Đề tài Một số vấn đề về hợp đồng kinh tế

Không đảm bảo tư cách chủ thể của quan hệ hợp đồng, một trong các bên ký kết hợp đồng không có giấy phép đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật để thực hiện công việc đã thoả thuận trong hợp đồng, nếu pháp luật quy định về thực hiện công việc đó đòi hỏi cả hai bên phải có đăng ký kinh doanh mà một trong các bên không có đăng ký kinh doanh thì hợp đồng kinh tế đó bị coi là vô hiệu toàn bộ. Nếu pháp luật quy định chỉ cần một bên có đăng lý kinh doanh (ví dụ: bên bán, bên làm dịch vụ, bên nhận thầu, bên chủ phương tiện vận tải ) mà bên đó không có đăng ký kinh doanh thì hợp đồng đó cũng bị coi là vô hiệu toàn bộ. - Người ký hợp đồng không đúng thẩm quyền hoặc có hành vi lừa đảo. Những ký kết hợp đồng không đúng thẩm quyền tức là người đó không phải là đại diện hợp pháp, không phải là người được uy quyền hoặc được uỷ quyền nhưng vượt quá phạm vi uỷ quyền mà nội dung ký hợp đồng nằm toàn bộ trong phạm vi vượt quá uỷ quyền đó. Khi người ký kết hợp đồng có hành vi lừa đảo như giả danh, giả mạo giấy tờ, chữ ký, con dấu, thì hợp đồng đó được coi là vô hiệu toàn bộ. Đối với hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu toàn bộ, dù cacds bên chưa thực hiện, đang thực hiện hoặc đã thực hiện xong đều phải xử lý theo quy định của pháp luật. Cụ thể như sau: + Nếu nội dung công việc trong hợp đồng chưa thực hiện thì các bên không được phép thực hiện.

doc23 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1400 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số vấn đề về hợp đồng kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục Trang Lời mở đầu 2 I. Khái niệm về hợp đồng kinh tế 3 II. Hợp đồng kinh tế theo quy định pháp luật hiện nay 4 III. Kiến nghị sửa đổi bổ sung các quy định về đại diện, người uỷ quyền trong quan hệ kinh tế 20 Lời mở đầu. Nước ta đã xoá bỏ chế độ bao cấp để chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng chủ nghĩa xã hội. Và trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần các hoạt động kinh tế diễn ra rộng khắp giữa các thành phần kinh tế do đó hình thức giao dịch, trao đỏi bằng hợp đồng ngày càng được áp dụng rộng rãi. Nó là phương tiện để tiến hành các hoạt động kinh tế an toàn và hợp pháp. Bởi vì xét theo khía cạnh pháp lý hợp đòng cũng là công cụ để Nhà nước quản lý nền kinh tế. Các chủ thể của hợp đồng thông qua hợp đồng thể hiện được ý chí của mình và nhận được sự đảm bảo từ hợp đồng do pháp luật bảo hộ. Và vì lý do đó nên em chọn đề tài tiểu luận của mình là : "Một số vấn đề về hợp đồng kinh tế" đây là bài viết mang tính khoa học nên không tránh khỏi những hạn chế và sai sót. Kính mong khoa chỉ dẫn và giúp đỡ em. Em xin chân thành cảm ơn. I. khái niệm về hợp đồng kinh tế . Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25-9-1989 đã xác định khái niệm hợp đồng kinh tế như sau : "Hợp đồng kinh tế là sự thoả thuận bằng văn bản ,tài liệu giao dịch giữa các bên ký kết về việc thực hiện công việc sản xuất trao đổi hàng hoá ,dịch vụ ,nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và các thoả thuận khác có mục đích khinh doanh với sự quy định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của mỗi bên để xây dựng và thực hiện kế hoạch của mình ."(điều 1) Quy định trên đây cho ta thây rõ những tính chất ,đặc điểm của hợp đồng kinh tế trong điều kiện đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo cơ chế thị trường có sự định hướng và điều tiết vĩ mô của nhà nước .về thực chất ,hợp đồng kinh tế là mối quan hệ kinh tế là mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể kinh tế đã ký kết ,đó là mối quan hê ý chí được xác lập một cách tự nguyện ,bình đẳng thông qua hình thức văn bản ,phù hợp với pháp luật , với đạo đức và trật tự xã hội . hợp đồng kinh tế là hình thức pháp lý của các quan hệ tài sản mang tính chất hàng hoá -tiền tệ .Nó mang đầy đủ các yếu tố đặc trưng vốn có của hợp đồng .nhưng khác với hợp đồng dân sự ,hợp đông kinh tế có những điểm riêng sau đây: Mục đích của hợp đồng kinh tế được ký kết nhằm phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh .hợp đồng kinh tế là hình thức pháp lý của các quan hệ trao đổi ,mua bán hàng hoá ,vật tư ,dịch vụ nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật nhằm mục đích sản xuất kinh doanh ,phục vụ viẹc xây dựng và thực hiện kế hoạch của chính các bên ký kết hợp đồng .khác với hợp đồng kinh tế ,hợp đồng dân sự lại chủ yếu nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu sinh hoạt ,tiêu dùng của chủ thể tham gia ký kết hợp đồng . Trong nhiều trường hợp ,tính chất của hợp đồng không phụ tuộc vào chủ thể của hợp đồng Theo quy định của pháp luật về hợp đồng kinh tế thì hợp đong kinh tế thì hợp đồng kinh tế được ký kết giữa : + Pháp nhân với pháp nhân +Pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật ở một số trường hợp mặc dù hợp đồng được ký kết với mục đích kinh doanh song vẫn bị coi là hợp đồng dân sự : Ví dụ: một cá nhân ký kết hợp đồng (có đăng ký kinh doanh )và với mục đích kinh doanh song không thành lập doanh nghiệp tư nhân (theo luật doanh nghiệp ) thì hợp đồng đó vẫn bị coi là hợp đồng dân sự nếu xảy ra tranh chấp chỉ là tranh chấp dân sự . -Một bên ký kết hợp đồng vơí mục đích kinh doanh song lại không đăng ký kinh doanh thì hợp đồng đó là hợp đồng kinh tế vô hiệu ,bị coi là hợp đồng dân sự ,tranh chấp xảy ra là tranh chấp dân sự . Hợp đồng kinh tế phải ký kết bằng văn bản và đây là một quy định bắt buộc mà các chủ thể của hợp đồng phải tuân theo .Văn bản này là sự ghi nhận rõ ràng về quyền và nghĩa vụ mà các bên đã thoả thuận với nhau ,là cơ sở pháp lý để các bên tiến hành thực hiện các điều đã cam kết ; để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra tính hợp pháp của mối quan hệ kinh tế và giải quyết các tranh chấp ,xử lý vi phạm nếu có II-hợp đồng kinh tế theo quy định pháp luật hiện nay Chủ thể được ký kết hợp đồng kinh tế Hợp đồng kinh tế là hợp đòng trong lĩnh vực kinh doanh vì vậy chỉ những đơn vị kinh doanh hoặc cá nhân kinh doanh mới có thể là chủ thể của hợp đồng kinh tế .muốn ký kết hợp đồng kinh tế ,đơn vị kinh doanh phải là pháp nhân ,cá nhân kinh doanh va đăng ký kinh doanh tịa cơ quan nhà nước có thẩm quyền .theo điều 2 của pháp lệnh "Hợp đồng kinh tế được ký kết giữa pháp nhân với pháp nhân hay pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật " Như vậy , trong mối quan hệ hợp đòng kinh tế ít nhất phải có một bên là pháp nhân ,còn bên kia có thể là pháp nhan ,có thể là cá nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật và phải ký kết trong phạm vi nghành nghề đăng ký . Ngoài ra ,pháp luật cũng quy định những người làm công tác khoa học -kỹ thuật ,nghệ nhân ,hộ kinh tế gia đình ,hộ nông dân ,ngư dân cá thể ,các tổ chức và cá nhân người nước ngòai ở Việt nam cũng có thẻ trở thành chủ thể của hợp đồng kinh tế khi họ ký kết hợp đồng với một pháp nhân Việt Nam (điều 42,43 của pháp lệnh hợp đồng kinh tế) Khi tiến hành ký kết hợp đồng kinh tế mỗi bên tham gia quan hệ hợp đồng kinh tế chỉ cần cử ra một đại diện để ký kết hợp đồng .nếu là pháp nhân thì người ký kết hợp đòng phải là người hiện đang nắm giữ chức vụ đứng đầu pháp nhân đó .Nếu là cá nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của của pháp luật ,thì người ký hợp đòng phải là ngưòi đứng tên trong giấy phép kinh doanh (đã đăng ký kinh doanh theo đúng quy định của pháp luật và được cấp giấy pháep kinh doanh ) Trong trường hợp một bên là ngưòi làm công tác khoa học ,kỹ thuật ,nghệ nhân thì người ký hợp đồng kinh tế phải là người trực tiếp thực hiện công việc trong hợp đồng Khi một là hộ gia đình nông dân ,ngư dân cá thể thì đại diện ký kết hợp đồng kinh tế phải là chủ hộ .khi một bên là tổ chức nước ngoài tại việt nam thì đại diện tổ chức đó phải được uỷ nhiệm băng văn bản . nếu là cá nhân nước ngoài ở việt nam thì bản thân họ phải là người ký kết các hợp đồng kinh tế . Đại diện ký kết hợp đòng kinh tế trên đây đồng thời là đại diện đương nhiên trong quá trình thực hiện HĐKT và trong tố tụng KT trước toà . Người đại diện đương nhiên của các chủ thể HĐKT có thể uỷ quyền cho ngưòi khác thay mình ký kết ,thực hiện hợp đồng kinh tế .Việc uỷ quyền phải được thể hiện duới hình thức bằng văn bản .văn bản uỷ quyền ghi rõ họ tên , chức vụ của người uỷ quyền ,người được uỷ quyền ,thời hạn uỷ quyền và phải có chữ ký xác nhận của hai người .Người được uỷ quyền chỉ được phép hành động trong phạm vi được uỷ quyền và không được uỷ quyền cho người khác .trong phạm vi uỷ quyền ,người uỷ quyền phải chịu trách nhiệm về hành vi của ngưòi được uỷ quyền như hành vi của chính mình. 2-Thủ tục ký kết hợp đồng kinh tế Hợp đồng kinh tế cần được ký kết theo thủ tục và trình tự nhất định ,thủ tục,trình tự ký kết hợp đồng kinh tế là các cách thức,các bước ,các hành vi mà các bên phải tiến hành nhằm xác lập một quan hệ hợp đồng có hiệu lực pháp lý.Để xác lập một quan hệ hợp đồng kinh tế có hiệu lực pháp lý ,các bên có thể lựa chọn một trong hai cách ký kết hợp đồng kinh tế như sau : a) Ký kết hợp đồng bằng cách trực tiếp diễn ra trong các trường hợp đại diện của các bên (hoặc đại diện theo pháp luật ,đại diện theo uỷ quyền ) trực tiếp gặp nhau để bàn bạc ,thoả thuận thống nhất ý chí ,xác định các điều khoản của hợp đồng và cùng ký vào văn bản .hợp đồng được coi là hình thành và có hiệu lực pháp lý từ thời điểm hai bên ký vào vào văn bản . b)Ký kết hợp đồng bằng cách gián tiếp là cách ký kết mà trong đó các bên tiến hành gửi cho nhau taì liệu giao dịch (công văn ,điện báo ,đơn chào hàng ,đơn đặt hàng )chứa nội dung cần giao dịch .việc ký hợp đong kinh tế bằng phương pháp ký gian tiép đòi hỏi phải tuân theo trình tự nhất định ,thông thường trình tự này ít nhất cũng gồm hai bước : Bước 1: một bên lập dự thảo (đề nghị )hợp đồng trong đó đưa ra những nội dung giao dịch (tên hàng hoặc công việc ,số lượng ,chất lưọng ,thời gian ,địa điểm ,phương thức giao nhận .. .. ..)và gửi cho bên kia . Bước 2: bên nhận được đề nghị hợp đồng trả lòi cho bên đề nghị hợp đồng bằng văn bản trong đó ghi rõ nội dugn chấp nhận ,nội dung không chấp nhận ,những đề nghị bổ xung .. Trong trường hợp ký kêt theo cách ký gián ,hợp đồng kinh tế dược coi là hình thành và có giá trị pháp lý từ khi các bên nhận được tài liệu giao dịch thể hiện sự thoả thuận xong những điều khoản chủ yếu của hợp đồng . Dù ký kêt bằng phương pháp ký trực tiếp hay gián tiếp ,những hợp đồng kinh tế đượchình thành đều có hiệu lực pháp lý như nhau và các bên đều phải nghiêm chỉnh thực hiện các điều khoản đã cam kết .Để hợp đồng kinh tế có hiệu lực ,việc thoả thuận của các bên phải đảm bảo những điều kiện sau : -Nội dung thoả thuận không vi phạm pháp luật . -Phải đảm bảo điều kiện chủ thể của hợp đòng . -Đại diện ký kết hợp đông phải đúng thẩm quyền . -Nếu không đảm bảo một trong các điều kiện trên hợp đồng sẽ trở thanhf vô hiệu Mỗi cách ký kết đều có một ưu điểm và nhựoc điểm riêng của nó ,lựa chọn cách nào là quyền của cá chủ thể ký kết ,song việc lựa chọn luôn luôn phải tính đến hiệu quả kinh tế ,thời cơ kinh doanh .Các chủ thể cũng có thể kết hợp cả hai phương pháp ký kết để xác lập mối quan hệ hợp đồng kinh tế . 3-Nội dung hợp đồng kinh tế . Nội dung hợp đòng kinh tế là toàn bộ những điều khoản mà các bên đã thoả thuận ,thể hiện quỳen và nghĩa vụ ràng buộc giữa các bên với nhau .Về phương diện khoa học pháp lý ,căn cứ nội dung,tính chất ,vai trò của các điều khoản của hợp đồng được chia ra làm 3 loại điều khoản sau : a) Điều khoản chủ yếu : là những điều khoản cơ bản ,quan trọng nhất của hợp đòng kinh tế .khi xác lập hợp đồng ,các bên phải thoả thuận và ghi các điều khoản chủ yếu vào ban hợp đồng , nếu không ghi vào hợp đồng thì hợp đồng không có giá trị. Ví dụ :trong hợp đồng mua bán ,những điêuù khoản chủ yếu là :đối tượng ,,số lượng ,chất lượng ,giá cả . b) Điều khoản thường lệ :là những điều khoản đã được pháp luật ghi nhận hoặc được tập quán kinh doanh thừa nhận .nếu các bên không ghi vào văn bản hợp đồng thì coi như các đã mặc nhiên công nhận và có nghĩa vụ thực hiện những quy định đó .nếu các bên thoả thuận ghi vào văn bản hợp đồng thì không được ghi trái với những điều đã quy định đó ..ví dụ :điều khoản về bồi thường thiệt hại ,về khung phạt vi phạm hợp đồng kinh tế . c)Điều khoản tuỳ nghi :là những điều khoản do các bên tự thoả thuận với nhau khi chưa có quy định của Nhà nước hoặc đã có quy định nhưng các bên được phép vận dụng linh hoạt vào hoàn cảnh thực tế của mình mà không trái pháp luật .điều khoản này các bên cũng phải ghi nhận vào văn bản hợp đồng .ví dụ :điều khoản thưởng vật chất ,điều khoản áp dụng mức phạt cụ thể khi vi phạm các điều khoản của hợp đồng trong khung phạt mà pháp luật đã quy định . Theo điều 12pháp lệnh hợp đồng kinh tế ,nội dung của hợp đồng kinh tế bao gồm những điều khoản sau : +Ngày tháng năm ký kết hợp đồng kinh tế ,tên ,địa chỉ ,số tài khoản và ngân hàng giao dịch của các bên ,họ ,tên người đại diện ,ngưòi đứng tên đăng ký kinh doanh . +Đối tượng của hợp đồng kinh tế tính bằng số lượng ,khối lượng hoặc giá tri quy đã ước thoả thuận +Chất lượng, chủng loại ,quy cách phẩm chất ,tính đồng bộ của sản phẩm hàng hoá hoặc yêu cầu kỹ thuật công việc . +Giá cả +Bảo hành +Điều kiện nghiệm thu ,giao nhận . +Phương thức thanh toán . +Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng kinh tế . +Thời hạn ,hiệu lực của hợp đồng . +Các biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng kinh tế. +Các thoả thuận khác . 4-Các biện pháp bảo đảm thực hiện Hợp đồng Kinh tế Để đảm bảo thực hiện Hợp đồng Kinh tế ,các bên có thể thoả thuận ghi vào hợp đồng việc thực hiện các biện pháp bảo đảm . Loại biện pháp bảo đảm mang tính chất hành chính được pháp luật quy định là :các bên có thể đăng ký hợp đồng hoặc làm chứng thư hợp đồng tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền . Loại biện pháp bảo đảm mang tính chất kinh tế bao gồm :thế chấp ,cầm cố ,bảo lãnh tài sản . Các biện pháp đảm bảo được áp dụng theo quy định của pháp luật ,trong trường hợp một bên đè nghị áp dụng bên kia chấp nhận .trường hợp một bên đề nghị mà bên kia không có đièu kiện để chấp nhận thì có thể hợp đồng kinh tế đó không được hình thành . nếu các bên thấy không cần thiết phải áp dụng các biện pháp đảm bảo trong thực hiện hợp đồng kinh tế thì các bên có quyền không áp dụng (trừ trường hợp pháp luật bắt buộc phải áp dụng đối với một số Hợp đồng Kinh tế ) Các biện pháp đảm bảo thực hiện Hợp đồng Kinh tế co thể được các bên áp dụng một cách riêng lẻ (áp dụng từng biện pháp )hoặc kết hợp áp dụng nhiều biện pháp trong một quan hệ hợp đồng .vì quan hệ Hợp đồng Kinh tế là quan hệ hàng hoá _tiền tệ ,đảm bảo thực hiện hợp đồng là đảm bảo cho việc hoàn thành quan hệ hàng _tiền .vì vậy ,các biện pháp đảm bảo mang tính chất kinh tế là những biện pháp thường được chủ thể áp dụng. Theo quy định pháp luật hiện hành ,có mấy biện pháp sau đây: thế chẩp taì sản . Thế chấp tài sản là dùng bất động sản hoặc giá trị tài sản khác thuộc quyên sở hữu của mình để đam bảo tài sản cho việc thực hiện Hợp đồng Kinh tế đã ký kết .việc thế chấp tài sản phải được làm thành văn bản riêng ,có sự xác nhận của cơ quan công chứng nhà nước hoặc cơ quan có thẩm quyền đăng ký kinh doanh (trương hợp không có cơ quan công chứng nhà nước ). Người thế chấp tài sản có nghĩa vụ bảo đảm nguyên giá trị của tài sản thế chấp ,không được chuyển dịch sở hữu hoặc chuyển giao tài sản đó cho người khác trong thời gian văn bản thế chấp còn hiệu lực . 2-Cầm cố tài sản . Cầm cố tài sản là trao động sản thuộc quyên sở hữu mình cho ngưòi cung quan hệ Hợp đồng Kinh tế để làm tin và bảo đảm tài sản trong trường hợp vi phạm Hợp đồng Kinh tế đã ký kết . việc cầm cố phải đựoc làm thành văn bản riêng ,có chữ ký của các bên xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền như trường hợp thế chấp tài sản .người giư vật cầm cố cho người khác trong thời gian văn bản cầm cố có hiệu lực. 3-Bảo lãnh tài sản Bảo lãnh tai sản là sự bảo đảm bằng tài sản tuộc quyền sở hữu của người nhận bảo lãnh để chịu trách nhiệm tài sản thay cho ngưòi được bảo lãnh khi người này vi phạm Hợp đồng Kinh tế đã ký kết .người nhận bảo lãnh phải có số tài sản không ít hơn số tài sản mà người đó nhận bảo lãnh .việc bảo lãnh tài sản phải được lam thành văn bản ,có sự xác nhận về tài sản của ngân hàng nơi ngưòi bảo lãnh giao dịch ,của cơ quan công chứng nhà nước hoặc cơ quan có thẩm quyền đăng ký kinh doanh (trường hợp không có cơ quan công chứng nhà nước ). Việc xử lý các tài sản thế chấp ,cầm cố ,bảo lãnh khi có vi phạm Hợp đồng Kinh tế được thực hiện cùng với việc giải quyết tranh chấp Hợp đồng Kinh tế tại cơ quan có thẩm quyền .đó là toà án kinh tế thuộc toà án nhân dân hoặc các trung tâm trọng tài kinh tế . 5. Thực hiện hợp đồng kinh tế Thực hiện hợp đồng kinh tế là hành vi của các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng nhằm làm cho các điều khoản đã cam kết trong hợp đồng trở thành hiện thực. Thực hiện hợp đồng kinh tế đã ký kết là nghĩa vụ của các đơn vị kinh tế . Các đơn vị kinh tế phải thực hiện nghiêm chỉnh những điều đã cam kết trong hợp đồng. Hợp đồng kinh tế được coi là thực hiện xong khi các bên hoàn thành đầy đủ các quyền và nghĩa vụ đã thoả thuận trong hợp đồng. Pháp luật hợp đồng kinh tế quy định nghĩa vụ của các bên trong việc thực hiện đúng các điều khoản của hợp đồng kinh tế 5.1. Thực hiện đúng điếu khoản số lượng Điều khoản về số lượng là một trong những điều khoản chủ yếu trong nội dung của hợp đồng kinh tế thực hiện đúng về số lượng tức là giao đầy đủ số lượng, trọng lượng hàng hoá, khối lượng công việc như đã thoả thuận. Trong khi giao nhận các bên phải tiến hành kiểm tra số lượng hoặc trọng lượng hàng hoá bằng các phương pháp cân đo đong đếm chính xác và lập biên bản giao hàng. Trong quá trình kiểm tra khi giao nhận, nếu các bên phát hiện ra sự thiếu hụt hàng hoá thì phải tìm nguyên nhân của sự thiếu hụt để quy trách nhiệm vật chất. Sản phẩm giap không đúng số lượng thì bên nhận chỉ thanh toán theo số thực nhận, còn số sản phẩm thiếu thì bên giao phải giao tiếp sau đó. Đối với sản phẩm được giao không đồng bộ v à không sử dụng được thì bên nhận có quyền từ chối nhận và từ chối thanh toán sản phẩm hàng hoá, công việc cho đến khi hoàn thành đồng bộ. Trong trường hợp giao hàng hoá không đồng bộ, bên nhận được lựa chọn một trong hai cách sử lý sau: - Yêu cầu bên vi phạm phải hoàn thành đồng bộ sản phẩm, hàng hoá, công việc rồi mới nhận. Nếu phải chờ hoàn thành đồng bộ mà hợp đồng không được thực hiện đúng hạn thì bên vi phạm phải chịu vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại giống như trường hợp vi phạm thời hạn thực hiện hợp đồng. - Nhận sản phẩm hàng hoá chưa hoàn thành đồng bộ với điều kiện bên vi phạm chịu phạt vi phạm hợp đồng vì không hoàn thành đồng bộ và trả các chi phí cần thiết để hoàn thành đồng bộ. Các trường hợp giao hàng thiếu đều bị coi là vi phạm hợp đồng ở điều khoản số lượng và phải chịu trách nhiệm vật chất như quy định của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế . 5.2. Thực hiện đúng điều khoản về chất lượng hàng hoá hoặc công việc. Điều khoản chất lượng cũng là một điều khoản chủ yếu của hợp đồng kinh tế . Điều khoản này được thoả thuận dựa trên cơ sở các quy định về chất lượng, tiêu chuẩn kỹ thuật của Nhà nước hoặc tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm của các đơn vị đã đăng ký tại cơ quan tiêu chuẩn đo lường chất lượng Nhà nước có thẩm quyền. Các bên có nghĩa vụ thực hiện đúng chất lượng hàng hoá công việc như đã thoả thuận. Giao hàng đúng chất lượng có nghĩa là hàng được giao phải đảm bảo khả năng sử dụng (theo tiêu chuẩn chất lượng). đảm bảo đúng phẩm chất, bao bì, đóng gói, quy cách, c hủng loại của sản phẩm của Nhà nước, của ngành, của đơn vị cơ sở hoặc theo sự thoả thuận của các bên. - Hoặc không nhận sản phẩm hàng hoá, công việc không đúng chất lượng sản phẩm, phạt vi phạm và đòi bồi thường thiệt hại giống như trường hợp không thực hiện hợp đồng. - Hoặc nhận sản phẩm hàng hoá công việc với điều kiện bên vi phạm phải chịu phạt vi phạm về chất lượng hoặc phải giảm giá. - Yêu cầu sửa chữa sai sót về chất lượng trước khi nhận Nếu trong thời gian bảo hành, bên nhận sản phẩm hàng hoá phát hiện ra hư hỏng của hàng hoá do lỗi của bên bảo hành thì bên bảo hành phải có nghĩa vụ sửa chữa các sai sót về chất lượng. Các bên có quyền thoả thuận thay thế việc sửa chữa sai sót bằng cách g iảm giá hoặc đổi lấy sản phẩm hàng hoá khác. 5.3. Thực hiện đúng điều khoản về thời gian giao nhận hàng hoá hoặc công việc. Giao nhận hàng hoá hoặc công việc đúng thời gian là yếu tố quan trọng giúp các bên thực hiện đúng tiến độ kế hoạch sản xuất kinh doanh của mình. Thời gian giao nhận hàng hoá có thể là thời hạn hoặc thời điểm nhất định do hai bên thoả thuận trong hợp đồng. Thời gian giao hàng hoá hoặc công việc là khoảng thời gian nhất định mà trong khoảng thời gian đó, hàng hoá hoặc công việc phải được bàn giao, còn thời điểm là điểm thời gian cụ thể mà việc giao nhận được thực hiện. Khi có vi phạm điều khoản về thời gian thực hiện hợp đồng (trường hợp giao chậm) bên bị vi phạm hợp đồng có quyền: - Hoặc không nhận sản phẩm hàng hoá, công việc hoàn thành chậm chễ, bắt phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại như trường hợp không thực hiện hợp đồng. - Hoặc nhận sản phẩm hàng hoá, công việc hoàn thành chậm chễ và bắt phạt vi phạm thời hạn thực hiện hợp đồng và bồi thường thiệt hại. Trường hợp hoàn thành trước thời hạn nếu trong hợp đồng không quy định bên nhận phải tiếp nhận trước thời hạn thì bên tiếp nhận có quyền chưa tiếp nhận hoặc tiếp nhận với điều kiện bên giao phải chịu các phí tổn bảo quản trong thơì gian chưa đến thời điểm quy định. Trong trường hợp bên giao thực hiện đúng thời hạn như thoả thuận trong hợp đồng bên nhận phải có nghĩa vụ tiếp nhận nếu không tiếp nhận sản phẩm hàng hoá công việc đã hoàn thành đúng chất lượng và thời hạn theo hợp đồng kinh tế thì đã coi như vi phạm điều khoản về thời gian giao nhận trường hợp nhận chậm bên vi phạm có quyền: - Buộc bên vi phạm phải chịu phạt vi phạm nghĩa vụ tiếp nhận sản phẩm, hàng hoá, công việc đã hoàn thành theo đúng hợp đồng kinh tế - Đòi bên vi phạm phải trả các chi phí chuyên trở, bảo quản và các thiệt hại khác do vi phạm nghĩa vụ tiếp nhận. - Yêu cầu toà án hoặc tổ chức trọng tài giải quyết để tránh các thiệt hại do vị phạm nghĩa vụ tiếp nhận. 5.4. Thực hiện đúng điều khoản giá cả, thanh toán. Các bên có quyền thoảa thuận về giá cả của hàng hoá hoặc dịch vụ và ghi cụ thể vào hợp đồng kinh tế , thoả thuận về nguyên tắc, thủ tục để thực hiện việc thay đổi giá cả khi có sự biến động giá trên thị trường trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế . Đối với sản phẩm hàng hoá do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước đã quy định giá thì giá thoả thuận trong hợp đồng kinh tế phải phù hợp với sự quy định đó không bên nào có quyền gò ép giá hoặc nâng giá quá mức quy định. Các bên có nghĩa vụ thanh toán cho nhau đúng giá cả quy định. Thanh toán theo hợp đồng là khâu cuối cùng kết thúc quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế . Nghĩa vụ trả tiền phải được thực hiện theo phương thức và thời hạn thanh toán đã thoả thuận trong hợp đồng kinh tế . Nếu trong hợp đồng không ghi thời hạn trả tiền thì thời hạn đó là 15 ngày, kể từ ngày nhận được hoá đơn đòi tiền (chỉ được lập hoá đơn giấy đòi tiền phù hợp với việc thực hiện từng phần hay toàn bộ hợp đồng kinh tế) . Nghĩa vụ trả tiền được coi là hoàn thành từ khi chuyển đủ số tiền trên tài khoản của mình tại Ngân hàng cho bên đòi hoặc khi bên đòi tiền trực tiếp nhận được số tiền hoặc theo hoá đơn. Ngoài ra, nghĩa vụ trả tiền cũng được coi là hoàn thành nếu bên trả tiền đề nghị và được bên đòi tiền chấp nhận trả bằng hiện vật hoặc tài sản thế chất cầm cố, bảo lãnh, có giá trị tương đương với số tiền phải trả và việc kiểm tra hiện vật hoặc các tài sản đó đã thực hiện song. Bên vi phạm nghĩa vụ thanh toán bị phạt vi phạm hợp đồng. Mức phạt có thể bằng mức lãi suất tín dụng quá hạn theo quy định của Pháp luật và bên chịu bồi thường thiệt hại cho bên kia số tiền lãi mà họ phải trả cho Ngân hàng trên số tiền chưa được thanh toán. Trong trường hợp này số tiền được tính căn cứ vào mức lãi suất tín dụng quá hạn nhận tương ứng thòi gian châm thanh toán không giới hạn mức tối đa. 6. Thay đổi, đình chỉ, thanh lý hợp đồng kinh tế . a. Thay đổi hợp đồng kinh tế Hợp đồng kinh tế đã có hiệu lực pháp lý có thể thay đổi theo sự thoả thuận bằng văn bản của các bên. Thay đổi hợp đồng kinh tế là việc thay đổi một số nội dung trong các điều khoản của hợp đồng kinh tế đã thoả thuận. Đó là sự thay đổi về nội dung của hợp đồng. (việc thay thế bằng cách huỷ bỏ các hợp đồng kinh tế này để ký hợp đồng kinh tế khác không được coi là thay đổi hợp đồng kinh tế ). Ngoài việc thay đổi về nội dung, hợp đồng kinh tế còn có thể có sự thay đổi về chủ thể của hợp đồng khi có sự chuyển giao chuyển thể của hợp đồng, tức là một chủ thể của hợp đồng chuyên giao toàn bộ hay từng phầnn nhiệm vụ sản xuất kinh doanh cho một pháp nhận hay cá nhân có đăng ký kinh doanh thì phải chuyển giao cả phần tiếp tục thực hiện hợp đồng kinh tế có liên quan đến nhiệm vụ sản xuất kinh doanh đó. Chủ thể nhận chuyển giao có nghĩa vụ đối với phần hợp đồng kinh tế được chuyển giao. b. Đình chỉ hợp đồng kinh tế Đình chỉ hợp đồng kinh tế là chấm dứt nửa chừng việc thực hiện quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng kinh tế của các bên đối với nhau. Hợp đồng kinh tế có thể bị đình chỉ khi có sự thoả thuận bằng văn bản của các bên. Hợp đồng kinh tế cũng có thể bị đình chỉ khi bên đơn đình chỉ việc thực hiện nếu có sự vi phạm hợp đồng kinh tế của bên cùng ký kết, đã được bên đó thừa nhận thông qua các chứng từ văn bản hoặc đã được toàn án kinh tế kết luận bằng văn bản và nếu tiếp tục thực hiện hợp đồng kinh tế đó sẽ không mang lại lợi ích cho mình như mục đích khi ký kết. Hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu toàn bộ thì đương nhiên bị đình chỉ theo kết luận của toà án kia có thẩm quyền và tổ chức trọng tài kinh tế đã được các bên chọn. c. Thanh lý hợp đồng kinh tế Thanh lý hợp đồng kinh tế là hành vi của các bên nhằm kết thúc một quan hệ hợp đồng kinh tế trong các trường hợp sau: - Hợp đồng kinh tế đã được thực hiện xong. - Thời hạn có hiệu lực của hợp đồng kinh tế đã hết và không có sự thoả thuận kéo dài thời hạn đó. - Hợp đồng kinh tế bị đình chỉ thực hiện hoặc huỷ bỏ - Hợp đồng kinh tế không được tiếp tục thực hiện khi thay đổi chủ thể mà không có sự chuyển giao thực hiện Hợp đồng cho chủ thể mới. Thời hạn quy định để các bên thanh lý Hợp đồng kinh tế là 10 ngày kể từ ngày phát sinh các sự kiện mới trên. Quá hạn đó mà Hợp đồng kinh tế không được thanh lý, các bên có quyền yêu cầu toà án kinh tế có thẩm quyền hoặc trọng tài kinh tế giải quyết. Trong trường hợp Hợp đồng kinh tế đã thực hiện và các bên đã hoàn thành đầy đủ nghĩa vụ của mình theo thoả thuận trong hợp đồng thì Hợp đồng kinh tế coi như đã được thanh lý. Việc thanh lý hợp đồng phải được làm thành văn bản riêng trong đó ghi rõ những nội dung chính dươí đây: + Xác định rõ mức định thực hiện nội dung công việc đã thoả thuận trong hợp đồng của các bên, từ đó xác định nghĩa vụ của các bên sau khi thanh lý hợp đồng + Xác định các khoản chịu tránh nhiệm tài sản, hậu quả pháp lý của các bên trong quan hệ hợp đồng (nếu có) do phải thanh lý trước khi h Hợp đồng kinh tế hết hiệu lực. Từ thời gian các bên ký vào biên bản thanh lý hợp đồng, quan hệ Hợp đồng kinh tế đó coi như đã được chấm dứt. Riêng quyền và nghĩa vụ của mỗi bên được xác nhận khi thanh lý vẫn có hiệu lực pháp luật cho đến khi mỗi bên hoàn thành nghĩa vụ của mình trong biên bản thanh lý 7. Hợp đồng kinh tế vô hiệu và xủ lý Hợp đồng kinh tế vô hiệu. Một hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu khi hợp đồng kinh tế đó ký kết trái với những quy định của pháp luật. Những nội dung về quyền và nghĩa vụ của các bên được xác lập trái với những quy định của pháp luạt thì không có hiệu lực thực hiện. Có hai loại Hợp đồng kinh tế vô hiệu là Hợp đồng kinh tế vô hiệu toàn bộ và hợp đồng kinh tế vô hiệu từng phần. a. Hợp đồng kinh tế nào có một trong các nội dung sau đây thì bị coi là vô hiệu toàn bộ ngay từg khi hợp đồng kinh tế được hình thành. - Nội dung của hợp đồng kinh tế đó vi phạm điều cấm cuả pháp luật. Ví dụ: các bên thoả thuận sản xuất , tiêu thụ hàng gia, mua bán, vận chuyển hàng cấm. - Không đảm bảo tư cách chủ thể của quan hệ hợp đồng, một trong các bên ký kết hợp đồng không có giấy phép đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật để thực hiện công việc đã thoả thuận trong hợp đồng, nếu pháp luật quy định về thực hiện công việc đó đòi hỏi cả hai bên phải có đăng ký kinh doanh mà một trong các bên không có đăng ký kinh doanh thì hợp đồng kinh tế đó bị coi là vô hiệu toàn bộ. Nếu pháp luật quy định chỉ cần một bên có đăng lý kinh doanh (ví dụ: bên bán, bên làm dịch vụ, bên nhận thầu, bên chủ phương tiện vận tải…) mà bên đó không có đăng ký kinh doanh thì hợp đồng đó cũng bị coi là vô hiệu toàn bộ. - Người ký hợp đồng không đúng thẩm quyền hoặc có hành vi lừa đảo. Những ký kết hợp đồng không đúng thẩm quyền tức là người đó không phải là đại diện hợp pháp, không phải là người được uy quyền hoặc được uỷ quyền nhưng vượt quá phạm vi uỷ quyền mà nội dung ký hợp đồng nằm toàn bộ trong phạm vi vượt quá uỷ quyền đó. Khi người ký kết hợp đồng có hành vi lừa đảo như giả danh, giả mạo giấy tờ, chữ ký, con dấu, thì hợp đồng đó được coi là vô hiệu toàn bộ. Đối với hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu toàn bộ, dù cacds bên chưa thực hiện, đang thực hiện hoặc đã thực hiện xong đều phải xử lý theo quy định của pháp luật. Cụ thể như sau: + Nếu nội dung công việc trong hợp đồng chưa thực hiện thì các bên không được phép thực hiện. + Nếu nội dung công việc trong hợp đồng đã được thực hiện một phần thì các bên phải chấm dứt việc thực hiện và bị xử lý tài sản, kể cả trong trường hợp hợp đồng đã được thực hiện xong . Tức là các bên có nghĩa vụ hoàn trả cho nhau tất cả tài sản đã nhận được từ việc thực hiện hợp đồng . Trong trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì phải trả bằng tiền nếu tài sản đó không bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Thu nhập bất hợp pháp phải nộp vào ngân sách Nhà nước, thiệt hại phát sinh các bên phải chịu. b. Hợp đồng kinh tế vô hiệu từng phần. Những hợp đồng kinh tế có nội dung vi phạm một phần điều cấm của pháp luật nhưng không ảnh hưởng đến các phần còn lại của hợp đồng thì bị coi là vô hiệu từng phần, tức là chỉ vô hiệu những phần thoả thuận trái pháp luật, còn những phần khác vẫn có hiệu lực thực hiện. Trong trường hợp hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu từng phần thì các bên phải sửa đổi điều khoản trái pháp luật, khôi phục các quyền và lợi ích ban đầu, đồng thời có thể bị xử lý theo các quy định của pháp luật đối với phần vô hiệu đó. Nguyên nhân xử lý hợp đồng kinh tế vô hiệu từng phần được áp dụng giống như nguyên tắc xử lý hợp đồng vô hiệu toàn bộ. 8. Trách nhiệm vật chất đối với vi phạm hợp đồng kinh tế. Khi vi phạm hợp đồng kinh tế , bên vi phạm phải chịu trách nhiệm vật chất. Cũng như trách nhiệm dân sự, trách nhiệm vật chất trong quan hệ hợp đồng kinh tế được áp dụng khi có những căn cứ sau đây: - Có hành vi vi phạm hợp đồng kinh tế. - Có thiệt hại thực tế xảy ra. - Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại thực tế. - Có lỗi của bên vi phạm. Có hai hình thức trách nhiệm vật chất là phạt hợp đồng và bồi thường thiệt hại. Tiền phạt hợp đồng và tiền bồi thường thiệt hịa là số tiền mà bên vi phạm phải lấy từ tài sản cuả mình trả cho ben bị vi phạm hợp đồng kinh tế. Đối với những hợp đồng theo chỉ tiêu pháp lệnh thì khoản tiền phạt vi phạm hợp đồng phải nộp vào ngân sách Nhà nước. a. Vi phạm hợp đồng. Phạt hợp đồng là một chế tài tiền tệ được áp dụng nhằm củng cố quan hệ hợp đồng kinh tế nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật hợp đồng kinh tế nói riêng, pháp luật quản lý kinh tế nói chung, đồng thời phòng ngừa vi phạm hợp đồng kinh tế. Chế tài phạt hợp đồng là một chế tài được áp dụng phổ biến đối với tất cả mọi trường hợp có hành vi vi phạm, bất kể đó là hành vi vi phạm điều khoản nào. Việc áp dụng chế tài phạt hợp đồng đã gây ra thiệt hại hay chưa , thiệt hại xảy ra nhiều hay ít. Tiền phạt vi phạm hợp đồng kinh tế là số tiền mà bên vi phạm phải trả cho bên bị vi phạm. Mức phạt vi phạm hợp đồng kinh tế do các bên thoả thuận trong khung phạt đối với từng loại hành vi vi phạm hợp đồng đã gây ra thiệt hại hay chưa , thiệt hại xảy ra nhiều hay ít. Tiền phạt vi phạm hợp đồng kinh tế là số tiền mà bên vi phạm phải trả cho bên bị vi phạm. Mức phạt vi phạm hợp đồng kinh tế do các bên thoả thuận trong khung phạt đối với từng loại hành vi vi phạm hợp đồng kinh tế theo quy định của pháp luật. Khung phạt được quy định chung đối với các loại hợp đồng kinh tế là từ 2% đến 12% giá trị phần hợp đôngf kinh tế bị vi phạm. Theo pháp lệnh hợp đồng kinh tế và nghị định số 17 - HĐBT ngày 16 tháng 1 năm 1990 của Hội đồng bộ trưởng, việc thoả thuận về mức tiền phạt trong hợp đồng kinh tế phải phù hợp với khung phạt của từng loại hợp đồng kinh tế và từng loại vi phạm hợp đồng kinh tế. - Vi phạm về chất lượng: phạt từ 3% - 12% giá trị phần hợp đồng kinh tế bị vi phạm về chất lượng. - Vi phạm về thời hạn thựcthực hiện cho 10 ngày lịch đàu tiên ,phạt thêm từ 0,5% đến 1% cho mỗi đợt 10 ngày tiếp theo cho đến mức tôngr số các lần phạt không quá 8%giá trị pgần hợp đồng kinh tế bị vi phạm ở thời điểm 10 ngày lịch đầu tiên. Nếu hoàn toàn không thực hiện hợp đồng thì bị phạt đến mức 12% giá trị hợp đồng. - Vi phạm nghĩa vụ tiếp nhận sản phẩm, hàng hoá, công việc đã hoàn thành theo hợp đòng: Phạt 4% giá trị hợp đồng kinh tế đã hoàn thành mà không được tiép nhận cho 10 ngày lịch đầu tiên và phạt thêm 1% cho mỗi đợt 10 ngày tiếp theo, cho đến khi tổng số các lần phạt không quá 12% giá trị phần hợp đồng đã hoàn thành và không được tiếp nhận ở thời điểm 10 ngày lịch đầu tiên. - Vi phạm nghĩa vụ thanh toán: áp dụng mức phạt bằng lãi suất tín dụng quá hạn của ngân hàng Nhà nước Việt Nam tính từ ngày hết hạn thanh toán. số tiền phạt bằng mức lãi suất tín dụng quá hạn nhân với số tiền chậm trả, nhân với thời gian chậm trả không giới hạn mức tối đa. Trong trường hợp pháp luật chưa có quy định mức phạt , các bên có quyền thoả thuận về mức tiền phạt bằng tỷ lệ phần trăm giá trị phần hợp đồng bị vi phạm hoặc bằng một số tiền tuyệt đối. Riêng tiền phạt đối với trường hợp vi phạm hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu pháp lệnh, pháp luật có quy định khác. b. Bồi thường thiệt hại. Bồi thường thiệt hại cũng là một chế tài dùng để bù đắp những thiệt hại thực tế cho bên bị thiệt hại. Nếu như hình thức phạt hợp đồng với chức năng chủ yếu là trừng phạt, giáo dục và phòng ngừa thì bồi thường thiệt hại với chức năng chủ yếu là bồi hoàn, bù đắp, khôi phục lợi ích vật chất bị thiệt hịa cho bên vi phạm. Theo quy định của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, bên có hành vi vi phạm, chỉ phải bồi thường thiệt hại thực tế đã xảy ra, đó là những thiệt hịa có thể tính toán được bao gồm: - Giá trị số tài sản mất mát, hư hỏng bao gồm ca số tiền lãi phải trả cho ngân hàng (trong trường hợp bị vi phạm nghĩa vụ thanh toán khoản thu nhập mà lẽ ra trong điều kiện bình thường (hợp đồng không bị vi phạm) thì bên bị vi phạm cũng sẽ thu được. - Các chi phí để ngăn chặn và hạn chế thiệt hại do vi phạm hợp đồng gây ra (chi phí hợp lý và cần thiết) mà cần bị vi phạm đã phải chi. Bên bị vi phạm có nghĩa vụ phải chứng minh việc đã áp dụng các biện pháp cần thiết để hạn chjế thiệt hại ngay sau khi được biết có vi phạm. - Tiền phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại mà bên bị vi phạm phải t rả cho người khác do hậu quả trực tiếp của sự vi phạm hợp đồng gây ra. (Chỉ kê những hậu quả trực tiếp do vi phạm hợp đồng này dẫn đến sự vi phạm hợp đồng với người khác. Trong quá trình giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế và xử lý vi phạm hợp đồng kinh tế, toà án kinh tế và các bên có tranh chấp áp dụng các hình thức trách nhiệm vật chất nói trên tuỳ theo từng trường hợp cụ thể. III. Kiến nghị sửa đổi bổ sung các quy định về đại diện, người uỷ quyền trong quan hệ kinh tế Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/09/1989 đã quy định về vấn đề người đại diện và uỷ quyền. Tuy nhiên, các quy định này chưa chặt chẽ, tạo ra nhiều khe hở và trong nhiều trường hợp làm cho các bên tham gia ký kết hợp đồng kinh tế dễ trôns tránh trách nhiệm của mình. Do vậy, để khắc phục những thiếu sót của điều 9 - Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và điều 5 - Nghị định 17/HĐBT. pháp luật hợp đồng kinh tế cần có những quy định ràng buộc trách nhiệm của người đại diện trong việc ký kết hợp đồng kinh tế, bao gồm trách nhiệm tài sản, trách nhiệm hành chính và cả trách nhiệm hình sự để có thể ngăn chặn những tiêu cực có thể xảy ra. Mặt khác, cũng cần quy định trách nhiệm của người uỷ quyền cũng như của người được uỷ quyền khi ký kết hợp đồng kinh tế trong trường hợp hành vi của họ có thể gây thiệt hại cho Nhà nước. Về vấn đề này để cho phù hợp với các quy định của Bộ luật dân sự, pháp luật hợp đồng kinh tế cần quy định thêm về thủ tục uỷ quyền ký kết hợp đồng kinh tế như: người đại diện theo pháp luật của pháp nhân, cá nhân có đăng ký kinh doanh khi uỷ quyền cho người khác thay mình ký kết hợp đồng kinh tế phải làm hợp đồng uỷ quyền theo quy định của Bộ luật dân sự. Theo quy định tại điều 586, điều 586 - Bộ luật dân sự thì hợp đồng uỷ quyền là sự thoả thuận của các bên, theo đó bên được uỷ quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh bên uỷ quyền, bên uỷ quyền chỉ phải trả thù lao nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định khác. Hợp đồng uỷ quyền phải được lập thành văn bản, nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định khác hợp đồng uỷ quyền phải có chứng nhận của công chứng Nhà nước hoặc chứng thực của uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền. Theo đó, trong hợp đồng uỷ quyền này sẽ ghi nhận các quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia ký kết hợp đồng uỷ quyền, cũng như trường hợp hợp đồng uỷ quyền chấm dứt. Kiến nghị bổ sung các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng kinh tế. Điều 5 - Pháp lệnh hợp đồng kinh tế chỉ quy định 3 biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng kinh tế là thế chấp tài sản, cầm cố, b ảo lãnh tài sản. Trong khi các giao lưu dân sự lại có 7 biện pháp đảm bảo : thế chấp tài sản, cầm cố, bảo lãnh, ký quỹ, ký cược, phạt vi phạm và đặt cọc. Như vậy, một vấn đề được đặt ra là các biện pháp đặt cọc và ký quỹ có là những biện pháp đảm bảo hữu hiệu để thực hiện hợp đồng kinh tế hay không? Thật vậy: + Đặt cọc là việc một bên giao cho bên kia một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc các vật khác (gọi là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để đảm bảo giao kết hoặc thực hiện hợp đồng, và việc đặt cọc phải được lập thành văn bản. Như vậy, đặt cọc là một biện pháp đảm bảo tài sản có thủ tục gọn nhẹ, nhanh chóng, phù hợp với một số loại hợp đồng kinh tế như hợp đồng đại lý, hợp đồng vận chuyển . Trong đó văn bản đặt cọc không cần thiết có chứng nhận của công chứng Nhà nước hoặc chứng nhận của uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền. + Ký quỹ là việc một bên có nghĩa vụ gửi một khoản tiền vào tài khoản phong toả tại ngân hàng để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ. Trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên có quyền được ngân hàng nơi ký quỹ thanh toán, bồi thường thiệt hại do bên có nghĩa vụ gây ra. Như vậy, bên có quyền chắc chắn sẽ được ngânhàng nơi bên có nghĩa vụ ký quỹ thanh toán khi có vi phạm hợp đồng. Với biện pháp này, bên có quyền không phải bảo quản tài sản như trong biện pháp cầm cố tài sản, không phải lo lắng về tài sản thế chấp có hợp pháp hay không? và giấy tờ sở hữu thế chấp có phải là bản gốc hay không? như trong biện pháp thế chấp. Biện pháp này có độ an toàn cao và rất thuận tiện cho bên có quyền. Với những lý do trên đây, Pháp luật hợp đồng kinh tế nên quy định bổ sung các biện pháp đặt cọc, ký quỹ là những biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng kinh tế cùng với các biện pháp đảm bảo khác như cầm cố, thế chấp, bảo lãnh tài sản. Mặt khác, pháp luật hợp đồng kinh tế nên quy định rõ quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ cầm cố, thế chấp, bảo lãnh , đặt cọc và ký quỹ cũng như hiệu lực của các văn bản cầm cố, thế chấp, bảo lãnh tài sản…cũng như quy định tài sản đem cầm cố, thế chấp không chỉ là những động sản, bất động sản thuộc sở hữu của mình mà còn có thể là những quyền về tài sản. Có như vậy, mới nhằm tạo điều kiện cho các đơn vị kinh tế có thể cầm cố, thế chấp để đảm bảo cho việc thực hiện hợp đồng kinh tế. Một vấn đề khác cũng cần đề cập đến, đó là trách nhiệm của người giữ tài sản thế chấp, cầm cố. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định vấn đề này chưa phù hợp, bởi vì trong thực tế việc giữ nguyên giá trị ban đầu của tài sản cầm cố, thế chấp là rất khó khăn. Do đó, pháp luật hợp đồng kinh tế cần có những quy định về nghĩa vụ của người giữ tài sản cầm cố, thế chấp một cách chặt chẽ, rõ ràng và hợp lý, đồng thời phải phù hợp với các quy định tại các điều 334, 335, 353, 354, 355. Tài liệu tham khảo. 1. Bùi Thị Khuyên - Bùi Thị Khế: Luật kinh tế - Nxb TP HCM 1997 2. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế - 25/9/1989 3. Một số ý kiến sửa đổi pháp lệnh hợp đồng kinh tế - Tạp chí Luật học

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docI0076.doc
Tài liệu liên quan