Sau khi nghiên cứu đề tài thuê tài chính ở Việt Nam em thấy cho thuê tài chính là một biện pháp cực kỳ hữu hiệu để giúp các doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng thiếu vốn và đổi mới đựơc công nghệ phục vụ kịp thời cho sản xuất. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta, thuê tài chính sẽ ngày càng được phát triển rộng rãi là một tất yếu vì lợi ích của cho thuê tài chính là rất lớn , nó tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thúc đẩy nhanh quá trình đổi mới, tiếp cận được với các máy móc, thiết bị và công nghệ hiện đại, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.Mặt khác cho thuê tài chính còn góp phần thu hút vốn đầu tư cho nền kinh tế.
Có thể khẳng định rằng, mặc dù hoạt động cho thuê tài chính còn khá mới mẻ ở Việt Nam nhưng trong tương lai không xa, loại hình này sẽ phát triển nhanh chóng để hội nhập với sự phát triển chung của kinh tế thế giới. Điều đó cũng phù hợp với nhu cầu của thị trường trong nước ta hiện nay. Tuy Bộ tài chính, Chính phủ đã đưa ra những văn bản hướng dẫn, quy định khá chi tiết về hoạt động thuê mua tài chính và bước đầu đã khuyến khích được hoạt động này phát triển nhưng một trong những đòi hỏi cấp thiết hiện nay là Việt Nam phải thường xuyên theo sát thực tế để có một chế độ kế toán hoàn chỉnh hơn, tạo điều kiện thuân lợi cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực mới mẻ này.
34 trang |
Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 925 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số vấn đề về hạch toán tài sản cố định thuê tài chính ở đơn vị đi thuê, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ình. Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam (chuẩn mực 04), các tài sản vô hình được ghi nhận là TSCĐ vô hình phải thoả mãn đồng thời tất cả 4 tiêu chuẩn giống như TSCĐ hữu hình ở trên như chi phí lợi thế thương mại, kinh doanh, chi phí thành lập doanh nghiệp .
-TSCĐ thuê tài chính : Là TSCĐ mà doanh nghiệp đi thuê dài hạn và được bên cho thuê trao quyền quản lý và sử dụng trong hầu hết thời gian tuổi thọ của TSCĐ. Tiền thu về cho thuê đủ cho người cho thuê trang trải được chi phí của Tài sản cộng với các khoản lợi nhuận từ đầu tư đó . Trong phạm vi bài viết này chỉ đề cập đến TSCĐ thuê tài chính.
2. tài sản cố định thuê tài chính.
2.1. Một số khái niệm thuê tài chính và tài sản cố định thuê tài chính.
Thực hiện kế hoạch soạn thảo và công bố Hệ thống chuẩn mực kế toán Vịêt Nam, Bộ trưởng Bộ tài chính đã ký quyết định số 165/2002/QĐ-BTC ngày 31 tháng 12 năm 2002 về việc ban hành và công bố 6 chuẩn mực kế toán Vịêt Nam (đợt 2), trong đó chuẩn mực về thuê tài sản (chuẩn mực số 06) là một chuẩn mực kế toán đầu tiên quy định và hướng dẫn các nguyên tắc và phương pháp kế toán đối với bên thuê và bên cho thuê, bao gồm thuê tài chính và thuê hoạt động một cách đồng bộ, đầy đủ, cụ thể, làm cơ sở khi sổ kế toán và lập báo cáo tài chính. Dưới đây là một số khái niệm cơ bản có liên quan đến thuê tài chính được trình bày trong chuẩn mực này:
- Thuê tài sản: Là sự thoả thuận giữa bên cho thuê và bên thuê về việc bên cho thuê chuyển quyền sử dụng tài sản cho bên thuê trong một khoảng thời gian nhất định để được nhận tiền cho thuê một lần hoặc nhiều lần. Có hai hình thức thuê tài sản là thuê hoạt động và thuê tài chính. Việc phân chia này phải căn cứ vào bản chất các điều khoản ghi trong hợp đồng.
- Thuê tài chính: là thuê tài sản mà bên cho thuê có sự chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu tài sản cho bên thuê. Quyền sở hữu tài sản có thể chuyển giao vào cuối thời hạn thuê.
- Thời điểm khởi đầu thuê tài sản: Là ngày xảy ra trước một trong hai ngày: ngày quyền sử dụng tài sản được chuyển giao cho bên thuê và ngày tiền thuê bắt đầu được tính theo các điều khoản quy định trong hợp đồng.
- Thời hạn thuê tài sản: Là khoảng thời gian của hợp đồng thuê tài sản không huỷ ngang cộng với khoảng thời gian bên thuê được gia hạn thuê tài sản đã ghi trong hợp đồng, phải trả thêm hoặc không phải trả thêm chi phí nếu quyền gia hạn này xác định được tương đối chắc chắn ngay tại thời điểm khởi đầu thuê tài sản.
- Khoản thanh toán tiền thuê tối thiểu:
+ Đối với bên thuê: Là khoản thanh toán mà bên thuê phải trả cho bên cho thuê về việc thuê tài sản theo thời hạn trong hợp đồng (không bao gồm các khoản chi phí dịch vụ và thuế do bên thuê đã trả mà bên thuê phải hoàn lại và tiền thuê phát sinh thêm), kèm theo bất cứ giá trị nào được bên cho thuê hoặc một bên liên quan đến bên cho thuê đảm bảo thanh toán.
+ Đối với bên cho thuê: Là khoản thanh toán mà bên thuê phải trả cho bên cho thuê theo thời hạn thuê trong hợp đồng (không bao gồm các khoản chi phí dịch vụ và thuế do bên cho thuê đã trả mà bên cho thuê phải hoàn lại và tiền thuê phát sinh thêm) cộng với giá trị còn lại của tài sản cho thuê được đảm bảo thanh toán bởi:
. Bên thuê;
. Một bên liên quan đến bên thuê; hoặc
. Một bên thứ ba độc lập có khả năng tài chính.
+ Trường hợp trong hợp đồng thuê bao gồm điều khoản bên thuê được quyền mua lại tài sản thuê với giá thấp hơn gía trị hợp lý vào ngày mua thì khoản thanh toán tiền thuê tối thiểu (đối với cả bên cho thuê và bên đi thuê) bao gồm tiền thuê tối thiểu ghi trong hợp đồng theo thời hạn thuê và khoản thanh toán cần thiết cho việc mua tài sản đó.
- Gía trị hợp lý: Là giá trị tài sản có thể được trao đổi hoặc gía trị một khoản nợ được thanh toán một cách tự nguyện giữa các bên có đầy đủ hiểu biết trong sự trao đổi ngang giá.
- Gía trị còn lại của tài sản cho thuê: Là giá trị ước tính ở thời điểm khởi đầu thuê tài sản mà bên cho thuê dự tính sẽ thu được từ tài sản cho thuê vào lúc kết thúc hợp đồng cho thuê.
- Gía trị còn lại của tài sản thuê được đảm bảo:
+ Đối với bên thuê: Là phần giá trị còn lại của tài sản thuê được bên thuê hoặc bên liên quan với bên thuê đảm bảo thanh toán cho bên cho thuê (gía trị đảm bảo là số tiền bên thuê phải trả cao nhất trong bất cứ trường hợp nào).
+ Đối với bên cho thuê: Là phần giá trị còn lại của tài sản thuê được bên thuê hoặc bên thứ ba có khả năng tài chính không liên quan với bên cho thuê, đảm bảo thanh toán.
- Gía trị còn lại của tài sản thuê không được đảm bảo: Là phần gía trị còn lại của tài sản thuê được xác định bởi bên cho thuê không được bên thuê hoặc bên liên quan đến bên thuê đảm bảo thanh toán hoặc chỉ được một bên liên quan với bên cho thuê, đảm bảo thanh toán.
- Thời gian sử dụng kinh tế: Là khoảng thời gian mà tài sản được ước tính sử dụng một cách hữu ích hoặc số lượng sản phẩm hay đơn vị tương đương có thể thu được từ tài sản cho thuê do một hoặc nhiều người sử dụng tài sản.
- Thời gian sử dụng hữu ích: Là khoảng thời gian sử dụng kinh tế còn lại của tài sản thuê kể từ thời điểm bắt đầu thuê, không giới hạn theo thời hạn hợp đồng thuê.
- Đầu tư gộp trong hợp đồng thuê tài chính: Là tổng khoản thanh toán tiền thuê tối thiểu theo hợp đồng thuê tài chính (đối với bên cho thuê) cộng giá trị còn lại của tài sản thuê không được đảm bảo.
- Doanh thu tài chính chưa thực hiện: Là số chênh lệch giữa tổng khoản thanh toán tiền thuê tối thiểu cộng gía trị còn lại không được đảm bảo trừ giá trị hiện tại của các khoản trên tính theo tỉ lệ lãi suất ngầm định trong hợp đồng thuê tài chính.
- Đầu tư thuần trong hợp đồng thuê tài chính: Là số chênh lệch giữa đầu tư gộp trong hợp đồng thuê tài chính và doanh thu tài chính chưa thực hiện
- Lãi suất ngầm định trong hợp đồng hợp đồng thuê tài chính: Là tỷ lệ chiết khấu tại thời điểm thuê tài chính, để tính giá trị hiện tại của khoản thanh toán tiền thuê tối thiểu và gía trị hiện tại của giá trị còn lại không được đảm bảo để cho tổng của chúng đúng bằng giá trị hợp lý của tài sản thuê.
- Lãi suất biên đi vay: Là lãi suất mà bên thuê sẽ phải trả cho một hợp đồng thuê tài chính tương tự hoặc là lãi suất tại thời điểm khởi đầu thuê tài sản mà bên thuê sẽ phải trả để vay một khoản cần thiết cho việc mua tài sản với một thời hạn và với một đảm bảo tương tự.
- Tiền thuê có thể phát sinh thêm: Là một phần của khoản thanh toán tiền thuê, nhưng không cố định và được xác định dựa trên một số yếu tố nào đó ngoài yếu tố thời gian, ví dụ: phần trăm trên doanh thu, số lượng sử dụng, chỉ số giá, lãi suất thị trường.
2.2. Một số quy định chung đối với hoạt động thuê tài chính.
2.2.1. Công ty cho thuê tài chính:
Công ty cho thuê tài chính là một loại công ty tài chính, hoạt động chủ yếu là cho thuê máy móc thiết bị và các động sản khác.Theo Nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày 02/5/2001 của Thủ tướng chính phủ thì cho thuê tài chính chỉ được thực hiện thông qua các công ty cho thuê tài chính còn các Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đều không được cho thuê tài chính.Công ty cho thuê tài chính được thành lập và hoạt động tại Việt Nam bao gồm:
1. Công ty cho thuê tài chính do Ngân hàng, Công ty tài chính hoặc Ngân hàng, Công ty cho thuê tài chính cùng với doanh nghiệp khác của Việt Nam thành lập. Vốn pháp định của công ty thuê tài chính này là 55 tỷ VNĐ.
2. Công ty tài chính liên doanh giữa bên Việt Nam gồm một hoặc nhiều Ngân hàng, công ty tài chính, doanh nghiệp khác với bên nước ngoài gồm một hoặc nhiều Ngân hàng, Công ty tài chính, Công ty cho thuê tài chính và các tổ chức tài chính quốc tế. Vốn pháp định là 5 triệu đô la Mỹ.
3. Công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài của ngân hàng, Công ty tài chính, Công ty cho thuê tài chính của nước ngoài. Vốn pháp định là 5 triệu đô la Mỹ.
Thời gian hoạt động của công ty cho thuê tài chính tại Việt Nam tối đa không quá 70 năm. Trường hợp cần gia hạn hoạt động phải được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận. Mỗi lần gia hạn không quá thời hạn lần đầu. Ngân hàng nhà nước Việt nam là cơ quan quản lý Nhà nước về hoạt động cho thuê tài chính, có nhiệm vụ cấp và thu hồi giấy phép hoạt động, ban hành các văn bản quy định về nghiệp vụ, quản lý, giám sát và thanh tra hoạt động các công ty cho thuê tài chính tại Việt Nam. Các ngân hàng, công ty tài chính, doanh nghiệp khác muốm hoạt động cho thuê tài chính phải có đầy đủ uy tín, kinh doanh 3 năm liên tục có lãi, phải thành lập Công ty cho thuê tài chính độc lập theo các quy định của pháp luật.
2.2.1. Phân loại thuê tài sản:
Việc phân loại tài sản được căn cứ vào mức độ chuyển giao các rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu tài sản thuê từ bên cho thuê cho bên thuê. Rủi ro bao gồm khả năng thiệt hại từ việc không tận dụng hết năng lực sản xuất hoặc lạc hậu về kỹ thuật và sự biến động bất lợi về tình hình kinh tế ảnh hưởng đến khả năng thu hồi vốn. Lợi ích là khoản lợi nhuận ước tính từ hoạt động của tài sản thuê trong khoảng thời gian sử dụng kinh tế của tài sản và thu nhập ước tính từ sự gia tăng gía trị tài sản hoặc giá trị thanh lý có thể thu hồi được.Việc phân loại thuê tài sản là thuê tài chính hay thuê hoạt động phải căn cứ vào bản chất các điều khoản ghi trong hợp đồng. Ví dụ các trường hợp thường dẫn đến hợp đồng thuê tài chính là:
+Bên cho thuê chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho bên thuê khi hết thời hạn thuê;
+Tại thời điểm khởi đầu thuê tài sản, bên thuê có quyền lựa chọn mua lại tài sản với mức giá ước tính thấp hơn gía trị hợp lý vào cuối thời hạn thuê.
+ Thời hạn thuê tài sản chiếm phần lớn thời gian sử dụng kinh tế của tài sản cho dù không có sự chuyển giao quyền sở hữu.
+Tại thời điểm khởi đầu thuê tài sản, gía trị hiện tại của khoản thanh toán tiền thuê tối thiểu chiếm phần lớn gía trị thanh lý của tài sản thuê.
+Tài sản thuộc loại chuyên dụng mà chỉ có bên thuê có khả năng sử dụng không cần có sự thay đổi, sữa chữa lớn nào.
2.3.2. Ghi nhận thuê tài sản trong báo cáo tài chính tại đơn vị đi thuê:
Bên thuê ghi nhận tài sản thuê tài chính là tài sản của nợ phải trả trên Bảng cân đối kế toán với cùng một giá trị bằng với giá trị hợp lý của tài sản thuê tại thời điểm khởi đầu thuê tài sản. Nếu giá trị hợp lý của tài sản thuê cao hơn giá trị hiện tại của khoản thanh toán tiền thuê tối thiêu cho việc thuê tài sản là lãi suất ngầm định trong hợp đồng thuê thì sử dụng lãi xuất biên đi vay của bên thuê tài sản để tính giá trị hiện tại của khoản thanh toán tiền thuê tối thiểu.
Khi trình bày các khoản nợ phải trả về thuê tài chính trong báo cáo tài chính, phải phân biệt nợ ngắn hạn và dài hạn.
Chi phí trực tiếp phát sinh ban đầu liên quan đến hoạt động thuê tài chính, như chi phí đàm phán ký hợp đồng được ghi nhận vào nguyên giá.
Khoản thanh toán tiền thuê tài sản thuê tài chính phải được chia ra thành chi phí tài chính và khoản phải trả nợ gốc. Chi phí tài chính phải được tính theo tong kỳ kế toán trong suốt thời hạn thuê theo tỷ lệ lãi suất định kỳ cố định trên số dư nợ còn lại cho mỗi kỳ kế toán.
Thuê tài chính sẽ phát sinh chi phí khấu hao tài sản và chi phí tài chính cho mỗi kỳ kế toán. Chính sách khấu hao tài sản thuê phải nhất quán với chính sách khấu hao tài sản cùng loại thuộc sở hữu của doanh nghiệp đi thuê. Nếu không chắc chắn là bên thuê sẽ có quyền sở hữu tài sản khi hết hợp đồng thuê thì tài sản thuê sẽ được khấu hao theo thời gian ngắn hơn giữa thời hạn thuê hoặc thời gian sử dụng hữu ích của nó.
Khi trình bày tài sản thuê trong báo cáo tài chính phải tuân thủ các quy định của Chuẩn mực kế toán “TSCĐ hữu hình”.
2.3.4. Quyền và nghĩa vụ của bên đi thuê:
- Có quyền lựa chọn thương lượng và thoả thuận với bên cung ứng tài sản thuê về đặc tính kỹ thuật, chủng loại, giá cả, việc bảo hiểm, cách thức và thời hạn giao nhân, lắp đặt và bảo hành tài sản thuê.
- Được trực tiếp nhận tài sản thuê từ bên cung ứng.
- Trường hợp hợp đồng bị huỷ bỏ trước khi tài sản thuê được giao cho bên thuê do lỗi của bên thuê bên thuê phải hoàn trả mọi thiệt hại cho Công ty cho thuê tài chính.
- Phải sử dụng tài sản thuê theo đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng.
- Phải chịu mọi rủi ro về mất hỏng đối với tài sản thuê và những rủi ro mà tài sản thuê gây ra cho bên thứ ba.
- Phải chịu trách nhiệm bảo dưỡng, sữa chữa tài sản thuê trong thời hạn thuê;
- Không được chuyển quyền sử dụng tài sản thuê cho bên thứ ba nếu không được công ty cho thuê tài chính đồng ý trước bằng văn bản;
- Không được dùng tài sản thuê để cầm cố, thế chấp;
- Bên thuê có nghĩa vụ trả tiền thuê đúng thời hạn được quy định trong hợp đồng và về nguyên tắc phải chịu các khoản chi phí có liên quan đến tài sản thuê như : chi phí nhập khẩu, thuế , chi phí đăng ký hợp đồng và tiền bảo hiểm đối với tài sản thuê;
- Có nghĩa vụ hoàn trả tài sản thuê cho Công ty cho thuê tài chính khi kết thúc thời hạn thuê và chịu mọi chi phí liên quan đến việc hoàn trả tài sản thuê, trừ trường hợp được quyền sở hữu, mua tài sản thuê hoặc tiếp tục theo quy định trong hợp đồng
3. Những thay đổi của chế độ kế toán:
Sau hơn năm năm đi vào thực tế nghị định 64/CP “Ban hành quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính tại Việt Nam”, ngày /10/1995 của Chính phủ đã tỏ ra còn nhiều bất cập đối với hoạt động cho thuê tài chính. Vì vậy ngày 2/5/2001 Chính phủ đã ban hành nghị đinh số 16/2001/NĐ-CP về “ tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính”. So với nghị định cũ, nghị định mới đã tháo gỡ được cơ bản những vướng mắc trong hoạt động kinh doanh của công ty cho thuê tài chính.
Việc mở rộng đối tượng cho thuê, theo đó không chỉ các doanh nghiệp mà các tổ chức và cá nhân hoạt động tại Việt Nam đều là đối tượng cho thuê của các công ty cho thuê tài chính. Việc mở rộng các đối tượng cho thuê sẽ tránh cho các công ty cho thuê tài chính những phiền hà không đáng có, phù hợp với thông lệ quốc tế. Trước đây, cá nhân muốn thuê máy móc thiết bị từ phía các công ty tài chính phải “lách luật” bằng cách đội lốt một doanh nghiệp nào đó, tuy nhiên nếu rủi ro xảy ra thì việc thu nợ xử lý tài sản sẽ trở nên rất phức tạp.
Việc cho phép các công ty cho thuê tài chính được nhập khẩu trực tiếp những máy móc thiết bị, phương tiện vận tải và động sản tạo điều kiện cho các công ty cho thuê tài chính chủ động trong việc đáp ứng nhu cầu của người đi thuê, giảm chi phí đầu vào và hạ lãi suất cho thuê.
Đối với tài sản thuê là phương tiện vận tải, tàu thuyền đánh bắt thuỷ sản có giấy chứng nhận đăng ký, công ty cho thuê tài chính giữ bản chính giấy chứng nhân đăng ký, bên thuê khi sử dụng phương tiện được dùng bản sao có chứng nhận của công chứng Nhà nước và xác nhận của công ty cho thuê tài chính để sử dụng phương tiện trong thời hạn cho thuê. Điểm mới này nhằm đảm bảo an toàn tài sản cho thuê của công ty cho thuê tài chính vì các phương tiện vận tải thường hoạt động trong phạm vi cả nước, khó quản lý, khó theo dõi.
Về huy động vốn, công ty cho thuê tài chính được nhận tiền gửi có kì hạn, phát hành trái phiếu từ một năm trở lên để huy động vốn của các tổ chức cá nhân trong nước và ngoài nước theo quy định của Ngân hàng nhà nước ( Nghị định cũ quy định công ty cho thuê tài chính không được nhân tiền gửi dưới mọi hình thức). Quy định này đã phần nào giải quyết được khó khăn về vốn cho các công ty cho thuế tài chính liên doanh hay 100% vốn nước ngoài cũng như các công ty cho thuê tài chính thuộc các Ngân hàng thương mại, tạo điều kiện cho các công ty chủ động về nguồn vốn với chi phí thấp hơn.
Nghị định mới thừa nhận nghiệp vụ mua và cho thuê lại theo hình thức cho thuê tài chính, một nghiệp vụ quan trọng được sử dụng phổ biến trong hoạt động cho thuê tài chính. Với nghiệp vụ này, các doanh nghiệp có sẵn cơ sở vật chất kĩ thuật, máy móc, thiết bị tốt, làm ăn hiệu quả nhưng lại thiết vốn lưu động, có thể tận dụng nguồn vốn cố định của mình bằng cách bán máy móc, thiết bị cho các công ty cho thuê tài chính rồi thuê lại.
Thuế đối với máy móc thiết bị, các phương tiện vận chuyển và các động sản khác mà công ty cho thuê tài chính mua trong nước hoặc nhập khẩu để cho thuê được áp dụng như trường hợp bên thuê mua trực tiếp hoặc nhập khẩu các tài sản này. Quy định này đã tạo sự bình đẳng cho khách hàng giữa đi vay các Ngân hàng thương mại và đi thuê của các công ty cho thuê tài chính. Trong trường hợp quyền sở hữu tài sản cho thuê được chuyển cho bên thuê khi kết thúc thời hạn thuê thông qua việc nhượng bán tài sản cho thuê, bên thuê không phải nộp thuế trước bạ.
Công ty cho thuê tài chính không được đầu tư vào TSCĐ của mình quá 50% vốn tự có còn ở nghị định cũ quy định không quá 25%. Điều này tạo điều kiện cho các công ty cho thuê tài chính trang bị cơ sở vật chất, mua sắm TSCĐ, nhất là hệ thống tin học phục vụ yêu cầu kinh doanh ngày càng phát triển. Công ty cho thuê tài chính có quyền nhập khẩu trực tiếp máy móc thiết bị, phương tiện vận tải và động sản mà bên thuê được phép mua nhập khẩu và sử dụng theo quy định của pháp luật. Điểm này tạo điều kiện thuận lơi cho hoạt động của công ty cho thuê tài chính hạ thấp được giá thuê vì không phải bỏ thêm chi phí khi nhập khẩu uỷ thác.
Và một điểm nữa là tài sản cho thuê tài chính phải đăng ký tại trung tâm đăng ký giao dịch có bảo đảm. Quy định này nhằm đảm bảo an toàn tài sản cho thuê của các công ty cho thuê tài chính, tránh sang nhượng mua bán khi chưa sự đồng ý của bên cho thuê. Hợp đồng cho thuê tài chính không phải đăng ký tại Ngân hàng nhà nước và cơ quan quản lý. ( Nghị định trước kia quy định phải đăng ký tại Ngân hàng nhà nước.)
4. Những ưu điểm của chuẩn mực kế toán Việt nam phần "TSCĐ thuê tài chính" đối với đơn vị đi thuê.
Chuẩn mực 06 phần thuê tài sản mới ban hành theo Quyết định số 165/2002/QĐ-BTC đã có nhiều ưu điểm hơn so với các chuẩn mực đã ban hành trứơc đó.
Trước hết, xét về sự thay đổi trong việc tính tiền lãi thuê TSCĐ mà bên thuê phải trả.Trước đây, tại thời điểm thuê, toàn bộ lãi thuê phải trả trong suốt thời gian đi thuê lãi thuê lại được ghi nhận cùng một lúc vào tài khoản 142(1421- Chi phí trả trước).Về thực chất số lãi này mới được thoả thuận theo hợp đồng thuê chứ chưa trả. Hơn nữa tài khoản 1421 được dùng để theo dõi các khoản trả trước có thời gian phân bổ trong vòng 1 năm trong khi tổng số lãi thuê quá lớn thậm chí nhiều hợp đồng số lãi này còn lớn hơn cả số gốc( lãi suất trên thế giới tại thời điểm này phổ biến ở mức 11%). Sự thay đổi trong việc tính lãi vay đã làm cho giao dịch thuê tài sản được chính xác. Đó là việc phản ánh lãi thuê vào Tài khoản 635- chi phí tài chính.
Chuẩn mực mới ban hành cũng có sự thay đổi trong tính thuế GTGT ở bên đi thuê trong điều kiện áp dụng luật thuế GTGT. Số thuế GTGT của TSCĐ thuê tài chính do bên cho thuê nộp khi mua hoặc nhập khẩu tài sản sẽ được bên đi thuê trả dần trên cơ sở hợp đồng thuê tài chính. Như vậy về phía nhà đi thuê ngoài việc trả tiền thuê còn phải trả tiền thuế GTGT mà bên cho thuê đã thanh toán cho nhà cung cấp tài sản ( nếu mua trong nước) hoặc đã nộp ngân sách nhà nước( trường hợp nhập khẩu).Toàn bộ thuế GTGT đầu vào của tài sản thuê mà bên cho thuê đã thanh toán được bên thuê ghi nhận cùng lúc với việc ghi tăng TSCĐ. Sau khi hạn thuê kết thúc tài sản thuê được chuyển quyền sở hữu thì khi đó tài sản này lại được tính thuế GTGT thêm một lần nữa. Như vậy đơn vị thuê TSCĐ thuê tài chính đã phải chịu hai lần thuế trước bạ. Một lần bên cho thuê tính vào giá mua trong thời gian thuê và một lần được tính khi kết thúc hợp đồng thuê chuyển quyền sở hữu. Điều bất hợp lý này đã được sửa đổi trong chuẩn mực mới ban hành. Khoản thuế mà đơn vị thuê phải chịu khi thuê tài sản sẽ được khấu trừ dần theo hợp đồng và doanh nghiệp đi thuê chỉ thực sự chịu thuế khi mua lại tài sản thuê.
5. So sánh giữa chuẩn mực kế toán Quốc tế và chuẩn mực kế toán Việt nam về TSCĐ thuê tài chính.
Phần lớn quy định hiện hành về TSCĐ thuê tài chính ở Việt nam tương thích với nội dung của chuẩn mực kế toán quốc tế và có sự tiếp thu từ chuẩn mực kế toán quốc tế để ngày càng hoàn thiện.
Hầu hết các đơn vị đi thuê và đơn vị cho thuê đều áp dụng theo yêu cầu của chuẩn mực và đem lại thuận lợi cho các công ty tham gia vào hoạt động tài chính. Việc phân loại cho thuê là thuê hoạt động hay thuê tài chính được xác định ngay tại thời điểm khởi đầu cho thuê.
Việc kế toán của bên thuê cũng hạch toán như nhau:Tại thời điểm khởi đầu thuê tài sản, tài sản và nợ tương ứng cho việc thanh toán tiền thuê sau này được ghi nhận theo cùng một giá trị trong bảng cân đối kế toán. Các chi phí trực tiếp ban đầu liên quan đến hoạt động thuê được vốn hoá vào tài sản. Thanh toán tiền thuê bao gồm chi phí tài chính và nợ phải trả.
Bên đi thuê có trách nhiệm tính, trích khấu hao TSCĐ và chi phí sản xuất kinh doanh theo định kỳ trên cơ sở áp dụng chính sách khấu hao nhất quán với chính sách khấu hao của tài sản cùng loại thuộc sở hữu của doanh nghiệp đi thuê ( theo quy định của Chuẩn mực kế toán'Tài sản cố địnhhữu hình' và chuẩn mực kế toán' Tài sản cố định vô hình').
Chuẩn mực kế toán quốc tế đã quy định điều kiện một tài sản thoả mãn là thuê tài chính là thời hạn cho thuê chiếm phần lớn thời gian sử dụng hữu ích của tài sản. Chuẩn mực kếtoán mới ban hành ở Việt nam cũng quy định điều này.
Các thông tin trên báo cáo tài chính của bên thuê tài chính đều phải đảm bảo các chỉ tiêu: Tiền thuê phát sinh thêm được ghi nhận là danh thu trong kỳ; phải lập dự phòng luỹ kế cho các khoản phải thu khó đòi về khoản thanh toán tiền thuê tối thiểu; giá trị còn lại của tài sản thuê không được đảm bảo theo tính toán củabên cho thuê; diễn giải khái quát về những thoả thuận cho thuê quan trọng. Đồng thời trên báo cáo tài chính của bên đi thuê cũng phải có các chỉ tiêu: Giá trị còn lại của tài sản là đối tượng của hợp đồng thuê tài chính tại thời thời điểm lập báo cáo; Tiền cho thuê bất thường được ghi nhận là chi phí trong kỳ; diễn giải khái quát về những thoả thuận cho thuê quan trọng.
Bên cạnh đó còn có một số khác biệt giữa hai chuẩn mực trên:
+Xét về hình thức trình bày chuẩn mực: IAS 17 trình bày các vấn đề theo các tiêu thức cụ thể có liên quan đối với từng bên thuê và bên cho thuê: khoản thanh toán tiền thuê tối thiểu, Giá trị còn lại của tài sản thuê được đảm bảo; ghi nhận thuê tài sản trong báo cáo tài chính và trình bày báo cáo tài chính. Trong khi đó chuẩn mực kế toán Việt nam( chuẩn mực 06) lại trình bày mỗi vấn đề cho từng bên.
+Xét về nội dung:
Chuẩn mực kế toán Việt nam quy định rằng việc phân loại tài sản thuê nên dựa vào bản chất của nghiệp vụ khôngnên dựa vào hình thức của hợp đồng trong khi đó theo chuẩn mực kế toán quốc tế việc phân loại chỉ mang tính hướng dẫn, phần lớn các tiêu thức này chỉ mang tính chất định tính vì vậy rất khó áp dụng.
Việc xác định giá trị hiện tại của khoản thanh toán tiền thuê tối thiểu cũng có sự khác nhau. Chuẩn mực kế toán Việt nam quy định khoản tiền này chiếm phần lớn giá trị hợp lý của tài sản thuê trong khi chuẩn mực kế toán quốc tế lại yêu cầu khoản thanh toán này xấp xỉ giá trị hợp lý của tài sản cho thuê.
Về các chỉ tiêu được trình bày trên báo cáo tài chính ở bên đi thuê cũng có sự khác biệt. Trong IAS 17 có quy định thêm một số chỉ tiêu như: Yêu cầu đối với nhà xưởng, máy móc và thiết bị cho thuê; Số tiền thanh toán thuê lại tối thiểu trong tương lai dự tính thu được dưới hình thức cho thuê lại không thể huỷ bỏ vào ngày lập bảng cân đối kế toán.
6. Hạch toán TSCĐ thuê tài chính:
6.1. Tài khoản sử dụng:
Để theo dõi tình hình đi thuê TSCĐ dài hạn, kế toán sử dụng tài khoản 212 – TSCĐ thuê tài chính.
Bên nợ: Phản ánh nguyên giá TSCĐ thuê tài chính tăng.
Bên có: Phản ánh nguyên giá của TSCĐ thuê tài chính giảm do chuyển trả lại cho bên cho thuê khi hết hạn hợp đồng hoặc mua lại thành TSCĐ của doanh nghiệp.
Số dư bên nợ: Phản ánh nguyên giá của TSCĐ thuê tài chính hiện có.
5.2. Sơ đồ hạch toán:
Kế toán TSCĐ thuê tài chính
(Trường hợp khoản nợ phải trả xác định theo
giá mua chưa có thuế GTGT)
623,627
641,642
Khi trích
TK 111, 112
TK 142
Khi phát sinh
các chi phí trực tiếp ban đầu khi nhạn TSCĐ thuê
TK 244
Khi chi tiền ký
quỹ đảm bảo thanh toán tiền thuê
TK 635
Định kỳ nhận được
hoá đơn chi tiền trả nợ
Nợ gốc
TK 133
Nợ lãi
Thuế
GTGT
623,627,641,642
GTGT
Thuế
(PP khấu trừ)
(PP trực tiếp)
TK 315
Khi chi tiền trả nợ
thuê TSCĐ chính
TK 342
Cuối kỳ k/c số nợ
đến hạn trả vào kỳ sau
Khi nhận
Số nợ phải
trả kỳ này
TSCĐ
TK 111,112
Nguyên
Giá
Tài
Sản
cố
định
Thuê
Tài
chính
CP trực tiếp tiép
tiếp phát sinh khi nhận TSCĐ
TK 212
Khi hết thời hạn thuê
trả TSCĐ thuê cho bên cho thuê
TK 2141
TK 2142
TK 211
Khi mua lại TS thuê
TK 111,112
Khi phải trả
thêm tiền
K/c số
Khấu hao
TSCĐ thuê
KHTS thuê tài chính
K/c số chi phí trực tiếp ban đầu
phát sinh khi nhận TSCĐ thuê
Kế toán TSCĐ thuê tài chính
(Trường hợp khoản nợ phải trả xác định theo
giá mua có cả thuế GTGT)
K/c số chi phí trực tiếpban đầu
phát sinh khi nhận TSCĐ thuê
TK 111, 112
TK 142
Khi phát sinh các chi phí trực tiếp ban
đầu trước khi nhận TSCĐ thuê
TK 244
Khi chi tiền ký quỹ
đảm bảo thanh toán tiền thuê
Nguyên giá
TSCĐ thuê
TK 212
Trả lại TSCĐ thuê cho bên cho thuê
Khi hết hạn thuê
TK 2142
623,627
641,642
Khi trích KHTS thuê
Tài chính
TK 2141
K/c số
Khấu hao
TSCĐ thuê
TK 111,112
CP trực tiép Phát sinh
khi nhân TSCĐ
TK 111, 112
Trả
thêm tiền
TK 211
K/c giá trị TSCĐ
Thuê khi hết hạn thuê đơn vị mua lại
TK 315
Khi nhận được
Hoá đơn chi tiền trả luôn
Cuối kỳ K/c số nợ
đến hạn trả vào kỳ sau
Nhận hoá đơn
Chưa thanh toán
TK 342
TK 635
Nợ lãi
TK 138
Định kỳ nhận hoá đơn tính thuế GTGT
Vào chi phí SXKD (PP trực tiếp
TK 133
623,627,641,642
Định kỳ nhận hoá
đơn tính thuế GTGT vào chi phí SXKD
Số nợ phải trả kỳ này
Số nợ phải trả ở
Các kỳ tiếp theo
Số thuế GTGT
đầu vào
Phương pháp kế toán bán và thuê lại tài sản là thuê tài chính
Phân bổ
TK 111,112
TK 242
TK 342
Giá bán
Lỗ
TK 315
Nợ dài hạn
Số phải trả
kỳ này
Giá chưa có
thuế GTGT
Thuế GTGT
được khấu trừ
TK 212
TK 133 (1332)
)
TK 212
TK 818
TK 214
NG
GTCL
GTHM
TK 711
Giá trị còn lại
TK 3387
TK 3331
Lãi
Phân bổ
Phần II: Thực trạng và giải pháp
Về thuê và cho thuê tscđ
1. vai trò của hoạt động cho thuê tài chính trong nền kinh tế thị trường Việt nam hiện nay.
1.1. Vai trò của hoạt động cho thuê tài chính đối với nền kinh tế.
-Hoạt động cho thuê tài chính góp phần thu hút vốn đầu tư cho nền kinh tế.Trong xu thế hội nhập và giao lưu quốc tế ngày nay, cho thuê tài chính góp phần giúp nước ta đa dạng hoá việc thu hút các nguồn vốn từ nước ngoài cho đầu tư phát triển thông qua các loại máy móc, thiết bị thuê mà chúng ta nhận được. Đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế còn thấp thì hoạt động cho thuê tài chính càng có vai trò quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài bằng máy móc, thiết bị giúp các doanh nghiệp hiện đại hoá sản xuất, tăng năng lực hoạt động, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển. Mặt khác cho thuê tài chính là họat động tín dụng có mức độ rủi ro thấp hơn các hình thức tín dụng khác vì bên cho thuê vẫn nắm quyền sở hữu tài sản nên bên đi thuê không may bị phá sản thì bên cho thuê mặc nhiên thu hồi tài sản của mình. Do đó có thể khuyến khích các tổ chức kinh doanh tiền tệ (các ngân hàng thương mại,công ty tài chính) đầu tư vốn để thực hiện hoạt động kinh doanh này. Và để thực hiện hoạt động cho thuê tài chính các tổ chức kinh doanh tiền tệ phải tìm cách để thu hút vốn nhàn rỗi ở các đối tượng khác nhau trong nền kinh tế phục vụ cho hoạt động này.
-Cho thuê tài chính góp phần thúc đẩy đổi mới công nghệ, thiết bị, đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế. Thông qua hoạt động cho thuê tài chính, các loại máy móc, thiết bị hiện đại có điều kiện để đưa vào các doanh nghiệp góp phần nâng cao trình độ công nghệ sản xuất, đáp ứng được nhu cầu đổi mới công nghệ với tốc độ nhanh từ đó đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Vai trò của hoạt động cho thuê tài chính đối với người cho thuê.
-Cho thuê tài chính là hình thức tài trợ vốn có độ an toàn cao.Trong hình thức tài trợ này, quyền sở hữu tài sản vẫn thuộc người cho thuê vì vậy họ có quyền kiểm tra, giám sát việc sử dụng tài sản. Trường hợp có biểu hiện đe doạ sự an toàn của tài sản cho thuê thì người cho thuê có thể thu hồi tài sản. Do vậy người cho thuê tránh được thiệt hại có thể mất vốn đầu tư.
Khoản vốn đầu tư qua hoạt động cho thuê tài chính chắc chắn sẽ được sử dụng đúng mục đích, vì vậy đảm bảo khả năng trả nợ của người đi thuê,điều nay cũng có nghĩa là đảm bảo khả năng thu hồi vốn đầu tư của người cho thuê. Mặt khác do cho thuê tài chính là hình thức tài trợ bằng hiện vật nên hạn chế được ảnh hưởng của lạm phát, người cho thuê có thể bảo toàn được giá trị của vốn đầu tư.
- Cho thuê tài chính là phương thức kinh doanh cho phép người cho thuê linh hoạt trong kinh doanh. Do tiền thuê và lãi thuê được người đi thuê trả dần hàng kỳ, vì vậy trong thời gian cho thuê, vốn đầu tư được thu hồi dần cho phép người cho thuê tái đầu tư vốn vào các hoạt động kinh doanh khác để kiếm lời và luôn giữ được nhịp độ hoạt động.
1.3 Vai trò của hoạt động cho thuê tài chính đối với người đi thuê.
-Nhờ có hoạt động cho thuê tài chính mà người đi thuê có thể gia tăng năng lực hoạt động trong điều kiện hạn chế về khả năng tài chính.Người đi thuê trong quan hệ thuê tài chính thường là các doanh nghiệp có nhu cầu tăng năng lực hoạt động trong khi khả năng tài chính hạn chế. Nếu doanh nghiệp di vay theo các thể thức tín dụng thông thường thì khó thực hiện vì có thể thiếu tài sản thế chấp, hiện tượng này thường xảy ra đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ (loại hình doanh nghiệp chiếm tỷ trọng lớn ở nước ta). Thông qua hoạt động thuê tài chính, các doanh nghiệp này có thể từ tay không mà vẫn có được máy móc, thiết bị phục vụ nhu cầu sản xuất, kinh doanh nhằm tăng năng lực hoạt động và nhờ đó, nếu sử dụng có hiệu quả các máy móc, thiết bị này thì sau một thời gian thì có thể có được một số tài sản nhất định.
-Hoạt động cho thuê tài chính giúp các doanh nghiệp chưa đủ các điều kiện để vay vốn của các tổ chức tín dụng cũng có thể nhận được vốn tài trợ để thoả mãn nhu cầu vốn cố định cho hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đối với các doanh nghiệp chưa có uy tín với các tổ chức tín dụng trong khi tài sản để thế chấp không nhiều, họ khó thoả mãn các điều kiện dể được nhận tài trợ vốn bằng các thể thức tín dụng thông thường nhằm thoả mãn nhu cầu bổ sung vốn cố định.Trong khi đó, do đặc thù của hoạt động cho thuê tài chính là người cho thuê vẫn nắm quyền sở hữu pháp lý đối với tài sản cho thuê, nên người cho thuê vẫn sẵn sàng thoả mãn nhu cầu vốn cố định của khách hàng ngay cả khi vị thế tài chính và uy tín của họ có hạn chế.
-Hoạt động cho thuê tài chính có thể giúp doanh nghịêp đi thuê không bị đọng vốn trong tài sản cố định. Vai trò của hoạt động cho thuê tài chính được phát huy ngay cả đối với các doanh nghiệp có tình hình tài chính lành lạnh nhưng muốn giành vốn tích luỹ cho mục đích kinh doanh khác. Trong trường hợp này, khi họ có nhu cầu về tài sản cố định thì vẫn có thể thực hiện được thông qua thuê tài sản theo phương thức thuê tài chính. Điều này gíup các doanh nghiệp đi thuê không bị đọng vốn trong tài sản cố đinh.
-Thuê tài chính là cách để các doanh nghiệp (người đi thuê) rút ngắn thời gian triển khai đầu tư, đấp ứng kịp thời điều kiện khai thác các cơ hội kinh doanh. Là hình thức tín dụng có mức độ rủi ro thấp, vì vậy các thủ tục và điều kiện để được thuê tài sản đơn giản, nhanh chóng, các công ty cho thuê tài chính dễ dàng tài trợ vốn cho người cho nhu cầu vốn(người đi thuê) bằng cách cho thuê tài chính, cho phép người đi thuê rút ngắn thời gian đầu tư thiết bị, máy móc để kịp thời khai thác các cơ hội kinh doanh. Mặt khác, các công ty cho thuê tài chính thường có chuyên môn sâu trong lĩnh vực tài sản cho thuê nên họ có thể tổ choc cung ứng tài sản cho thuê theo phương thức khép kín: cho thuê thiết bị gắn với phụ tùng, linh kiện và tư vấn về kỹ thuật công nghệ cho người đi thuê. Từ đó giúp người đi thuê kịp thời đáp ứng nhu cầu sử dụng tài sản, tận dụng cơ hội kinh doanh.
-Thông qua khai thác, sử dụng tài sản thuê, người đi thuê thực hiên hiên đại hoá sản xuất theo kịp tốc độ phát triển của công nghệ mới. Đổi mới máy móc, thiết bị để theo kịp đà phát triển nhanh chóng của công nghệ mới trong bối cảnh hiện nay là vấn đề sống còn của các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường. Nhưng đây là vấn đề khó khăn đối với các doanh nghiệp nước ta hiện nay, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thông qua thuê tài chính, các doanh nghiệp có thể có được những máy móc, thiết bị hiện đại để hiện đại hoá sản xuất, thậm chí có thể nhận được lời khuyên từ công ty cho thuê chuyện nghiệp nên áp dụng trình độ ở mức độ nào cho phù hợp với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp, với thị trường mà vẫn phù hợp với xu thế phát triển công nghệ mới.
-Thông qua thuê tài sản theo phương thức thuê tài chính cho phép các doanh nghiệp thu hút vốn đầu tư của nước ngoài. Người cho thuê trong quan hệ thuê tài chính có thể là các công ty thuê mua quốc tế với 100% vốn nước ngoài hoặc các công ty liên doanh thuê mua hoạt động ở Việt Nam, do đó thông qua họat động thuê máy móc, thiết bị của các công ty này các doanh nghiệp có thể thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Mặt khác mức lãi suất ngoại tệ trên thị trường vốn quốc tế thấp hơn lãi suất ở Việt Nam, vì vậy khi thuê tài sản ở các công ty nước ngoài, doanh nghiệp thuê không chỉ thu hút được vốn đầu tư mà còn nhận được vốn tài trợ với mức lãi suất thấp hơn so với thị trường vốn tính bằng Đồng ngân hàng Việt Nam.
1.4 Vai trò của họat động cho thuê tài chính đối với nhà cung cấp máy móc, thiết bị.
Một trong các phương thức cho thuê tài chính là phương thức cho thuê có ba bên tham gia. Theo phương thức thuê này, ngoài bên cho thuê và bên đi thuê còn có một bên nữa là nhà cung cấp máy móc, thiết bị. Quan hệ giữa ba bên liên quan trong hợp đồng thuê tài chính này có thể hiểu như sau:
+ Bên thuê lực chọn nhà cung cấp máy móc, thiết bị và thoả thuận với họ về mẫu mã, kiểu dáng, thông số kỹ thuật, giá cả, điều kiện bảo trì, lắp đạtcủa thiếet bị muốn thuê.
+ Bên đi thuê và bên cho thuê ký hợp đồng thuê máy móc, thiết bị.
+ Trên cơ sở các điều kiện mà bên thuê và nhà cung cấp đã thoả thuận, bên cho thuê ký hợp đồng mua thiết bị với nhà cung cấp.
+ Nhà cung cấp giao máy móc, thiết bị cho bên đi thuê.
+ Bên cho thuê thanh toán tiền mua thiết bị cho nhà cung cấp.
+ Bên đi thuê có nghĩa vụ trả tiền thuê cho bên bên cho thuê và cùng bên cho thuê thực hiện các điều khoản trong hợp đồng thuê.
Từ những quan hệ này cho thấy, thông qua hoạt động cho thuê tài chính – hình thức tài trợ vốn có độ an toàn cao, với những ư thế vốn có của nó, có tác dụng kích cầu, tạo điều kiện để nhà cung cấp (các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh máy móc, thiết bị) tiêu thụ được nhiều hàng hoá. Hoạt động cho thuê tài chính càng phát triển, càng tạo cơ hội để các nhà cung cấp máy móc thiết bị mở rộng thị trường và phát triển kinh doanh.
Như vậy hoạt động cho thuê tài chính có vai trò to lớn đối với nền kinh tế và với các bên tham gia vào hoạt động này. Song vai trò đó chỉ có thể phát huy đầy đủ ở môi trường kinh tế vĩ mô thuận lợi, với môi trường pháp lý đầy đủ, rõ ràng
2. Thực trạng của hoạt động thuê tài chính hiện nay:
Qua một thời gian thực hiện, nghiệp vụ cho thuê tài chính mang lại hiệu quả, góp phần giảm những khó khăn cho các doanh nghiệp về nguồn vốn đầu tư dài hạn vào máy móc thiết bị, đồng thời tạo điều kiện cho DN tiếp cận với thiết bị và công nghệ hiện đại. Cho thuê tài chính tỏ ra rất thích hợp đối với các DN trong giai đoạn tái cấu trúc và cơ cấu lại dây chuyền công nghệ. Tuy vậy, hiện nay hoạt động cho thuê tài chính chưa phát triển ngang tầm với những ưu thế của nó, điều này có thể do những nguyên nhân sau đây:
Giá cho thuê tài chính cao hơn lãi suất đi vay khoảng 20% vì đa số các công ty đều phải đi vay vốn trung dài hạn để mua thiết bị máy móc động sản để cho thuê mà không được huy động tiền gửi thêm vào đó là chi phí hoạt động của công ty cho thuê tài chính như phí thẩm định dự án bảo hiểm. Đó là điều bất lợi khiến cho các công ty cho thuê tài chính không hấp dẫn người thuê nhất là trong điều kiện các doanh nghiệp còn rất khó khăn, do vật đi thuê tài chính chỉ là phương án lựa chọn cuối cùng sau mua thiết bị trả chem. nước ngoài, vay vốn các ngân hàng.
Hiện nay ở nước ta khung pháp lý để hoạt động chưa đầy đủ. Tuy pháp luật đã có những quy định bảo vệ quyền sở hữu của công ty thuê mua đối với tài sản cho thuê nhưng trên thực tế quyền này chua được đảm bảo về mặt pháp lý, luật pháp chưa đưa ra các biện pháp hữu hiệu nào để đảm bảo tuyệt đối ngăn chặn việc các doanh nghiệp đi thuê đánh tháo tài sản thuê mang tài sản thuê đi cầm cố thế chấp. Bởi lẽ Việt Nam chưa có cơ quan nào được chỉ định đứng ra đăng ký tài sản cho thuê chứng thực quản lý hợp đồng thuê mua công nhận và ký hiệu sở hữu mà công ty thuê mua đính vào tài sản mang cho thuê của mình. Vấn đề cần tháo gỡ ở đây là phải giải quyết mối quan hệ giữa công ty thuê mua tài chính với các cơ quan quản lý nhà nước trong đó quan trọng nhất là việc đăng ký quản lý chứng thực hợp đồng để giúp các công ty thu mua nắm giữ quyền sở hữu trọn vẹn không chỉ về mặt pháp lý mà cả về mặt thực tế, nên chăng cơ quan nào tiến hành đăng ký hợp đồng thì cơ quan đó có trách nhiệm quản lý hợp đồng. Vấn đề chuyển quyền sở hữu khi kết thúc hợp đồng: nếu nộp thuế tước bạ lần nữa thì doanh nghiệp đi thuê phải nộp thuế hai lần, một lần khi chuyển quyền thuê và một lần khi chuyển quyền sở hữu. Cơ sở pháp lý để xử lý các trường hợp tranh chấp hợp đồng cho thuê hiện còn bỏ ngỏ, đến nay hợp đồng cho thuê tài chính mới chỉ được đăng ký tại ngân hàng nhà nước còn cơ quan nào đứng ra quản lý hợp đồng, có trách nhiệm phân xử trong các trường hợp xảy ra tranh chấp vẫn còn là câu hỏi chưa có lời giải đáp. Những quy định về bắt buộc phải đăng ký tài sản cho thuê là phương tiện vận tải tại tỉnh thành phố nơi công ty tài chính đóng trụ sở là không phù hợp và quá cứng nhắc vì một công ty cho thuê tài chính tại Hà Nội vẫn có quyền hoạt động cho thuê tài chính tại thành phố Hồ Chí Minh hoặc bất cứ nơi nào trên đất nước Việt Nam.
Nghiệp vụ cho thuê tài chính là một nghiệp vụ mới ở Việt Nam, chưa được xã hội chấp nhận rộng rãi vì nó như là một hàng hoá mới mẻ không chỉ với người tiêu ding mà ngay cả với người bán.Việc tuyên truyền quảng cáo về những lơi ích, tác dụng của nghiệp vụ này chưa được sâu rộng trong các doanh nghiệp và dân cư.
Và vấn đề là nội tại của công ty cho thuê tài chính. Điều kiện được thuê còn quá chú trọng đến lịch sử người thuê hơn là tương lai của dự án thuê. Ngoài ra thủ tục cho thuê của các công ty cho thuê quá chặt chẽ, phức tạp, chưa có nhiều hình thức cho thuê thích ứng với điều kiện hiện tại của các Doanh nghiệp tại Việt nam
Phạm vi hoạt động cho thuê TSCĐ thuê tài chính quá hẹp chỉ gồm các doanh nghiệp trực tiếp sử dụng tài sản thuê theo mục đích kinh doanh đã đăng ký, trong khi đó nhu cầu đi thuê tài sản theo hình thức cho thuê tài chính còn nảy sinh từ nhiều tổ chức cá nhân khác như các trường học, bệnh viện, các hộ kinh doanh cá thể
- Việc đánh giá giá trị hiện tại của khoản tiền thanh toán tối thiểu chỉ ghi "chiếm phần lớn giá trị hợp lý của tài sản cho thuê" và việc xác định một tài sản là thuê tài chính căn cứ vào thời gian cho thuê chiếm " phần lớn " thời gian sử dụng hữu ích của tài sản.Thời gian sử dụng của TSCĐ thuê tài chính không được đưa ra một các rõ ràng. Phải chăng việc xác định thời gian sử dụng của tài sản thuê tài chính được xác định là:
w Thời gian thuê TSCĐ ghi trong hợp đồng?
wThời gian sử dụng của TSCĐ thuê tài chính được xác định căn cứ vào các tiêu chuẩn như trong điều 15 của chế độ quản lý sử dụng trích khấu hao TSCĐ quy định cho TSCĐ hữu hình?
Việc xác định thời gian sử dụng của TSCĐ thuê tài chính không rõ ràng do đó việc tính khấu hao TSCĐ thuê tài chính lại càng khó hơn. Các con số đánh giá các tiêu chuẩn trên rất khó xác định thậm chí khá " trừu tượng". Điều này dễ tạo điều kiện cho các bên tham gia hoạt động thuê tài chính "lách luật"dẫn đến những hành vi tiêu cực.
4. Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện chế độ tài chính và kế toán TSCĐ thuê và cho thuê tài chính:
Để khắc phục những tồn tại nhằm hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ cho thuê tài chính, em xin kiến nghị một số giải pháp sau:
w Về bên thuê và các đối tác trong cho thuê tài chính: theo các văn bản hiện hành thì bên thuê chỉ là các doanh nghiệp được thành lập theo pháp luật Việt Nam. Căn cứ vào thực tế hiện nay, em nghĩ nên mở rộng đối tượng “ bên thuê” là mọi tổ chức, đơn vị và các nhân chứng minh được khả năng thanh toán tiền thuê của mình. Các đối tác tham gia thành lập công ty cho thuê tài chính không nên chỉ giới hạn ở các doanh nghiệp trong nước mà nên bổ sung thêm đối tác tham gia thành lập là các doanh nghiệp nước ngoài. Việc các doanh nghiệp không phải là tổ chức tín dụng tham gia thành lập công ty cho thuê tài chính đã trở nên khá phổ biến ở nhiều nước. Sự tham gia của các doanh nghiệp nước ngoài trong đối tác của các công ty cho thuê tài chính giúp cho các công ty trong nước tiếp tiếp cận nhanh với nguồn máy móc thiết bị và công nghệ hiện đại trên thế giới. Tuy nhiên đối tác là các tổ chức tín dụng phải chiếm tỷ lệ vốn đủ lớn để chi phối hoạt động của công ty.
w Nên sớm thành lập cơ quan xác định giá trị máy móc thiết bị mới và cũ. Khi cân nhắc một giao dịch cho thuê tài chính, một trong những điểm quan trọng mà các bên tham gia cho thuê tài chính muốn biết là giá trị còn lại của tài sản cho thuê và khả năng bán lại nó trên thị trường. Đối với một số máy móc thiết bị công nghiệp như máy phát điện, nồi hơn, máy dệt hoặc các loại phương tiện giáo thông vận tải, thị trường máy móc cũ tương đối phổ biến. Tuy nhiên hiện vẫn chưa có một cơ quan hay tổ chức có thẩm quyền, uy tín nào cung cấp các dịch vụ giám định, đánh giá giá trị máy móc một cách chuyên nghiệp. Việc đánh giá chỉ thực hiện theo cảm tính, dễ nảy sinh nhiều vấn đề tranh chấp do thiếu tính khách quan, khoa học trong định giá. Nên chăng Nhà nước giao chức năng này cho các cơ quan giám định chất lượng Việt Nam và hỗ trợ bằng pháp lệnh về thành lập cũng như hoạt động của các tổ chức này về việc giám định chất lượng, định giá tài sản cũ và mới.
w Cho phép các công ty cho thuê tài chính được thực hiện các dịch vụ tài chính khác nhằm đa dạng hoá các loại hình dịch vụ kinh doanh của mình, có như vậy mới giảm thiểu được rủi ro do chỉ thực hiện một nghiệp vụ là cho thuê tài chính. Đây cũng là cách thức mà hầu hết các công ty cho thuê tài chính lớn trên thế giới áp dụng, họ không bao giờ chỉ thực hiện đơn thuần một nghiệp vụ là cho thuê tài chính.
w Một vấn đề nữa là nâng cao nhận thức đối với doanh nghiệp và cá nhân khi tiếp cận dịch vụ cho thuê tài chính. Cho thuê tài chính là dịch vụ còn mới mẻ đối với các chủ thể vay vốn. để mở rộng và nâng cao hiệu quả của kênh tiếp vốn này, cần phải có chương trình phổ biến kiến thức cơ bản về cho thuê tài chính thông qua các lớp tập huấn, hội thảo, bằng các phương tiện thông tin như truyền hình, báo, đài, tờ rơi để các thành phần kinh tế biết và hiểu sâu sắc dịch vụ cho thuê tài chính này. Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác tư vấn về những vấn để có liên quan đến cho thuê tài chính, đẩy mạnh công tác tiếp thị, định kỳ tổ chức hội nghị khách hàng qua đó giúp khách hàng hiểu biết và sử dụng dịch vụ cho thuê tài chính một cách hiệu quả nhất.
wVề quy định trong việc chuyển giao quyền sở hữu:
Theo quy định thì bên thuê được nhận quyền sở hữu tài sản thuê hoặc được tiếp tục thuê theo sự thoả thuận khi kết thúc hợp đồng thuê. Hay khi kết thúc hợp đồng thuê, bên thuê được nhận quyền lựa chọn mua tài sản thuê theo giá danh nghĩa thấp hơn giá trịn thực tế của tài sản thuê tại thời điểm mua lại.
Như vậy, xét về lâu dài, quy định đó sẽ không thuận lợi đối với người đi thuê (chủ yếu là các doanh nghiệp thiếu vốn ở Việt nam). Trong trường hợp họ muốn mua lại TSCĐ đi thuê thì cũng phải chờ cho đến khi kết thúc hợp đồng thuê. Lúc đó, với sự tiến bộ của kĩ thuật mới, liệu họ còn muốn mua lại TSCĐ đi thuê nữa không? Mặt khác, với những TSCĐ thuê trong thời gian dài và giá trị lớn, bên thuê thay vì có thể nhận được quyền sở hữu khi kết thúc hợp đồng thuê thì lại phải bỏ tiền ra tiếp tục thuê (nếu muốn). Mặc dầu hoạt động cho thuê còn mới lạ ở Việt Nam nhưng trên thế giới, hoạt động này đã xuất hiện từ rất lâu. Các quy chế và điều kiện cho thuê đã hình thành, được các công ty cho thuê xây dựng và thông qua. Vì vậy, hoạt động cho thuê tài chính ở Việt Nam cũng cần tuân thủ các quy chế và thủ tục đó, tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Do đó, chúng ta nên quy định: Khi kết thúc hợp đồng thuê, quyền sở hữu tài sản phải được chuyển cho bên đi thuê, hoặc khi kết thúc hợp đồng thuê hay tại bất kỳ một thời điểm nào đó, bên đi thuê được phép lựa chọn mua TSCĐ đi thuê với giá thấp hơn giá trị thực tế của TSCĐ thuê.
w Về phương pháp tính khấu hao TSCĐ thuê tài chính:
Việc tính khấu hao TSCĐ theo chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao TSCĐ la phương pháp khấu hao theo đường thẳng. Mức khấu hao được xác định dựa trên thời gian sử dụng của tài sản và nguyên giá của tài sản. Thời gián sử dụng của TSCĐ thuê tài chính có thể được xác định là:
+ Thời gian thuê TSCĐ ghi trong hợp đồng
+ Thời gian sử dụng của TSCĐ thuê tài chính được xác định căn cứ vào các tiêu chuẩn quy định trong chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao TSCĐ quy định cho TSCĐ hữu hình.
Nếu như trên thì cách xác định thời gián sử dụng của TSCĐ thuê tài chính còn chưa tính tới đầy đủ các tiêu chuẩn để một tài sản là TSCĐ thuê tài chính. Nếu hợp đồng thuê TSCĐ tài chính là ở trong trường hợp hai tiêu chuẩn đầu, mà thời gian sử dụng quy định ở đây là thời gian thuê tài sản thì khi kết thúc hợp đồng, TSCĐ thuê tài chính đã khấu hao hết, lúc đó tài sản thuê thực sự trở thành của bên đi thuê có còn ý nghĩa nữa hay không? Vì vậy việc xác định thời gian sử dụng của TSCĐ phải làm cơ sở cho việc tính khấu hao TSCĐ thuê tài chính một cách phù hợp, chúng ta nên phân việt rõ thời gian sử dụng để khấu hao TSCĐ thuê tài chính trong hai trường hợp:
Trường hợp 1: Nếu hợp đồng thuê tài sản tài chính thoả mãn một trong hai điều kiện đầu thì thời gian sử dụng để xác định khấu hao TSCĐ thuê tài chính là thời gian sử dụng hữu dụng thực sử của tài sản thuê đó. Vì thường khi kết thúc hợp đồng thuê, tài sản thuê sẽ thuộc về bên đi thuê.
Nguyên giá
Thời gian sử dụng
Mức khấu hao bình quân năm =
Thời gian sử dụng xác định theo quy định cho từng loại tài sản cụ thể tỏng khung thời gian sử dụng các loại TSCĐ ban hành kèm theo quyết định số 166/1999/QĐ-BTC
Trường hợp 2: Nếu hợp đồng thuê TSCĐ thuê tài chính thoả mãn một trong hai điều kiện cuối thì thời gian sử dụng để xác định khấu hao TSCĐ thuê tài chính ở bên đi thuê ngắn hơn thời gian trong hợp đồng thuê hoặc thời gian hữu dụng của tài sản thuê thì khi kết thúc hợp đồng, tài sản thuê vẫn thuộc về bên thuê.
Kết luận
Sau khi nghiên cứu đề tài thuê tài chính ở Việt Nam em thấy cho thuê tài chính là một biện pháp cực kỳ hữu hiệu để giúp các doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng thiếu vốn và đổi mới đựơc công nghệ phục vụ kịp thời cho sản xuất. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta, thuê tài chính sẽ ngày càng được phát triển rộng rãi là một tất yếu vì lợi ích của cho thuê tài chính là rất lớn , nó tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thúc đẩy nhanh quá trình đổi mới, tiếp cận được với các máy móc, thiết bị và công nghệ hiện đại, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.Mặt khác cho thuê tài chính còn góp phần thu hút vốn đầu tư cho nền kinh tế.
Có thể khẳng định rằng, mặc dù hoạt động cho thuê tài chính còn khá mới mẻ ở Việt Nam nhưng trong tương lai không xa, loại hình này sẽ phát triển nhanh chóng để hội nhập với sự phát triển chung của kinh tế thế giới. Điều đó cũng phù hợp với nhu cầu của thị trường trong nước ta hiện nay. Tuy Bộ tài chính, Chính phủ đã đưa ra những văn bản hướng dẫn, quy định khá chi tiết về hoạt động thuê mua tài chính và bước đầu đã khuyến khích được hoạt động này phát triển nhưng một trong những đòi hỏi cấp thiết hiện nay là Việt Nam phải thường xuyên theo sát thực tế để có một chế độ kế toán hoàn chỉnh hơn, tạo điều kiện thuân lợi cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực mới mẻ này.
Mặc dù đã hết sức cố gắng nhưng do kiến thức, trình độ chuyên môn cũng như kinh nghiệm thực tế còn hạn chế nên đề tài của em còn nhiều hạn chế. Vì vậy em rất mong nhận được sự hướng dẫn chỉ bảo của các thầy cô, đặc biệt là thầy giáo Trần Quý Liên cùng bạn bè để đề án môn học của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.
Mục lục
Lời mở đầu 1
Phần I : Cơ sở lý luận về Tài sản cố định và thuê tài sản cố định 2
1- Tài sản cố định (TSCĐ) 2
1.1-Khái niệm TSCĐ 2
1.2-Phân loại TSCĐ : 2
2. Tài sản cố định thuê tài chính. 3
2.1. Một số khái niệm thuê tài chính và tài sản cố định thuê tài chính. 3
2.2. Một số quy định chung đối với hoạt động thuê tài chính. 6
2.2.1. Công ty cho thuê tài chính: 7
2.2.2. Phân loại thuê tài sản 8
2.2.3. Ghi nhận thuê tài sản trong báo cáo tài chính tại đơn vị đi thuê 8
2.3.4. Quyền và nghĩa vụ của bên đi thuê: 9
3. Những thay đổi của chế độ kế toán: 10
4. Những ưu điểm của chuẩn mực kế toán Việt nam phần "TSCĐ thuê tài chính" đối với đơn vị đi thuê. 12
5. So sánh giữa chuẩn mực kế toán Quốc tế và chuẩn mực kế toán Việt nam về TSCĐ thuê tài chính. 14
6. Hạch toán TSCĐ thuê tài chính: 16
6.1. Tài khoản sử dụng 16
6.2. Sơ đồ hạch toán 16
Phần II: Thực trạng và giải pháp Về thuê và cho thuê tscđ 20
1. Vai trò của hoạt động cho thuê tài chính trong nền kinh tế thị trường Việt nam hiện nay. 20
1.1. Vai trò của hoạt động cho thuê tài chính đối với nền kinh tế. 21
1.2. Vai trò của hoạt động cho thuê tài chính đối với người cho thuê. 21
1.3 Vai trò của hoạt động cho thuê tài chính đối với người đi thuê. 22
1.4 Vai trò của họat động cho thuê tài chính đối với nhà cung cấp máy móc, thiết bị. 23
2. Thực trạng của hoạt động thuê tài chính hiện nay: 24
3. Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện chế độ tài chính và kế toán TSCĐ thuê và cho thuê tài chính: 27
Kết luận 32
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8641.doc