức cao 1 Euro đổi 1,080 thời điểm đó, nhưng rồi nó vẫn tiếp tục tăng giá. Việc tăng giá đồng Euro chủ yếu là do quan hệ cung cầu, tiếp đến là sức mạnh của các nền kinh tế khu vực đồng Euro, nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, đang chiếm 12% GDP toàn cầu, so với những lo ngại về sự yếu đi của nền kinh tế Mỹ và những phản ứng quá mức của thị trường. Trong giữa tháng 3, các nhà kinh doanh bán tháo đồng USD để mua đồng Euro vào. Cung USD tăng, cầu giảm; còn Euro thì ngược lại. Nhưng bản thân việc bán tháo để mua Euro lại do tác động của những diễn biến kinh tế – chính trị có liên quan. Theo báo cáo của Bộ lao động Mỹ, tỷ lệ người thất nghiệp ở nước này trong tháng 2/2003 đã lên tới 5,8% so với mức 5,7% trong tháng 1/2003, số lượng người có việc làm mới giảm, gây tâm lý bi quan cho các nhà đầu tư. Cuộc tấn công quân sự của Mỹ và đồng minh đối với Irắc vẫn còn bỏ ngỏ. Theo tính toán, nếu cuộc chiến tranh xảy ra, trong thời gian đầu Mỹ sẽ phải tiêu tốn hàng chục tỷ USD và con số này sẽ tiếp tục tăng lên nếu cuộc chiến tranh kéo dài. Tình hình đó càng làm cho ngân sách Mỹ vốn đã thâm hụt rồi lại càng thâm hụt nặng nề hơn. Cùng lúc đó, giá dầu mỏ lên tới mức cao, tới 38 USD/thùng, mà Mỹ là quốc gia bị ảnh hưởng lớn nhất. Bởi vậy nền kinh tế Mỹ tiếp tục suy yếu là điều dễ hiểu. Trong khi đó biện pháp cắt giảm thấp mức lãi suất của Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) xuống còn 1,25% kéo dài trong các tháng qua vẫn chưa có hiệu ứng rõ rệt. Giới phân tích cho rằng có thể FED phải tính toán với việc tiếp tục cắt giảm lãi suất chủ đạo của mình. Trong khi đó thị trường lại phản ứng quá mức những diễn biến của nó, tức là khi đã có lo ngại của giới đầu tư thì có làn sóng nhiều nhà kinh doanh cùng đổ xô đi bán tháo đồng tiền này và cùng mua vào đồng tiền khác, gây sức ép tâm lý lên quan hệ cung cầu. Euro tăng giá có ảnh hưởng nhất định đến các doanh nghiệp xuất nhập khẩu ở nước ta tuy không nhiều. Bởi vì phần lớn các giao dịch thanh toán xuất nhập khẩu của nước ta sử dụng đồng USD, trong khi đó USD khá ổn định so với VND. Chỉ một bộ phận doanh nghiệp có quan hệ nhập khẩu các mặt hàng: thuốc chữa bệnh, nguyên liệu sản xuất thuốc chữa bệnh, dụng cụ và vật tư y tế, hoá chất... với thị trường khu vực đồng tiền chung Châu Âu, có thanh toán bằng Euro là bị ảnh hưởng. Mức độ ảnh hưởng là tính ra VND giá vật tư hàng hoá nhập khẩu tăng thêm 5% so với đầu năm. Tuy nhiên các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá vào thị trường Châu Âu được thanh toán bằng Euro thì hưởng lợi. Tất nhiên doanh số thanh toán bằng đồng tiền này không nhiều. Việc ảnh hưởng tiếp theo đó là các khoản nợ của Việt Nam được ghi bằng Euro, bao gồm cả nợ của doanh nghiệp và nợ công đều bị ảnh hưởng khi đồng tiền này tăng giá quá cao trong thời gian qua. Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế trong nền kinh tế mở rủi ro tỷ giá là điều khó tránh khỏi không chỉ đối với các doanh nghiệp thương mại mà cả các nhà ngân hàng kinh doanh tiền tệ, bởi vì sự lên giá của đồng tiền này hay mất giá của đồng tiền khác rất khó dự đoán. Ở nước ta để bảo hiểm rủi ro tỷ giá, vừa qua Ngân hàng Nhà nước đã cho phép Eximbank thí điểm thực hiện nghiệp vụ quyền lựa chọn, giúp doanh nghiệp giảm thiểu rủi ro này, trên cơ sở đó có thể mở rộng cho các NHTM khác. Tuy nhiên, chỉ có những NHTM có kinh nghiệm và có mối quan hệ chặt chẽ với đối tác nước ngoài mới dám thực hiện nghiệp vụ quyền lựa chọn ngoại tệ đối với doanh nghiệp. Song giải pháp tối ưu là các doanh nghiệp nên tìm đến các NHTM giàu kinh nghiệm trong kinh doanh hối đoái để được tư vấn về lựa chọn loại ngoại tệ trong từng thời điểm để dự trữ hay thanh toán. Đối với quỹ dự trữ ngoại tệ quốc gia, nhiều nước đã tính đến cả một tỷ lệ nhất định cơ cấu đồng Euro ngay khi nó bắt đầu được lưu hành chưa đầy đủ tư cách pháp lý vào đầu năm 1999. Một số chuyên gia tài chính Châu Âu thời điểm đó cũng khuyên Việt Nam nên làm theo hướng nói trên. Hiện nay NHTW các nước Canada, Trung Quốc, vùng lãnh thổ Đài Loan, đặc khu hành chính Hồng Kông đang hướng tới đồng Euro. Đối với NHTM Nga, tỷ lệ dự trữ đồng Euro đã tăng từ 10-20% trong cơ cấu dự trữ ngoại tệ của nước này và có thể tăng lên trong thời gian tới để hạn chế rủi ro. Theo dự báo của nhiều chuyên gia, đồng Euro có thể chiếm tới 20% tổng lượng dự trữ ngoại tệ toàn cầu, so với mức 10% cách đây 1 năm. Tóm lại, tỷ giá là một vấn đề nhạy cảm và mọi dự đoán có thể không đúng với thực tế. Sự tăng, giảm của tỷ giá hãy để cho chính thị trường trả lời. Mặt khác, trên thực tế không phải NHNN ngồi im để mặc sức thị trường chi phối tỷ giá. Có thể khẳng định rằng, vào thời điểm này, NHNN hoàn toàn đủ khả năng kiểm soát tỷ giá (ngay cả thông qua các công cụ thị trường), nhưng còn cần thiết tuyên truyền rộng rãi để giới kinh doanh và công chúng có nhận thức đúng đắn về diễn biến tỷ giá cũng như những chính sách phản ứng phù hợp với tình hình. II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC QUẢN LÝ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TRONG THỜI GIAN TỚI 1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả công tác quản lý tỷ giá hối đoái 1.1. Một số quan điểm trong lĩnh vực điều hành tỷ giá hối đoái Xuất phát từ tính hai mặt của chính sách tỷ giá và những ảnh hưởng trái ngược nhau của sự thay đổi tỷ giá đến hoạt động kinh tế, đã tồn tại những quan điểm trái ngược nhau về định hướng cho chính sách tỷ giá ở Việt Nam trong giai đoạn tới. Quan điểm thứ nhất: Những người theo quan điểm này cho rằng phải bằng mọi biện pháp kinh tế và phi kinh tế ổn định bằng cách “đông cứng” tỷ giá đồng nội tệ, thậm chí nên đánh giá cao đồng nội tệ, tạo động lực cho sự ổn định về kinh tế, giảm rủi ro cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo sức hấp dẫn thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, khuyến khích nhập khẩu máy móc thiết bị và các công nghệ tiên tiến phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tránh nguy cơ tụt hậu của nền kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Quan điểm này đã được nhiều nhà kinh tế, nhà quản lý ủng hộ và cũng đã được áp dụng thành công trong một thời gian nhất định ở nước ta. Nhưng hiện nay quan điểm này cũng cần phải được nhìn nhận lại một cách đúng mức. Cần phải nhận thấy rằng, sự ổn định và quá trình lên giá của đồng nội tệ là kết quả của quá trình tăng trưởng kinh tế năng động và vững mạnh chứ không phải sự lên giá đó là nguyên nhân của sự phát triển kinh tế. Tuy rằng, ở đây có sự tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau, nhưng có lẽ sai lầm lại chính là ở chỗ thực hiện không linh hoạt. Việc ổn định tỷ giá chỉ tỏ ra phù hợp trong một khoảng thời gian nhất định, khi thời gian thay đổi, các yếu tố của thị trường thay đổi thì cũng cần phải có những biện pháp phù hợp hơn với điều kiện mới. Về lâu dài, nếu cứ giữ mãi quan điểm và thực hiện cứng nhắc những biện pháp đó thì có thể sẽ phải trả giá đắt bằng một nền kinh tế trì trệ và những hậu quả khó lường khác cho nền kinh tế. Việc quản lý ngoại hối và điều chỉnh tỷ giá là một quá trình biến đổi theo thời gian, không gian và tuỳ từng điều kiện cụ thể. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ bùng nổ ở Thái Lan ngày 2/7/1997, kết thúc thời kỳ tăng trưởng như vũ bão không chỉ của đất nước này mà của cả 5 “con rồng” Châu Á là một thực tế chứng minh hùng hồn cho những thành công và thất bại của quan điểm này. Quan điểm thứ hai: Một số nhà kinh tế lại phủ nhận hoàn toàn quan điểm trên và cho rằng trong năm 1997, đồng USD đang lên giá so với các đồng tiền khác, kể cả những đồng tiền được xem là mạnh và có giá trị chuyển đổi đầy đủ như DEM (14,9%), JPY (30,9%), FRF (13,6%)... trong khi đó đồng tiền của các nước Đông Nam Á, nơi có những mối quan hệ thương mại chặt chẽ với Việt Nam lại đang bị phá giá một cách “không thương tiếc”. Nếu chúng ta giữ cố định đồng Việt Nam, thậm chí phá giá với mức thấp hơn các nước Đông Nam Á¸ khác đã làm thì sẽ làm cho hàng hoá, dịch vụ sản xuất ở trong nước có giá cao hơn tương đối so với các nước trong khu vực, làm giảm sức hấp dẫn của môi trường đầu tư trong nước. Do vậy, để tìm lại lợi thế cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ, làm lành mạnh môi trường đầu tư trong nước đối với các nhà đầu tư nước ngoài thì nhất thiết phải phá giá đồng Việt Nam ở mức cao hơn các nước đã làm để có thể tạo được và sử dụng lợi thế so sánh do tỷ giá đem lại, góp phần tăng cường xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, củng cố lượng dự trữ ngoại tệ của đất nước, kích thích sản xuất phát triển theo hướng sản xuất hàng xuất khẩu, cụ thể: Thứ nhất, xuất khẩu có nhiều điều kiện để phát triển. Trước mắt chúng ta chưa thể tăng nhanh xuất khẩu, do trình độ sản xuất của các doanh nghiệp nước ta còn hạn chế, chất lượng và mẫu mã các sản phẩm chưa cao, khả năng tiếp thị và kiến thức kinh doanh còn hạn chế, nhưng về lâu dài, một mức tỷ giá đủ cao sẽ khuyến khích được nhiều doanh nghiệp mạnh dạn chuyển sang sản xuất hàng xuất khẩu khi mà lợi nhuận của hoạt động xuất khẩu đủ sức hấp dẫn họ. Chỉ khi đó chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang hướng xuất khẩu mới diễn ra nhanh và có hiệu quả. Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy sau khi phá giá đồng nhân dân tệ từ 5,2 NDT/USD lên 8,3 NDT/USD xuất khẩu của nước này đã có sự phát triển mạnh, tốc độ tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức cao. Thứ hai, hạn chế được nhập khẩu tràn lan, giảm thâm hụt cán cân thương mại; hạn chế sự cạnh tranh của hàng ngoại với hàng sản xuất trong nước; hạn chế việc nhập khẩu các nguyên liệu, phụ liệu sản xuất mà trong nước có thể thay thế được. Thứ ba, nâng cao được trách nhiệm và hiệu quả sử dụng ngoại tệ của những nhà nhập khẩu khi nhập khẩu hàng hoá. Khi nhập khẩu đắt, các nhà nhập khẩu phải tính toán và cố gắng tránh nhập những mặt hàng không hoặc chưa cần thiết hay phải tìm phương án gắn nhập khẩu với xuất khẩu, do vậy sẽ tiết kiệm được ngoại tệ dùng để nhập khẩu hàng hoá. Tuy nhiên, trong thời điểm hiện nay việc phá giá đồng nội tệ có thể gây nên những hậu quả khó lường như: - Việc đồng Việt Nam bị giảm giá một cách đột ngột sẽ tạo ra một cú sốc làm mất đi sự tin cậy của dân chúng vào đồng nội tệ, gây nên tâm lý “trốn chạy” khỏi đồng Việt Nam và việc chuyển dịch đồng loạt từ VND sang USD của các chủ tài sản sẽ xảy ra, cầu về USD tăng lên đồng nghĩa với việc VND càng bị giảm giá mạnh. - Phá giá đồng Việt Nam sẽ làm tăng chi phí đối với hàng nhập khẩu. Trong khi Việt Nam là một nước có hàm lượng nhập khẩu trong sản xuất và sự phụ thuộc của sản xuất vào nhập khẩu máy móc thiết bị và hàng hoá trung gian rất cao, nên việc tăng chi phí đầu vào sẽ làm tăng giá thành sản phẩm và tất yếu sẽ dẫn đến sự suy giảm sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam trên trường quốc tế. - Ngoài ra, tỷ giá tăng vọt sẽ làm tăng gánh nặng nợ nần của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Như vậy, không phải cứ phá giá đồng bản tệ là xuất khẩu sẽ tăng trưởng mạnh như lý thuyết đã chỉ ra. Biện pháp này chỉ thành công khi chính phủ của nước có đồng tiền phá giá có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, dự trữ ngoại hối dồi dào, có một lực lượng hàng xuất khẩu hùng hậu với khả năng cạnh tranh cao và điều quan trọng là đảm bảo được yếu tố bí mật, bất ngờ... Việc nhấn mạnh một chiều các lợi ích do giá trị nội tệ quá cao hoặc quá thấp mang lại, cũng như quá đề cao vai trò biện pháp phá giá là chỉ tính đến những lợi ích ngắn hạn thậm chí còn là một cách nhìn phiến diện, mang đậm tính lý thuyết. Tăng trưởng xuất khẩu là do nhiều nguyên nhân, không thể chỉ dựa riêng vào tỷ giá hối đoái. Điều quan trọng là chúng ta phải nâng cao năng lực sản xuất của nền kinh tế; cải thiện chất lượng, mẫu mã hàng; tăng cường quảng cáo, tiếp thị quốc tế. Nếu công việc này được thực hiện tốt thì hàng xuất khẩu của ta sẽ tăng lợi thế cạnh tranh và khi đó, công cụ tỷ giá mới có thể thực sự phát huy tác dụng trong việc khuyến khích hoạt động xuất khẩu một cách hiệu quả. 1.2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả công tác quản lý tỷ giá hối đoái của Việt Nam trong thời gian tới Tỷ giá hối đoái là một khâu xung yếu, là cầu nối quan trọng để một nền kinh tế hội nhập với nền kinh tế thế giới. Có một chính sách tỷ giá đúng đắn sẽ góp phần quan trọng trong việc ổn định nền kinh tế vĩ mô, thúc đẩy sản xuất phát triển. Trong những năm qua, đặc biệt là trong những năm đổi mới, chính sách điều hành tỷ giá của chúng ta đã đạt được nhiều thành công đáng khích lệ, góp phần ổn định nền kinh tế vĩ mô, đảm bảo tăng trưởng cao ổn định, thu hút mạnh nguồn vốn đầu tư nước ngoài, tạo được lòng tin đối với các nhà đầu tư, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, lạm phát được duy trì ở mức ổn định trong phạm vi cho phép. Tuy nhiên, trên con đường phát triển của tỷ giá hối đoái trong những năm qua, Việt Nam cũng không thể tránh khỏi những vấp ngã, những tồn tại trong các cơ chế điều hành ở tầm vi mô như xuất nhập khẩu, vay trả nợ nước ngoài, ngân sách... những vấn đề này sẽ gây khó khăn cho khả năng duy trì một cơ chế tỷ giá hối đoái phù hợp và bền vững. Ngoài ra, những yếu tố bao cấp trong chính các cơ chế, chính sách này là các nguy cơ phương hại hay thậm chí làm phá vỡ những nguyên tắc điều hành tỷ giá hối đoái theo phương châm linh hoạt phù hợp với tình hình trong nước và quốc tế, khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu và tăng dự trữ ngoại tệ. Trong thời gian gần đây vấn đề tỷ giá lại được nhiều nhà kinh tế nhắc đến như một rào cản hoạt động xuất khẩu. Nhiều ý kiến cho rằng mức tỷ giá hiện nay là chưa phù hợp với giá trị thực tế của đồng tiền Việt Nam, đồng tiền Việt Nam được định giá cao so với giá trị thực của nó, do vậy kìm hãm xuất khẩu hàng hoá ra thị trường quốc tế, gây sự ứ đọng hàng hoá trong thị trường nội địa. 2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý tỷ giá hối đoái của Việt Nam trong thời gian tới nước 2.1. Tiếp tục duy trì chế độ tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của Nhà Để xây dựng một chế độ tỷ giá hợp lý ở Việt Nam trong điều kiện cụ thể hiện nay, chính sách tỷ giá cần theo những định hướng sau: - Về chiến lược dài hạn, phải áp dụng tỷ giá thả nổi vì chế độ tỷ giá này phù hợp với quy luật cung cầu ngoại tệ, xu hướng toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế và khu vực, mà Việt Nam là một thành viên. - Về chiến lược ngắn hạn, cần áp dụng tỷ giá thả nổi có điều tiết của Nhà nước, vì những điều kiện để áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi chưa xuất hiện đầy đủ, trong đó có các yếu tố sau: +/ Các doanh nghiệp chưa thích ứng với sự biến động thường xuyên của thị trường, năng lực quản trị tài chính chưa tốt. +/ Hệ thống ngân hàng Việt Nam đang trong quá trình đổi mới còn nhiều yếu kém. +/ Thị trường hối đoái đang còn giai đoạn sơ khai, dự trữ ngoại tệ của Nhà nước còn thấp. +/ NHNN chưa có sự phối hợp chặt chẽ các chính sách và các biện pháp điều hoà cung ứng tiền tệ trong nước; các cá nhân, tổ chức thanh toán qua ngân hàng còn ở mức độ thấp. +/ Việc điều chỉnh tỷ giá đúng đắn và có hiệu quả của NHNN còn phụ thuộc rất lớn vào chính sách huy động và sử dụng vốn, nhất là vốn nước ngoài. Trong những năm tới, luồng vốn ngoại tệ chảy vào trong nước thông qua nhiều kênh ngày một nhiều, nguồn cung ngoại tệ ngày một lớn. Nếu Việt Nam không có biện pháp quản lý, phân bổ sử dụng các nguồn vốn đó một cách có hiệu quả thì về lâu dài, nguy cơ gánh nặng công nợ ngày một lớn đè nặng lên vai các thế hệ con cháu chúng ta. Ngoài ra, đồng Việt Nam về danh nghĩa không gắn vào USD, nhưng trên thực tế, các đơn vị xuất nhập khẩu của ta đều có thói quen thanh toán bằng USD. Tình trạng đô la hoá còn quá nặng trong nền kinh tế Việt Nam, nên hầu như tỷ giá VND từ sau khi thống nhất đất nước đến nay đều bị gắn chặt với USD. Từ những lý do nêu trên, trong một vài năm trước mắt, Việt Nam chỉ nên thực hiện chính sách thả nổi có sự điều tiết của Nhà nước, có nghĩa là, chính sách tỷ giá vừa phải dựa trên cơ sở quan hệ cung cầu của ngoại tệ để kích thích xuất nhập khẩu, đồng thời Nhà nước cần phải quản lý chặt chẽ các nguồn ngoại tệ, để đưa vào sử dụng cho các cân đối thực tế, chống lại việc sử dụng ngoại tệ lãng phí hoặc không quản lý được các nguồn ngoại tệ. Hiện nay, chính sách tiền tệ của Việt Nam được hoạch định với mức lạm phát hàng năm là một chữ số (dưới 10%), và xu hướng chung hiện nay là tỷ giá của VND phải được ổn định một cách tương đối (có sự phá giá nhẹ theo thời gian hay còn gọi là biện pháp lạm phát nhẹ). Do vậy, tỷ giá của VND cũng không thể duy trì ở mức ổn định hoàn toàn như trong giai đoạn 1993 – 1998, hay nói cách khác, sức mua của VND so với ngoại tệ cũng phải giảm đi tương đối và phải gắn với tỷ lệ lạm phát, thậm chí trong trường hợp thiểu phát, chỉ số giá cả không tăng hoặc âm thì cũng phải duy trì một mức phá giá nhẹ để kích thích xuất khẩu. Tuy nhiên, trong trường hợp này, cần phải so sánh, xem xét một cách thận trọng: Khả năng xuất khẩu có thể tăng trưởng hay không? Lợi ích do việc phá giá mang lại có đủ bù đắp những chi phí do hậu quả phá giá hay không? Chế độ tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của Nhà nước phải được giảm dần theo thời gian, để tiến tới áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn, vì vậy: - Giai đoạn từ nay đến năm 2003, áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của Nhà nước như hiện nay, với biên độ cho phép là 10%. - Sau năm 2003 đến năm 2005, có thể mở rộng biên độ đó lên 50%. - Sau 2005, Nhà nước không ấn định tỷ giá mà chỉ can thiệp vào thị trường ngoại hối, thông qua việc thiết lập và sử dụng Quỹ dự trữ ngoại tệ quốc gia. 2.2. Thực hiện chính sách đa ngoại tệ Hiện nay, trên thị trường ngoại tệ, mặc dù USD có vị thế mạnh hơn hẳn các ngoại tệ khác, song nếu trong quan hệ tỷ giá chỉ áp dụng một loại ngoại tệ duy nhất sẽ làm cho tỷ giá bị ràng buộc vào ngoại tệ đó, cụ thể là USD. Khi có sự biến động về giá cả của USD trên thế giới, lập tức sẽ ảnh hưởng đến quan hệ tỷ giá giữa USD và VND, mà thông thường là những ảnh hưởng rất bất lợi. Hiện nay, có nhiều loại ngoại tệ có giá trị thanh toán quốc tế như EURO (EMU), JPY (Nhật), CAD (Canada), GBP (Bảng Anh)... Điều này tạo điều kiện cho ta có thể thực hiện chính sách đa ngoại tệ trong thanh toán quốc tế, từ đó ta có thể chọn những ngoại tệ tương đối ít biến động về tỷ giá hoặc có quan hệ mua bán lớn để thực hiện các khoản thanh toán. Ví dụ EURO là một loại ngoại tệ tuy mới xuất hiện, nhưng đã có vị trí quan trọng, trước hết nó có một thị trường lớn với khoảng 300 triệu dân, có giao dịch xuất nhập khẩu với nước ta tương đối nhiều hơn so với các thị phần khác. Do đó, trong quan hệ với thị trường Châu Âu, ta có thể sử dụng EURO như một loại ngoại tệ có quan hệ chủ yếu, nhằm giảm bớt ràng buộc đối với USD. Theo ý kiến cá nhân tôi, chúng ta nên lựa chọn những ngoại tệ mạnh để sử dụng trong thanh toán và dự trữ, bao gồm một số đồng tiền của những nước mà chúng ta có quan hệ thanh toán, thương mại và có quan hệ đối ngoại chặt chẽ nhất, để làm cơ sở cho việc điều chỉnh tỷ giá của VND. Việc lựa chọn những đồng tiền nào đưa vào “cụm tiền tệ”, kỹ thuật tính toán các yếu tố cần thiết để hình thành “cụm tiền tệ”, trở thành cơ sở cho việc điều chỉnh tỷ giá, chúng ta có thể dựa vào kinh nghiệm của IMF khi hình thành đồng SDR, hay của EMU khi hình thành đồng EURO. Phương pháp tính tỷ giá của các đồng tiền tập thể này đều giống nhau, chỉ khác nhau ở số lượng, cơ cấu và tỷ trọng những đồng tiền được chọn đưa vào cụm tiền tệ. Điều quan trọng là làm sao xác định được tỷ giá danh nghĩa tương ứng với một tỷ giá thực của VND trong thời gian tới cho phù hợp với khả năng cạnh tranh thực tế của hàng hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế và nhất là sau khi ta đã gia nhập khối ASEAN, AFTA, APEC và tiến tới là WTO. 2.3. Hoàn thiện chính sách lãi suất, đảm bảo xử lý tốt mối quan hệ giữa hai công cụ là lãi suất và tỷ giá Lãi suất và tỷ giá là hai công cụ cơ bản của chính sách tiền tệ và giữa chúng có mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ với nhau. Sự thay đổi của yếu tố này tất yếu sẽ ảnh hưởng đến yếu tố kia và ngược lại. Mặc dù có mối quan hệ chặt chẽ như vậy nhưng lãi suất và tỷ giá lại vận động nhằm đồng thời vào nhiều mục tiêu khác nhau, trong đó không ít mục tiêu có tác động ngược chiều nhau. Do vậy, việc phối hợp điều hành cả hai công cụ này nhằm thực hiện những mục tiêu chung của chính sách tiền tệ là không đơn giản. Trước xu hướng hội nhập quốc tế thì việc điều hành lãi suất, tỷ giá cần được thực hiện linh hoạt theo hướng tiến tới mục tiêu tự do hoá. Việc điều hành lãi suất cần gắn liền với điều chỉnh tỷ giá. Riêng đối với tỷ giá, thay cho việc gắn đồng Việt Nam với đồng USD, tỷ giá chính thức nên được gắn với rổ tiền tệ( gồm USD và các đồng tiền của các bạn hàng lớn như Nhật, NIE, khối EU và các nước trong trong khu vực ). Hơn nữa, NHNN cần có các biện pháp tiếp tục phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng để tỷ giá thực sự do các lực lượng thị trường quyết định. Đối với cơ chế điều hành lãi suất, NHNN có thể xem xét điều chỉnh linh hoạt lãi suất cơ bản và biên độ lãi suất cho vay, làm cho lãi suất cơ bản thực sự đóng vai trò là tín hiệu để điều tiết lãi suất thị trường, tiến tới quy định thống nhất một mức biên độ lãi suất cho vay áp dụng chung cho các kỳ hạn, cuối cùng bỏ quy định biên độ, cho phép các tổ chức tín dụng tự ấn định lãi suất huy động và cho vay theo các nguyên tắc thị trường. Nếu như trước đây, NHNN phải dùng “mệnh lệnh hành chính” để tăng – giảm lãi suất, tỷ giá, tăng giảm lượng cung tiền tệ trên thị trường... thì nay, với việc hoàn thiện một bước các công cụ của chính sách tiền tệ, NHNN dựa vào tín hiệu thị trường điều hành chính sách tiền tệ. Đây là bước tiến căn bản của NHNN trong quản lý thông qua các công cụ điều hành chính sách tiền tệ theo cơ chế thị trường. Tuy nhiên, qua việc điều hành lãi suất theo lãi suất cơ bản đối với VND và thả nổi lãi suất ngoại tệ; điều chỉnh linh hoạt tỷ lệ dự trữ bắt buộc; điều hành chính sách tỷ giá... dù chưa hoàn hảo cũng cho thấy các công cụ chính sách tiền tệ đã phát huy tác dụng, đưa lại hiệu quả cho nền kinh tế. Thời gian tới, căn cứ vào diễn biến của thị trường tiền tệ thế giới và tình hình kinh tế các nước, việc điều hành qua công cụ chính sách tiền tệ cần được hoàn thiện và linh hoạt hơn, nhất là về lãi suất, tỷ giá... đảm bảo thực hiện tốt chính sách tiền tệ. 2.4. Hoàn thiện chính sách tỷ giá hối đoái trên cơ sở kết hợp đồng bộ với các chính sách quản lý vĩ mô khác của Nhà nước. Chính sách tỷ giá của Việt Nam được xác định là một bộ phận của chính sách tiền tệ và có nhiệm vụ đảm bảo ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát, góp phần tăng trưởng kinh tế ở mức độ cao, bền vững. Với tư cách là một chính sách nên tỷ giá phải hướng vào thực hiện những mục tiêu đặc thù của mình: - Ổn định tỷ giá dựa trên mối tương quan cung cầu trên thị trường để khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và tăng dự trữ ngoại tệ. - Từng bước nâng cao uy tín đồng Việt Nam, đồng thời tạo ra các điều kiện cần thiết để đồng tiền Việt Nam trở thành đồng tiền chuyển đổi. - Phối hợp chặt chẽ với chính sách quản lý ngoại hối để khắc phục tình trạng đô la hoá trong nền kinh tế. Từ các mục tiêu trên đòi hỏi chính sách tỷ giá phải được xây dựng dựa trên các quan điểm: +/ Chính sách tỷ giá phải hướng vào xử lý và điều hành tỷ giá theo đúng bản chất vốn có của nó – là một cơ chế thị trường. Một khi đã xem ngoại tệ là một hàng hoá đặc biệt thì tỷ giá với tư cách là giá cả hàng hoá đặc biệt cũng phải vận hành theo quy luật của giá cả thị trường, việc điều chỉnh tỷ giá phải dựa vào quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường và các nhân tố tác động đến nó. Theo quy luật của giá cả, trong quá trình vận động, tỷ giá cũng có thể hoàn toàn tách rời giá trị của đồng tiền, nhưng vì tỷ giá là một trong những vấn đề trung tâm và nhạy cảm nhất của đời sống kinh tế xã hội nên nếu sự tách rời đó vượt quá biên độ cho phép thì lập tức tác động đến các loại giá cả khác trên thị trường bao gồm thị trường hàng hoá tiêu dùng, thị trường tín dụng, thị trường ngoại hối... Nói cách khác, một sự bất ổn của tỷ giá chắc chắn gây ra nhiều tai hại cho nền kinh tế. +/ Chính sách tỷ giá phải hỗ trợ tốt nhất cho chính sách khuyến khích xuất khẩu để cải thiện cán cân thanh toán, tăng dự trữ ngoại tệ. Vì tỷ giá là trọng tâm đối với sự vận hành của nền kinh tế thị trường mở cửa và có ảnh hưởng rộng khắp đến khả năng cạnh tranh với bên ngoài, đến tình trạng cán cân thanh toán và mức dự trữ ngoại tệ quốc gia. Một sự thiếu hụt cán cân thanh toán do tỷ giá gây ra chắc chắn sẽ kéo theo sự bất ổn của tiền tệ và làm giảm mạnh lượng dự trữ ngoại tệ quốc gia. Tất cả sẽ tạo thành vòng xoáy cuốn nền kinh tế vào cuộc khủng hoảng tài chính. +/Chính sách tỷ giá không được tách rời sự quản lý của Nhà nước. Bởi vì, trong bối cảnh quốc tế hoá và toàn cầu hoá ngày càng gia tăng, sự vận hành của tỷ giá phải nằm trong sự quản lý của nhà nước – tỷ giá thả nổi có sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước phải biết huy động sức mạnh quốc tế để phát triển kinh tế, đồng thời phải có kinh nghiệm nhìn xa trông rộng, tìm cách tiếp cận, điều chỉnh tỷ giá linh hoạt kịp thời theo những biến động trong và ngoài nước sao cho giữ được tỷ giá trong mối quan hệ hài hoà với lãi suất, dự trữ ngoại tệ, cán cân thanh toán, tăng trưởng kinh tế, thâm hụt ngân sách và duy trì chúng theo hướng tích cực. Chính sách tỷ giá của Nhà nước Việt Nam hiện nay về cơ bản là phù hợp với điều kiện cụ thể của nền kinh tế Việt Nam và tình hình tiền tệ thế giới. Việc Nhà nước Việt Nam lựa chọn chế độ tỷ giá thả nổi có sự quản lý của nhà nước là hoàn toàn hợp lý. Tuy nhiên, hiện nay chúng ta chưa có một chính sách tỷ giá có tính chiến lược, yếu kém nhất là chưa xác định được mục tiêu chủ yếu, cụ thể của chính sách tỷ giá và mục tiêu này phải gắn với mục tiêu của chính sách tiền tệ nói riêng và chính sách phát triển kinh tế nói chung. Vì vậy, chúng ta vẫn chưa xác định được giới hạn can thiệp của NHNN vào thị trường ngoại hối, hay nói rõ hơn là chưa xác định được tỷ giá mục tiêu hợp lý cho từng thời kỳ phát triển kinh tế để có chiến lược điều hành cụ thể. Thực tế cho thấy quá trình điều chỉnh tỷ giá hối đoái của Việt Nam thời gian qua hầu như mang tính tình thế chứ chưa được nghiên cứu đầy đủ ở tầm chiến lược lâu dài. 2.5. Hoàn thiện cơ chế quản lý thị trường ngoại hối theo định hướng của nền kinh tế thị trường Thời gian qua, các biện pháp quản lý ngoại hối nghiêm ngặt của chính phủ Việt Nam đã góp phần đáng kể vào sự bình ổn của cung cầu ngoại tệ và tỷ giá hối đoái. Nhưng đây chỉ là những biện pháp quản lý hành chính, mang tính áp đặt. Như chúng ta đã biết, những biện pháp quản lý hành chính thường có hiệu lực tức thời nhưng lại chỉ có hiệu quả trong một khoảng thời gian nhất định (thường là tương đối ngắn) và chỉ khi nó được thực thi một cách linh hoạt. Nhưng, tính năng động và tính linh hoạt thường đi đôi với việc tuỳ tiện trong thực hiện và là nguyên nhân của những quan liêu, tiêu cực làm cho những biện pháp hành chính thường có hiệu quả không cao, thậm chí có lúc còn gây cản trở khó khăn cho những nhà kinh doanh chân chính, phương hại đến môi trường đầu tư trong nước. Ở Việt Nam, quy định buộc các tổ chức kinh tế có nguồn thu vãng lai phải bán ngay 40% số ngoại tệ thu được cho ngân hàng trong thời điểm cung cầu ngoại tệ đã tương đối ổn định là chặt chẽ. Nếu Nhà nước không nới lỏng những quy định này sẽ không khuyến khích các nhà xuất khẩu. Ngoài ra, các nhà đầu tư nước ngoài hiện đang hoạt động ở Việt Nam sẽ tìm cách tránh quy chế này bằng cách mang ít hơn lượng ngoại tệ mà họ nhận được vào Việt Nam. Điều này sẽ làm tăng chi phí giao dịch trong xuất khẩu và giảm bớt cân đối ngoại tệ của các doanh nghiệp trong nước, đồng thời cũng có ảnh hưởng tiêu cực làm giảm luồng ngoại tệ vào đất nước. Từ những phân tích trên cho thấy rằng, để thực hiện được những mục tiêu của chính sách tỷ giá hối đoái, việc Nhà nước áp dụng các biện pháp quản lý hành chính về ngoại hối là rất cần thiết. Nhưng, đây chỉ là những biện pháp tình thế, tức thời nên chỉ được áp dụng trong một khoảng thời gian nhất định khi tồn tại những điều kiện nhất định. Về lâu dài, cơ chế quản lý thị trường ngoại hối phải được xây dựng theo định hướng của nền kinh tế thị trường, tức là phải hạn chế dần tiến tới xoá bỏ các biện pháp can thiệp trực tiếp, mang nặng tính chất hành chính để thay thế bằng việc sử dụng các công cụ can thiệp gián tiếp của thị trường. Đây cũng là đòi hỏi khách quan của nền kinh tế Việt Nam trong quá trình chuyển đổi theo cơ chế thị trường, mở rộng quan hệ hợp tác hội nhập với khu vực và thế giới. Một cơ chế quản lý thị trường ngoại hối phù hợp sẽ có tác dụng khơi thông các nguồn ngoại tệ, thúc đẩy quá trình lưu thông một cách lành mạnh và điều đó có vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái. 2.6. Nâng cao hiệu quả quản lý dự trữ ngoại hối của NHNN Dự trữ ngoại hối có một vị trí quan trọng trong đảm bảo ổn định tài chính, tiền tệ nói riêng và ổn định kinh tế vĩ mô nói chung và là một yếu tố quan trọng trong chỉ số tín nhiệm quốc tế của một quốc gia. Mỗi quốc gia, mà cụ thể là mỗi NHTW cần duy trì một quỹ dự trữ ngoại hối tối ưu nhất, bao gồm mức dự trữ ngoại hối và cơ cấu dự trữ ngoại hối phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ, chính sách kinh tế, tiềm lực kinh tế của mỗi quốc gia, trong điều kiện thị trường tài chính quốc tế luôn diễn biến phức tạp. Đây cũng chính là tiêu thức để đánh giá hiệu quả quản lý dự trữ ngoại hối của một NHTW. Sở dĩ cần phải xác định “mức dự trữ ngoại hối hợp lý” hay “mức dự trữ ngoại hối tối ưu” vì khi NHNN duy trì dự trữ ngoại hối tức là phải từ bỏ việc dùng ngoại hối cho các nhu cầu khác và do vậy phải mất một loại chi phí là chi phí cơ hội. Việc xác định được “mức dự trữ ngoại hối tối ưu” giúp cho NHNN vẫn có thể sử dụng công cụ này một cách hữu hiệu nhưng với chi phí cơ hội nhỏ nhất. Dự trữ ngoại hối của NHNN nhằm 3 mục đích: nhu cầu giao dịch, dự phòng can thiệp và tích trữ tài sản, trong đó mục đích can thiệp vào thị trường ngoại hối được coi là mục đích quan trọng nhất của việc duy trì dự trữ ngoại hối. Một lượng dự trữ ngoại hối đủ mạnh là công cụ quan trọng để NHNN có thể can thiệp, điều tiết, duy trì tỷ giá hối đoái ở mức nhất định theo mục tiêu quản lý tỷ giá hối đoái ngắn hạn và mục tiêu quản lý tỷ giá trung – dài hạn. Với cơ chế tỷ giá hối đoái của Việt Nam hiện nay, việc có một lượng dự trữ ngoại tệ hùng hậu là yếu tố vô cùng quan trọng cho phép NHNN có thể can thiệp, điều tiết tỷ giá hối đoái theo mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Nhưng, với thực trạng nền kinh tế Việt Nam hiện nay: dự trữ ngoại tệ ngày càng giảm sút trong lúc nợ nước ngoài ngày càng gia tăng, nhu cầu nhập khẩu máy móc thiết bị với công nghệ hiện đại phục vụ công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước ngày càng lớn, việc tăng cường lượng dự trữ ngoại tệ trước mắt còn rất nhiều khó khăn. Trong khi đó, vai trò can thiệp điều tiết của NHNN nhằm thực hiện những mục tiêu của chính sách tỷ giá hối đoái cũng như chính sách tiền tệ phục vụ công cuộc xây dựng và phát triển đất nước hiện nay là rất lớn. Với một nguồn dự trữ ngoại tệ còn mỏng manh như vậy, để thực hiện trọng trách của NHNN, không những cần phải nhanh chóng tăng cường dự trữ ngoại hối mà vấn đề đặt ra trước mắt là phải nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng quỹ này để hoạt động điều tiết của NHNN được thực hiện kịp thời, linh hoạt và mang lại hiệu quả cao. KẾT LUẬN Có thể nói rằng, tỷ giá hối đoái là một phạm trù kinh tế rất phức tạp và rất nhạy cảm. Một chính sách tỷ giá phù hợp với nền kinh tế sẽ trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự tăng trưởng, nhưng ngược lại một chính sách tỷ giá không phù hợp sẽ trở thành lực cản và thậm chí còn có thể gây nên những hậu quả khó lường. Vì vậy, việc xây dựng chính sách tỷ giá hối đoái như thế nào để có thể thực hiện được những mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước là vấn đề mà các quốc gia trên thế giới đều quan tâm. Là một nước mới chuyển sang nền kinh tế thị trường như Việt Nam thì vấn đề quản lý tỷ giá ít nhiều cũng còn khá mới mẻ đối với chúng ta. Tuy nhiên, với những kết quả đạt được sau hơn 10 năm đổi mới, có thể khẳng định rằng chính sách tỷ giá của Việt Nam đã từng bước được điều chỉnh để phù hợp với các giai đoạn phát triển của đất nước. Điều này thể hiện những nỗ lực quan trọng của chính phủ trong việc đổi mới và hoàn thiện chính sách kinh tế vĩ mô nói chung và chính sách điều hành tỷ giá nói riêng. Mặc dù vậy, chính sách tỷ giá vẫn cần được cải cách hơn nữa, đặc biệt khi thời gian thực hiện AFTA đang tới gần để chúng ta không bị thiệt hại khi tham gia hội nhập quốc tế mà trái lại, luôn ở vào thế có lợi trong tiến trình này. Ngoài ra, những diễn biến phức tạp của tình hình quốc tế và khu vực đòi hỏi chúng ta phải đẩy mạnh công cuộc đổi mới, nâng cao năng lực sản xuất trong nước – hướng vào xuất khẩu – thay thế nhập khẩu các mặt hàng trong nước sản xuất có hiệu quả trên cơ sở dựa vào sức mình là chính. Với bài viết này, em hy vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ của mình cho việc nghiên cứu, đánh giá việc điều hành tỷ giá của NHTW và giải pháp hoàn thiện chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam trong thời gian tới. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình Thanh Toán Quốc Tế trong Ngoại Thương, PGS Đinh Xuân Trình, nhà xuất bản Giáo dục, Trường Đại học Ngoại Thương, Hà Nội - 1998 2. Tài chính quốc tế hiện đại trong nền kinh tế mở, Tiến sĩ Nguyễn Văn Tiến, nhà xuất bản Thống kê - 2001 3. Tài chính quốc tế, Chủ biên: PTS Nguyễn Ngọc Định, nhà xuất bản Tài chính -1999 Nam 4. Các văn bản pháp luật về quản lý ngoại hối của NHNN Việt 5. Tài liệu báo, tạp chí: - Một số biện pháp điều hành tỷ giá và thị trường ngoại hối ở nước ta, Phạm Văn Bốn, Tạp chí Ngân hàng số 12 tháng 6/1998 - Điều hành tỷ giá hối đoái ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, T.s Nguyễn Thị Thuý Vân, Tạp chí phát triển kinh tế số tháng 7/1998 - Bàn về lựa chọn một cơ chế tỷ giá phù hợp, Lê Văn Hinh, Tạp chí Ngân hàng tháng 2/1999 - Về điều hành công cụ tỷ giá trong giai đoạn hiện nay, PGS. PTS. Dương Thị Bình Minh, Tạp chí Ngân hàng số 6 tháng 3/1999 - Bàn về dự trữ ngoại hối Nhà nước, Nguyễn Tuấn Quỳnh, Tạp chí Ngân hàng số 8 tháng 4/1999 - Hoàn thiện chính sách tỷ giá hối đoái vì sự ổn định nền tiền tệ phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế ở nước ta, Lâm Hoàng, Thị trường tài chính tiền tệ số 5/1999 - Tiến tới chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt và phù hợp hơn, Mai Hương, Tạp chí Ngân hàng số 8 năm 2001 - Bàn về định hướng chính sách tỷ giá của Việt Nam trong giai đoạn trung và dài hạn, Nguyễn Thị Thuý Vân, Tạp chí Ngân hàng số 8 năm 2001 - Cơ chế điều hành tỷ giá cần linh hoạt hơn, Th.s Tô Kim Ngọc, Tạp chí Ngân hàng số 10 năm 2001 - Tỷ giá hối đoái USD/VND thời gian gần đây – diễn biến, nguyên nhân và các giải pháp khắc phục, Nguyễn Văn Lộc, Tạp chí Ngân hàng số 10 năm 2001 - Những diễn biến mới trên thị trường ngoại tệ quý I/2001, Thuỳ Dương, Thị trường tài chính tiền tệ tháng 4/2001 - Nhìn lại hoạt động của thị trường ngoại tệ năm 2000, Trần Sĩ Mạnh, Thị trường tài chính tiền tệ tháng 4/2001 - Đổi mới điều hành chính sách tiền tệ trong tiến trình phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam, Nguyễn Đồng Tiến, Thị trường tài chính tiền tệ tháng 5/2001 - Thị trường tài chính tiền tệ thế giới 6 tháng đầu năm 2001, Nguyễn Thị Hải Bình, Thị trường tài chính tiền tệ tháng 8/2001 - Để công cụ điều hành chính sách tiền tệ của NHNN phát huy hiệu quả, Nguyễn Minh Đức, Thị trường tài chính tiền tệ tháng 8/2001 - Thị trường ngoại tệ 6 tháng đầu năm 2001, Thanh Bích – Minh Đức, Thị trường tài chính tiền tệ tháng 8/2001 - Một số vấn đề về tỷ giá hối đoái và phá giá đồng nội tệ, Lê Xuân Hiếu, Tạp chí Tài chính tháng 7/2001 - Nhìn nhận về biến động tỷ giá USD tại Việt Nam trong thời gian qua, Nguyễn Thanh Hà, Tạp chí Tài chính tháng 9/2002 - Bàn về chính sách tỷ giá ở Việt Nam hiện nay, Ts. Lê Quốc Lý & Đặng Đức Anh, Kinh tế và Dự báo số 6/2002 - Nghịch lý trên thị trường tiền tệ, Nguyễn Đức, Thời báo Kinh tế Việt Nam số 152 ra ngày 20/12/2002 - Một năm thành công của chính sách tiền tệ, Nguyễn Đắc Hưng, Kinh tế 2002 - 2003 - Euro tăng giá so với USD, Nguyễn Đức, Thời báo Kinh tế Việt Nam số 43 ra ngày 15/3/2003 - Ngoại tệ đổi chiều, ai lợi?, Minh Nhung, Tài chính và Ngân hàng số 35 ra ngày 21/3/2003 - Việc nâng lãi suất cơ bản chưa có tác động đến doanh nghiệp, Ngọc Kha, Báo Đầu tư số 41 ra ngày 4/4/2003 - Hạn chế sự phụ thuộc vào đồng ngoại tệ, Chí Tín, Báo Đầu tư số 56 ra ngày 9/5/2003 - Sự thăng trầm của đồng Euro đã đến lúc phá vỡ thế độc tôn của Đô la Mỹ, Hồng Đức, Thời báo Kinh tế Việt Nam số 78 ngày 16/5/2003

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc8356.doc
Tài liệu liên quan