Sau hơn10 năm đổi mới, chính sách lãi suất tín dụng ngân hàng ở nước ta đã có những chuyển biến nhanh chóng và sâu sắc.Với thời gian chỉ hơn 10 năm , chính sách lãi suất ở nước ta đã trải qua 4-5 lần thay đổi . Điều này nói lên quyết tâm rất cao của Nhà nước ta trong đổi mới đổi mới kinh tế nói chung và trong chính sách lãi suất nói riêng. Đồng thời nó cũng nói lên sự trưởng vượt bậc của hệ thống tài chính -tín dụng và các hoạt động khoa học trong lĩnh vực này ở nước ta. Nhờ vậy,Chính sách lãi suất đang có những bước đi đúng hướng, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế trong nước và xu thế phát triển trên thế giới
1.2-Hiệu quả của chính sách lãi suất ở nước ta thời gian qua là rõ ràng . Nó đã tạo điều kiện cho đầu tư phát triển, thúc đẩy sản xuất, góp phần ổn định nền kinh tế.Có thể đây là một trong những yếu tố quan trọng giúp cho nền tài chính nước ta không bị ảnh hưởng nhiều trước cuộc khủng hoảng tài chính quốc tế vừa qua.
38 trang |
Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 1088 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số vấn đề về hoàn thiện chính sách lãi suất ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i ưa thích hơn, lãi suất của nó thường thấp đến rất thấp. Ngược lại, những tài sản có tính lỏng kém thường có lãi suất cao hơn vì chi phí của nó cao hơn. Và cũng vì với thời gian dài, sự ổn định của tài sản sẽ tạo ra lợi nhuận cao.
Khoảng cách giũa lãi suất của các tài sản có tính lỏng cao và những tài sản có tính lỏng thấp được gọi là mức bù rủi ro. Chúng ta sẽ nghiên cứu kỹ hơn phạm trù mức bù rủi ro ở phần sau.
5. Rủi ro ( Risk ).
Ngoài khả năng thanh khoản, rủi ro cũng là nhân tố làm tăng hoặc giảm lãi suất tài sản của ngân hàng và nền kinh tế. Các ngân hàng và các nhà đầu tư luôn phải tính đến các chi phí rủi ro khi vốn bị mất giá, vốn không thu hồi được vì nơi nhận đầu tư bị phá sản, vỡ nợ, lợi tức trở nên âm khi bị giá cả tăng nhanh...
Nếu chúng ta có trái khoán của một công ty hoặc công trái của chính phủ thì trái khoán của công ty có độ rủi ro cao do công ty rất có khả năng phá sản và không thể trả tiền, còn công trái của chính phủ thì hầu như không có rủi ro vì Chính phủ có thể tăng thuế hoặc thậm chí có thể in tiền để thanh toán dứt điểm nợ nần của mình. Khoảng cách giữa lãi suất của một trái khoán có rủi ro và lãi suất của trái khoán không có rủi ro gọi là mức bù rủi ro.
Như vậy, mức bù rủi ro cho biết chúng ta sẽ nhận được khoản lãi phụ là bao nhiêu để sẵn lòng nắm giữ một tài sản có rủi ro.
Khi một khoản vay có độ rủi ro càng cao thì lãi suất cho vay càng lớn để bù đắp cho các rủi ro tăng thêm. Bởi thế, một nhà đầu tư sẽ chấp nhận lãi suất thấp cho một món cho vay có tài sản thế chấp vững chắc làm đảm bảo hơn là món vay không có đảm bảo hoặc món vay đảm bảo bằng tài sản thế chấp kém vững chắc.
Một tài sản có rủi ro luôn luôn có một mức bù rủi ro dương và rủi ro càng cao thì mức bù rủi ro càng lớn.
6. Lạm phát.
Lạm phát là kẻ thù của lãi suất. ở đây, chúng ta quan tâm đến mối liên quan giữa lạm phát và lãi suất. Thí dụ, lãi suất mà ngân hàng thu được từ một dịch vụ cho vay hoặc đầu tư ( điều này cũng hoàn toàn giống trong trường hợp người cho vay là nhân dân gửi tiền vào ngân hàng và ngân hàng là người vay ) là 10% một năm. Với lãi suất ấy, một khoản đầu tư hôm nay có giá trị 1.000.000 VNĐ sẽ tạo ra một khoản tiền lãi sau đúng 1 năm là:
R1 = 1.000.000 VNĐ x 10% =100.000VNĐ
Cả vốn và lãi thu được vào thời điểm này sang năm sẽ là:
P2 = P1 ( 1+R1 )t với t =1
P2 = 1.000.000 x 1,10 = 1.100.000VNĐ
Giả sử chúng ta xem giá cả mua bán của gạo là giá đại diện cho giá cả hàng tiêu dùng bình quân trên thị trường hàng hóa. Trong trường hợp lạm phát bằng không trong cả năm nói trên, giá gạo vào hôm nay là 2000 VNĐ/kg. Vào thời điểm này của năm sau, nó tiếp tục vẫn là 2000VNĐ/kg.
Lúc đó, khi chưa đầu tư, 1.000.000VNĐ đổi được 1.000.000/2.000 = 500 ( kg ) gạo. Vào năm sau, khi đã đầu tư rồi, vốn và lãi thu hồi được 1.100.000/2.000 = 550 kg. Việc đầu tư đã sản sinh ra cho chúng ta một tài sản mới tương đương 50 kg gạo. Đó là tiền lãi.
Thế nhưng, thật là không may, lạm phát bằng không rất hiếm khi xảy ra. Thường là lạm phát lớn hơn không. Với trường hợp ấy, ta giả định tiếp về hai trường hợp:
Trương hợp 1: lạm phát trong năm cũng bằng 10% một năm. Bằng đúng lãi suất mà ta có thể thu được từ đầu tư.
Lúc đó: giá gạo hiện nay là 2000 VNĐ/kg.
Giá gạo vào thời điểm này sang năm sẽ là (2000 + 2000 x 10%) = 2200 VNĐ/kg.
Hiện nay, khi chưa đầu tư, các ngân hàng trung gian (hoặc chúng ta) với 1.000.000 VNĐ tài sản, có thể mua được 1.000.000/2.000 = 500 kg gạo.
Chúng ta hoặc ngân hàng, bỏ vốn ra đầu tư và một năm sau, cả vốn lẫn lãi thu được là 1.100.000VNĐ. Vào thời điểm thu vốn và lãi về, chúng ta đem đi mua gạo, và được 1.100.000/2.200 = 500 kg. Trước khi đầu tư, tài sản của chúng ta có giá trị tương đương 500 kg gạo, sau khi đầu tư xong, tài sản thu được tính bằng đơn vị tiền thì cao hơn trước về số lượng, nhưng giá trị thực sự cũng chỉ bằng 500 kg gạo. Chúng ta không có được chút lãi nào. Lãi suất thực sự trong trường hợp này bằng không.
Trường hợp 2: nếu lạm phát trong năm hơn 10%, chẳng hạn 15%.
Giá gạo sau 1 năm sẽ là 2000 + (2000 x 15%) = 2300 VNĐ/kg
Trước đầu tư, với giá gạo 2000VNĐ/kg, chúng ta mua được 500kg gạo với số tài sản là 1.000.000VNĐ. Sau khi đầu tư xong (với lãi suất 10% năm), tài sản thu được (1.100.000 VNĐ) chỉ tương đương với 1.100.000/2.300 = 478,26 kg gạo.
Việc đầu tư đã không những không đem lại giá trị mới hay lợi tức, mà còn chúng ta (hoặc ngân hàng) thiệt mất 21,74kg gạo. Lạm phát cao (15%) đã làm cho lợi tức trở thành số âm. Chính nó là thủ phạm gây ra sự hụt đi về tài sản.
Kết luận về điều này là: lạm phát sẽ làm bay hơi một cách vô hình lãi suất của các loại tài sản mà ngân hàng và nhân dân có được. Nếu trong cùng một đơn vị thời gian:
+ Tỷ lệ lãi suất = Tỷ lệ lạm phát, thì lãi suất thực sự bằng không (Trường hợp 1)
+ Tỷ lệ lãi suất < Tỷ lệ lạm phát, lãi suất thực sự là âm. Lạm phát càng lớn hơn lãi suất bao nhiêu, giá trị thực của lãi suất càng thấp bấy nhiêu. Giá trị của tài sản bị bào mòn dữ dội.
+ Tỷ lệ lãi suất > Tỷ lệ lạm phát, lãi suất thực sự lớn hơn không. Trong trường hợp này, đầu tư hoàn toàn có lợi. Lãi suất càng lớn hơn lạm phát, lợi nhuận thu được càng lớn theo.
Chỉ có tình huống thứ 3 là được chấp nhận. Cho nên khi ngân hàng hoặc nhân dân, đầu tư hoặc cho vay, người ta thường quan tâm đến lạm phát để luôn đảm bảo rằng lãi suất đầu tư phải lớn hơn tỷ lệ lạm phát, hay nói cách khác, lãi suất đầu tư phải ở mức từ tỷ lệ lạm phát trở lên.
Do mối liên quan giữa lãi suất và lạm phát, người ta chia lãi suất ra làm 2 loại:
+Lãi suất danh nghĩa (Nominal interest rate) hay NIR, là lãi suất của tài sản trên đơn vị tiền tệ. Khi chúng ta đọc những thang lãi suất được niêm yết trên báo chí, tại các ngân hàng, trên ti vi hay các phương tiện truyền thông đậi chúng khác..., chúng ta đã và đang đọc về lãi suất danh nghĩa. Loại này đơn thuần chỉ là số lượng đơn vị tiền thu được từ 100 đơn vị tiền được đem đâu tư trong khoảng thời gian nhất định nào đó của thông báo.
+Lãi suất thực: (Real interest rate) hay RIR là lãi suất được tính theo khối lượng hàng hóa mà người có vốn cho vay nhận được sau một kỳ hạn cho vay.
Khi chúng ta nói đến lãi suất, đôi khi chúng ta quên mất tác dụng của lạm phát và nó cần được gọi 1 cách chính xác hơn là lãi suất thực.
Lãi suất thực đã được chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi dự tính về mức giá, do đó nó phản ánh chính xác hơn chi phí thật của việc vay tiền. Lãi suất thực định nghĩa một cách chính xác hơn bằng phương trình Fisher, mang tên của Irving Fisher, một trong số những chuyên gia kinh tế tiền tệ thế kỷ 20. Phương trình Fisher nói rằng, lãi suất danh nghĩa (NIR) bằng lãi suất thực (RIR) cộng với lạm phát dự tính (p)
NIR =RIR + p
Khi chuyển đổi các vế, chúng ta tìm được lãi suất thực bằng lãi suất danh nghĩa trừ đi mức lạm phát dự tính:
RIR =NIR - p
p cũng có thể là tỷ lệ % của lạm phát trong cùng thời gian hoạt động đầu tư.
III. Chính sách lãi suát tín dụng.
1.Lãi suất trong nền kinh tế thị trường.
1.1. Đặc điểm của lãi suất trong nền kinh tế thị trường.
Chúng ta đã biết rằng cơ chế kinh tế thị trường có những đặc điểm như: (1)Tính tự chủ các chủ thể kinh tế rất cao. (2) Hàng hóa trên thị trường rất phong phú, người mua và người bán gặp nhau ở giá cả của thị trường; (3)Giá cả của hàng hóa được hình thành ngay trên thị trường;(4)- Cạnh tranh là một tất yếu của kinh tế thi trường;(5)- Kinh tế thị trường là hệ thống kinh tế mở, đa dạng, phức tạp và được điều hành bởi hệ thống tiền tệ, hệ thống luật pháp của Nhà nước.
Trong nền kinh tế thị trường, các tổ chức tín dụng là những doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ. Sản phẩm của chúng cũng được trao đổi trên thị trường như mọi hàng hóa khác. Mọi sản phẩm muốn trao đổi đều phải có giá và lãi suất là giá cả của việc mua bán vốn của các tổ chức tín dụng và lãi suất trong nền kinh tế thị trường có những đặc điểm sau:
+ Có tính cạnh tranh cao.
Như mọi loại giá của hàng hóa, lãi suất tín dụng cũng được điều chỉnh theo quan hệ cung - cầu về tiền tệ trên thị trường, theo những mục tiêu kích thích hoặc hạn chế đầu tư vào các lĩnh vực khác nhau. Các tổ chức tín dụng cũng như bất cứ một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nào, đều hướng mục tiêu hoạt động của mình vào việc tìm kiếm lợi nhuận tối đa và do đó có sự cạnh tranh cao độ ở nhiều mặt. Sự cạnh tranh thể hiện ở lãi suất huy động và lãi suất cho vay. hiểu đơn giản là “ giá mua ” và “ giá bán ” của vốn. Khi giá mua tăng, tất yếu giá bán phải tăng để đảm bảo có lợi nhuận. Nhưng có trường hợp các tổ chức tín dụng có thể bán với giá thấp để tranh thủ các khách hàng lớn, có tín nhiệm hoặc để tiếp thị. Các tổ chức tín dụng luôn phải linh hoạt giữa mức cho vay cao nhất để họ thu lợi nhuận tối đa, đồng thời lại phải đảm bảo sao cho khách hàng có thể chấp nhận được. Đôi khi họ có thể bán cao để làm nản lòng những khách hàng thiếu tín nhiệm, hoặc nhằm vào những thuơng vụ có lợi nhuận “ siêu ngạch ”. Đối với lãi suất huy động, các tổ chức tín dụng luôn đặt ra mức lãi suất thấp nhất về phía họ để đảm bảo thu lợi nhuận cao nhưng vẫn phải đảm bảo việc thu hút lớn nhất nguồn vốn có thể huy động. Ngoài mức lãi suất, các tổ chức còn cạnh tranh với nhau bằng các phương thức và cách trả lãi sao cho khách hàng có thể gửi hoặc vay tiền một cách nhanh chóng, thuận lợi nhất. Việc thanh toán theo lãi gộp hay lãi đơn cũng là 1 công cụ cạnh tranh của các tổ chức tài chính.
+Bên cạnh tính cạnh tranh, lãi suất tín dụng trong nền kinh tế thị trường còn có tính tự do.Tính tự do của lãi suất đảm bảo cho sự phản ứng kịp thờcủa tổ chức tín dụng trước sự biến động của cung - cầu vốn trên thị trường.Tính tự do của lãi suất đối lập với những áp đặt mang tính hành chính vào sự hình thành lãi suất, đòi hỏi các tổ chức tín dụng phải được tự chủ trong việc ấn định các mức lãi suất của mình.
+Thứ ba, lãi suất có tính linh hoạt. Trong nền kinh tế hị trường, lãi suất phải có sự thay dổi hàng ngày để phù hợp với diễn biến của thị trường và phù hợp với các đối tượng cho vay.
+Và cuói cùng, lãi suất trong nền kinh tế thị trường phải đảm bảo là lãi suất thực dương, nghĩa là các tổ chức tín dụng phải đảm bảo cho họ và những người cho vay có lãi.
1.2. Vai trò của lãi suất trong nền kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, lãi suất là công cụ của Nhà nước để điều tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô. Nó tác động trực tiếp đến hoạt động của các tổ chức tín dụng và toàn bộ nền kinh tế.
Vai trò công cụ điều tiết nền kinh tế của lãi suất được thể hiện ở các mặt sau:
- Làm căn cứ để phân bổ các nguồn lực
Như chúng ta đã biết,để phân bổ và sử dụng các nguồn lực có hiệu quả, giá cả đóng vai trò cực kỳ quan trọng.
Là một loại giá cả, lãi suất cũng có vai trò quan trọng trong việc phân bổ hiệu quả các nguồn lực của xã hội. Để quyết định đầu tư vào một ngành kinh tế, một dự án hay là một tài sản nào đó chúng ta đều phải quan tâm đến sự chênh lệch giữa giá trị tỷ suất lợi tức thu được từ ngành kinh tế đó, dự án đó hay tài sản đó so với chi phí ban đầu. Điều này có nghĩa là phải xem xét một ngành, một dự án kinh doanh có đem lại lợi nhuận, đảm bảo hiệu quả kinh doanh và đủ để trả khoản tiền lãi của số tiền vay cho chi phí ban đầu hay không. Ngành nào, dự án kinh doanh nào có tỷ suất lợi tức lớn hơn lãi suất thì nguồn lực sẽ được phân bổ tới đó, và đó là sự phân bổ hiệu quả.
Thông qua lãi suất, các doanh nghiệp có thể lựa chọn những ngành sản xuất khác nhau để đầu tư nhằm thu tỷ suất lợi nhuận cao. Như vậy lãi suất là tín hiệu, là một căn cứ để có sự phân bổ hiệu quả các nguồn lực khan hiếm trong xã hội, là yếu tố cần thiết ban đầu trước khi đi đến quyết định đầu tư.
- Tác động tới mức tiêu dùng và tiết kiệm củ dân cư.
Thu nhập của một hộ gia đình thường được chia thành hai bộ phận: tiêu dùng và tiết kiệm. Tỷ lệ phân chia này phụ thuộc vào nhiều nhân tố như thu nhập, vấn đề hàng lâu bền và tín dụng tiêu dùng, hiệu quả của tiết kiệm trong đó tiền tệ và lãi suất có tác dụng tích cực tới các nhân tố đó.
Khi lãi suất thấp, chi phí tín dụng tiêu dùng thấp, người ta vay nhiều hơn cho việc mua sắm các hàng hoá, nghĩa là tiêu dùng nhiều hơn. Ngược lại, khi lãi suất cao đem lại thu nhập từ khoản tiền để dành nhiều hơn sẽ khuyến khích tiết kiệm, do đó tiết kiệm tăng.
-Thúc đẩy việc quản lý sử dụng vốn trong hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp.
Hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp chịu nhiều ảnh hưởng của nhiều nhân tố như thu nhập, chi phí kỳ vọng trong kinh doanh. Trong đó lãi suất thể hiện chi phí đầu tư là yếu tố quan trọng quyết định đầu tư.
Khi lãi suất ở mức cao, ít khoản đầu tư vào vốn hiện vật sẽ mang lại thu nhập nhiều hơn chi phí lãi trả cho các khoản đi vay, do vậy chi tiêu cho đầu tư giảm , ngược lại khi lãi suất giảm các doanh nghiệp sẽ quyết định đầu tư cho vốn hiện vật nhiều hơn, chi tiêu đầu tư sẽ tăng.
Ngay cả khi một doanh nghiệp có dư thừa vốn và không muốn vay để đầu tư vào vốn hiện vật thì chi tiêu đầu tư vẫn bị ảnh hưởng của lãi suất do doanh nghiệp có thể mua chứng khoán. Lãi suất cao, chi phí cơ hội của một khoản đầu tư sẽ cao, chi tiêu đầu tư giảm do các doanh nghiệp mua chứng khoán sẽ tốt hơn vào đầu tư vốn hiện vật. Khi lãi suất chi phí cơ hội của đầu tư giảm, chi tiêu đầu tư sẽ tăng lên vì đầu tư vào vốn hiện vật rất có thể đem lại thu nhập lớn hơn cho doanh nghiệp so với mua chứng khoán.
Đối với đầu tư hàng dự trữ, chi phí của việc gửi hàng dự trữ là khoản lãi trả cho khoản tiền đáng lẽ thu được do bán nhượng hàng hoá này đi hay khoản vay để mua hàng. Lãi suất làm việc tăng, chi phí biên của việc giữ hàng dự trữ so với lợi ích biên đã giả định trước làm cho đầu tư vào hàng dự trữ giảm.Như vậy lãi suất là nhân tố chủ yếu quyết định đầu tư của các doanh nghiệp vào vốn hiện vật và hàng dự trữ.
- Tác động tới tỷ giá hối đoái và hoạt động xuất nhập khẩu.
Tỷ giá là giá cả tiền tệ của nước này thể hiện bằng đơn vị tiền tệ của nước khác. Tỷ giá do quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối quyết định và chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như giá cả, thuế quan, quota, sự ưa thích hàng nội, hàng ngoại, năng suất lao động.... Ngoài ra tỷ giá trong ngắn hạn còn chịu ảnh hưởng của lãi suất: Lãi suất tiền gửi nội tệ và ngoại tệ. Sự thay đổi lãi suất tiền gửi nội tệ ở đây là sự thay đổi trong lãi suất danh nghĩa. Nếu lãi suất danh nghĩa tăng do tỷ lệ lạm phát dự tính tăng (lãi suất thực không đổi) thì tỷ giá giảm. Nếu lãi suất danh nghĩa tăng do lãi suất thực tế tăng ( tỷ lệ lạm phát không đổi) thì giá đồng tiền trong nước tăng, tỷ giá tăng.Khi lãi suất tiền gửi ngoại tệ tăng, đồng nội tệ sẽ giảm giá (tỷ giá giảm) và ngược lại.
Tỷ giá rất quan trọng trong hoạt động XNK. Nếu lãi suất tăng làm tăng tỷ giá sẽ làm cho hoạt động xuất khẩu giảm, nhập khẩu tăng và ngược lại. Như vậy thông qua tỷ giá hối đoái, lãi suất có ảnh hưởnglớn tới xuất nhập khẩu, xuất khẩu ròng của một quốc gia.
- Là nhân tố quan trọng tham gia kiểm soát lạm phát.
Có nhiều biện pháp khác nhau để kiểm soát lạm phát, trong đó giải pháp về lãi suất có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Trong thời kỳ lạm phát, tăng lãi suất sẽ cho phép hệ thống ngân hàng có thể thu hút phần lớn số tiền có nhiều trong lưu thông khiến cho đồng tiền trong lưu thông giảm, cơ số tiền và lượng tiền cung ứng giảm, lạm phát được kiềm chế. Như vậy, lãi suất cũng góp phần chống lạm phát.
Tuy nhiên, việc sử dụng công cụ lãi suất trong chống lạm phát không thể duy trì lâu dài vì lãi suất tăng sẽ làm giảm đầu tư, giảm tổng cầu và làm giảm sản lượng. Do vậy lãi suất phải được sử dụng kết hợp với các công cụ khác thì mới có thể kiểm soát được lạm phát, ổn định giá cả, ổn định đồng tiền. Một chính sách lãi suất phù hợp là sự cần thiết cho sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế.
2. Chính sách lãi suất và cơ chế điều hành lãi suất.
Chính sách lãi suất là một bộ phận quan trọng trong chính sách tài chính của Nhà nước, bao gồm các mục tiêu, quan điểm và biện pháp về lãi suất nhằm thực hiện những mục tiêu của chính sách tài chính quốc gia trong từng thời kỳ lịch sử.
Chính sách lãi suất là một công cụ rất sắc bén, rất nhậy cảm trong thị trường tài chính. Vì vậy, để làm cho thị trường tài chính phát triển lành mạnh, và từ đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, chính sách lãi suất phải là kết quả của sự vận dụng khéo léo các quy luật của các quan hệ khách quan. Nó cần được kiểm soát một cách thường xuyên và điều chỉnh kịp thời.
Nhà nước có thể điều hành chính sách lãi suất bằng những cơ chế hay phương pháp khác nhau. Có 3 kiểu cơ chế hay phương pháp sau:
* Phương pháp 1: Cơ chế ấn định lãi suất. Phương pháp này Nhà nước quản lý trực tiếp lãi suất bằng cách công bố tất cả các loại lãi suất. Các ngân hàng và các tổ chức tín dụng phải thực hiện một cách tuyệt đối – cơ chế này đã tồn tại ở Việt Nam trong thời kỳ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung.
* Phương pháp 2: Cơ chế lãi suất trần ( Interest Rate Caps ) và lãi suất sàn( Interest Rate Floor ). Nhà nước không ấn định các mức lãi suất , mà chỉ quy định các mức lãi suất tối đa gọi là lãi suất trần và mức lãi suất tối thiểu gọi là lãi suất sàn tạo thành khung giới hạn để trong đó, các ngân hàng, các tổ chức tín dụng xác định lãi suất kinh doanh. Đây là cơ chế khống chế lãi suất. Phương pháp này không hoàn toàn cứng nhắc như phương pháp 1 nhưng vẫn giữ được vai trò điều hành lãi suất của Nhà nước. ở nước ta từ năm 1992 đến năm 1996 đã sử dụng phương pháp này.
* Phương pháp 3:Cơ chế tự do hoá lãi suất. Nhà nước không ấn định các mức lãi suất, đồng thời cũng không khống chế lãi suất, mà để cho lãi suất tự hình thành theo cơ chế thị trường, các ngân hàng được quyền xác định và công bố lãi suất kinh doanh để đem áp dụng trong việc huy động vốn và cho vay. Tự do hoá lãi suất là để cho lãi suất hình thành trên thị trường trên cơ sở cung cầu về vốn; mức tiết kiệm ; thu nhập và chi tiêu của cá nhân và những nhân tố khác.Với cơ chế tự do hoá lãi suất, nếu nhà nước hoàn toàn không can thiệp vào đến hệ thống lãi suất thị trường thì đó là cơ chế tự do hoá hoàn toàn(thả nổi hoàn toàn). Nếu nhà nước có tham gia can thiệp gián tiếp theo một hướng nhất định, thì đó là cơ chế tự do hoá lãi suất có quản lí. Tự do hoá lãi suất được coi là nhân của tự do hoá tài chính, trong đó bãi bỏ hoặc làm giảm bớt sự kiểm soát của nhà nhà nước về hạn mức tín dụng và lãi suất với trọng tâm là tự do hoá lãi suất sẽ làm cho các luồng tài chính đối nội lưu thông thông suốt.
Phần II: Đổi mới và hoàn thiện chính sách lãi suất tín dụng ngân hàng trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam.
I. Quá trình đổi mới và hoàn thiện chính sách lãi suất ở Việt Nam.
Cùng với sự đổi mới về kinh tế, trong lĩnh vực tài chính, tín dụng, chính sách lãi suất ở nước ta cũng có sự đổi mới và hoàn thiện dần để phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Theo thời gian, có thể chia quá trình đổi mới và hoàn thiện chính sách lãi suất ở nước ta thành các giai đoạn như sau.
1- Thời kỳ trước năm 1992- Thời kỳ lãi suất âm.
Vào thời kỳ này, nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn khủng hoảng, được điều hành theo kế hoạch tập trung quan liêu, trì trệ. Nghị định 53/HĐBT ngày 26/3/1988 và pháp lệnh về ngân hàng (1/10/ 1990) tách hệ thống ngân hàng một cấp thành hai cấp, từng bước chuyển hoạt động ngân hàng sang cơ chế thị trường. Tuy nhiên do lạm phát còn ở mức độ rất cao, nên chính sách vẫn theo lãi suất âm. Ngân hàng Nhà nước(NHNN) quy định cụ thể các loại lãi suất tiền gửi và tiền cho vay để các Ngân hàng Thương mại (NHTM) thực hiện. Lãi suất âm có đặc điểm :
- Lãi suất tiền gửi thấp hơn mức lạm phát.
- Lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất huy động và thấp hơn mức lạm phát.
Vào thời gian này, một phần là do mục tiêu thu hút một khối lượng lớn tiền vào ngân hàng nên lãi suất tiền gửi của dân chúng cao hơn lãi suất cho vay. Đơn cử số liệu 2 năm 1990 và 1991 :
1990
1991
Tỷ lệ lạm phát
67,2%
67,4%
Lãi suất tiền gửi
6%/tháng
2,9%/tháng
Lãi suất cho vay
4,3%/tháng
3,5%/tháng
Ta thấy rằng tỉ lệ lạm phát trong 2 năm 1990 và 1991 là rất cao, cao hơn cả lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay. Năm 1990, lãi suất tiền gửi cao hơn lãi suất tiền cho vay rất nhiều (6% - 4,3% = 1,7%) .
Lãi suất tiền gửi có kì hạn bình quân năm 1992 là 35,1%/năm, lãi suất cho vay bình quân cũng năm này là 30%/ năm. ở thời kì này, tiền gửi doanh nghiệp trên tài khoản thanh toán không được hưởng lãi.
Hệ thống lãi suất âm này đã gây ra nhiều ảnh hưởng tiêu cực:
-Khả năng huy động vốn đi với yêu cầu rút bớt tiền lưu thông, giải toả áp lực của tiền đối với giá cả hàng hoá bị hạn chế nhiều.
-Nhu cầu vay vốn tăng lên không thực chất, tạo lợi nhuận giả tạo cho doanh nghiệp.
-Ngân hàng bao cấp qua lãi suất cho khách hàng , tạo lỗ không đáng có cho ngân hàng. Ngân hàng không thể kinh doanh tiền tệ bình thường theo cơ chế thị trường.
Từ tháng 3/1989, NHNN đã chủ động sử dụng công cụ lãi suất, quyết tâm chuyển từ lãi suất âm sang lãi suất dương. Để thu hút tiền thừa trong lưu thông về , kiềm chế lạm phát, tránh bao cấp qua lãi suất, NHNH đã nâng lãi suất huy động lên một mức rất cao trong một thời gian ngắn. (lãi suất tiết kiệm không kì hạn 9%/tháng - tức là 109%/năm, lãi suất tiết kiệm 3 tháng 12%/tháng - tức 144%/năm) .
2) Thời kỳ từ cuối năm 1992 đến cuối năm 1993, chuyển từ lãi suất âm sang lãi suất dương.
Khi lạm phát đã được kiềm chế và đẩy lùi tương đối thấp, có điều kiện thực hiện chính sách lãi suất dương, tức là lãi suất cho vay cao hơn lãi suất huy động và lãi suất tiền gửi cao hơn mức lạm phát, tháng 10/1992 , NHNN bắt dầu từng bước thực hiện lãi suất dương. Đến tháng 3/1993, chính sách lãi suất dương hoàn toàn đã được thực hiện. Nhờ kết quả này nên:
-Thu hút được một khối lượng lớn tiền trong lưu thông, tăng nguồn vốn tín dụng , giảm áp lực lạm phát.
-Chuyển lãi suất âm qua lãi suất dương, tức là lãi suất tiền gửi cao hơn mức lạm phát, lãi suất cho vay cao hơn lãi suất huy động, xử lí hài hoà lợi ích người gửi tiền, người vay vốn và tổ chức tín dụng.
-Xoá bỏ bao cấp qua lãi suất ngân hàng, chuyển hoạt động ngân hàng sang kinh doanh thực sự.
Tuy nhiên , ở thời kỳ này , hệ thống lãi suất còn phức tạp. NHNN vẫn còn quy định các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể, có sự phân biệt lãi suất giữa các thành phần kinh tế, giữa các ngành. Cụ thể là mức lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp nhà nước thấp hơn mức lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh; đối với từng ngành kinh tế như công nghiệp, nông nghiệp,thương nghiệp..., có mức lãi suất riêng. Tình hình này đã cản trở rất lớn đến sự phát triển của các thành phần kinh tế tư nhân, các tổ chức kinh tế ngoài quốc doanh, và góp phần làm trì trệ nền kinh tế trong nước. Bên cạnh đó, lãi suất cho vay ngắn hạn còn cao hơn lãi suất cho vay trung và dài hạn, lãi suất tiền gửi tiết kiệm cao hơn lãi suất tiền gửi vào các tổ chức kinh tế. Tình trạng này là trái với qui luật của lãi suất, song nó có thể phản ánh đúng tình hình lúc đó là do các ngân hàng thiếu vốn hoạt động, muốn huy động nhiều vốn hơn nữa trong nền kinh tế.
3 . Thời kỳ từ cuối năm1993 đến năm 1995-Vừa qui định các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể, vừa cho vay theo lãi suất thoả thuận.
Từ 1/10/1993, NHNN qui định các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể, và cho phép các tổ chức tín dụng cho vay theo lãi suất thoả thuận vượt mức lãi suất cho vay cụ thể(Quyết định 184/QĐ_NH1 ngày 28/9/1993).
Lãi suất giai đoạn này có hai loại:
- Lãi suất cho vay doanh nghiệp nhà nước là 1,8%/tháng và lãi suất cho vay kinh tế ngoài quốc doanh cao nhất là 2,1%/ tháng.
- Lãi suất cho vay theo thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng. Nếu vốn huy động tiết kiệm và tiền gửi theo các mức lãi suất qui định mà không đủ để cho vay thì các tổ chức tín dụng được phép phát hành kỳ phiêú với lãi suất cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kỳ hạn tối đa là 0,2%/tháng và cho vay với lãi suất cao hơn mức 2,1% trên cơ sỏ thoả thuận với khách hàng theo phương châm: Ngân hàng kinh doanh được và được người vay chấp nhận. Với cơ chế lãi suất thoả thuận, có thể hiểu là đã tự do hoá một phần lãi suất, hoặc đó là cơ chế cho vay với lãi suất “cứng” đi đôi với một biên độ giao động nhất định.
Từ cơ chế cho vay theo lãi suất thoả thuận, các ngân hàng thương mại đã cho vay theo lãi suất thoả thuận với tỷ lệ khá cao: từ 30% đến 60% dư nợ và đối tượng chịu lãi suất thoả thuận chủ yếu là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hộ nông dân,trong đó phần lớn là ở khu vực phía Nam và vùng Đồng bằng Sông Cửu Long, và cho vay với mức lãi suất từ 3,0%-3,5%/tháng. Điều đó có thể thấy một tất yếu khách quan là nhu cầu vốn ở nông thôn lớn hơn và chi phí hoạt động ngân hàng ở nông thôn cao hơn nên lãi suất cho vay ở khu vực này cao hơn các khu vực khác.
Trong thời kỳ này, với lãi suất cho vay theo thoả thuận, các ngân hàng đạt mức chênh lệnh giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động rất cao, phổ biến là từ 0,7%- 1,0%/ tháng, cho nên hầu hết các NHTM đều có lợi nhuận cao, trong khi người đi vay-các doanh nghiệp và hộ nông dân lại gặp nhiều khó khăn về tài chính. Từ thực trạng này, Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 8 tháng 10/1995 đã thông qua nghị quyết bỏ thuế doanh thu hoạt tín dụng ngân hàng, đồng thời yêu cầu các NHTM phải tiết giảm chi phí, để giảm lãi suất cho vay, đồng thời khống chế chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động 0,35%/tháng. Đó là lý do để chuyển sang một giai đoạn thực hiện chính sách lãi suất trần.
4. Thời kỳ từ 1/1/1996 đến năm cuối năm 1999- Thời kỳ thực hiện chính sách trần lãi suất.
Trên cơ sở nghị quyết của Quốc hội khóa IX(Tháng 10/1995)về bỏ thuế doanh thu hoạt động tín dụng và khống chế chênh lệch bình quân giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động ở mức 0,35%/tháng, nên NHNN đã quyết định điều hành chính sách lãi suất theo trần lãi suất nhằm khống chế lãi suất cho vay tối đa và các NHTM chỉ được hưởng chênh lệch 0,35%/tháng bao gồm cả phí , thuế, lợi nhuận thay cho việc qui định các mức lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi cụ thể và xoá bỏ lãi suất cho vay thoả thuận. Chính sách điều hành lãi suất vừa qui định trần lãi suất vừa khống chế chênh lệch 0,35%/tháng nên có quan điểm cho rằng thực chất nó vừa là qui định trần vừa qui định sàn lãi suất.
Trần lãi suất cho vay được qui định nhiều mức trần khác nhau. Điều này xuất phát từ đặc điểm có nhiều loại hình tổ chức tín dụng hoạt động trên các địa bàn khác nhau, cung cầu vốn khác nhau, qui mô khác nhau và do đó chi phí hoạt động khác nhau. Lúc đầu có 4 mức trần lãi suất khác nhau như
sau:
-Trần lãi suất cho vay ngắn hạn.
-Trần lãi suất cho vay trung, dài hạn.
-Trần lãi suất áp dụng cho các tổ chức tín dụng cho vay trên địa bàn nông thôn.
-Trần lãi suất cho vay của các Quỹ tín dụng nhân dân, hợp tác xã tín dụng đối với thành viên.
Trong các mức trần lãi suất nói trên thì có mức độ chênh lệch khác nhau đó là:Trần lãi suất cho vay ngắn hạn là thấp nhất và áp dụng cho khu vực thành thị; Trần lãi suất cho vay trung và dài hạn cao hơn ngắn hạn một ít phù hợp với thông lệ quốc tế và tính chất cho vay thời hạn dài rủi ro hơn thời hạn ngắn; Trần lãi suất cho vay khu vực nông thôn cao hơn trần lãi suất chovay ngắn hạn và trung dài hạn một ít và áp dụng cho cả hai loại cho vay này. chênh lệch này dần sẽ được rút ngắn qua các lần điều chỉnh trần lãi suất; Trần lãi suất cho vay của các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở đối với các thành viên là trần lãi suất cho vay cao nhất so với các trần lãi suất ở trên và cũng dần được rút ngắn qua các lần điều chỉnh trần lãi suất.
Khu vực nông thôn luôn có nhu cầu vốn lớn, nhưng huy động tại chỗ được rất ít và chi phí hoạt động ngân hàng ở nông thôn cao, nên NHNN quy định trần lãi suất cho vay cao hơn thành thị nhằm thu hút và điều hoà vốn từ thành thị về nông thôn bằng công cụ lãi suất và đảm bảo cho các NHTM ở nông thôn bù đắp được chi phí. Nhưng có nhiều quan điểm cho rằng lãi suất cho vay nông thôn phải thấp hơn hoặc bằng thành thị mới ưu đãi nông nghiệp , mới khuyến khích được nông nghiệp phát triển. Cho nên với Quyết định số 39/1998/QĐ/NHNN1 của Thống đốc NHNN từ ngày 21/1/1998 đã xoá bỏ sự cách biệt về lãi suất cho vay giữa thành thị và nông thôn ,rút từ chỗ 4 mức trần lãi suất xuống còn 3 mức trần lãi suất, khoảng cách giữa các trần cũng không còn xa nhau như trước và không quy định chêch lệch 0,35%/tháng. Quy định này có ưu việt là giảm sự chênh lệch về lãi suất cho vay sản xuất kinh doanh ở thành thị so với mức lãi suất cho hộ nông dân vay. Từ đó khuyến khích nông dân vay tiền mà vẫn đảm bảo an toàn cho các tổ chức tín dụng.
Đối với lãi suất cho vay ngoại tệ, NHNN cũng đã khống chế trần lãi suất cho vay và khi có sự biến động tỷ giá, đã phối hợp chặt chẽ giữa công cụ lãi suất và tỷ giá (như khống chế trần lãi suất tiền gửi các doanh nghiệp) để tăng cường quản lý ngoại tệ và chống hiện tượng đô la hoá.
Trong 2 ngày 29 và 31/5/1999, Thống đóc NHNN đã ban hành 3 quyết định để điều chỉnh giảm trần lãi suất cho vay . Cụ thể là vay ngắn hạn từ 1,2%/tháng và vay trung, dài hạn từ 1,25%/tháng, xuống một trần thống nhất là 1,15%/tháng. Mức trần này được áp dụng chung ở cả khu vực thành thị và nông thôn. Trần lãi suất cho vay của quỹ tín dụng nhân dân cơ sở đối với các thành viên vẫn giữ ở mức 1,5%/tháng.
Việc điều chỉnh lãi suất này, trước hết là để đảm bảo tính phù hợp giữa mặt bằng lãi suất với tình hình lạm phát( Lạm phát 5 tháng đầu năm 1999 là 1,9%, trong đó lạm phát 2 tháng 1 và 2/1999 là 3,6%, đặc biệt các tháng 3, 4 và 5 liên tục giảm phát ở mức: -0,7%, -0,6% và -0,4%.) và chống nguy cơ giảm phát ở Việt Nam. Công cụ lãi suất được sử dụng để kích cầu, thúc đẩy tăng tốc độ đầu tư của nền kinh tế. Bên cạnh đó, việc giảm trần lãi suất còn với mục đích là giảm bớt khó khăn cho người đi vay, từ đó góp phần kích thích nền kinh tế phát triển, đảm bảo cân đối cung cầu về vốn tín dụng, đẩy mạnh cho vay vốn của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế.
Nhìn một cách tổng quát, với chính sách lãi suất trong thời gian này, NHNN chỉ quản lý lãi suất cho vay tối đa trong phạm vi trần lãi suất đã quy định và cho phép các tổ chức tín dụng được tự do ấn định các mức lãi suất cho vay, lãi suất tiền gửi huy động cụ thể, linh hoạt. Chính sách này giúp các tổ chức tín dụng tự chủ, nó phù hợp với đặc điểm hoạt động, tình hình về cung cầu vốn, chính sách khách hàng và cạnh tranh của từng tổ chức tín dụng. Nó phù hợp với đặc điểm, chi phí hoạt động ngân hàng giữa các vùng khác nhau trong từng thời kỳ. Mặt khác, khi điều hành chính sách lãi suất theo trần đã khuyến khích các tổ chức tín dụng trong việc cạnh tranh lành mạnh tăng cường vai trò chủ động trong kinh doanh tiền tệ, chủ động trong việc điều hoà quan hệ cung cầu về vốn kinh doanh bằng công cụ lãi suất một cách rất linh hoạt, nhạy bén theo cơ chế thị trường. Việc quy định cho vay theo trần lãi suất tạo ra mặt bằng chung về lãi suất cho vay trong phạm vi cả nước, xoá bỏ tình trạng cho vay theo lãi suất thoả thuận vượt xa các mức lãi suất do NHNN quy định. Các tổ chức tín dụng không cho vay với lãi suất vượt trần nhằm bảo vệ lợi ích của người vay, tạo mặt bằng về phân phối lợi nhuận giữa các thành phần kinh tế với các tổ chức tín dụng và ngươì gửi tiền. Thêm vào đó, chính sách lãi suất này tăng cường được công tác quản lý về lãi suất và tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát về lãi suất của NHNN.
Tuy nhiên, chính sách điều hành lãi suất trần còn những hạn chế nhất định.Việc quy định cho vay theo trần lãi suất của NHNN thực chất là các tổ chức tín dụng được cho vay theo mức trần tối đa, vì vậy một số tổ chức tín dụng đã có xu hướng luôn cho vay hết trần lãi suất để đạt mức lợi nhuận tối đa. Không phân biệt các mức lãi suất khác nhau giữa các vùng có điều kiện khó khăn- thuận lợi khác nhau, điều kiện về cung- cầu vốn trong từng thời kỳ. Việc quy định chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn là 0,35%/tháng trong thời kỳ đầu đã tạo nên sự gò bó, cứng nhắc và triệt tiêu tính cạnh tranh, tính chủ động tự chủ trong kinh doanh của các tổ chức tín dụng.
5.Thời kỳ từ cuối năm 2000 đến nay- thực hiện cơ chế lãi suất cơ bản. Xu hướng tự do hoá lãi suất.
Theo báo cáo của Chính phủ do thủ tướng Phan văn Khải trình bày tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khoá X- tháng 11/1999 nêu rõ: “Ngân hàng cần sớm thay việc định lãi suất trần bằng việc áp dụng lãi suất cơ bản theo Luật Ngân hàng đi đôi với sử dụng công cụ điều tiết tiền tệ phù hợp với cơ chế thị trường... Giải pháp cơ bản và lâu dài là đổi mới cơ chế lãi suất đồng thời đòi hỏi các doanh nghiệp làm ăn có lãi, trả được nợ”.
“Lãi suất cơ bản là lãi suất do Ngân hàng công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh” ( Khoản 12, Điều 9 Luật NHNN Việt Nam)
Cơ chế lãi suất cơ bản bắt đầu được thực hiện ở nước ta từ cuối năm 2000. Và đồng thời với cơ chế trên, xu hướng tự do hoá lãi suất đang được hình thành. Tuy nhiên, đây là một cơ chế điều hành mới, nên để nó có thể phát huy tác dụng tích cực cần phải vừa làm vừa nghiên cứu, vừa rút kinh nghiệm. Đây là vấn đề rất phức tạp về mặt lý luận cũng như rất thời sự về mặt thực tiễn ở nước ta. Chúng ta sẽ nghiên cứu kỹ hơn vấn đề này ở phần sau.
II- Một số vấn đề về hoàn thiện chính sách lãi suất ở nước ta hiện nay.
Để việc đổi mới chính sách lãi suất ở nước ta thực hiện đúng hướng, có hiệu quả cần chú ý một số vấn đề sau đây.
1-Tính tất yếu khách quan của việc thực hiện cơ chế lãi suất cơ bản (LSCB) ở nước ta hiện nay.
Trong công cuộc đổi mới nền kinh tế nói chung , và đổi mới hoạt động ngân hàng nói riêng , ngành Ngân hàng đã có những bước tiến dài trong việc thực hiện đổi mới chính sách lãi suất , bao gồm cả việc điều hành lãi suất của NHNN và thực hiện lãi suất của các NHTM , các tổ chức tín dụng , phù hợp với tiến trình và bước đi của việc chuyển hoạt động ngân hàng sang cơ chế thị trường có định hướng của Nhà nước. Sự thống nhất cao độ việc điều hành lãi suất trong nền kinh tế của NHNN ,bao gồm cả lãi suất của hệ thống các NHTM , TCTD và kho bạc Nhà nước; việc giảm bớt các trần lãi suất là chuẩn bị điều kiện tiến tới áp dụng cơ chế điều hành theo LSCB
Tuy còn nhiều hạn chế, khó khăn cần khắc phục nhưng nhìn toàn cục thì ngày nay đất nước đã chuyển sang thời kỳ phát triển kinh tế toàn diện , cơ chế tổ chức hoạt động ngân hàng ngày càng vững mạnh , tiến tới điều hành chính sách lãi suất theo LSCB là hết sức hợp lý.
2- Nắm vững các yêu cầu và mục tiêu cần hướng tới
Việc thực hiện cơ chế điều hành lãi suất mới cần quán triệt 2 yêu cầu cơ bản là(1) Từng bước tự do hoá lãi suất nhưng vẫn đảm bảo sự kiểm soát của Nhà nước đối với thị trường, phù hợp với mục tiêu và diễn biến kinh tế vĩ mô, tiến trình cải cách doanh nghiệp Nhà nước, điều kiện thực tế thị trường tiền tệ trong nước và hạn chế đến mức tối đa rủi ro và tác động xấu của biến động thị trường tiền tệ thế giới. Và (2)-phù hợp với mức độ hội nhập thị trường tài chính khu vực và quốc tế, lãi suất trong nước cần theo sát lãi suất thị trường quốc tế; nghiên cứu và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm về quá trình tự do hoá lãi suất của các nước để áp dụng cho phù hợp với điều kiện cuả Việt Nam.
Với các yêu cầu như trên, chính sách lãi suất mới cần phải hướng tới các mục tiêu sau:
-Trong đièu kiện kinh tế, thị trường tiền tệ hiện nay, cơ chế lãi suất mới không làm tăng mặt bằng lãi suất thị trường, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng huy động vốn ở trong và ngoài nước ở mức cao để đảm bảo vốn cho tăng trưởng tín dụng có chất lượng, đáp ứng yêu cầu của chủ trương kích cầu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định giá trị đối nội và đối ngoại của đồng Việt Nam.
-Tạo điều kiện cho tổ chức tín dụng và khách hàng gửi, vay vốn có thể thoả thuận để lựa chọn lãi suất cố định hoặc lãi suất có điều chỉnh linh hoạt, có lợi cho các bên, khuyến khích các tổ chức tín dụng mở rộng huy động và cho vay vốn trung và dài hạn. Riêng lãi suất cho vay bằng ngoại tệ tuy đã tiếp cận dần với thông lệ quốc tế nhưng sẽ thấp hơn mặt bằng thị trường quốc tế , phù hợp với cung- cầu vốn ngoại tệ thị trường trong nước hiện nay, có lợi cho cả doanh nghiệp và NHTM, tạo điều kiện cho NHTM mở rộng cho vay vốn ngoại tệ, hạn chế việc gửi vốn ngoại tệ ở nước ngoài.
-Tạo khuôn khổ linh hoạt cho các tổ chức tín dụng khi áp dụng lãi suất phù hợp với đặc điểm của từng vùngvà mức độ rủi ro theo thời hạn cho vay và đối tượng khách hàng vay, nhưng NHNN vẫn kiểm soát được lãi suất để tránh việc các tổ chức tín dụng tăng lãi suất cho vay quá mức, ảnh hưởng đến đầu tư của nền kinh tế; thúc đẩy phân bổ vốn tín dụng linh hoạt giữa các lĩnh vực kinh tế, khu vực thành thị và nông thôn phù hợp với sự phát triển không đều của thị trường tài chính nước ta hiện nay.
-Làm cho mối quan hệ giữa lãi suất VNĐ - tỷ giá- lãi suất ngoại tệ linh hoạt hơn, phản ánh được chính xác hơn cung cầu về vốn ngoại tệ; tạo cơ sở cho NHNN khi cần thiết có thể can thiệp để ổn định thị trường.
3-Nắm vững các nguyên tắc hình thành LSCB.
Lãi suất cơ bản được hình thành trên cơ sở nguyên tắc thị trường nhưng với bước đi thích hợp, thận trọng, phù hợp với điều kiện thực tế của thị trường tiền tệ; từng bước tiến tới tự do hoá lãi suất , quốc tế hoá hoạt động tài chính trong nước , đồng thời với các biện pháp phát triển thị trường tiền tệ và nâng cao năng lực tài chính và năng lực điều hành của các tổ chức tín dụng; sử lý lãi suất VND trong mối quan hệ với lãi suất ngoại tệ và chính sách tỷ giá, quản lý ngoại hối. Cụ thể là:
a/ Đối với lãi suất cho vay bằng VND .
NHNN bỏ việc quy định trần lãi suất cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng, chuyển sang xác định và công bố lãi suất cơ bản và tỷ lệ % biên độ trên, dựa trên việc tham khảo lãi suất cho vay ngắn hạn thông thường của các NHTM áp dụng đối với khách hàng vay có uy tín trong việc sử dụng vốn vay, trả nợ, có rủi ro thấp. Lãi suất cho vay và huy động của tổ chức tín dụng gắn với lãi suất cơ bản. Theo đó, lãi suất cho vay của tổ chức tín dụng cao nhất = LSCB + tỷ lệ %.
Lãi suất cơ bản và biên độ được công bố định kỳ hàng tháng, trường hợp cần thiết, NHNN sẽ công bố điều chỉnh kịp thời.
b/ Đối với lãi suất cho vay bằng ngoại tệ.
- Cho vay bằng đôla Mỹ: Bỏ việc quy định trần lãi suất cho vay của NHTM đối với khách hàng, chuyển sang cơ chế lãi suất linh hoạt, phù hợp với thị trường quốc tế nhưng vẫn có sự kiểm soát của Nhà nước, cụ thể là lãi suất cho vay ngắn hạn ( từ 1 năm trở xuống ) không vượt quá mức Sibor (lãi suất thị trường tiền tệ liên ngân hàng Singapore ) kỳ hạn 3 tháng + 1% năm; lãi suất cho vay trung và dài hạn ( từ 1 năm trở lên ) không vượt quá mức Sibor kỳ hạn 6 tháng + 2,5%năm.
- Cho vay bằng các loại ngoại tệ khác: do chiếm tỷ lệ nhỏ trong hoạt động tiền gửi và tín dụng trên thị trường, nên cho phép các NHTM tự xem xét quyết định tiền gửi , lãi suất cho vay của các loại ngoại tệ này trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung-cầu vốn tín dụng của từng loại ngoại tệ ở trong nước.
c/ Các NHTM cung cấp thông tin tham khảo cho NHNN về lãi suất .
4. Cách xác định LSCB.
NHNN nên xác định LSCB dựa trên các cơ sở sau đây:
- Chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế dự kiến hàng năm;
- Chỉ số lạm phát dự kiến trong năm;
- Lãi thực của người gửi tiền được hưởng, nhằm đảm bảo lãi suất tiền gửi là số dương để khuyến khích người gửi vào ngân hàng.
- Yêu cầu của việc điều hành chính sách tiền tệ từng thời kỳ (cần thắt chặt hay nới lỏng tiền tệ);
- Tình hình cung cầu vốn tín dụng trên thị trường;
- Mối quan hệ giữa lãi suất với tỷ giá ngoại tệ, giữa lãi suất nội tệ và lãi suất ngoại tệ.
- Lãi suất thị trường đấu thầu trái phiếu Kho bạc Nhà nước trong các phiên đấu thầu gần nhất.
- Phải căn cứ vào yếu tố sự lãnh đạo chính trị của Đảng và Nhà nước .
5- Vấn đề tự do hoá lãi suất ở Việt Nam.
Từ thực tế ở nước ta và ở nhiều nước trên thế giới cho thấy những bất lợi của cơ chế kiểm soát lãi suất trực tiếp. Với cơ chế kiểm soát lãi suất trực tiếp(Nhà nước ấn định tất cả các loại lãi suất, các ngân hàng và các tổ chức tín dụng phải tuân theo một cách tuyệt đối)chỉ phù hợp với những nước đang phát triển, với thị trường tài chính sơ khai và mức độ cạnh tranh kém, chưa có công cụ kiểm soát tiền tệ gián tiếp và hạn chế trong năng lực quản lý điều hành. Tuy nhiên, nó cũng gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Đó là: cản trở phát triển kinh tế ; Làm suy giảm chức năng trung gian tài chính của hệ thống ngân hàng vì nguồn tiết kiệm và tích luỹ sẽ chảy ra thị trương tài chính phi chính thức và không bị quản lý; làm giảm hiệu quả của việc kiểm soát tiền tệ, vì sự gia tăng và mở rộng các thị trường không được kiểm soát ; không có lợi cho cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng .
Như vậy,chính sách kiểm soát lãi suất có những hạn chế rất lớn và có những tác động một cách tiêu cực tới sự phát triển của nền kinh tế. Muốn phát triển nền kinh tế một cách mạnh mẽ, lành mạnh, nhất thiét phải từ bỏ cơ chế kiểm soát này để có thể tận dụng được mọi nguồn lực trong nước nhằm tránh sự lãng phí.Tuy nhiên, nếu từ bỏ cơ chế kiểm soát lãi suất thì có nên áp dụng cơ chế tự do hoá lãi suất?
Theo tác giả Lê Văn Tuyên (Điều hành lãi suất tiến tới tự do hoá - Tạp chí Ngân hàng - Số chuyên đề T7 - 1999), tự do hoá lãi suất có những ưu điểm sau:
Thứ nhất, lãi suất được tự do hoá biến động theo cung cầu về vốn, có thể phân bổ nguồn vốn tín dụng khan hiếm cho những người vay một cách có hiệu quả nhất; đồng thời đảm bảo thu hút tiền gửi với chi phí hợp lý nhất được cả ngân hàng và người gửi chấp nhận.
Thứ hai, việc thực hiện tự do hoá lãi suất giúp cho việc hình thành mức lãi một cách khách quan, từ thị trường, nên nó giải quyết được mâu thuẫn muôn thủa nảy sinh giữa người đi vay và người cho vay(Người đi vay muốn thấp, người cho vay muốn cao).
Thứ ba, Tự do hoá lãi suất phù hợp với xu hướng toàn cầu hoá hiện nay, trong đó, toàn cầu hoá tài chính là điển hình nhất của quá trình này.Hiện nay, một thách thức lớn là giảm kiểm soát tiền tệ bằng các công cụ trực tiếp như qui định trần lãi suất; thay vào đó, để đảm bảo kiểm soát tiền tệ được hiệu quả, các nước dần chuyển sang thực hiện các công cụ kiểm soát tiền tệ gián tiếp như nghiệp vụ thị trường mở, tái chiết khấu, hợp đồng mua lại..., tức là các công cụ định hướng thị trường. Để đảm bảo hội nhập thành công trong lĩnh vực tài chính trước hết lãi suất phải được tự do hoá.
Thứ tư, tự do hoá cho phép hệ thống ngân hàng tự chủ hơn, và điều đó sẽ dẫn đến lãi suất tiền gửi và tiền vay cao hơn. Những thay đổi như vậy trong lĩnh vực tài chính sẽ tác động đến các doanh nghiệp và các hộ gia đình khiến họ thay đổi hành vi tiết kiệm và đầu tư của mình theo hướng có lợi cho tăng trưởng kinh tế. Tăng lãi suất tiền gửi sẽ làm tăng tỷ lệ tiết kiêm nội địa, và do đó sẽ thay thế cho nguồn đi vay nước ngoài để tài trợ cho đầu tư. Nguồn tiết kiệm nội địa này được truyền tải thông qua hệ thống tài chính ngân hàng chính thức mà không phải qua thị trường tiền tệ không chính thức. Tiết kiệm trong nước tăng lên và mức lãi suất thực cao hơn dẫn đến mở rộng đầu tư và làm tăng hiệu quả đầu tư. Kết quả là làm tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế. Hơn nữa việc tăng lãi suất có thể thu hẹp được khoảng chênh lệch giữa lãi suất nội tệ và lãi suất ngoại tệ, từ đó có thể tránh được hiện tượng ngoại tệ hoá(tức là người dân trong nước sẽ không găm giữ ngoai tệ như trước đây khi lãi suất chênh lệch quá lớn giữa hai đồng tiền) nền kinh tế
Những lý do trên đã cho chúng ta thấy việc tiến hành thực hiện tự do hóa lãi suất là cần thiết cho bất cứ một quốc gia nào mong muốn phát triển nền kinh tế của nước mình một cách lành mạnh, còn ở Việt Nam việc điều hành lãi suất tiến tới tự do hoá lãi suất trong thời gian tới sẽ có xu hướng như thế nào?
Tuy nhiên, có nên thả nổi lãi suất trong điều kiện hiện nay không?
Nhiều nước, cả phát triển và đang phát triển đã thực hiện các bước để tự do hoá hệ thống tài chính trong thập kỷ vừa qua. Lãi suất đã được tự do hoá ở Achentina, úc, Chi Lê, Pháp, Nhật Bản, Indonesia, Malaysia, Nigeria, Philipines, New Zealand, Hàn Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, Mỹ...ở những nước khác , chẳng hạn Thái Lan và Nam Tư, trần lãi suất được quản lý mềm dẻo hơn trước đây.
Các công trình nghiên cứu cho thấy, áp đặt mức lãi suất trần cứng nhắc đã kìm hãm tăng trưởng tiết kiệm và giảm hiệu quả đầu tư. Tự do hoá tài chính ( đặc biệt là tự do hoá lãi suất ) góp phần huy động nguồn lực thông qua hệ thống tài chính chính thức và nâng cao hiệu quả hệ thống tài chính, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy vậy, tại sao mức độ thành công tự do hoá tài chính của các quốc gia khác nhau lại không giống nhau, thậm chí gây hiệu quả tiêu cực? Câu trả lời nằm trong cách thức và tiến trình tự do hoá. Đến lượt mình, cách thức và tiến trình tự do hoá lại phụ thuộc vào xuất phát điểm của mỗi nước( mức độ kiểm soát tài chính, đặc điểm và tính chất của hệ thống tài chính, khả năng và trình độ quản lý của các cấp quản lý vĩ mô...) , vào điều kiện quốc tế trong từng giai đoạn tự do hoá ( xu hướng chung về cải cách tài chính, quyền lợi và mâu thuẫn của các cường quốc tài chính, trạng thái tài chính quốc tế như khủng hoảng, suy thoái hay đang phát triển ).
Tóm lại, những tác động bên trong và bên ngoài đòi hỏi tự do hoá tài chính phải rất thận trọng, bất kỳ sự nhảy vọt nào từ cực này( hạn chế quá mức) sang cực kia( tự do quá mức) đều dẫn tới khủng hoảng và tình trạng vô chính phủ. Bên cạnh đó, các nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế như tiết kiệm, đầu tư là kết quả tổng hợp của nhiều giải pháp vĩ mô và chiến lược phát triển kinh tế chứ không chỉ phụ thuộc vào tự do hoá lãi suất hay sự thả nổi tỷ giá. Trong trường hợp khủng hoảng và thất bại của Bra-xin, Thổ Nhĩ Kỳ, Chi Lê, Achentina những năm 80 và đầu thập kỷ 90 cũng như của Đông Nam á hiện nay trong tự do hoá tài chính cho thấy, mặc dù nền tài chính được tự do hoá mạnh mẽ nhưng kinh tế vĩ mô lại mất ổn định, tỷ lệ tiết kiệm trong nước suy giảm, lợi nhuận của các doanh nghiệp giảm, thiếu vốn đầu tư trầm trọng. Chính sách tự do hóa lãi suất và lãi suất thực cao ở các nước này làm trầm trọng thêm vấn đề nợ nhà nước, nợ quá hạn, nợ khó đòi và NHTƯ phải tài trợ những thâm hụt của khu vực công cộng. Ngay những nước phát triển, nếu thiếu sự kiểm soát và điều tiết thích hợp của Nhà nước đối với khu vực tài chính thì khủng hoảng lại xuất hiện.
Tự do hoá tài chính (mà hạt nhân là tự do hóa lãi suất) phải tiến hành từng bước, gắn liền với đổi mới toàn bộ nền kinh tế, với tự do hóa các lĩnh vực khác, với củng cố hành lang pháp lý, nhận thức của nhân dân, trình độ quản lý nền kinh tế và cả với thói quen, truyền thống của dân tộc. Việt Nam trong thời điểm hiện nay chưa đủ điều kiện để tự do hóa lãi suất vì một số yếu tố sau đây:
+ Nền tảng kinh tế vĩ mô vẫn chưa ổn định: nguy cơ tái lạm phát vẫn còn tiềm ẩn (lạm phát tăng từ 3,6% năm 1997 lên 9,2% trong năm 1999); ngân sách Nhà nước vẫn còn căng thẳng, tích luỹ nội địa thấp, vốn đầu tư còn thiếu và phụ thuộc khá lớn vào vốn đầu tư nước ngoài (đến 50%).
+ Xuất phát điểm của nền kinh tế ở mức quá thấp.
+ Khu vức sản xuất (nhất là khu vực Nhà nước) hoạt động kém hiệu quả, đang trong giai đoạn chấn chỉnh, sắp xếp, cổ phần hoá...
+ Hiện nay, các cộng cụ tài chính như thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác, để thực hiện nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu chưa được phổ biến. Hơn nữa, nghiệp vụ tái cấp vốn của NHNN chưa thực hiện đúng nội dung kinh tế của nó, chủ yếu còn mang tính chất cho vay trực tiếp. Do đó, công cụ lãi suất tái chiết khấu chưa đủ sức mạnh chi phối lãi suất thị trường.
+ Nghiệp vụ thị trường mở chưa ra đời cũng gây khó khăn cho việc điều tiết cung ứng tiền và lãi suất.
+ Tình hình kinh tế, tài chính các nước trong khu vực và thế giới, sau cuộc khủng hoảng vừa qua đang phải đối đầu với nhiều khó khăn, thách thức.
+ Trình độ quản lý kinh tế của các cơ quan vĩ mô trong những năm qua đã có những bước tiến khá dài, nhưng so với yêu đặt ra vẫn chưa thể đáp ứng ngay được.
Phần III: Kết luận và kiến nghị
Từ những nghiên cứu về lý luận và thực tiễn tình hình lãi suất ở Việt Nam trong một số năm gần đây , có thể rút ra một số kết luận bước đầu và kiến nghị như sau:
1- Kết luận.
1.1-Sau hơn10 năm đổi mới, chính sách lãi suất tín dụng ngân hàng ở nước ta đã có những chuyển biến nhanh chóng và sâu sắc.Với thời gian chỉ hơn 10 năm , chính sách lãi suất ở nước ta đã trải qua 4-5 lần thay đổi . Điều này nói lên quyết tâm rất cao của Nhà nước ta trong đổi mới đổi mới kinh tế nói chung và trong chính sách lãi suất nói riêng. Đồng thời nó cũng nói lên sự trưởng vượt bậc của hệ thống tài chính -tín dụng và các hoạt động khoa học trong lĩnh vực này ở nước ta. Nhờ vậy,Chính sách lãi suất đang có những bước đi đúng hướng, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế trong nước và xu thế phát triển trên thế giới
1.2-Hiệu quả của chính sách lãi suất ở nước ta thời gian qua là rõ ràng . Nó đã tạo điều kiện cho đầu tư phát triển, thúc đẩy sản xuất, góp phần ổn định nền kinh tế.Có thể đây là một trong những yếu tố quan trọng giúp cho nền tài chính nước ta không bị ảnh hưởng nhiều trước cuộc khủng hoảng tài chính quốc tế vừa qua.
2-Kiến nghị
Để tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hơn nữa chính sách lãi suất ở nước ta, xin được kiến nghị 2 vấn đề sau đây:
2.1- NHNN cần tiếp tục nghiên cứu việc đưa lãi suất cơ bản vào sử dụng sao cho có hiệu quả. Việc lựa chọn loại lãi suất cơ bản nào cho phù hợp với điều kiện nước ta là vấn đề có ý nghĩa cốt tử.
2.2-Cần đi sâu nghiên cứu vấn đề tự do hoá lãi suất về mặt lý luận cũng như về mặt thực tiễn. Việc tiến tới tự do hoá lãi suất là xu thế tất yếu nhưng nó sẽ là có tác dụng tích cực chỉ khi chúng ta có đủ các điều kiện phù hợp.Vì vậy việc tiếp tục nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài và đặc biệt nghiên cứu thực tiễn trong nước cần được tiến hành thường xuyên, nghiêm túc. Đó là biểu hiện cụ thể của sự thận trọng và có trách nhiệm .
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Các Mác - Tư bản - Tập 1 - Quyển thứ nhất - NXB Sự thật. 1960.
2. Lê Vinh Danh - Tiền và hoạt động ngân hàng - NXB Chính trị quốc gia .1997.
3. F.S.Mishkin - Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính - NXB Khoa học và kỹ thuật. 1999.
4. PTS. Nguyễn Ngọc Hùng - Lý thuyết tài chính tiền tệ - NXB Thống kê. 1999.
5. Những vấn đề cơ bản về kinh tế vĩ mô - Trường ĐHKTQD HN - NXB Thống kê 1998.
6. Tạp chí ngân hàng.
7. Tạp chí tài chính.
8. Tạp chí nghiên cứu kinh tế.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8515.doc