Trong thời gian qua việc cho vay bằng lãi suất ưu đãi đã giúp người nghèo khắc phục được những khó khăn, giảm chi phí sản xuất kinh doanh, khuyến khích được các hộ nghèo mạnh dạn tính toán vay vốn để sản xuất kinh doanh, tập dược làm quen với sản xuất hàng hoá, dần dần vươn nên hoà nhập với cộng đồng trong cơ chế thị trường. Để phát huy hiệu quả cho vay hộ nghèo cần thiết phải chuyển chovay hộ nghèo sang lãi suất thị trường theo hướng:
+ Thực hiện thống nhất một lãi suất cho vay hộ nghèo theo lãi suất thị trường nhưng có giảm lãi đối với từng vùng .
+ Để khuyến khích những hộ sử dụng vốn có hiệu qủa nên áp dụng chính sách thưởng lãi suất khi hộ vay trả lãi tốt .
+ Để thực hiện tốt cơ chế cho vay hộ nghèo theo lãi suất thị trường, cùng với nguồn vốn tín dụng nhà nước cần tăng cường các chính sách hỗ trợ người nghèo một cách kịp thời và đồng bộ như qua tâm xây dựng cơ sở hạ tầng ở nông thôn nhất là các vùng nghèo, nâng cao dân trí, chuyển giao KHKT, khuyến nông, khuyến ngư định hướng sản xuất tìm kiếm dự án sản xuất kinh doanh có hiệu quả giải quyết tốt khâu tiêu thụ sản phẩm cho người nghèo.
KẾT LUẬN
Như đã nói, lãi suất là giá mua bán vốn trên thị trường. Cơ sở kinh tế của lãi suất là do các hiện tượng tạm thời “ thừa “ và tạm thời “thiếu “ vốn tiền tệ trong nền kinh tế hàng hoá và gắn với nó là vai trò trung gian của ngân hàng trong việc tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ thông qua công cụ lãi suất. Lãi suất cao hay thấp do quan hệ cung - cầu về vốn quyết định, khi cung lớn hơn cầuvề vốn thì lãi suất giảm, khi cầu lớn hơn cung thì lãi suất tăng.
Lãi suất rất nhạy cảm trong nền kinh tế thị trường, đó là một trong những công cụ quan trọng của nhà nước trong việc xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ để quản ký và điều tiết nền kinh tế. Đối với Việt nam, đổi mới nền kinh tế, xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, việc nghiên cứu để luôn có một chính sách lãi suất phù hợp với điều kiện nước ta hiện nay là hết sức cần thiết. Lãi suất đã trở thành một công cụ quan trọng trong điều hành chính sách tiền tệ ở nước ta.
38 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1463 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số vấn đề vế lãi suất và thực trạng điều hành lãi suất ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vốn.
+Không khuyến khích ngân hàng thương mại tập trung huy động vốn đầu tư mở rộng cho vay trung - dài hạn mà chỉ tập trung cho vay ngắn hạn để tránh rủi ro. Ngân hàng thương mại sẽ giảm thu lãi, tăng chi lãi huy động vốn vào những tháng cuối năm để nhằm khống chế chênh lệch lãi suất dưới 0,35% làm kết quả kinh doanh của ngân hàng không được phản ánh chính xác, luân chuyển vốn tín dụng bị ách tắc. Do vậy hạn chế tính năng động trong hoạt động tín dụng, gây nên tình trạng khó khăn cho các ngân hàng, tổ chức tín dụng.
Như vậy việc khống chế lãi suất huy động bình quân và cho vay bình quân trong một mức chênh lệch cố định thì vai trò - công dụng về mặt quản lý tài chính rất hạn chế, hiệu lực thi hành không cao, kết quả không đạt như mong muốn, trái lại nó gây tiêu cực đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại.
4.2- Cơ chế điều hành lãi suất trần và không quy định mức chênh lệch lãi suất tín dụng.
Tại kỳ họp thứ 2, tháng 12 - 1997, Quốc hội khoá IX cho phép bỏ mức chênh lệch lãi suất 0,35%/tháng đồng thời thu hẹp sự cách biệt giữa mức lãi suất cho vay ở thành thị và nông thôn, Ngân hàng Nhà nước quy định các mức lãi suất mới, rút từ 4 trần lãi suất xuống còn 3 trần lãi suất:
+ Trần lãi suất cho vay ngắn hạn 1,2%/tháng.
+Trần lãi suất cho vay trung - dài hạn 1,25%/tháng.
+Trần lãi suất quỹ tín dụng cho vay thành viên 1,5%/tháng.
Vệc điều hành theo cơ chế lãi suất trần có nhiều ưu điểm như:
+ Trong phạm vi trần các tổ chức tín dụng được tự do ấn định mức lãi suất cho vay và tiền gửi cụ thể, linh hoạt, phù hợp với điều kiện kinh doanh, tự chủ trong kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh từng bước tự do hoá lãi suất.
+Tạo mặt bằng chung về lãi suất chung trong cả nước, xoá bỏ lãi suất thoả thuận vượt quá xa mức lãi suất do Ngân hàng Nhà nước quy định.
+ Có trần lãi suất sẽ bảo vệ lợi ích người vay tiền.
+ Đảm bảo vai trò quản lý Nhà nước của Ngân hàng Nhà nước về lãi suất trong giai đoạn đầu mới hình thành của thị trường tiền tệ trong nền kinh tế thị trường.
Tuy nhiên đây là cách quản lý “cứng” trong giai đoạn thị trường chưa phát huy hết mặt tích cực, nhạy cảm của nó, lợi dụng mức khống chế “cứng” này nhiều tổ chức tín dụng cho vay ngay theo mức lãi suất tối đa, đụng trần để đạt lợi nhuận cao. Trần lãi suất kém linh hoạt, khó điều chỉnh theo quan hệ cung - cầu về vốn và điều kiện khó khăn hay lợi nhuận của từng vùng.
Trong giai đoạn khủng hoảng và sau giai đoạn khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực và thế giới, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã điều chỉnh nhiều lần mức lãi suất. Cụ thể là:
Theo quyết định số 30/QĐ - NHNN ngày 17/01/1998 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định lãi suất cho vay nội tệ là 1,2%/tháng (ngắn hạn) và 1,25%/tháng (trung và dài hạn).
Đăc biệt trong 11 tháng năm 1999, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNNVN) đã 5 lần điều chỉnh trần lãi suất, trong đó có 4 lần hạ trần lãi suất.
Ngày 29/01/1999, Thống đốc NHNNVN có chỉ thị số 01/CT - NHNN1 quy định từ ngày 01/02/1999 mmức trần lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam của 4 ngân hàng thương mại quốc doanh đối với khách hàng ở khu vực thành thị là 1,1%/tháng (ngắn hạn) và hạ còn 1,15%/tháng (trung và dài hạn). Mức lãi suất quỹ tín dụng cho vay thành viên vẫn giữ nguyên ở mức 1,5%/tháng.
Để kích cầu thêm một bước và tái lập sự bình đẳng giữa thành thị và nông thôn, ngày 29/05/1999 Thống đốc NHNNVN ban hành quyết định số 189/1999/QĐ - NHNN1 về việc điều chỉnh lãi suất cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn cho vay cả ở thành thị, nông thôn đều áp dụng mức lãi suất thống nhất 1,15%/tháng.
Tiếp đến, ngày 30/07/1999, Thống đốc NHNNVN đã ban hành quyết định số 266/1999/QĐ - NHNN1 hạ mức trần lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam từ 1,15%/tháng xuống còn 1,05%/tháng. Riêng các Hợp tác xã tín dụng và Quỹ tín dụng nhân dân giữ nguyên trần lãi suất cho vay là 1,5%/tháng.
Ngày 01/09/1999, Thống đốc NHNNVN ra chỉ thị số 05/1999/CT-NHNN1 hạ mức trần lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam xuống mức 0,95%/tháng ở khu vực thành thị, đồng thời ra quyết định số 307/1999/QĐ-NHNN1 quy định lãi suất tái cấp vốn là 0,7%/tháng.
Tại nhiều ngân hàng thương mại nhất là các ngân hàng thương mại quốc doanh tiền gửi vẫn không ngừng tăng lên nhưng cho vay không hết. Các ngân hàng thương mại quốc doanh phải đầu tư hàng nghìn tỷ đồng vào trái phiếu Kho bạc Nhà nước thời hạn 1 năm và công trái xây dựng Tổ Quốc thời hạn 5 năm mặc dù lãi suất thấp. Trước tình hình đó, các ngân hàng thương mại đồng thời hạ lãi suất để chống lỗ với mức độ khác nhau. Đến đầu tháng 10 năm 1999, lãi suất tiền gửi không kỳ hạn chỉ còn 0,3%/tháng so với lãi suất 0,5%/tháng đầu năm 1999, tính ra giảm 40%, lãi suất tiền gửi kỳ hạn 6 tháng chỉ còn 0,5%/tháng so với 0,75%/tháng vào đầu năm 1999 đã giảm 34%.
Ngày 22/10/1999, Thống đốc NHNNVN ra quyết định số 383/1999/QĐ-NHNN1 mức trần lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam ở khu vực thành thị là 0,85%/tháng, khu vực nông thôn là 1%/tháng. Đồng thời ra quyết định số 382/1999/QĐ-NHNN1 điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước đối với các tổ chức tín dụng là 0,5%/tháng có hiệu lực từ ngày 01/11/1999.
Trên cơ sở các mức lãi suất đó các tổ chức tín dụng cũng quyết định điều chỉnh giảm các mức tiền gửi và huy động vốn của mình. Kể từ ngày 25/10/199 mức lãi suất tiền gửi của hệ thống Ngân hàng công thương Việt Nam trong toàn quốc điều chỉnh giảm: Không kỳ hạn còn 0,15%/tháng, kỳ hạn 3 tháng còn 0,3%/tháng, kỳ hạn 6 tháng là 0,4%/tháng và kỳ hạn 12 tháng là 0,5%/tháng.
4.2.1- Cơ sở điều chỉnh:
Việc điều chỉnh lãi suất nhiều lần như vậy không hẳn do ý định chủ quan của Ngân hàng Nhà nước, nó xuất phát từ cơ sở như:
+ Năm 1998 tỷ lệ lạm phát đột ngột tăng lên 9,2% làm lãi suất huy động thực giảm còn 2,2%/năm vẫn cao gấp 2 lần so với thế giới. Trái lại trong 6 tháng đầu năm 1999 lãi suất huy động doanh nghiệp vẫn giữ nguyên ở mức 0,8%/tháng lãi suất thực trở lại mức 0,5%/tháng hay 6%/năm cao gấp 5 lần so với thế giới. Lãi suất huy động cao làm lãi suất cho vay cũng tăng cao, mà lãi suất tăng cao gây nhiều khó khăn cho phát triển kinh tế, làm đầu tư trì trệ cho nên phải hạ lãi suất.
- Hơn nữa lạm phát 9 tháng đầu năm ở mức thấp, 7 tháng gần đây liên tục thiểu phát ở mức: - 0,7%; - 0,6%; - 0,4%; - 0,3%; và - 0,4%. Giảm phát làm cho tốc độ tăng trưởng chậm lại và sức mua của thị trường giảm sút. Các ngành sản xuất vật đang gặp khó khăn về thị trường và vốn để đổi mới kỹ thuật, công nghệ. Vấn đề mất cân đối giữa hàng và tiền thực chất là mất cân đối giữa khối lượng hàng hoá trên thị trường và khả năng thanh toán của nền kinh tế là rất trầm trọng. Vốn trong các ngân hàng thì ứ đọng mà nông dân và các doanh nghiệp lại thiếu vốn cho đầu tư sản xuất, kinh doanh. Do vậy một biện pháp cần thiết để “kích cầu” là hạ lãi suất.
- Tỷ giá hối đoái ổn định từ nhiều tháng nay (từ tháng 10/1998) và kể cả việc thay đổi cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái tháng 2/1999 cũng không gây biến động về tỷ giá.
- Tình hình cung - cầu về vốn tín dụng: tốc độ tăng số dư tiền gửi bằng đồng Việt Nam tăng nhanh hơn tiền gửi bằng ngoại tệ, đến giữa tháng 5/1999 tốc độ tăng tiền gửi là 9,3% trong khi tốc độ tăng dư nợ cho vay chỉ là 5,2% so với đầu năm 1999.
- Tình hình thực hiện lãi suất cho vay và huy động vốn bằng đồng nội tệ của các tổ chức tín dụng: nhìn chung do tình hình vốn ứ đọng nên các tổ chức tín dụng cũng đã giảm lãi suất cho và tiền gửi đảm bảo cân đối nên cung - cầu vốn tín dụng.
Vào thời điểm tháng 5/1999:
+ Lãi suất cho vay: phổ biến ở mức 1,1%/tháng (ngắn hạn) và 1,15%/tháng (trung - dài hạn) ở thành thị; ở nông thôn cho vay sát trần 1,2% và 1,25%/tháng nhưng một số tổ chức tín dụng chủ yếu là các ngân hàng thương mại quốc doanh thực hiện giảm 10 - 15% so với lãi suất trên để đẩy mạnh cho vay. Cá biệt có tổ chức tín dụng còn cho vay 0,9%/tháng, cho vay xuất khẩu: 0,8%/tháng.
+ Lãi suất tiền gửi: mặt bằng lãi suất tiền gửi hạ xuống đáng kể từ 0,1 - 0,2%/tháng so với năm 1998 và quý I/1999 nhằm cân đối cung - cầu về vốn. Tiền gửi không kỳ hạn phổ biến ở mức 0,3 - 0,5%/tháng, kỳ hạn 6 tháng: 0,75 - 0,8%/tháng, kỳ hạn 12 tháng: 0,9 - 1%/tháng.
Dưới đây là biểu một số lãi suất chính do Ngân hàng Nhà nước quy định trong thời gian gần đây:
Đơn vị tính: %
1/7/97
21/1/98
1/2/99
1/6/99
1/8/99
4/9/99
25/10/99
Ngắn hạn
1,0
1,2
1,1
1,15
1,05
0,95
0,85
Trung - dài hạn
1,1
1,25
1,15
1,15
1,05
0,95
0,85
Khu vực nông thôn
1,2
1,25
1,25
1,15
1,05
1,05
1,0
Quỹ tín dụng
nhân dân
1,5
1,5
1,5
1,5
1,5
1,5
1,5
Lãi suất tái
cấp vốn
1,1
1,1
1,0
0,85
0,85
0,7
0,5
4.2.2- Mục đích điều chỉnh lãi suất:
+ Đảm bảo tính phù hợp giữa mặt bằng lãi suất với tình hình lạm phát.
+ Giảm bớt khó khăn cho người vay, góp phần kích thích nền kinh tế phát triển, đảm bảo cân đối cung - cầu về vốn tín dụng, đẩy mạnh cho vay vốn của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế, tạo khuôn khổ đủ rộng để tổ chức tín dụng thuộc các loại hình khác nhau, năng lực tài chính khác nhau, độ rủi ro khác nhau định ra mức lãi suất huy động cho vay và hợp lý.
+ Giảm bớt các trần lãi suất chuẩn bị điều kiện tiến tới áp dụng cơ chế điều hành theo lãi suất cơ bản như Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định.
4.2.3- Tác động của điều chỉnh lãi suất tín dụng thời gian vừa qua:
Thứ nhất: Ngân hàng Nhà nước đã thiết kế một mặt bằng lãi suất áp dụng chung cho cả vay ngắn hạn, trung - dài hạn, tạo sự bình đẳng giữa khu vực thành thị và nông thôn.
Tuy nhiên dư nợ của khu vực nông thôn không lớn trong đó các khoản cho vay chính sách, cho vay theo các chương trình của Chính phủ chiếm phần không nhỏ nên mặc dù có tạo điều kiện giảm chi phí và tăng đầu tư đối với khu vực nông thôn song tác dụng kích thích khu vực nông thôn của việc điều chỉnh lãi suất tới sự bình đẳng như vậy cũng chưa mạnh mẽ. Thêm vào đó, chi phí hoạt động của các tổ chức tín dụng hoạt động trên địa bàn này vẫn còn cao dẫn đến từ lần điều chỉnh lãi suất thứ tư trong năm trở đi, lãi suất trần, áp dụng đối với khu vực nông thôn trở lại cao hơn so với mức lãi suất trần cho vay ở thành thị.
Về việc thống nhất trần lãi suất đối với các khoản vay có thời hạn khác nhau trong giai đoạn hiện nay có thể nhận định là nhằm khuyến khích các nhà đầu tư đẩy mạnh đầu tư trung - dài hạn, khuyến khích đầu tư theo chiều sâu, đẩy mạnh phát triển sản xuất, áp dụng công nghệ tiên tiến, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho xã hội chủ nghĩa. Do mức độ rủi ro thường tăng theo thời hạn của khoản vay nên đây chưa phải là quyết định hợp lý. Nếu như trước kia chúng ta đã từng không phân biệt lãi suất cho vay các thời hạn khác nhau rồi đến quy định lãi suất cho vay ngắn hạn cao hơn lãi suất cho vay dài hạn đã được nhìn nhận là không hợp lý và được sửa đổi bằng việc nâng lãi suất cho vay trung - dài hạn lên cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn thì việc thống nhất trần lãi suất như hiện nay phải chăng là một bước thụt lùi ? Có lẽ đây chỉ là một giải pháp tình thế để đẩy mạnh “đầu ra” của tín dụng mà thôi, chắc chắn trong tương lai chúng ta sẽ phải trở lại nguyên tắc đúng đắn là “Lãi suất tín dụng ngắn hạn < Lãi suất tín dụng dài hạn”.
Thứ hai: Việc điều chỉnh lãi suất tín dụng đã gây nên một số ảnh hưởng tới hoạt động của các tổ chức tín dụng:
+ Biên độ giảm trần lãi suất giữa các lần điều chỉnh quá lớn (0,1%/tháng; 1,2%/năm), khoảng cách giữa hai lần hạ trần lãi suất qua gần nhau liên tiếp đã gây ra các ảnh hưởng sau:
+ Hoạt động của ngân hàng thương mại chưa kịp ổn định qua việc hạ trần lãi suất lần này đã phải đối phó với việc hạ trần lãi suất lần sau. Các ngân hàng e dè trong huy động vốn nhất là vốn dài hạn vì sợ lãi suất tiếp tục hạ làm ngân hàng lỗ nhiều hơn.
+ Các tổ chức tín dụng hoạt động trên địa bàn nông thôn do địa bàn hoạt động khó khăn, cho vay món nhỏ, chi phí lớn, nguồn vốn hạn hẹp hơn các tổ chức tín dụng khác. Từ đó buộc các tổ chức tín dụng này giảm chi phí, tiết kiệm và nâng cao chất lượng phục vụ nông nghiệp và nông thôn với lãi suất thấp.
+ Khách hàng nảy sinh tâm lý chần chừ trong vay tiền ngân hàng, họ chờ một mức lãi suất thấp hơn nữa.
+ Lãi suất tái cấp vốn giảm khuyến khích các ngân hàng thương mại vay vốn từ Ngân hàng Nhà nước.
Thứ ba: Hiệu quả của hạ lãi suất với việc “kích cầu” nền kinh tế:
Kích cầu là một giải pháp kích thích khuyến khích tiêu dùng và mục tiêu cuối cùng là tăng tổng cầu, tổng cung hàng hoá xã hội để thúc đẩy sản xuất phát triển.
Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam hiện nay nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa nhu cầu về vốn rất cao của doanh nghiệp và nông dân với sự dư thừa của nguồn vốn tồn đọng trong hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng, bằng việc hạ lãi suất cho vay Nhà nước muốn khai thông tín dụng từ đó kích thích tiêu dùng (bao gồm tiêu dùng cho sản xuất và tiêu dùng cho sinh hoạt, đời sống).
Hạ lãi suất có liên quan đến bố trí lại cơ cấu đầu tư, chi tiêu Ngân sách và là một trong hàng loạt các “kích cầu” mà Nhà nước đã áp dụng như: giảm khung thuế tiêu thụ đặc biệt, giảm thuế luân chuyển, bỏ thuế sát sinh, giảm một số thuế suất khác, tăng ưu đãi tín dụng, điều chỉnh phụ cấp lương, bảo hiểm xã hội, tài trợ mạnh hơn cho phát triển nông nghiệp, nông thôn, tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo. Nhưng có lẽ hạ lãi suất chưa có hiệu quả mạnh mẽ lắm đến việc kích thích nền kinh tế phát triển. Có thể đề cập đến một số nguyên nhân:
+ Lãi suất giảm nhưng do giảm phát nên ở các công ty, doanh nghiệp hàng hoá tồn kho nhiều. Tín dụng đang bí đầu ra, doanh nghiệp cạnh tranh kém, sản xuất trì trệ (riêng 17 Tổng công ty 90 - 91 đã ứ đọng 6000 tỷ đồng). Trong điều kiện làm ăn thua lỗ, các doanh nghiệp làm ăn nghiêm túc không dám vay vốn, bản thân ngân hàng thương mại cũng không dám bỏ vốn ra để đầu tư vì vậy chỉ trông chờ hạ lãi suất cũng không mở rộng được tín dụng.
+ Lãi suất cho vay ở nông thôn vẫn cao hơn lãi suất thị trường mà nhu cầu đầu tư và tiêu dùng của nông thôn rất cấp bách chỉ riêng việc kiên cố hoá kênh mương thuỷ lợi, đường giao thông nông thôn, phát triển kinh tế trang trại... đã đặt ra yêu cầu rất lớn về vốn vay.
+ Lãi suất tiền gửi mặc dù giảm nhưng nguồn vốn huy động vào ngân hàng vẫn tăng cao vì ở thành phố người có tiền cũng không mua sắm gì nhiều mà đầu tư buôn bán thì khó tìm ra lợi nhuận cao nên tốt nhất là gửi ngân hàng kiếm lãi. Cung tín dụng tăng trong khi đầu ra không có do vậy đã hạ lãi suất mà hiệu quả vẫn không đạt như mong muốn.
+ Lãi suất tín dụng đã hạ thấp nhưng ngân hàng chỉ có thể cho vay nếu khách hàng hội tụ những điều kiện cần thiết, đảm bảo hoàn trả có lãi đúng thời hạn vay. Trên thực tế mặc dù hạ lãi suất cho vay, nới lỏng các điều kiện vay vốn nhưng do không đủ điều kiện để vay nên có thể cần nhưng khách hàng vẫn không vay được vốn. Ngân hàng cho vay tuỳ tiện sẽ tạo ra càng nhiều sự tiềm ẩn về nợ quá hạn gia tăng, khả năng không trả nợ được càng lớn.
Như vậy hạ lãi suất chỉ là điều kiện cần, chưa phải là điều kiện đủ để gia tăng tín dụng. Muốn tín dụng thực sự tăng trưởng thì phải tăng sức bật của nền kinh tế, tăng khả năng hấp thụ vốn cũng như độ an toàn của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam. Một yếu tố không thể thiếu đó là cần có một hệ thống pháp luật đồng bộ và cởi mở hơn.
Hạ lãi suất có ý nghĩa rất lớn đối với chủ trương phát huy nội lực, kích thích phát triển sản xuất và đầu tư, sẽ giúp nền kinh tế Việt Nam thoát khỏi ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ khu vực và thế giới, góp phần đưa tín dụng của nước ta tiến tới mức lãi suất của thế giới. Vậy nên mặc dù chưa đạt được những gì như mong đợi từ việc hạ lãi suất nhưng khách quan mà nói thì hạ lãi suất là một chủ trương đúng đắn.
4.3 Chính sách điều hành lãi suất cơ bản giai đoạn từ 2000 đến nay của NHNNVN
Ngày 02/08/2000 , Thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành quyết định 241/2000/QĐ-NHNN1 về việc thay đổi cơ chế điều hành lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng
Lãi suất cơ bản là lãi suất do NHNN công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng(TCTD) ấn định lãi suất kinh doanh. Lãi suất cơ bản vẫn là mức lãi suất dược NHNN ấn hành một cách hành chính, chứ không phải tự hình thành trên thị trường tiền tệ và các TCTD buộc phải căn cứ vào mức lãi suất này để xác định các mức lãi suất kinh doanh
Theo quyết định này từ ngày 05/08/2000 các tổ chức tín dụng lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng trên cơ sở lãi suất cơ bản do NHNN công bố theo nguyên tắc lãi suất cho vay không vượt quá lãi suất cơ bản và biên độ do thống đốc NHNN quy định từng thời kỳ .NHNN công bố lãi suất cơ bản trên cơ sở tham khảo mức lãi suất thương mại cho vay đối với khách hàng tốt nhất của nhóm các tổ chức tín dụng được lựa chọn theo quyết định của Thống đốc NHNN trong từng thời kỳ .Lãi suất cơ bản và biên độ giao động được công bố định kỳ hàng tháng ( trường hợp cần thiết ,NHNN sẽ công bố điều chỉnh kịp thời )
Các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất cho vay bằng đôla Mỹ theo nguyên tắc lãi suất cho vay không vượt quá lãi suất Đôla Mỹ trên thị trường liên ngân hàng Sing-ga-po ( lãi suất SIBOR ) kỳ hạn 3 tháng đối với cho vay ngắn hạn , kỳ hạn 6 tháng đối với cho vay trung hạn ,dài hạn tại thời điểm cho vay và một biên độ do thống đốc NHNN quy định theo từng thời kỳ .Đối với việc cho vay bằng ngoại tệ khác tổ chức tín dụng được phép ấn định lãi suất cho vay trên co sở lãi suất thị trường quốc tế và cung cầu vốn trong nước của từng loại ngoại tệ .
Lãi suất của quỹ tín dụng nhân dân cơ sở đối với các thành viên không quá 1,35%/tháng . Các loại lãi suất cho vay ưu đãi thực hịn theo quy định hiện hành của chính phủ và thống đốc ngân hàng nhà nước NHNN.
Tại các quyết định số 242,243 ngày 1/8/2000 của thống đốc NHNN đã công bố mức lãi suất cơ bản là 0,75%/tháng đói với cho vay bằng đong vệt nam và đo la Mỹ .
Theo đó các tổ chức tín dụng quy định lãi suất cho vay bằng đồng việt nam đối với khách hàng tại thời điểm ký kết hợp đồng tín dụng theo lãi suất cho vay cố định hoặc lãi suất cho vay có điềuchinhr nhưng không vượt quá lãi suất cho vay cơ bản cộng các biên đô như sau: 0,3%/tháng đối với co vay ngắn hạn , 0,5%/tháng đối với cho vay chung và trung và ngắn hạn .
Lãi suất cho vay bằng đôla Mỹ được tổ chức tín dụng ấn định như sau: không vựpt qua lãi suất SIBOR kỳ hạn 3 tháng cộng với biên độ dao động là 1,0%/năm đói với cho vay ngắn hạn , không vượt quá lãi suất 6 tháng cộng bien độ doa động là 2,5%/năm đối với cho vay trung hạn .
+ Lãi suất cơ bản nhìn từ góc độ huy động vốn
Trong cơ chế thị trường việc hình thành một chính sách lãi suất thích hợp là vô cùng phức tạp mà vai trò đó thuộc NHNN.Tại điều 18 Luật NHNN Việt Nam quy định “ NHNN xác định và công bố lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn “ .Khoản 12 Điều 9 luật NHNN Việt Nam giải thích “ Lãi suất cơ bản là lãi suất do NHNN công bố làm cơ sở cho các TCTD ấn định lãi suất kinh doanh “.
Thực tế trong thời gian qua ,NHNN đã công bố lãi suất cơ bản và biên độ ứng với từng loại lãi suất cho vay.Đây là một bước tiến mới trong quá trình tiến tới tự do hoá lãi suất và khẳng định vai trò quản lý và điều hành lãi suất của NHNN nhằm đảm bảo an toàn hệ thống các TCTD,thúc đẩy sự ổn định và tăng trưởng kinh tế,tăng tính cạnh tranh lành mạnh giữa các TCTD .
Để nâng cao chất lượng phục vụ các TCTD tìm mọi cách để giảm tối thiểu chi phí hoạt động,hạ mức lãi suất cho vay trong phạm vi quy định để ngày càng thu hút đông đảo khách hàng về phía mình .Tuy nhiên NHNN xác định lãi suất cơ bản chỉ dựa trên một số NHTM là chưa phù hợp,không mang tính đại diện; nhất là trong điều kiện hiện nay,các TCTD muốn lôi kéo khách hàng về mình thì biện pháp dùng lãi suất là một trong các biện pháp quan trọng nhất.Bởi vì cạnh tranh lãi suất bao giờ cũng có tính nhạy cảm cao.Do đó,các TCTD tìm mọi cách để hạ lãi suất trong phạm vi cho phép,lãi suất cho vay trung dài hạn thấp hơn lãi suất cho vay ngắn hạn... Điều này chứng tỏ chính sách lãi suất chưa thực sự làm cho các TCTD chủ động trong phương án kinh doanh,phần nào ảnh hưởng đến sự phát triển của thị trường tiền tệ .Song để đạt được mục tiêu đề ra đòi hỏi NHNN phải chủ động bám sát thị trường và các chính sách của nhà nước để điều chỉnh và xây dựng chính sách lãi suất thích hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế-xã hội.Đối với NHNN,đây là công cụ và là chính sách trong quản lý vĩ mô.Nhưng đối với các TCTD thì nó là phương tiện hữu hiệu để thực hiện mục đích kinh doanh .
Lãi suất tín dụng được hiểu là giá cả tín dụng,giá cả này trong điều kiện kinh tế thị trường phải đảm bảo yêu cầu :
- Bảo đảm quyền lợi chính đáng cho người gửi tiền ( tiền gửi không bị mất giá và có lãi ) .Nghĩa là tỷ lệ lạm phát < Lãi suất huy động .
- Mức lãi suất phải đảm bảo duy trì và phát triển hoạt động ngân hàng.Tức là NHTM kinh doanh phải đảm bảo được lãi suất hợp lý ,đóng thuế,đảm bảo bù đắp rủi ro và có một phần lãi.Do đó : Lãi suất cho vay = lãi suất huy động + chi phí ngân hàng + Lợi nhuận ngân hàng (p), với p > 0 .Lãi suất phải đảm bảo cho người vay một lợi nhuận,nhằm đảm bảo cho nền kinh tế phát triển lành mạnh.Tức là : Lãi suất cho vay < tỷ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế.
Khi xác định lãi suất cơ bản không thể thoát ly những yêu cầu trên,hay nói cách khác nó phải nằm trong
giới hạn nhỏ hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế và lớn hơn tỷ lệ lạm phát ; do đó , lãi suất cơ bản có thể chọn lãi suất huy động vốn hoặc lãi suất cho vay.Theo tôi,lãi suất cơ bản hợp lý nhất là lãi suất huy động vốn,có như vậy mới đảm bảo cho sự vận hành bình thường các hoạt động huy động vốn,nhận tiền gửi và cho vay trong nền kinh tế .Có nghĩa là bất kỳ ngân hàng nào tìm được cơ hội trả lãi tiền gửi thấp hơn hoặc bằng lãi suất cơ bản và cho vay cao hơn hoặc bằng lãi suất cơ bản thì không bị lỗ,tạo ra khả năng cạnh tranh lớn hơn giữa các TCTD ,giảm thiểu sự quản lý của Nhà nước bằng mệnh lệnh hành chính .Mặt khác, lãi suất huy động vốn có ảnh hưởng rất lớn đến nguồn vốn huy động,trên cơ sở đó mới mở rộng hay thu hẹp cho vay,nhất là trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước cần huy động nhiều nguồn vốn,gắn với sử dụng có hiệu quả ( trong đó nguồn vốn trong nước là quyết định nguồn vốn từ bên ngoài là quan trọng ).Lãi suất cơ bản hiểu theo cách trên có ưu điểm là tạo ra khả năng cạnh tranh lớn hơn giữa các TCTD .Tuy nhiên,trong lãi suất huy động vốn có nhiều mức lãi suất,do đó cần lựa chọn mức lãi suất nào chiếm tỷ trọng cao nhất làm lãi suất huy động vốn ngắn hạn và lãi suất huy động vốn trung,dài hạn.Trong điều kiện thực tế hiện nay,đó chính là lãi suất tiền gửi tiết kiệm bình quân .Theo chúng tôi nên lấy làm lãi suất cơ bản,vì nó có mức vốn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn vốn huy động . Do đó lãi suất cho vay được xác định như sau:
- Lãi suất cho vay ngắn hạn = Lãi suất tiền gửi tiết kiệm bình quân + Biên độ ngắn hạn .
- Lãi suất cho vay trung,dài hạn + Biên độ
Trong điều kiện hiện nay,kết quả huy động vốn trung,dài hạn của các TCTD còn rất khiêm tốn ; do đó lãi suất tiền gửi bình quân trung,dài hạn có thể thay bằng lãi suất tiền gửi tiết kiệm bình quân ngắn hạn, nhưng với biên độ khác nhau và đảm bảo lãi suất tiền gửi tiết kiệm bình quân cộng với biên độ phải nhỏ hơn tỉ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế để đảm bảo cho các doanh nghiệp đầu tư chiều sâu phát triển sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm,tăng sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường trong nước và xuất khẩu .Vì vậy NHNN cần xây dựng và củng cố thị trường tiền tệ,phát triển nghiệp vụ thị trường mở để mua bán các chứng khoán ngắn hạn,củng cố và kiểm soát thị trường liên ngân hàng ,thực hiện tái chiết khấu các chứng từ có giá của các TCTD , tiếp tục củng cố mở rộng tài khoản cá nhân,thực hiện vai trò của NHTƯ là người cho vay cuối cùng,trên cơ sở đó thực hiện lãi suất cơ bản là lãi suất tiền gửi bình quân để tiến tới tự do hoá lãi suất,phù hợp với chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước
+ Lãi suất cơ bản của từng NHTM áp dụng đối với khách hàng và dự án cho vay,đầu tư không có rủi ro hoặc rủi ro xem như bằng không
Lãi suất cơ sở ( LSCS ) của NHTM là lãi suất cho vay áp dụng cho khách hàng không có rủi ro ; các NHTM xác định LSCS của mình dựa trên lãi suất cơ bản do NHNN công bố sau khi tính toán đến các yếu tố như : Chính sách tài chính - tiền tệ của Chính phủ,chỉ số lạm phát,lãi suất trên thị trường liên ngân hàng,các quy định về dự trữ bắt buộc,dự phòng rủi ro ...
Do đó để xác định LSCS của NHTM chúng ta có thể sử dụng công thức xác định lãi suất cho vay của ngân hàng như sau :
Lãi suất cho vay = Lãi suất cơ sở + Dự phòng rủi ro khách hàng mất khả năng thanh toán + Dự phòng rủi ro kỳ hạn khi khách hàng vay dài hạn
Hiện nay,tại Việt Nam chưa hề có nghiên cứu nào về mức dự phòng rủi ro khách hàng mất khả năng thanh toán và rủi ro về kỳ hạn cũng như về rủi ro khác để đưa vào các yếu tố quyết định lãi suất cho vay.Theo nguyên tắc kinh doanh phải có lợi nhuận,các NHTM quốc doanh cần ấn định lãi suất cho vay với lãi suất cao hơn lãi suất cơ sở nhằm bù đắp những rủi ro xảy ra trong quá trình cho vay và đầu tư nhưng với mức trần lãi suất cho vay hiện nay 10,2%/năm ( 0,85%/tháng ) sẽ làm kết quả kinh doanh năm 1999 của các NHTM quốc doanh khó đạt được chỉ tiêu lợi nhuận,thậm chí chỉ đạt mức hoà vốn hoặc bị lỗ nếu không có các nguồn thu từ các hoạt động khác mang lại.Ngoài ra,nếu các NHTM quyết định lãi suất cho vay dưới các yếu tố tác động sau : Mức lạm phát,Tỉ suất lợi nhuận bình quân,Tỉ trọng thu nhập từ lãi trong tổng thu nhập,Cơ cấu nguồn vốn xét về kỳ hạn,Cơ cấu nguồn vốn xét về loại tiền,Cấu trúc lãi suất vốn huy động,Tỉ trọng giữa vốn huy động và dư nợ cho vay và đầu tư,Sự can thiệp của Chính phủ qua các công cụ như mức dự trữ bắt buộc
III-/ Một số giải pháp điều hành lãi suất tín dụng ở việt nam:
1-/ Định hướng điều hành lãi suất tín dụng ở Việt Nam:
Vào thập niên cuối của thế kỷ XX, vấn đề tự do hoá tài chính đã trở thành xu thế tất yếu của nhiều quốc gia. Việc các nền kinh tế ngày càng mở cửa ra bên ngoài và việc loại bỏ sự điều tiết trực tiếp của nhà nước đã dẫn đến sự phát triển vượt bậc của trao đổi quốc tế. ở các nước, tự do hoá tài chính đã nâng cao được hiệu suất của nền kinh tế và cho phép sử dụng một cách hợp lý nhất các nguồn lực sẵn có. Đối với Việt Nam nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi sang cơ chế thị trường và từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới, thì tự đo hoá tài chính là cần thiết trong quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế Việt Nam. Để tiến tới tự do hoá tài chính thì vấn đề quan trọng ở Việt Nam hiện nay là tự do hoá lãi suất.
Tự do hoá lãi suất là việc ngân hàng trung ương không ấn định các mức lãi suất, cũng không khống chê lãi suất mà lãi suất được hình thành trên cơ sở quan hệ cung, cầu về vốn trên t
hị trường. Tự do hoá lãi suất mang lại chocác trung gian tài chính quyền chủ động xác định lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay theo tín hiệu thị trường.
Trong thờigian qua ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã không ngừng đổi mới cơ chế điều hành lãi suất. Từ chỗ áp dụng cơ chế tự do hoá lãi suất tiền gửi, quy định tiền lãi suất cho vay, đến việc áp dụng cơ chế lãi suất cơ bản (từ ngày 5/8/2000) theo một biên độ giao thông cho phép . có thể nói việc xác định và áp dụng lãi suất cơ bản với biên độ giao thông đủ rộng cho thấy yếu tố thị trường chứa đựng trong cơ chế này nhiều hơn cơ chế trần lãi suất cho vay trước đó, giá cả đồng vốn trên thị trường đã gắn nhiều hơn với cung và cầu vốn trên thị trường. Nhưng trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập vào nền kinh tế, tài chính thế giới, cùng với quá trình toàn cầu hoá diễn ra nhanh chóng thì việc thực thi cơ chế lãi suất cơ bản theo biên độ nhất định tỏ ra chưa thực sự hiệu quả trong việc điều hành chính sách tiền tệ, phân bổ nguồn tín dụng trong một chừng mức nhất định có thể dẫn đến suy giảm chức năng trung gian tín dụng của tổ chức tín dụng. Khắc phục yếu điểm này cần thiết phải áp dụng cơ chế tự do hoá lãi suất.
Trong cơ chế tự do hoá lãi suất, nêu nhà nước hoàn toàn không can thiệp đến hệ thống lãi suất thị trường thì đó là cơ chế tự do hoá hoàn toàn. nếu nhà nước can thiệp gián tiếp theo một định hướng xác định thì đó là cơ chế tự do hoá lãi suất có quản lý.
Tự do hoá lãi suất được coi là điều kiện cơ bản để tiến tới tự do hoá tài chính.
2. Giải pháp thực hiện định hướng đã đề ra.
Tự do hoá lãi suất sẽ mang lại lợi ích sau:
Thứ nhất: chúng ta đang sống trong một môi trường đang diễn ra toàn cầu hoá nhanh chóng trong đó toàn cầu hoá tài chính là điển hình nhất. Trong quá trình toàn cầu hoá nhờ sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ, các nước đang phát triển đã có những cố gắng nỗ lực, cạnh tranh mạnh mẽ để thu hút các nguồn vốn quốc tế. tự do chu chuyển vốn đã nâng cao hiệu suất của nền kinh tế và chắc chắn cho phép sử dụng một cách hợp lý nhất các nguồn lực sẵn có. Trong lĩnh vực tài chính toàn cầu hoá đặt ra nhiều cơ hội vàthách thức mới trong đó một thách thức lớn là giảm hiệu quả của việc kiểm soát tiền tệ bằng các công cụ trực tiếp như quy định trần lãi suất, quy định hạn mức tín dụng, thay vào đó là thực thi các công cụ gián tiếp ( như nghiệp vụ thị trường mở, dự trữ bắt buộc, tái chiết khấu, hợp đồng mua lại... ) của nền kinh tế thị trường . Để làm tốt vấn đề trên phải duy trì cơ chế tự do hoá lãi suất.
Thứ hai: Tự do hoá lãi suất là một bộ phận cơ bản của tự do hoá tài chính. Tự do hoá lãi suất cho phép các tổ chức tín dụng chủ động đưa ra lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay đối với nền kinh tế , từ đó tác động đến doanh nghiệp và dân cư khiến họ thay đổi hành vi tiết kiệm và đầu tư của mình theo hướng có lợi cho tăng trưởng kinh tế . vốn là một nguồn lực hiếm hoi, vì thế phải sử dụng nó có hiệu quả. Về mặt này tự do hóa lãi suất sẽ cho phép tăng nguồn vốn nhàn rỗi bằng cách huy động tích luỹ trong nước. Một hệ thống tài chính ngân hàng gò bó, trong đó lãi suất chưa phản ánh sát tín hiệu thị trường thì không khuyến khích tích luỹ. Lãi suất tăng nên, một mặt sẽ làm tăng vốn đầu tư thông qua việc tăng tiết kiệm trong nền kinh tế và do đó loại bỏ tình trạng nhu cầu vốn quá mức. Mặt khác lãi suất cao sẽ dẫn đến dự án đầu tư chỉ được thực hiện nếu lợi nhuận do dự án mang lại là cao. một khi lãi suất được tự do hoá thì người vay không bao giờ bị thiếu vốn, họ chỉ phải cân nhắc giữa hiệu quả do việc sử dụng vốn vay mang lại với lãi suất do vay vốn trả tổ chức tín dụng.
Thứ ba: Tự do hoá lãi suất sẽ tạo nguồn vốn có hiệu quả cao. khi nền kinh tế của một quốc gia phát triển đến một mức độ nào đó thì mô hình phân phối có sự chỉ đạo trực tiếp của nhà nước sẽ bộc lộ nhiều hạn chế bởi không có một chính phủ hay ngân hàng trung ương của quốc gia nào có đủ khả năng để phân bổ và kiểm soát việc phân bổ nguồn vốn một cách có hiệu quả cho hàng vạn nhu cầu sử dụng vốn khác nhau, cho dù bộmáy thanh tra của ngân hàng có lớn bao nhiêu chăng nữa. vì vậy tự do hoá lãi suất vừa tạo điều kiện tăng vốn đầu tư, cải thiện hiệu quả đầu tư, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho luồng vốn quốc tế chảy vào trong nước. Thực tế ở nhiều nước đã chỉ ra rằng trình độ phát triển càng tăng thì tự do hoá càng cần thiết và càng có lợi cho nền kinh tế . song tự do hoá lãi suất cũng có khía cạch bất lợi đối với sự ổn định của hệ thống tài chính nói riêng và của nền kinh tế nói chung. Bởi sự tự do hoá lãi suất cho phép tăng nhu cầu tiềm tàng về vốn, các tổ chức tín dụng không ngừng mở rộng hoạt động cho vay, trong điều kiện cạnh tranh gia tăng buộc các tổ chức tín dụng phải tính toán khả năng sinh lời của các nguôn vốn huy động bằng cách mở rộng đầu ra. Lúc này xuất hiện cá nguyên nhân kích thích phát triển cả cung và cầu về tín dụng. Nếu như không có sự kiểm soát chất lượng của các rủi ro có thể dẫn đến tình trạng tích tụ nhanh các khoản cho vay kém chất lượng. Như vậy những yếu kiém của ngưòi đi vay sẽ ảnh hưởng tới ngân hàng. mặt khác tự do hoá lãi suất, nguồn tín dụng nhàn rỗi trở nên dồi dào có thể kích thích đầu cơ vào đất đai và bất động sản. vì thế ở một số nước đã chứng kiến tự do hoá đi kèm với tăng gia đất đai, bất động sản và cả trên thị trường chứng khoán. Do đó tự do hoá lãi suất không có nghĩa là chấm dứt mọi quy định hay giám sát mà ngược lại tự do hoá đòi hỏi tăng cường quy chế giám sát của các thể chế tài chính.
Như vậy ở Việt Nam tự do hoá tài chính là cái mốc cần đạt tới mà trước tiên phải thực hiện tự do hoá lãi suất . tự do hoá là một khái niệm rộng và đa dạng. vì thế Việt Nam phải tạo ra được một số điều kiện nhất định cho việc tự do hoá lãi suất. Các điều kiện đó là:
Một là: tự do hoá lãi suất phải được tiến hành song song với cải cách kinh tế vĩ mô, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. một nền kinh tế có khả năng cạnh tranh cao mức độ rủi ro trong hoạt động kinh doanh nhỏ sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc tìm kiém các đơn vị đầu tư có tính khả thi cao của các nhà sản xuất kinh doanh. Sự thay đổi về lãi suất thị trường, sự đối dào về nguồn vốn sẽ tác động mạnh đến việc điều chỉnh kế hoạch đầu tư, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Để nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, nhà nước phải tạo ra môi trường kinh doanh bình đảng giữa các doanh nghiệp . Giảm dần và tiến tới xoá bỏ việc cấp tín dụng nhà nước với lãi suất ưu đãi cho nhiều dự án đầu tư của khu vự
c nhà nước. Thực hiện cơ chế tín dụng không phân biệt tính chất sở hữu.
Hai là: lành mạnh hoá và nâng cao hiệu quả của hệ thống ngân hàng.
Hệ thống ngân hàng thương mại là một kênh truyền dẫn quan trọng để các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ tác động vào lãi suất thị trường, mức cung tiền tệ và qua đó thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ. Các công cụ này phát huy tác dụng đên đâu hoàn toàn phụ thuộc vào thái độ ứng xử cũng như chất lượng hoạt động của hệ thống ngân hàng . một hệ thống ngân hàng yếu kém khả năng cạnh tranh thấp, khả năng tài chính hạn hẹp chất lượng hoạt động chưa cao nợ quá hạn lớn.... thì việc áp dụng cơ chế tự do hoá lãi suất không phát huy được tác dụng. Do đó cần phải tổ chức lại và nâng cao hiệu quả của hoạt động hệ thống ngân hàng. đi đôi với việc tổ chức lại hệ thống ngân hàng,cần thiết phải xây dựng hệ thống thị trường tài chính, thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán theo cả chiều rộng và chiều sâu. tháo gỡ những rào cản khó khăn cho việc phát triển thị trường theo hướng quốc tế hoá.
Ba là: xây dựng các quy chế giám sát tài chính đối với nền kinh tế. hiện nay không có một hoạt động tài chính tự do hoàn toàn mà không chịu sự điều chỉnh của một quy định nào, ngay cả đến các thị trường chứng khoán lớn trên thế giới thì cũng là những thị trường có những quy định chặt chẽ nhất. Vì vậy việc xây dựng các quy chế giám sát là cần thiết để đảm bảo cho sự vận hành có hiệu quả các hoạt động tài chính ngân hàng mong muốn loại bỏ tất cả các nguy cơ gây bất ổn chứa trong một hệ thống tài chính được tự dó hoá là điều không thực tế nhưng chúng ta hoàn toàn có thể giới hạn được các nguy cơ này bằng một sự giám sát thận trọng hiệu quả và một sự quản lý mềm dẻo linh hoạt của các thể chế tài chính.
Bốn là: sự hiện diện đầy đủ của các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường đang đứng trước thách thức của nhu cầu mở cửa và hội nhập một cách toàn diện, một chính sách tiền tệ cứng nhắc sẽ không đảm bảo cho nó tránh được ảnh hưởng mạnh mẽ từ bên ngoài vào. sự hạn chế của các công cụ trực tiếp vào Việt Nam trong thời gian qua đòi hỏi phải sử dụng các công cụ gián tiếp để nâng cao tính chủ động, tính linh hoạt của chính sách tiền tệ tạo điều kiện áp dụng cơ chế tự do hóa lãi suất một cách có hiệu quả
Lãi suất cơ bản:
Như đã nói đến ở trên lãi suất cơ bản là lãi suất do NHNN công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng(TCTD) ấn định lãi suất kinh doanh. Lãi suất cơ bản vẫn là mức lãi suất dược NHNN ấn hành một cách hành chính, chứ không phải tự hình thành trên thị trường tiền tệ và các TCTD buộc phải căn cứ vào mức lãi suất này để xác định các mức lãi suất kinh doanh.
Cũng từ định nghĩa này cần phân biệt rõ lãi suất lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn hiện hành của NHNN. Thực tế lãi suất tái cấp vốn của NHNN cũn có ảnh hưởng toàn diện tới hệ thống lãi suất trong nền kinh tế thị trường và cũng do NHNN xác định. tuy nhiên, hoạt động tái cấp vốn lại không phải là hoạt động bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng - thực tế, nó được thực hiện một cách tự nguyện theo nhu cầu của mỗi TCTD. Nói cách khác, lãi suất tái cấp vốn(mặc dù là một mức lãi sất nhất định trong một thời gian nào đấy) không phải là mức lãi suất bắt buộc đói với các TCTD (nếu TCTD không có nhu cầu tái cấp vốn thì nó không trực tiếp liên quan tới lãi suất tái cấp vốn). cũng vì lý do này, luật NHNN đã tách bạch hai loại lãi suất trên cơ sở qui định:” NHNN xác định và công bố lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn”.
2-/ Một số ý kiến hoàn thiện chính sách lãi suất theo định hướng lãi suất cơ bản:
Gần đây đã và đang xuất hiện nhiều ý kiến khác nhau xoay quanh việc NHNN bỏ qui định lãi suất “trần”, để chuyển sang ấn định và điều hành linh hoạt bằng một lãi suất cơ bả, theo như tinh thần qui định tại điều 18 và khoản 12 điều 9 Luật NHNN hiện hành. Quan điểm tập trung nhất chứa đựng các nội dung sau: về xu hướng chung là bỏ “trần” lãi suất vì cứng nhắc lâu nay (vẫn còn 3 loại trần lãi suất). Trên cơ sở lãi suất tái cấp vốn hiện hành sẽ cộng thêm một biên độ ước định để hình thành lãi suất cơ bảnhoặc dựa vào lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến cộng thêm một biên độ ước định để hình thành lãi suất cơ bản.
Nhìn chung, cách lập luận cho loại quan điểm này mới dừng ở định tính, còn bỏ ngỏ nhiều khía cạnh khoa học và pháp lý liên quan đến việc cải tiến chính sách lãi suất hiện nay.
Một là: Cần định dạng đúng đắn lãi suất tái cấp vốn và lãi suất cơ bản để tránh áp dụng máy móc qui định tại diều 18 và khoản 12 điều 9 luật NHNN (liên quan):
+ Lãi suất tái cấp vốn, chủ yếu hướng tới 3mục đích: (1) NHTW cho vay lại với tư cách nhười cho vay cuối cùng đối với nền kinh tế căn cứ vào những khoản tín dụng đã cấp của NHTM (cho vay lưu phiếu, thế chấp khế ước tín dụng, chứng từ liên quan) ; (2) NHTƯ tái chiết khấu các thương phiếu dược NHTM cho vay; (3) NHTƯ sử dụng nguồn vốn dự trữ (DTBB, nguồn dự trữ khác) cho vay hỗ trợ knả năng thanh toán tạm thời của các NHTM (thông qua cầm cố, thế chấp các chứng từ có giá khác nhau).
Lâu nay, ta dùng khái niệm tái cấp vốn (refinancing) là gọi chung cho các nội dung trên. Khi tăng tỷ trọng cấp tín dụng dưới hình thức tái chiết khấu - còn gọi là cửa sổ tái chiết khấu (resdiscount window) - thì mới có nghiệp vụ tái chiết khấu, nói khác đi khái niệm tái chiết khấu được sử dụng phổ biến hơn.
+ Lãi suất tái cấp vốn / lãi suất tái chiết khấu thường được ấn định chủ quan bởi NHTƯ. Tuy nhiên, mức độ chủ quánẽ giảm khi các nghiệp vụ tái chiết khấu có cơ sở hơn, có hàng hoá đủtiêu chuẩn hơn cho việc cấp tín dụng dưới hình thức tái chiết khấu thay vì tái cấp vốn theo kiểu giản đơn như cách làm của Việt Nam lâu nay. Khi thị trường tiền tệ đã khá phát triển, các nghiệp vụ mua bán vốn theo hợp đồng giao ngay, hợp đồng kỳ hạn - ngắn hạn. . . giữa các lực lượng thị trường trở nên phổ biến, theo đó lãi suất giao dịch liên ngân hàng (interbank interest rate), lãi suất chiết khấu giấy tờ có giá (lãi suất Lombardy), hay lãi suất mua bán hợp đồng xoay vòng kỳ hạn (lãi suất Repo) được hình thành. . . Đó là điều kiện thị trường hết sức quan trọng để NHTƯ điều hành đúng đắn lãi suất tái cấp vốn / lãi suất tái chiết khấu.
Trước mắt, do chưa đủ diều kiện về công cụ giao dịch như đã nêu, việc hình thành lãi suất tái cấp vốn chủ yếu dựa vào lãi suất “trần” yheo sự ấn định chủ quan của NHTƯ như lâu nay. Qua đây, cần khẳng định mặc dầu lãi suất tái cấp vốn đang đóng vai trò nhất định, nhưng chưa đến mức độ đủ để có thể dựa vào đó hình thành lãi suất cơ bản. Đây mới chỉ là dấu mốc còn khá mờ nhạt để tiến tới lãi suất tái chiết khấu nay mai.
+ Lãi suất cơ bản hướng vào hai mục đích: (i) làm tiêu chuẩn hình thành kãi suất kinh doanh của các NHTM; (ii) làm công cụ để NHTƯ can thiệp vào thị trường tiền tệ một cách uyển chuyển hơn là khống chế bởi lãi suất “trần”, dù ở mức nào vẫn mang tính cứng nhắc. ý nghãi “định chuẩn” của lãi suất cơ bản biểu hiện như một loại giá vốn phản ánh điểm hoà vốn bình quân của các NHTM. NHTM nào huy động vốn với lãi suất t0.0hấp hơn và cho vay tối thiểu bằng mức lãi suất cơ bản có cơ chí ít là hoà vốn. Còn huy động với lãi suát cao hơn là bắt đầu khó khăn. sự can thiệp của NHTƯ thông qua lãi suất cơ bản trở nên đơn giản ở chỗ không cần khống chế trần (cứng nhắc dễ bị phản ứng) và khách quan hơn, tạo sự tin cậy đối với các NHTM. Vấn đề là xác định đúng và ấn định cho linh hoạt. Xét trên nhiều mặt, thực chất lãi suất cơ bản đã là một bước thả nổi lãi suất.
+ Lãi suất cơ bản có cơ sở xác định tương đối ggiống lãi suất trần sàn, nghĩa là cũng chủ yếu dựa vào quan hệ cung cầu vốn phổ biến, được phản ánh bởi các lực lượng thị trường chiếm thị phần chủ yếu (hiện nay vẫn là các NHTM quốc doanh). thế hnưng về mặt tính toán có khác: lãi suất trần, sàn thường lấy con số tham chiếu “ chặn trên”, “chặn dưới” còn lãi suất cơ bản thì bình quân hoá gia quyền các tham số chọn mẫu, nên thường chuẩn xác khách quan hơn. lãi suất cơ bản được xác định như vậy khiến khoảng cách bất bình đẳng về cạnh tranh lãi suất giưã các NHTM mạnh, yêua khác nhau được giảm thiểu. Tất nhiên, việc tính toán chính xác lãi suất cơ bản phức tạp nơn lãi suất trần. Bởi vậy, khi mới áp dụng thường chưa đủ căn cứ để ấn định chính xác phải sử dụng một biên độ nhỏ để điều chỉnh. Cách xác định biên độ cũng không tuỳ tiẹn được mà phải căc cứ vào dung sai - còn gọi là độ lệch tiêu chuẩnbình quân giữa các mức lãi suất khác nhau và lãi suất trung bình chọn mẫu.
Hai là: Cần làm rõ ưu nhược điểm của lãi suất tái cấp vốn, cũng như bản thân trần lãi suất hiện nay làm căn cứ cho việc cải tiến lãi suất. Qua mấy lần NHNN kịp thời điều chỉnh trần, lãi suất đă bớt cứng nhắc gần với quan hệ cung cầu hơn ( từ nhiều trần xuống còn 3 loại trần, đồng thời mức lãi suất giảm đáng kể so với động thái giảm phát). Tuy nhiên, tình hình mâu thuẫn hiện nay là ở chỗ: áp lực giảm tiếp lãi suất vẫn đặt ra trong lúc bản thân việc hạ “trần “ lãi suất đã ở vào giới hạn khá thấp đang gây khó khăn cho các NHTM trong việc chủ động linh họat hoá các mức lãi suất thực tế cho vayvà khắc phục nguy cơ thua lỗ, thiếu khả năng tài chính do chênh lệchgiữa lãi suất huy động và cho vay cũng bị thu hẹp lớn. Như vậy, khi việc điều hành theo lãi suất “trần còn nhiều tồn tại thì bản thân cách ấn định lãi suất tái cấp vốn cũng thiếu cơ sở khách quan, không thể lấy lãi suất tái cấp vốn hiện nay làm cơ sở tính toán lãi suất cơ bản. Mặt khác, lãi suát “trần” hiện nay còn bất cập, thì trước mắt nên chăng là kế thừa hoàn thiện nó hơn là bỏ hẳn để thay bằng lãi suất cơ bản trong lúc chưa đủ điều kiện.
Ba là: Cần có sự phân biệt thứ bậc thấp cao, đơn giản và phức tạp giữa hai loại lãi suất ; lãi suất cơ bản là bước đệm tiến tới và được thay thế bởi lãi suất tái chiết khấu sau này hay ngược lại cùng tồn tại lãi suất tái cấp vốn / lãi suất tái chiết khấu và lãi suất cơ bản?. Về lâu dài, hình thành lãi suất cơ bản là tạo lộ trình thuận lợi cho hoàn thiện chính sách lãi suất theo hướng từng bước thả nổi. Bản thân lãi suất cơ bản cũng được coi là một bước thả nổi vì nó tiến bộ hơn lãi suất “trần” với cách ấn định hoàn toàn tuỳ thuộc vào quan hệ cung cầu, lấy cơ sở tính toán là các mức lãi suất thực. Tuy nhiên, bỏ lãi suất “trần” để chuyển sang lãi suất cơ bản cũng phải có những bước chuyển nhỏ, không thể máy móc gây sốc. Thực chất qui định tại các điều18, điều 9 khoản 12 Luật NHNN không nên hiểu phải có ngay lãi suất cơ bản khi chưa có đủ điều kiện, mà vấn đề là NHNN phải qui định lãi suất như thế nào để các TCTD dễ dàng ấn định lãi suất kinh doanh. Thành thử loại lãi suất nào mà NHTƯ đưa ra đáp ứng được các yêu cầu đặt ra cũng đã là mang dáng dấp hay tính chất như lãi suất cơ bản. ở đâycó thể nhấn mạnh là hoàn thiện lãi suất “trần” hiện nay và nâng cấp lãi suất tái cấp vốn theo sát hơn lãi suất thị trường và tạo điều kiện cho nó được sử dụng thường xuyên hơn phục vụ cho việc điều hành chính sách tiền tệ của NHNN mới là thiết thực.
IV-\ Một số kiến nghị vấn đề lãi suất cũng như điều hành lãi suất ở Việt Nam
1. Cần có một lãi suất để tạo lập môi trường kinh doanh tốt hơn .
trước sự gia tăng của việc cạnh tranh hạ lãi suât làm cho hầu hết các ngân hàng đều bị thiệt hại lợi nhuận ít không đủ lập quỹ dự phòng cho rủi ro trong hoạt động kinh doanh lơị nhuận ít không đủ tích luỹ để đổi mới lại hệ thống trang thiết bị để theo kịp các ngân hàng nước ngoài trong khu vực nói chung và chi nhánh của họ đang hoạt động tại Việt Nam nói riêng.Thậm chí việc cạnh tranh đó còn làm cho không ít các ngân hàng thương mại cổ phần có nguy cơ không còn khả năng hoạt động bởi không đủ bù chi phí.
Việc cạnh tranh bằng cách hạ lãi suất của các ngân hàng đã làm cho chính sáchlãi suất điều hành bằng tiền lãi suất không còn thích hợp nữa , lúc này không còn ngân hàng nào áp dụng lãi suất tối đa để cho vay mà chỉ cố gắng tối tiểu hoá lãi suất để giành khách hàng.
Do đó để khắc phục những hạn chế nêu trên thì NHNN cần phải ban hành một chính sách sàn lãi suất. Một chính sách do NHNN ban hành mới có thể ổn định trật tự trong hệ thống ngân hàng, chấm dứt những rủi ro trong giành giựt khách hàng, đảm bảo được quyền lợi cho các doanh nghiệp và ngân hàng.
Mục đích của chính sách sàn lãi suất không phải là đi tìm một lãi suất cơ bản mà chỉ để cập đến một lãi suất sàn cần có để điều hành trong giai đoạn mà vốn đang thừa so với các phương án khả thi của sản xuất trong khi chưa có được một thị trường tiền tệ hay dịch vụ khác phát triển ở mức cao hơn. Một lãi suất sàn cần thiết cho hạn chế các mặt tiêu cực của cạnh tranh bằng lãi suất, mà hệ quả của nó là làm suy yếu hệ thống tài chính ngân hàng đưa lại sự ổn định của nền kinh tế.
Tuy nhiên nhờ áp dụng một lãi suát sàn theo ý tôi cần lưu ý:
+ Một là : Lãi suất sàn chỉ áp dụng ở khu vực thành thị nơi có nhiều ngân hàng đóng trụ sở và là nơi đã và đang có các điều kiện thuận lợi thu hút sự đầu tư và dễ huy động vốn bởi vì chính nơi đây đang diễn ra sự cạnh tranh lãi suất gay gắt theo chiều hướng bất lợi.
+ Hai là: Lãi suất sàn không cần áp dụng ở khu vực nông thôn nơi đang thiếu vốn, một nơi nghèo chậm phát triển đang cần có sự đầu tư với lãi suất ưu đãi hơn để tăng trưởng do đó không cần phải khống chế sàn lãi suất cho khu vực này, đây chỉ là khu vực cơ sở phát triển cho toàn bộ nền kinh tế đất nước, vì thế khu vực này phải được bảo vệ bằng trần lãi suất ( việc đầu tư ở nông thôn được hiểu là cho vay trực tiếp cho sản xuất hoặc xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất ). Sự khống chế lãi suất sàn ở khu vực nông thôn trong điều kiện hiện nay sẽ tạo ra một luồng chảy vốn từ các ngân hàng ở thành thị về nông thôn, từ đó mới có điều kiện phát triển kinh tế hàng hoá ở nông thôn.
+ Ba là: Lãi suất sàn cũng cần phải quy định luôn cho trung và dài hạn, theo nguyên tắc lãi suất sàn trung và dài hạn lớn hơn lãi suất sàn ngắn hạn.
2. Cần có một lãi suất riêng cho vay đối với người nghèo
Trong thời gian qua việc cho vay bằng lãi suất ưu đãi đã giúp người nghèo khắc phục được những khó khăn, giảm chi phí sản xuất kinh doanh, khuyến khích được các hộ nghèo mạnh dạn tính toán vay vốn để sản xuất kinh doanh, tập dược làm quen với sản xuất hàng hoá, dần dần vươn nên hoà nhập với cộng đồng trong cơ chế thị trường. Để phát huy hiệu quả cho vay hộ nghèo cần thiết phải chuyển chovay hộ nghèo sang lãi suất thị trường theo hướng:
+ Thực hiện thống nhất một lãi suất cho vay hộ nghèo theo lãi suất thị trường nhưng có giảm lãi đối với từng vùng .
+ Để khuyến khích những hộ sử dụng vốn có hiệu qủa nên áp dụng chính sách thưởng lãi suất khi hộ vay trả lãi tốt .
+ Để thực hiện tốt cơ chế cho vay hộ nghèo theo lãi suất thị trường, cùng với nguồn vốn tín dụng nhà nước cần tăng cường các chính sách hỗ trợ người nghèo một cách kịp thời và đồng bộ như qua tâm xây dựng cơ sở hạ tầng ở nông thôn nhất là các vùng nghèo, nâng cao dân trí, chuyển giao KHKT, khuyến nông, khuyến ngư định hướng sản xuất tìm kiếm dự án sản xuất kinh doanh có hiệu quả giải quyết tốt khâu tiêu thụ sản phẩm cho người nghèo.
kết luận
Như đã nói, lãi suất là giá mua bán vốn trên thị trường. Cơ sở kinh tế của lãi suất là do các hiện tượng tạm thời “ thừa “ và tạm thời “thiếu “ vốn tiền tệ trong nền kinh tế hàng hoá và gắn với nó là vai trò trung gian của ngân hàng trong việc tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ thông qua công cụ lãi suất. Lãi suất cao hay thấp do quan hệ cung - cầu về vốn quyết định, khi cung lớn hơn cầuvề vốn thì lãi suất giảm, khi cầu lớn hơn cung thì lãi suất tăng.
Lãi suất rất nhạy cảm trong nền kinh tế thị trường, đó là một trong những công cụ quan trọng của nhà nước trong việc xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ để quản ký và điều tiết nền kinh tế. Đối với Việt nam, đổi mới nền kinh tế, xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, việc nghiên cứu để luôn có một chính sách lãi suất phù hợp với điều kiện nước ta hiện nay là hết sức cần thiết. Lãi suất đã trở thành một công cụ quan trọng trong điều hành chính sách tiền tệ ở nước ta.
Mục lục
Lời nói đầu
Những vấn đề chung về lãi suất.
1. Nguồn gốc và bản chất của lợi tức.
Khái niệm về lãi suất tín dụng
Nguyên tắc lãi suất
Các loại lãi suất tín dụng
Các yếu tố ảnh hưởng đến laĩ suất tín dụng
ý nghĩa của lãi suất tín dụng trong nền kinh tế thị trường
II. Thực trạng lãi suất tín dụng ở Việt Nam
Giai đoạn từ trước tháng 3/1989
Giai đoạn từ t tháng 3/1989 đến tháng 10/1993
Giai đoạn từ 01/01/1993 đến 01/01/1996
Giai đoạn từ 01/01/1996 đến nay
III. Một số giải pháp điều hành lãi suất tín dụng ở Việt Nam
Định hướng điều hành lãi suất tín dụng ở Việt Nam
Giải pháp thực hiện định hướng đã đề ra.
Kết luận
Tài liệu tham khảo
1 – Giáo trình lý thuyết tiền tệ trường Đại học tài chính kế toán.
2. – Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
3.- Tạp chí ngân hàng số 3, 4.11 năm 1999, số 1, 2, 5 năm 2000.
4. – Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ số 1, 2, 8 năm 2000.
5- Tập tài liệu hội thảo tự do hoá tài chính và an ninh tài chính tháng 1 năm 2001.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29618.doc