Tuy nhiên trong thực tế công tác tại Ngân hàng ĐT&PT Phú Thọ tôi nhận thấy vấn đề này ít nhiều cũng gây thiệt hại cho Ngân hàng nên tôi cũng mạnh dạn đa ra biện pháp hạn chế nhằm giúp Ngân hàng đỡ một phần nào thiệt hại.
Việc phát sinh trả nợ gốc trước hạn sẽ làm tăng nguồn vốn của Ngân hàng ngoài dự kiến, nếu Ngân hàng cho vay ra được ngay thì đó là điều rất thuận lợi nhưng nếu gặp lúc nhu cầu xin vay của khách hàng giảm thì lại là khó khăn đến với Ngân hàng. Theo như hiện nay tại Ngân hàng ĐT&PT Phú Thọ cũng như tất cả các Ngân hàng khác, nếu nguồn vốn thừa quá nhiều so với kế hoạch sử dụng thì sẽ điều chuyển lên Ngân hàng ĐT&PT TW hoặc để lại cho vay ra, đối với nền kinh tế.
Nhưng thực trạng, nếu Ngân hàng ĐT&PT Phú Thọ điều chuyển vốn lên Ngân hàng ĐT&PT TW được nhận lãi suất 0,52%/tháng như vậy chỉ nhỉnh hơn lãi suất(theo thời điểm hiện tại thì lãi suất huy động bình quân của Ngân hàng ĐT&PT Phú Thọ là 0,48%/tháng) hoặc nếu cho vay ra nền kinh tế thì Ngân hàng cũng phải mất một vài ngày để kiểm tra và xét duyệt nhu cầu vay (đó là với trường hợp có nhu cầu vay ngay).
- Nếu điều chuyển vốn lên Ngân hàng TW thì coi như là Ngân hàng ĐT&PT Phú Thọ không những đi huy động hộ mà còn phải chịu mọi chi phí trong quá trình huy động.
56 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1556 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số vấn đề về kế toán cho vay tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Phú Thọ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiến hành cho vay đối với các doanh nghiệp bằng cả VND và USD dưới nhiều hình thức như cho vay ngắn hạn, cho vay dài hạn theo kế hoạch nhà nước, cho vay trung hạn ngoại tệ để đầu tư chiều sâu ... Điều này được thể hiện trong cơ cấu cho vay theo thời hạn đến 31/12/1999 như sau (cả ngoại tệ quy ra VND):
Đơn vị: Triệu đồng.
Chỉ tiêu
Mức dư nợ
Tỷ trọng
Cho vay ngắn hạn
125.870
46%
Cho vay trung hạn
37.749
14%
Cho vay dài hạn
112.253
40%
Bên cạnh đó Ngân hàng đầu tư và phát triển Phú thọ đã có những biện pháp thích hợp trong cho vay đối với từng thành phần kinh tế. Ngân hàng đã biết kết hợp hài hoà giữa việc thực hiện chiến lược lợi nhuận của ngân hàng với các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước trong sự nghiệp đổi mới. Cơ cấu cho vay đối với từng thành phần kinh tế được áp dụng hài hoà tạo động lực phát triển cho toàn bộ nền kinh tế tỉnh Phú thọ, thể hiện trong cơ cấu cho vay với từng loại hình kinh tế nêu ra sau đây:
Đơn vị: Triệu đồng.
Loại hình kinh tế
Dư nợ cho vay
Tỷ trọng
DN nhà nước
255.182
92.5%
DN ngoài quốc doanh
6.896
2.5%
Tư nhân cá thể
13.794
5%
Cũng như các ngân hàng thương mại khác, ngân hàng đầu tư và phát triển Phú thọ tập trung đầu tư tín dụng chủ yếu vào các doanh nghiệp nhà nước làm ăn có hiệu quả trong cơ chế thị trờng. Bên cạnh đó ngân hàng đã góp phần phát triển nhanh tín dụng đối với loại hình kinh tế ngoài quốc doanh, tư nhân cá thể... loại hình kinh tế này sản xuất kinh doanh hết sức năng động, vòng quay vốn nhanh, lợi nhuận cao nhng đi liền với nó là tỷ lệ rủi ro cũng rất cao và có nhiều thủ đoạn tinh vi xảo quyệt trong vay vốn ngân hàng. Nhưng Ngân hàng đầu tư và phát triển Phú thọ đã tìm mọi biện pháp thích hợp tạo lập mối quan hệ tín dụng đối với khu vực kinh tế này ngày càng tốt hơn nên đã phát huy vai trò tín dụng ngân hàng trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, góp phần xây dựng kinh tế tỉnh Phú thọ nhiều thành phần ngày càng phát triển.
3.3. Công tác kế toán thanh toán:
Bên cạnh nghiệp vụ tín dụng, các dịch vụ ngân hàng cũng được Ngân hàng đầu tư và phát triển Phú thọ mở rộng và phát triển như chuyển tiền, kinh doanh ngoại tệ... Ngân hàng đầu tư và phát triển Phú thọ cũng như các ngân hàng khác trên địa bàn đều trang bị hệ thống máy vi tính, lắp đặt nối mạng cục bộ đưa máy vi tính giao dịch tại quầy,và nối mạng qua mô đen với các chi nhánh ngân hàng khác trong hệ thống rút ngắn thời gian chuyển tiền, trước đây một món chuyển tiền mất từ một đến vài ngày nay chỉ cần một vài tiếng. Nghiệp vụ thanh toán bù trừ ngày càng phát triển và có hiệu quả tốt, là một trong số các thành viên tham gia thanh toán bù trừ tại trung tâm thanh toán ngân hàng nhà nước tỉnh Phú thọ, Ngân hàng đầu tư và phát triển Phú thọ có thể xử lý tức thời các khoản phải thu, phải trả của khách hàng ngay trong phiên thanh toán bù trừ. Do đó việc thanh toán liên ngân hàng nhanh gọn, chính xác hàng ngày.
Có được thành tích trên là do ngân hàng đầu tư và phát triển Phú thọ đã thực hiện tốt việc chỉ đaọ của tổng giám đốc ngân hàng đầu tư và phát triển Việt nam biết đầu tư đúng hướng, từng bước hiện đại hoá công nghệ ngân hàng nhất là trong khâu thanh toán. Nhờ áp dụng thành tựu tin học vào các lĩnh vực dù phạm vi thanh toán nội tỉnh hay thanh toán giữa các tỉnh thành phố, ngân hàng đã thu được những kết quả tích cực như vừa thu hút mở rông chiến lược khách hàng, vừa thúc đẩy các mặt nghiệp vụ ngân hàng khác cùng phát triển. Trong năm 1999 Ngân hàng đầu tư và phát triển Phú thọ đã đạt những kết quả khả quan: tổng mức thanh toán trong năm 1999 là: 2.725 tỷ trong đó thanh toán không dùng tiền mặt là2.519 tỷ.
Cùng với kết quả trong công tác thanh toán ngân hàng đầu tư Phú thọ đã tăng cường nguồn thu tiền mặt đáp ứng kịp thời và thoả mãn mọi nhu cầu chi tiền mặt của khách hàng kể cả các dịp lễ tết. Trong năm 1999
Tổng thu tiền mặt là: 289.583 triệu.
Tổng chi tiền mặt là: 286.088 triệu.
Bội thu tiền mặt là: 3.495 triệu.
3.4. Các mặt hoạt động khác:
Để thích ứng hơn nữa với cơ chế thị trường, Ngân hàng đáp ứng được tốt hơn nhu cầu đa dạng và phong phú của khách hàng đồng thời thực hiện Quyết định số 126-QĐ/NH14 ngày 16/9/1994 của thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành “Quy chế về các nghiệp vụ bảo lãnh Ngân hàng” Trong năm 1999 ngân hàng đầu tư và phát triển Phú thọ đã bảo lãnh thực hiện hợp đồng thi công, bảo lãnh đấu thầu cho các đơn vị xây lắp đợc 55 món với số tiền bảo lãnh 24.026 triệu. Tất cả các hợp đồng đều có kết quả tốt giúp các đơn vị duy trì sản xuất kinh doanh, tạo công ăn việc làm cho các đơn vị đồng thời cũng tạo thu nhập cho ngân hàng.
Bên cạnh đó để mở rộng các nghiệp vụ của ngân hàng, hoạt động tiền tệ tín dụng ngân hàng bước đầu xác lập thêm nhgiệp vụ kinh doanh mua bán ngoại tệ. Tính đến 31/12/1999 Ngân hàng đầu tư và phát triển Phú thọ đã mua vào 7.504.578 USD bán ra 7.430.411 USD.
Về hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu, chuyển tièn kiều hối Ngân hàng đầu tư và phát triển mới triển khai thực hiện, kết quả đạt được ban đầu có nhiều khả quan mở ra hướng kinh doanh mới cho ngân hàng đầu tư và phát triển Phú thọ.
II. Tình hình thực hiện nghiệp vụ kế toán cho vay tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Phú thọ.
1. Tình hình chung về cho vay, thu nợ tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Phú Thọ:
Ngân hàng đầu tư và phát triển Phú thọ với phương châm: có bước đi tích cực vững chắc, an toàn, coi trọng chất lượng hơn số lượng, lấy hiệu quả kinh doanh kinh tế chính trị, xã hội làm thước đo kết quả hoạt động của ngân hàng. Ngân hàng đầu tư và phát triển Phú thọ quán triệt chiến lược kinh doanh trong toàn hệ thống: ngân hàng đầu tư và phát triển Phú thọ chuyển sang kinh doanh đa năng tổng hợp nhưng cốt lõi là phục vụ đầu tư phát triển. Với mục tiêu này Ngân hàng đầu tư và phát triển Phú thọ đã tích cực chủ động trong mọi hoạt động từ huy động vốn đến nâng cao chất lượng tín dụng mở rộng các mối quan hệ để tạo ra những sản phẩm ngân hàng tốt nhất cho đầu tư phát triển.
Sự nghiệp phát triển kinh tế nói chung, nhu cầu vốn và dịch vụ ngân hàng phục vụ cho sự nghiệp đầu tư phát triển nói riêng là rất lớn và không ngừng tăng lên. Bên cạnh những giải pháp để nâng cao năng lực của ngân hàng đầu tư và phát triển đáp ứng đòi hỏi trên thì việc đa dạng hoá sản phẩm ngân hàng đầu tư và phát triển cung ứng cho khách hàng là con đường để không ngừng tăng thêm khối lượng và chủng loại, phạm vi tín dụng và là biện pháp quan trọng nhất để nâng cao hiệu quả tiền vốn dịch vụ ngân hàng đầu tư và phát triển cung ứng cho khách hàng của mình. Vấn đề đa dạng hoá sản phẩm ngân hàng đầu tư và phát triển phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội là một vấn đề lớn phức tạp có ý nghĩa khoa học và thực tiễn. Ngân hàng Phú thọ đã mở rộng công tác tín dụng bằng cách đa dạng hoá các hoạt động tín dụng trong lĩnh vực đầu tư dài hạn, trung hạn, ngắn hạn. Đảm bảo cơ cấu tín dụng hợp lý phục vụ cho đầu tư phát triển nhưng vẫn nâng cao chất lượng tín dụng hạn chế rủi ro.
Song song với việc mở rộng các loại hình tín dụng thì vấn đề thu hồi nợ được chi nhánh đặc biệt quan tâm. Chi nhánh coi trọng chất lượng tín dụng đảm bảo đồng vốn được phát ra dưới bất kể hình thức tín dụng nào cũng thu được cả gốc và lãi sau một thời gian nhất định.
Như chúng ta đều biết hiệu quả kinh doanh của khách hàng là hiệu quả tín dụng của ngân hàng và ngược lại ngân hàng dễ trở thành nạn nhân của khách hàng khi các khách hàng làm ăn thua lỗ hoặc khi khách hàng là nạn nhân của các vụ lừa đảo sẽ mất khả năng trả nợ ngân hàng, dẫn đến tổn thất vốn tín dụng. Do đó trong hoạt động tín dụng ngân hàng ĐT & PT Phú thọ luôn có sự chuẩn bị chu đáo và kỹ lưỡng trong tất cả các khâu trước, trong và sau khi cho vay và việc thực hiện nghiêm túc các biện pháp hạn chế rủi ro nên khối lượng cho vay là lớn nhưng ngân hàng đã đảm bảo an toàn của các món vay tín dụng.
Để thấy rõ tình hình cho vay thu nợ của Ngân hàng ta hãy xem xét bảng thống kê số liệu về doanh số cho vay, thu nợ của ngân hàng Phú thọ qua hai thời điểm sau
Tình hình cho vay thu nợ tại Ngân hàng ĐT & PT Phú thọ
6 tháng đầu năm 1999 và 6 tháng đầu năm 2000
Đơn vị: Triệu đồng.
Chỉ tiêu
6 tháng đầu năm 1999
6 tháng đầu năm 2000
Mức tăng trưởng
cho vay
thu nợ
cho vay
thu nợ
Cho vay
thu nợ
Cho vay ngắn hạn
240.644
211.766
257.490
221.313
107%
104.5%
Cho vay trung hạn
8.915
2.479
12.116
3.921
135.9%
158%
Cho vay dài hạn
17.238
6.722
22.960
10.952
133%
162%
Qua số liệu trên ta thấy công tác tín dụng của Ngân hàng đầu tư và phát triển Phú thọ hoạt động tốt doanh số cho vay và doanh số thu nợ luôn đạt mức tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước. Có được kết quả đó là nhờ chi nhánh Ngân hàng ĐT & PT Phú thọ đã biết tập trung sức lực và trí tuệ tạo mọi điều kiện để giải quyết tối đa nhu cầu vốn của mọi thành phần kinh tế và có đội ngũ cán bộ tận tâm tận lực với công việc luôn có đề xuất ý kiến giúp cho chi nhánh giải quyết vốn đúng hướng. Những hoạt động này đã giúp chi nhánh ngày càng đứng vững và đủ sức cạnh tranh trong cơ chế thị trường như hiện nay.
2. Lãi suất cho vay:
Lãi suất luôn là vấn đề nóng bỏng thực sự không chỉ ngành Ngân hàng mà rộng rãi các tầng lớp dân cư, các tổ chức kinh tế dân cư rất quan tâm. Bởi vì nó là điểm hội tụ của nhiều mối quan hệ, các mâu thuẫn liên quan trực tiếp đến lợi ích vật chất. Một mặt nếu lãi suất được sử dụng đúng đắn, uyển chuyển, linh hoạt phù hợp với những điều kiện, tình hình thực tế từng thời kỳ nhất định sẽ có tác dụng trực tiếp và rất quan trọng đến việc kiềm chế và đẩy lùi lạm phát cũng như có tác dụng kích thích đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó tạo thêm việc làm và làm tăng trưởng nền kinh tế nói chung. Nhưng mặt khác nếu sử dụng lãi suất một cách cố định, cứng nhắc thì rất có thể chỉ có tác dụng tích cực ở thời kỳ này nhưng chuyển sang thời kỳ khác với những điều kiện tình hình kinh tế xã hội thay đổi lại trở thành một vật cản kìm hãm trói buộc đầu tư sản xuất kinh doanh.
Việt Nam trong sự nghiệp phát triển kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, bên cạnh việc quan tâm coi trọng một số vùng kinh tế cao tính đặc thù, coi trọng các doanh nghiệp nhà nước có ảnh hưởng trên phạm vi rộng liên quan tới nhiều ngành, nhiều thành phần kinh tế , nhiều tầng lớp dân cư. Nhà nước vẫn tạo điều kiện thúc đẩy hướng dẫn các các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cùng phát triển. Đại hội Đảng VII và tiếp đó là đại hội Đảng VIII và các văn kiện quan trọng của Đảng , Nhà nước đã khẳng định sự tồn tại và phát triển của các thành phần kinh tế. Trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế đến năm 2000 “... Nền kinh tế hàng hoá vơí cơ cấu nhiều thành phần với nhiều loại hình sở hữu, nhiều hình thức tổ chức đều bình đẳng trước pháp luật...”. Sự bình đẳng này còn thể hiện qua các văn bản thể lệ tín dụng quy định cụ thể về những điều kiện vay vốn là như nhau đối với mọi loại hình kinh tế. Tại điều 1 khoản 1.2 (thể lệ tín dụng ngắn hạn đối với các tổ chức kinh tế) có quy định: “ Các tổ chức kinh tế vay vốn ngắn hạn của các tổ chức tín dụng (gọi tắt là đơn vị vay) là các pháp nhân và thể nhân hoạt động sản xuất kinh doanh theo luật pháp Việt nam bao gồm: doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiêm hữu hạn, hợp tác xã, xí nghiệp liên doanh với nước ngoài, xí nghiệp 100% vốn nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân,cá thể và hộ sản xuất”.
Cùng với quá trình chuyển đổi của đất nước hệ thống ngân hàng đầu tư và phát triển Việt nam nói chung , Ngân hàng ĐT & PT Phú thọ nói riêng đã hướng các hoạt động kinh doanh của mình theo chủ trương của Đảng, Nhà nước Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Phú Thọ áp dụng mức lãi suất cho vay như nhau đối với mọi thành phần kinh tế.
Lãi suất cho vay ngắn hạn: 0.78%/tháng.
Lãi suất cho vay trung và dài hạn: 0.81%/tháng.
Ngân hàng đã xoá bỏ sự phân biệt giữa nhà nước và tư nhân. Đây là bước tiến bộ rất mới, rất kịp thời phù hợp với sự chuyển đổi của nền kinh tế nhiều thành phần.
Tuy nhiên để triển khai tốt nghiệp vụ tín dụng thì ngoài việc ấn định lãi suất cho vay thì không thể không tổ chức kế toán cho vay. Qua thực tế tại ngân hàng đầu tư và phát triển Phú thọ cho thấy kế toán cho vay đã góp phần không nhỏ cho thực hiện tốt nhiệm vụ kinh doanh của Ngân hàng nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số tồn tại cần giải quyết.
3. Hạch toán cho vay, thu nợ và việc theo dõi thu lãi đến hạn và quá hạn đối với cho vay theo món:
Ngân hàng đầu tư và phát triển Phú thọ áp dụng phương pháp cho vay theo món và mở tài khoản cho vay thông thường đối với tất cả các tổ chức kinh tế có quan hệ vay vốn.
Căn cứ vào kế hoạch vay vốn đã được duyệt và thông báo, khi tổ chức kinh tế có nhu cầu vay vốn thì gửi tới ngân hàng giấy đề nghị vay vốn kèm các dự toán được duyệt, hợp đồng nhận thầu, giấy báo giá hoặc hợp đồng mua bán vật tư hàng hoá dịch vụ... Tổ chức kinh tế phải thực hiện việc đăng ký nhận tiền vay, bằng cách gửi giấy đề nghị vay vốn trước một ngày làm việc.Trong thời gian đó cán bộ tín dụng kịp thời xem xét để giải quyết có thể cho vay hay không cho vay và cũng thông báo cho tổ chức tín dụng biết. Nếu được trưởng phòng tín dụng và giám đốc ký duyệt đơn vay, cán bộ tín dụng hướng dẫn tổ chức kinh tế làm hợp đồng tín dụng. Trường hợp giấy đề nghị vay vốn không được trưởng phòng tín dụng và gám đốc duyệt cho vay phải thông báo bằng văn bản cho tổ chức kinh tế biết rõ lý do để tự lo vốn cho mình. Đơn xin vay khi đã được ngân hàng chấp thuận, tổ chức kinh tế sẽ được ngân hàng mở cho một tài khoản “tài khoản cho vay vốn lưu động” (thủ tục đăng ký xin mở tài khoản theo quy định của chế độ mở tài khoản ngân hàng). Cán bộ tín dụng sau khi xem xét kiểm tra tính hợp lệ hợp pháp đầy đủ của các giấy tờ như các chữ ký, sự khớp đúng về số tiền giữa các giấy tờ và đặc biệt là đối chiếu mức cho vay mà ngân hàng đã duyệt, đối chiếu ngày tháng vay với ngày tháng công trình hoàn thành...Lập tờ trình xin vay vốn để trình giám đốc cùng hợp đồng tín dụng.
- Hạch toán phát tiền vay :
Sau khi người vay hoàn thành các thủ tục giấy tờ xin vay theo đúng quy định. Kế toán căn cứ vào chứng từ phát tiền vay hạch toán
Nợ: TK cho vay
Có: TK tiền mặt ( nếu cho vay bằng tiền mặt).
TK ngân phiếu (nếu cho vay bằng ngân phiếu).
TK người thụ hưởng (Nếu cho vay bằng chuyển khoản)
TK thanh toán giữa các ngân hàng( nếu thanh toán khác ngân hàng).
- Hạch toán thu nợ:
Đến hạn trả nợ, người vay phải có trách nhiệm trả nợ ngân hàng bằng tiền mặt hay trích tài khoản tiền gửi thanh toán. Cán bộ Kế toán cho vay phải phối hợp với cán bộ tín dụng đôn đốc người vay trả nợ đúng hạn ngân hàng. Khi người vay trả nợ kế toán căn cứ vào chứng từ để hạch toán
Nợ: TK tiền mặt (nếu trả nợ bằng tiền mặt): Phần gốc
TK ngân phiếu (nếu trả nợ bằng ngân phiếu): Phần gốc
TK tiền gửi (nếu trả nợ bằng chuyển khoản) :Phần gốc
Có: TK cho vay : Phần gốc
- Thu lãi:
Tại Ngân hàng ĐT&PT Phú thọ công tác kế toán được cập nhật số liệu hàng ngày trên máy vi tính cho nên mọi phát sinh về tiền vay đều được lưu giữ trong máy vi tính. Việc tính lãi được quy định vào ngày 25 hàng tháng cho tất cả các món vay dù chưa đủ một tháng, thậm chí chỉ có 3 ngày, 5 ngày hàng tháng số tiền lãi được tính theo phương pháp tích số.
Công thức tính :
C = M x I/30 x N
Trong đó:
C: Số tiền lãi
I: Lãi suất tính theo tháng ghi trên hợp đồng tín dụng
N: Là tích số số dư từ ngày 26 tháng trước đến hết ngày 25 tháng này
Công việc của máy tính là in ra phiếu tính lãi, còn cán bộ kế toán xử lý phiếu tính lãi đó ra sao ?
Trong thực tế thì hầu như không bao giờ kế toán cho vay tất toán hết được các phiếu tính lãi và việc quy định này đôi khi không được thực hiện đối với phần lớn các khách hàng đặc biệt là đối với khách hàng có vay vốn của ngân hàng dưới hình thức thế chấp hoặc cầm cố ( nhưng họ không mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng) khách hàng thường không trả lãi đúng ngày quy định của ngân hàng .
Với những khách hàng có tài khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng và có đủ số dư thì kế toán chỉ việc trích tài khoản tiền gửi thanh toán để thu lãi, với những tài khoản không đủ số dư thì kế toán sẽ hạch toán số tiền đó vào tài khoản ngoại bảng “lãi chưa thu” . Với những khách hàng không có tài khoản tiền gửi tại ngân hàng (chủ yếu là cá nhân ) thì khách hàng phải đến trả lãi tại ngân hàng, nếu khách hàng thực hiện trả đầy đủ đều đặn thì không có vấn đề gì sảy ra. Song thực tế có rất nhiều trường hợp không trả đều đặn hàng tháng bởi vì đến ngày trả lãi người vay chưa đến kỳ thu hoạch nên không trả lãi được. Khi xảy ra tình trạng này, kế toán phải hạch toán số tiền lãi đó vào tài khoản ngoại bảng “lãi chưa thu”. Việc hạch toán số lãi chưa thu được vào tài khoản “lãi chưa thu” là đúng xong vấn đề cần giải quyết hạch toán vào đây thì khi nào sẽ thu. Vấn đề này trong điều 20 ( thể lệ tín dụng ngắn hạn đối với các tổ chức kinh tế) có quy định “... Nếu đơn vị vay chưa trả được lãi khi đến hạn thì ngân hàng tính và hạch toán vào tài khoản ngoaị bảng để thu dần, không nhập lãi vào gốc...”
Thực hiện quy định trên, Ngân hàng ĐT & PT Phú thọ đã chỉ đạo thu nợ thu lãi như sau: Nếu khách hàng vừa có nợ đến hạn phải trả, vừa có nợ trên tài khoản ngoại bảng “lãi chưa thu” nếu người đó không đủ tiền (tiền mặt, ngân phiếu, hay số dư tài khoản tiền gửi) để trả gốc và lãi thì tập trung thu lãi trước, số tiền còn lại sẽ thu vào gốc. Nếu gốc không thu hết thì chuyển sang nợ quá hạn. Xét về nguyên nhân của việc khách hàng trả lãi cho ngân hàng thiếu kịp thời thì có nhiều. Song một nguyên nhân cũng rất quan trọng là ngân hàng chưa có biện pháp cụ thể để xử lý vấn đề này nên khách hàng có ý “ chây ỳ” trong việc trả lãi ngân hàng. Ta có thể thấy qua tình hình thực tế tại Ngân hàng ĐT & PT Phú thọ.
Tình hình lãi chưa thu 6 tháng đầu năm 2000
Đơn vị: Triệu đồng.
Chỉ tiêu
Tổng lãi cho vay
Lãi chưa thu
Tỷ trọng
Ngắn hạn
12.193
566
2.5%
Trung & dài hạn
10.416
1.206
5.3%
Tổng cộng
22.609
1.772
7.8%
Qua số liệu trên ta thấy “ Lãi chưa thu” là 1.772 triệu chiếm tới 7.8% tổng lãi cho vay. Đây là phần vốn của Ngân hàng , lẽ ra Ngân hàng phải được sử dụng nó để phục vụ cho nhu cầu của nền kinh tế. Để giảm bớt phần nào thiệt hại từ khoản “lãi chưa thu” này Ngân hàng cần có những biện pháp kinh tế thiết thực tác động vào khách hàng để họ có trách nhiệm hơn trong việc trả lãi Ngân hàng. Nếu có những biên pháp thích hợp nhằm hạn chế những món lãi phát sinh trên thì không những hạn chế được thiệt hại cho Ngân hàng mà hiệu quả tín dụng được tăng lên.
4. Tình hình định kỳ hạn nợ và cách thu lãi tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Phú Thọ:
Cơ chế thị trường đã xoá bỏ tận gốc cơ sở sản sinh ra bao cấp tín dụng. Ngân hàng phải tự lo thu nợ, nếu không thu được nợ phải tự mất vốn và phá sản. Việc ngân hàng có thu được nợ hay không liên quan rất nhiều đến việc định kỳ hạn nợ món vay.
Trong quá trình cho vay việc định kỳ hạn nợ cho từng đối tượng vay của từng món vay là vấn đề rất khó. Vấn đề định kỳ hạn nợ đối với từng món vay đòi hỏi cán bộ tín dụng không những phải giỏi kỹ thuật tín dụng mà còn phải nắm đặc điểm chu kỳ sản xuất kinh doanh của từng đối tượng vay vốn Ngân hàng. Nhất là đối với Ngân hàng ĐT & PT Phú thọ mới chỉ mở rộng cho vay các thành phần kinh tế được thời gian ngắn nên kinh nghiệm về từng loại hình doanh nghiệp còn hạn chế đòi hỏi cán bộ tín dụng phải nỗ lực rất nhiều.
Tại Ngân hàng ĐT&PT Phú thọ áp dụng phương thức cho vay theo món nên việc định kỳ hạn cũng chính là thời hạn của món vay, theo cách định kỳ hạn nợ này việc thu lãi được tiến hành từng tháng (thu gốc riêng, thu lãi riêng).
Với việc định kỳ hạn nợ và cách thu lãi như trên xét về tính ổn định thì thu nhập của Ngân hàng luôn có xu thế ổn định hàng tháng bởi vì phần lớn thu nhập của ngân hàng là từ thu lãi cho vay. Nhưng để xác định được hiệu quả của hoạt động tín dụng của mỗi Ngân hàng một cách chính xác thì không phải chỉ quan tâm đến vấn đề các món vay đó đem lại cho Ngân hàng bao nhiêu lãi mà phải xem xét các món vay đó có trả được nợ đúng hạn cả gốc và lãi không? Thực hiện được như vậy Ngân hàng mới có thể tồn tại và phát triển được.
Đối với các doanh nghiệp có vòng qay vốn nhanh, khi thời hạn vay của mỗi món vay được thực hiện nhiều tháng, họ có thể tận dụng vốn đó để tiếp tục sản xuất kinh doanh vào mục đích khác, tình trạng không trả được nợ ngân hàng dễ xảy ra. Hơn nữa vì không có sự theo dõi sát sao cụ thể vòng quay vốn vay của Ngân hàng nên đến kỳ hạn trả nợ Ngân hàng nếu khách hàng không trả được nợ, Ngân hàng thường giải quyết bằng cách cho gia thêm hạn nợ hoặc chuyển nợ quá hạn.
Từ nguyên nhân đó dẫn đến việc đôn đốc trả nợ đối với các món vay sẽ trở nên khó khăn.
Với việc thu lãi theo phương pháp tích số hàng tháng, Ngân hàng luôn đảm bảo có nguồn thu nhập đều đặn từ đó xác định hệ số tiền lương, đồng thời trích lập các quỹ khác. Xong việc thu lãi như trên chưa thật phù hợp với tình hình hoạt động của từng loại hình doanh nghiệp.
Đối với các doanh nghiệp sản xuất theo mùa vụ thì việc thu lãi hàng tháng là khó khăn đối với họ, cũng như Ngân hàng không tránh khỏi tình trạng không thu được lãi vì khách hàng chưa đến vụ thu hoạch chưa thu được vốn về.
Việc tính lãi theo tích số và thu lãi hàng tháng đối với mọi món vay kể cả món vay có giá trị nhỏ số lãi thu từng tháng là rất ít. Từ đó khối lượng công việc của kế toán cho vay, chi phí giấy tờ in, hồ sơ theo dõi nhiều. Về phía khách hàng phải chịu đi lại làm thủ tục giấy tờ... gây mất thời gian không cần thiết. Do đó nó sẽ không thuận lợi cho cả Ngân hàng và khách hàng.
5. Vấn đề chuyển nợ quá hạn đối với cho vay theo món :
An toàn hiệu quả công tác tín dụng là yêu cầu quan trọng hàng đầu trong hoạt động kinh doanh tiền tệ của Ngân hàng ĐT & PT Phú thọ. Công tác tín dụng chiếm tới 80% trong toàn bộ hoạt động kinh doanh tiền tệ, đồng thời cũng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lợi nhuận đạt được.
Vì tính quan trọng của công tác tín dụng nơi mà mọi rủi ro có khả năng xảy ra. Tổng giám đốc ngân hàng ĐT &PT Việt nam đã chỉ đạo phải đi sâu đi sát vào chất lượng kinh doanh trong đó chất lượng tín dụng được đặt lên hàng đầu.
Thời gian gần đây chất lượng tín dụng của các Ngân hàng thương mại, nhất là nợ quá hạn được chính phủ và đông đảo dư luận báo trí quan tâm tới nhiều đồng thời cũng là điều trăn trở của các nhà quản lý Ngân hàng các cấp, có cả các cuộc hội thảo lớn nhằm đánh giá thực trạng tìm ra, giải pháp để ngăn chặn tình trạng nợ quá hạn.
Theo thực tế vận dụng ở Việt nam. Nợ quá hạn là những khoản nợ của khách hàng vay vốn Ngân hàng đến hạn không trả được, nếu không được Ngân hàng cho gia hạn thì chuyển sang nợ quá hạn, chịu lãi suất cao hơn lãi suất thông thường (150% lãi suất trong hạn). Ngoài ra còn cả những khoản nợ khách hàng vay sử dụng sai mục đích trong hợp đồng tín dụng bị Ngân hàng kiểm tra phát hiện quyết định thu hồi nợ trước hạn nếu không sẽ bị chuyển sang nợ quá hạn.
Con số nợ quá hạn cũng phần nào nói lên chất lượng tín dụng , tuy nhiên đó cũng mới chỉ là hiện tượng. Để đánh giá được chất lượng tín dụng ngoài việc nhìn nhận trên khía cạnh nợ quá hạn ta phải nhìn bao quát đến hiệu quả kinh tế xã hội mà tín dụng mang lại .
Tại Ngân hàng ĐT & PT Phú thọ việc bảo toàn và nâng cao chất lượng tín dụng luôn được quan tâm và thực hiện, hạn chế đến mức thấp nhất các khoản nợ quá hạn có thể xảy ra. Ta có thể thấy rõ mức dư nợ quá hạn của từng loại tín dụng và tỷ trọng của nó trên tổng dư nợ các loại qua hai thời điểm:
Tình hình nợ quá hạn
6 tháng đầu năm 1999 và 6 tháng đầu năm 2000
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
6 tháng đầu năm 1999
6 tháng đầu năm 2000
Dư nợ quá hạn
Tỷ trọng
Dư nợ quá hạn
Tỷ trọng
Cho vay ngắn hạn
1.734
1.67%
933
0,5%
Cho vay trung hạn
312
0,5%
218
0,33%
Cho vay dài hạn
669
0,4%
670
0,36%
Hiện nay Ngân hàng ĐT &PT Phú thọ việc quản lý tín dụng đã được máy vi tính trợ giúp, việc theo dõi kỳ hạn nợ của từng hợp đồng tín dụng được cài đặt chương trình sẵn, cứ đến kỳ hạn nợ mà khách hàng chưa trả thì ngày hôm sau máy tính tự động chuyển sang nợ quá hạn. Điều này gây không ít thiệt hại cho khách hàng vì Ngân hàng áp dụng lãi suất nợ quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn cùng loại. Cũng có khi việc trả nợ chỉ quá hạn một vài ngày do nguyên nhân khách quan: tiền thanh toán ở Ngân hàng khác hệ thống không chuyển về Ngân hàng để trả nợ không đúng như dự định hoặc việc đệ trình xem xét gia hạn nợ không kịp thời. Thiết nghĩ Ngân hàng cũng nên có biện pháp hữu hiệu hơn trong việc chuyển nợ quá hạn để vừa đảm bảo sự nhanh nhạy chính xác cao của máy tính vừa tạo thêm sự tin tưởng nơi khách hàng đối với Ngân hàng, tạo diều kiện phục vụ khách hàng tốt nhất.
6. Vấn đề trả nợ gốc trước hạn đối với cho vay theo món:
Trong quá trình cho vay, khi món vay được phát ra với thời hạn xác định rõ ràng ngày trả nợ thì Ngân hàng phải cân đối nguồn vốn của mình. Việc phát sinh trường hợp trả nợ trước hạn đã thoả thuận là nằm ngoài dự kiến của Ngân hàng. Điều đó là một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng mất cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn, gây ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Cân đối nguồn vốn trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng là vấn đề chiến lược của chính sách tín dụng đối với mỗi Ngân hàng. Trong bài viết này tôi xin đề cập đến nguyên nhân làm mất cân đối nguồn vốn do việc trả nợ trước hạn của khách hàng.
Tại ngân hàng ĐT & PT Phú thọ qua 6 tháng đầu năm 2000 tình hình trả nợ trước hạn như sau:
Đơn vị: Triệu đồng.
Doanh số cho vay
Doanh số thu nợ
Thu nợ trước hạn
Tỷ trọng
Tổng số
292.566
236.187
64.479
27,3%
Về doanh số trả nợ trước hạn trong 6 tháng đầu năm 1998 chiếm tới 27,3% tổng doanh số thu nợ của ngân hàng. Đây là một con số không nhỏ.
Trong cơ chế thị trường hiện nay, các hình thức hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là đa dạng và đồng thời đồng vốn cũng được họ sử dụng uyển chuyển, linh hoạt như chính sự linh hoạt của nền kinh tế, cho nên các khách hàng vay vốn của Ngân hàng khi có tiền nhàn dỗi họ có thể lập tức trả nợ trước hạn ngay cho Ngân hàng để khỏi phải chịu thêm một khoản lãi nữa mà đáng ra họ phải trả cho Ngân hàng theo đúng thời hạn vay vốn. Đối với cán bộ tín dụng ngân hàng thì việc trả nợ trước hạn của khách hàng vừa tạo điều kiện cho họ thu hồi vốn nhanh để đạt tiêu chuẩn thu nợ, vừa tránh được rủi ro có thể xảy ra. Song đối với Ngân hàng thì sẽ bất lợi do không nhận được lãi trong thời gian khách hàng trả nợ trước hạn, trong khi đó Ngân hàng vẫn phải trả lãi cho việc huy động những khoản vốn đó.
Nhìn qua ai cũng cho rằng việc trả nợ trước hạn của khách hàng là rất tốt , thứ nhất nó đảm bảo món vay thu hồi được cả gốc và lãi nhanh, không phát sinh hiện tượng chuyển nợ quá hạn. Thứ hai với số tiền khách hàng trả nợ trước hạn đó sẽ tạo cho ngân hàng có thêm nguồn để cho vay khách hàng khác. Thực tế cho thấy những nhận xét trên đây là không hoàn toàn đúng lắm vì hiện nay tại Ngân hàng ĐT&PT Phú Thọ giải quyết vấn đề trên theo hai hướng: Ngân hàng có thể điều chuyển lên ngân hàng Trung ương hoặc cho vay ra đối với nền kinh tế.
Nếu ngân hàng điều chuyển lên ngân hàng Trung ương thì không mất thời gian nhưng phần chênh lệch lãi suất tiền gửi tại ngân hàng Trung ương với lãi suất huy động bình quân tại chi nhánh không đủ bù đắp chi phí.
Nếu ngân hàng cho vay ra được đối với nền kinh tế thì ít ra cũng phải mất 3 ngày để thẩm định xét duyệt cho vay tức là trong 3 ngày đó ngân hàng vẫn phải chịu lãi huy động mà không nhận được một khoản thu nhập nào trong thời gian kể trên.
Mặt khác trong trường hợp khách hàng đến trả nợ trước hạn cho ngân hàng đúng vào thời điểm ngân hàng không cho vay ra được đối với nền kinh tế thì khoản thiệt hại này ngân hàng phải gánh chịu.
7. Mối quan hệ giữa kế toán cho vay và cán bộ tín dụng đối với từng món vay:
Hiện nay tại Ngân hàng ĐT&PT tỉnh Phú thọ cán bộ tín dụng có nhiệm vụ xét duyệt và xác định mức cho vay, cán bộ kế toán có nhiệm vụ căn cứ vào hồ sơ xin vay đã được duyệt, mở tài khoản cho vay hạch toán và theo dõi thu lãi, thu nợ. Quá trình thực hiện một món vay kể từ khi cán bộ tín dụng tiếp nhận đơn xin vay, kiểm tra, thẩm định và quyết định cho vay đến khi kế toán cho vay phát tiền vay, theo dõi ngày trả nợ trả lãi của khách hàng là cả một quá trình có sự liên quan mật thiết với nhau.
Nếu cán bộ tín dụng thực hiện kiểm tra, đánh giá khách hàng càng chính xác thì việc theo dõi thu nợ của nhân viên kế toán càng được thực hiện nhanh chóng và chuẩn xác. Nếu nhân viên kế toán theo dõi việc trả nợ trả lãi của khách hàng theo kỳ hạn một cách khoa học có sự phát hiện những thay đổi bất thường về tài chính của đơn vị vay thì sẽ tạo điều kiện cho cán bộ tín dụng thực hiện việc đôn đốc khách hàng trả nợ trả lãi một cách nghiêm túc hơn, có thể dừng các khoản cho vay tiếp theo hoặc thu hồi nợ trước hạn trong những trường hợp cần thiết. Sự phối hợp giữa cán bộ tín dụng và cán bộ kế toán trong từng món vay càng nhịp nhàng, ăn khớp thì hiệu quả của hoạt động tín dụng ngân hàng càng được nâng cao.
Chương III
Một số kiến nghị về kế toán cho vay tại
Ngân hàng Đầu tư và phát triển tỉnh Phú Thọ
Qua thời gian học tập ở Trường và thời gian thực tập về chuyên đề kế toán tại Ngân hàng ĐT&PT Phú Thọ mặc dù trong thời gian ngắn trình độ có hạn song tôi mạnh dạn tìm hiểu về kế toán cho vay - loại kế toán khá phức tạp và tôi đã rút ra một số tồn tại. Tôi xin nêu ra một số kiến nghị để giải quyết tồn tại đó.
I. Chiết khấu kỳ phiếu:
Chiết khấu là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn qua đó khách hàng chuyển nhượng quyền sở hữu phiếu nợ ngắn hạn chưa đến hạn thanh toán cho ngân hàng để nhận lấy số tiền bằng tổng mệnh giá của kỳ phiếu trừ đi lợi tức triết khấu và tiền hoa hồng phí
Đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ ngân hàng và mở rộng các loại hình tín dụng là mục tiêu hoạt động của các ngân hàng thương mại hiện nay. Tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Phú Thọ kỳ phiếu là hình thức huy động vốn ăn khách của ngân hàng nhờ lãi suất có cao hơn một chút so với các loại tiền gửi khác, có thể được nhận lãi trước hoặc nhận lãi sau và có thể chuyển nhượng cho người khác khi cần thiết . Đây là hình thức huy động vốn có hiệu quả của ngân hàng, bởi vậy nó đang đóng một vai trò hết sức quan trong trong lĩnh vực huy động vốn nói riêng và nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng nói chung . Nhưng đối với những người mua kỳ phiếu còn những điều chưa thuận lợi: thời hạn huy động vốn dài (13 tháng hay 15 tháng) trong thời hạn đó có thể người sở hữu kỳ phiếu có nhu cầu đột suất khi các kỳ phiếu chưa đến hạn rút vốn, nếu rút vốn trước hạn thì họ chỉ được hưởng lãi suất không kỳ hạn trên số tiền thực nộp khi mua kỳ phiếu. Như vậy người mua kỳ phiếu sẽ bị thiệt thòi nhiều.
Nếu người sở hữu kỳ phiếu không muốn rút vốn trước hạn thì có thể tìm người thứ ba để chuyển nhượng hoặc đem đến ngân hàng cầm cố để vay vốn.
Tuy nhiên trong thực tế tìm người thứ ba để chuyển nhượng không phải lúc nào cũng rễ ràng tìm được. Còn nếu thực hiện cầm cố với ngân hàng thì khách hàng phải làm đầy đủ thủ tục như một khách hàng vay vốn, khi đến hạn trả nợ người vay phải đến ngân hàng làm thủ tục trả nợ và trả lãi vay.
Để giảm bớt những phiền hà và thiệt hại cho khách hàng đồng thời nâng cao “tính lỏng” chứng từ có giá của ngân hàng. Tôi xin mạnh dạn đề xuất ý kiến: thực hiện nghiệp vụ chiết khấu kỳ phiếu.
Khi khách hàng có nhu cầu xin chiết khấu chỉ cần làm đơn xin chiết khấu, bảng kê kỳ phiếu kèm theo bản gốc của kỳ phiếu xin chiết khấu đến ngân hàng để xin chiết khấu.
Cách tính số tiền khách hàng xin chiết khấu nhận được tối đa:
Giả định với hai loại kỳ phiếu trả lãi trước và trả lãi sau, thì số tiền nhận được tối đa sẽ là:
Đối với kỳ phiếu trả lãi trước:
Mck = M - ( M x Ick x t )- C
Đối với kỳ phiếu trả lãi sau:
Mck = [ M + ( M x Ikp x N ) ] - ( M x Ick x t ) - C
Trong đó:
Mck: Số tiền tối đa nhận được sau khi chiết khấu.
M: Mệnh giá của kỳ phiếu
Ick: Lãi suất chiết khấu
Ikp: Lãi suất kỳ phiếu
t: Thời gian xin chiết khấu ( tính từ ngày xin chiết khấu đến ngày đến hạn của kỳ phiếu)
N: Kỳ hạn của kỳ phiếu
C: Chi phí chiết khấu
Ví dụ:
Một khách hàng A có một kỳ phiếu trả lãi trước mệnh giá là 10.000.000 đồng, kỳ hạn 15 tháng, lãi suất 0.6%/ tháng, khách hàng xin chiết khấu kỳ phiếu với thời hạn còn lại của kỳ phiếu là 2 tháng, lãi xuất chiết khấu 1%/ tháng, chi phí một món xin chiết khấu là 2.000 đồng.
Vậy khi xin chiết khấu khách hàng sẽ nhận được số tiền là:
Mck = 10.000.000 - ( 10.000.000 x 1% x 2 tháng )- 2.000 = 9.798.000 đ
Cũng ví dụ trên nhưng đối với kỳ phiếu trả lãi sau thì số tiền nhận được là:
Mck ={ 10.000.000 + ( 10.000.000 x 0.6% x 15 tháng )}-
- ( 10.000.000 x 1% x 2 tháng) - 2.000 = 10.698.000 đồng.
Tóm lại chiết khấu kỳ phiếu được thực hiện sẽ giải quyết được rất nhiều nhu cầu vốn của các đơn vị và cá nhân, đồng thời mở rộng hình thức tín dụng của ngân hàng tạo điều kiện cho khách hàng phát huy hơn nữa hiệu quả sử dụng nguồn vốn của mình, thực hiện đúng khẩu hiệu “Hiệu quả kinh doanh của khách hàng là mục tiêu hoạt động của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam”.
II. Hạch toán và theo dõi các khoản lãi chưa thu:
Tình trạng "lãi chưa thu" tồn tại khá phổ biến ở các Ngân hàng Thương mại, Ngân hàng ĐT&PT Phú Thọ cũng không tránh khỏi tình trạng trên, từ đó ảnh hưởng đến những nguồn thu nhập của Ngân hàng. Để động viên và thúc đẩy khách hàng thực hiện nhanh hơn và tốt hơn trong quá trình trả nợ cũng như trả lãi cho Ngân hàng, hạn chế phần nào thiệt hại cho Ngân hàng. Giải thích cho khách hàng vay tiền và khách hàng gửi tiền đều có quyền lợi và nghĩa vụ bình đẳng. Khách hàng gửi tiền đến kỳ hạn được rút gốc + lãi một cách nhanh chóng, đầy đủ; còn khách hàng vay Ngân hàng nói chung đa số cũng trả nợ sòng phẳng cả gốc + lãi. Nhưng bên cạnh đó cũng có người vay rất "chây ỳ" không muốn trả gốc + lãi cho Ngân hàng. Tôi xin đưa ra kiến nghị áp dụng kỷ luật phạt đối với những khoản lãi tiền vay mà khách hàng trả cho Ngân hàng không đúng qui định như sau:
Khoản "lãi chưa thu" được coi như một khoản nợ mới phát sinh, đây lại là khoản khách hàng đã cam kết mà chưa trả được do vậy cần phải áp dụng một tỷ lệ phạt thích hợp. Việc làm trên không những làm giảm thiệt hại cho Ngân hàng mà còn tác động thúc đẩy khách hàng nhanh chóng trả lãi cho Ngân hàng đúng thời hạn. Khách hàng càng trả chậm lãi thì khoản phạt đó càng tăng. Đây là biện pháp nhằm mục đích đôn đốc khách hàng thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các khoản trong hợp đồng tín dụng.
Tỷ lệ phạt áp dụng theo lãi xuất Ngân hàng tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng... ở thời điểm phát sinh lãi chưa thu, thời gian tính phạt kể từ ngày ghi nhập vào tài khoản "lãi chưa thu" đến khi người vay hoàn thành trả lãi.
VD1:
- Số lãi ghi nhập tài khoản ngoại bảng "lãi chưa thu" số tiền 20.000.000,0đ
- Ngày nhập tài khoản ngoại bảng là ngày 01/6
- Ngày người vay trả lãi là ngày 01/7
- Lãi xuất tiền gửi không kỳ hạn là 0,3%/tháng
Số tiền phạt= (20.000.000,0đ x 0,3% x 30 ngày)/30= 60.000,0đ
Sau khi tính toán sẽ hạch toán
Xuất: Tài khoản ngoại bảng "lãi cha thu" (số tiền 20.000.000,0đ
Nợ: Tài khoản tiền mặt (nếu nộp bằng tiền mặt): 20.060.000,0đ
Hoặc tài khoản tiền gửi người vay (bằng chuyển khoản): 20.060.000đ.
Có: Tài khoản thu lãi cho vay: 20.000.000,0đ
Tài khoản thu khác: 60.000,0đ
VD2:
Cũng tương tự như VD1 thời hạn nhập lãi chưa thu là 3 tháng lãi suất 0,4%/tháng:
20.000.000,0đ x 0,4% x 3 tháng= 240.000,0đ
Nếu thời hạn là 6 tháng lãi xuất 0,45%:
20.000.000,0đ x 0,45% x 6 tháng= 540.000,0đ
Qua ví dụ trên ta thấy số lãi phạt cũng là một con số không nhỏ ta cần tính toán chi tiết thì mới có thể, thể hiện công bằng giữa Ngân hàng và khách hàng, giữa khách hàng vay tiền và khách hàng gửi tiền.
Để đảm bảo sự thống nhất trong hoạt động này khi vay tiền thì trên Hợp đồng tín dụng thường ghi thời hạn là: số tháng và lãi suất cũng ghi là tính theo tháng khi kế toán tính lãi và thu lãi thì kê số theo số ngày thực tế trong tháng và mẫu số thì luôn cố định là 30 ngày do đó tháng nào có 31 ngày thì số tiền lãi phải trả tính ra sẽ cao hơn so với lãi suất ghi trong hợp đồng tín dụng , còn tháng 28 ngày thì phải trả ít hơn. Vậy tôi xin đề xuất cách tính lãi nh sau nếu lãi suất ghi trong hợp đồng tín dụng là lãi suất tính theo tháng thì tháng nào có 30 ngày thì mẫu số chia cho 30 ngày, tháng nào có 28 ngày thì chia cho 28 còn tháng nào 31 ngày thì chia cho 31.
VD: Tháng 6 có 30 ngày, tiền vay là 10.000.000,0đ, lãi xuất vay 0,78%/tháng. Vay thời hạn là 1 tháng. Số tiền lãi cụ thể phải trả là:
(10.000.000,0đ x 0.78% x 30): 30 = 78.000, đồng
Tháng 2 có 28 ngày (tương tự VD trên)
Cách Ngân hàng áp dụng:
(10.000.000,0đ x 0.78% x 28): 30 = 72.800,0 đồng
Nếu mẫu số chia cho 28 thì:
(10.000.000,0đ x 0.78% x 28): 28 = 78.000,0 đồng
Chênh lệch: 78.000,0đ - 72.800,0đ = 5.200,0 đồng => phần Ngân hàng được lợi
- Cũng Ví Dụ 1 nhưng tháng 5 có 31 ngày
Cách Ngân hàng đang áp dụng
(10.000.000,0đ x 0.78% x 31): 30 =80.600,0đ
Nếu mẫu số chia cho 31:
(10.000.000,0đ x 0.78% x 31): 31 = 78.000,0đ
Chênh lệch: 8.600,0đ - 78.000,0đ = 2.600,0đ => phần khách hàng được lợi.
Với cách tính trên sẽ đảm bảo sự chặt chẽ trong hoạt động Ngân hàng, thực hiện sự công bằng giữa Ngân hàng và khách hàng đồng thời cũng giảm bớt được phần nào khó khăn cho khách hàng.
III. Về phương pháp thu lãi đối với từng món vay:
Như phân tích ở chương 2, tôi đã đề cập 2 khía cạnh liên quan trực tiếp đến phương pháp thu lãi ở Ngân hàng ĐT&PT Phú Thọ, đó là việc thu lãi hàng tháng ít nhiều có ảnh hưởng đến quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị vay vốn nhất là các đơn vị có vòng quay vốn chậm, chu kỳ sản xuất kinh doanh theo mùa vụ có ảnh hưởng đến việc thu nợ vì có thể tập trung vào thu lãi mà "lãng quên" thu nợ gốc. Đối với những món vay có giá trị nhỏ thì việc thu lãi hàng tháng không chỉ gây phiền hà cho người vay mà làm cho chi phí cũng như công việc của kế toán Ngân hàng tăng lên một cách không cần thiết.
Trước tình hình thực tế trên tôi xin đưa một số biện pháp hạn chế như sau:
1. Về phương pháp thu lãi đối với từng khách hàng vay:
Hiện nay tại Ngân hàng ĐT&PT Phú Thọ đang áp dụng thu lãi hàng tháng còn gốc chỉ đến khi sát kỳ hạn trả nợ, cán bộ tín dụng mới đôn đốc khách hàng trả nợ. Để đảm bảo tính linh hoạt trong thu lãi, phù hợp và tạo điều kiện thuận lợi cho từng loại hình đơn vị vay vốn tôi đề nghị:
- Đối với những đơn vị hay cá nhân có vòng chu chuyển vốn nhanh (trên 3vòng một quý) có số thu nhập thường xuyên ổn định thì vẫn áp dụng tính và thu lãi hàng tháng theo phương pháp tính số như hiện nay. Đối với những đơn vị cá nhân này áp dụng thu lãi hàng tháng vừa có lợi cho Ngân hàng vì nó đảm bảo thu nhập háng tháng, hạn chế rủi ro vì ngăn ngừa được khách hàng không có ý định sử dụng số tiền vào mục đích khác, vừa có lợi cho người vay vì số tiền trả lãi được trả dần trong từng tháng.
- Đối với những đơn vị hay cá nhân có vòng luân chuyển vốn chậm, sản xuất kinh doanh mang tính thời vụ thì không áp dụng thu lãi hàng tháng, mà sẽ thu cùng ngày khi người vay trả nợ gốc.
Làm như vậy không những Ngân hàng hạn chế được việc theo dõi ở tài khoản ngoại bảng "lãi chưa thu" mà giúp đơn vị yên tâm sản xuất, tạo điều kiện để họ có thể trả cả nợ gốc và lãi đúng hạn hết mùa vụ họ thu hoạch và tiêu thụ được sản phẩm.
2. Về phương pháp thu lãi đối với những món vay có giá trị nhỏ:
Đối với món vay có giá trị nhỏ, mặc dù thời hạn trả nợ của món vay đó là 6 tháng, 9 tháng đến 1 năm, songvì giá trị món vay nhỏ nên số lãi hàng tháng khách hàng phải trả cho Ngân hàng cũng không đáng kể.
Như vậy có thể qui định thu lãi vào ngày cuối cùng của kỳ hạn nợ khi thu gốc hoặc sau 1 kỳ hạn nhất định (3 tháng 1 lần) khách hàng mới cần đến Ngân hàng để trả số tiền lãi đó. Hàng tháng khi có phiếu tính lãi, kế toán cho vay vẫn hạch toán vào tài khoản ngoại bảng "lãi chưa thu" nhưng có thuận lợi là thay vì trước đây tháng nào nhân viên kế toán cũng phải theo dõi thu lãi thì giờ cứ 3 tháng kế toán mới phải theo dõi một lần. Điều này không những làm giảm các chi phí, thủ tục hành chính không cần thiết, mà vẫn không ảnh hưởng đến hoạt động của Ngân hàng nói chung, của Phòng kế toán nói riêng mà còn giúp khách hàng, hàng tháng không phải đến Ngân hàng để trả lãi, giảm được những chi phí không đáng có trong quá trình đi lại, giao dịch với Ngân hàng.
IV. Về vấn đề trả nợ gốc trước hạn đối với cho vay theo món:
Việc cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn chiếm vị trí quan trọng trong chiến lược kinh doanh của Ngân hàng, bất kể một yếu tố nào xảy ra có ảnh hưởng đến nguồn vốn hay sử dụng vốn đều có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Theo như phân tích ở chương 2, kế hoạch về nguồn vốn và sử dụng vốn của Ngân hàng ĐT&PT Phú Thọ bị ảnh hưởng bởi việc trả nợ gốc trước hạn của các món vay. Khi có món vay phát sinh, giữa Ngân hàng và khách hàng bao giờ cũng có cam kết trả nợ vào một ngày rõ ràng có nghĩa là ngày đó được Ngân hàng đồng ý và khách hàng chấp nhận và đây cũng chính là căn cứ để Ngân hàng lên kế hoạch cho các hoạt động tiếp theo. Việc khách hàng đem đến trả nợ gốc trước hạn ít nhiều cũng có ảnh hưởng đến kế hoạch hoạt động của Ngân hàng. Trả nợ gốc trước hạn có nghĩa là chưa đến ngày hạn trả nhưng khách hàng đã trả nợ rồi. Vấn đề này trong các văn bản, chế độ của Ngân hàng Nhà nước cũng như riêng từng hệ thống Ngân hàng không có qui định, theo dõi nên nó không có thống kê trên sổ sách thích hợp.
Tuy nhiên trong thực tế công tác tại Ngân hàng ĐT&PT Phú Thọ tôi nhận thấy vấn đề này ít nhiều cũng gây thiệt hại cho Ngân hàng nên tôi cũng mạnh dạn đa ra biện pháp hạn chế nhằm giúp Ngân hàng đỡ một phần nào thiệt hại.
Việc phát sinh trả nợ gốc trước hạn sẽ làm tăng nguồn vốn của Ngân hàng ngoài dự kiến, nếu Ngân hàng cho vay ra được ngay thì đó là điều rất thuận lợi nhưng nếu gặp lúc nhu cầu xin vay của khách hàng giảm thì lại là khó khăn đến với Ngân hàng. Theo như hiện nay tại Ngân hàng ĐT&PT Phú Thọ cũng như tất cả các Ngân hàng khác, nếu nguồn vốn thừa quá nhiều so với kế hoạch sử dụng thì sẽ điều chuyển lên Ngân hàng ĐT&PT TW hoặc để lại cho vay ra, đối với nền kinh tế.
Nhưng thực trạng, nếu Ngân hàng ĐT&PT Phú Thọ điều chuyển vốn lên Ngân hàng ĐT&PT TW được nhận lãi suất 0,52%/tháng như vậy chỉ nhỉnh hơn lãi suất(theo thời điểm hiện tại thì lãi suất huy động bình quân của Ngân hàng ĐT&PT Phú Thọ là 0,48%/tháng) hoặc nếu cho vay ra nền kinh tế thì Ngân hàng cũng phải mất một vài ngày để kiểm tra và xét duyệt nhu cầu vay (đó là với trường hợp có nhu cầu vay ngay).
- Nếu điều chuyển vốn lên Ngân hàng TW thì coi như là Ngân hàng ĐT&PT Phú Thọ không những đi huy động hộ mà còn phải chịu mọi chi phí trong quá trình huy động.
- Việc trả nợ trước hạn nếu Ngân hàng cho vay ra được thì mất một vài ngày còn nếu không cho vay ra được thì từ ngày trả nợ trước hạn đến ngày hết kỳ hạn trả nợ của món vay đó Ngân hàng đều không được nhận một khoản thu nhập nào mà vẫn phải trả lãi huy động.
Qua việc phân tích trên đây chúng ta nhận thấy Ngân hàng phải chịu thiệt hại hoàn toàn. Để hạn chế phần nào những tổn thất đó một mặt cán bộ tín dụng cần tính toán và có những đánh giá, kiểm tra một cách chặt chẽ vòng quay vốn của từng món vay, một mặt Ngân hàng sẽ áp dụng một tỷ lệ phí trả trước hạn trên tổng số nợ trả trước hạn của khách hàng. Cụ thể tỷ lệ phí bằng lãi suất tiền gửi không kỳ hạn.
Số tiền phạt = Số tiền trả nợ trước hạn x tỷ lệ phí trả trước hạn
Việc áp dụng tỷ lệ phí này ngoài mục đích làm giảm bớt thiệt hại cho Ngân hàng còn làm cho khách hàng phải có trách nhiệm trong việc tính toán nhu cầu vay vốn, từ đó tính toán mức cho vay và thời gian vay cần thiết, lập kế hoạch sử dụng vốn vay của mình được chính xác. Qua đó sẽ tránh được tình trạng khách hàng cứ làm đơn xin vay trong giới hạn cho vay ngắn hạn mà không cần quan tâm, xem xét kỹ lưỡng thời gian cần sử dụng số tiền và khả năng trả nợ cho Ngân hàng.
V. áp dụng tin học trong kế toán cho vay:
Nghị quyết số 07 của BCH TW (khoá VIII) đã xác định" Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biết sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học, công nghệ tạo ra năng suất lao động cao".
Để thực hiện thành công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm, chú trọng đến công việc hiện đại hoá công nghệ trong hệ thống Ngân hàng và được khởi đầu từ cuối năm 1991. Hiện đại hoá Ngân hàng được tập trung vào mũi nhọn đột phá cải tiến đồng loạt hoạt động thanh toán qua hệ thống Ngân hàng, áp dụng rộng rãi công nghệ tin học trong hoạt động Ngân hàng đã sớm thu được kết quả tốt; đảm bảo thanh toán an toàn, nhanh chóng, chính xác và thuận tiện; phục vụ tốt nhu cầu giao dịch của khách hàng.
Thông qua hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng đã làm giảm bớt những công việc thủ công nhất là trong lĩnh vực kế toán. Hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng không những góp phần giảm nhẹ công việc cho từng nhân viên Ngân hàng mà còn đảm bảo các nghiệp vụ được thực hiện một cách chính xác, kịp thời. Kết quả này được khẳng định phần nào trong các hoạt động thanh toán liên hàng, thanh toán bù trừ hiện nay đang được các Ngân hàng áp dụng rộng rãi. Mặc dù vậy tin học ứng dụng trong các nghiệp vụ kế toán hiện nay tại Ngân hàng ĐT&PT Phú Thọ còn chưa hoàn hảo nhất là đối với kế toán cho vay, thu nợ và điều này cũng gây ra một số trở ngại cho khách hàng trong việc xin gia hạn nợ các món vay.
Như đã phân tích ở chương 2, việc máy tính chuyển nợ quá hạn ngay ngày hôm sau đối với những món đến hạn mà khách hàng chưa kịp trả hoặc chưa kịp xin gia hạn nợ. Điều đó gây không ít khó khăn cho khách hàng nhất là những khách hàng có lý do chính đáng.
Từ những tồn tại đã rút ra trên đây tôi xin nêu kiến nghị về áp dụng tin học trong vấn đề này như sau:
Hàng tháng định ra một số ngày nhất định (có thể là 3 ngày ví dụ ngày 10, 20, 30 hàng tháng) kế toán cho vay in ra 2 bản (một bản gửi cán bộ tín dụng, một bản lưu lại kế toán cho vay) danh sách các món nợ đến hạn trong vòng 10 ngày. Thực hiện công việc trên sẽ đem lại cho Ngân hàng nhiều mặt lợi.
Thứ nhất: Các món gần đến hạn sẽ được thông báo kịp thời cho khách hàng biết trước trong thời gian cần thiết vì cán bộ tín dụng được thông báo từ trước nên họ sẽ bố trí côngviệc sao cho có hiệu quả nhất.
Thứ hai: Thay vì phải tìm trang mục "nợ đến hạn" kế toán cho vay chỉ việc lấy thông tin qua bản danh sách đó thì có thể biết ngay tất cả những thông tin về hạn trả nợ, mức trả nợ của từng món vay của mỗi khách hàng trong những ngày tới.
Và cuối cùng việc áp dụng chương trình này vào nghiệp vụ kế toán cho vay còn thuận tiện cho việc kiểm tra trong bất cứ thời gian nào khi thấy cần thiết (ví dụ từ ngày 20/10/2000 đến ngày 30/10/2000 có bao nhiêu món sắp đến hạn trả nợ, số tiền là bao nhiêu chúng ta có thể hoàn toàn biết ngay được) từ đó làm cơ sở cho lãnh đạo Ngân hàng lập kế hoạch về hoạt động sử dụng vốn trong thời gian sắp tới, hơn nữa việc thông báo cho khách hàng biết số tiền sắp phải trả và ngày trả cho Ngân hàng sẽ tạo điều kiện cho khách hàng chuẩn bị trước đồng thời sớm loại bỏ ý định khách hàng sử dụng vốn vay vào mục đích khác.
Việc áp dụng những ứng dụng tin học trên đây sẽ giúp cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng tiện lợi rất nhiều, một mặt nó thắt chặt thêm mối quan hệ nhịp nhàng trong việc theo dõi hạn nợ của cán bộ tín dụng và kế toán cho vay sẽ được thực hiện khoa học và chính xác hơn một mặt nó giúp Ngân hàng có những biện pháp kịp thời đối với những khoản nợ có hiện tượng khó đòi.
Đây là giải pháp cụ thể Ngân hàng ĐT&PT Phú Thọ có thể đưa vào áp dụng ngay được không đòi hỏi công nghệ quá hiện đại mà hiệu qủa tín dụng được nâng cao.
Kết luận
Kinh doanh ngân hàng là một loại hình kinh doanh đặc biệt. Để phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế, sản phẩm của ngân hàng phát triển đa dạng, phong phú (Tư vấn tài chính , chuyển tiền nhanh, kinh doanh ngoại hối... ).
Trong hoạt động kinh doanh mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận là vấn đề các doanh nghiệp cần quan tâm. Các Ngân hàng thương mại cũng hướng theo mục tiêu đó. Trong hoạt động kinh doanh đòi hỏi phải chính xác và có hiệu quả, như vậy ngân hàng mới tồn tại và phát triển. Hoạt động cho vay chiếm tới 80% tổng số các hoạt động ngân hàng, chính vì vậy mà công việc của kế toán cho vay rất nặng nề và phức tạp . Muốn hiệu quả của các hoạt động đầu tư được nâng cao cần quan tâm hơn nữa tới công tác kế toán cho vay.
Quá trình học tập tại trường và thời gian công tác, thực tập tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Phú Thọ tôi đã tiếp thu được những kiến thức lý luận cơ bản và những kinh nghiệm làm thực tế nhất định. Từ đó tôi cũng mạnh dạn đa ra một số ý kiến đóng góp. Những ý kiến nêu trong luận văn này là một trong những mặt nghiệp vụ quan trọng của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Phú Thọ nói riêng cũng như hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nạm nói chung và nó cũng suất phát từ tình hình thực tế. Do vậy tôi hy vọng rằng những ý kiến đó một mặt phản ảnh kết quả học tập mặt khác cũng góp một phần nhỏ bé trong việc nghiên cứu đề suất, cải tiến chế độ, tăng cường công tác chỉ đạo, nhằm đa dạng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng đạt hiệu quả cao, tạo được nhiều sức cạnh tranh trong cơ chế thi trường có sự điều tiết của nhà nước, đáp ứng được nhu cầu về vốn ngày càng tăng của xã hội và phát huy vai trò, vị trí là một Ngân hàng đứng đầu hoạt động trong lĩnh vực đầu tư phát triển.
Cuối cùng một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy Cô giáo và toàn thể các đồng chí cán bộ Ngân hàng Đầu từ Phát triển Phú Thọ đã hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành khoá luận văn này.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28231.doc