Các doanh nghiệp Nhà nước của ta được hình thành chủ yếu bằng con đường thứ ba - Nhà nước xây dựng các doanh nghiệp mới từ vốn ngân sách, vốn vay hay vốn viện trợ của nước ngoài trong quá trình xây dựng, phát triển kinh tế đất nước.
Do hình thành từ nhiều nguồn vốn khác nhau như vậy nên hệ thống doanh nghiệp Nhà nước của ta có trình độ phát triển rất khác nhau, đặc biệt là về quy mô, trình độ khoa học kỹ thuật và công nghệ, tổ chức và quản lý. Mặt khác, trong những giai đoạn khác nhau, hệ thống doanh nghiệp được xây dựng trên những quan điểm khác nhau như: ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, xây dựng cơ cấu kinh tế tự lực, tự cường, phát triển kinh tế địa phương và xây dựng huyện. vv. có một thời gian khá dài hệ thống doanh nghiệp ở miền Bắ
51 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1147 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số vấn đề về nâng cao hiệu quả kinh doanh Đối với các doanh nghiệp Nhà nước trên địa bàn tỉnh Lai Châu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.210
12.871
2- Nguồn vốn kinh doanh
- Tổng số
11.660
11.337
13.207
- Vốn Nhà nước
8.609
8.279
9.740
3 - Nợ phải thu
3.460
319
4.258
4- Nợ phải trả
5.583
14.621
16.646
5 - Tổng doanh thu
69.284
62.150
68.792
6 - lãi lỗ
991
573
590
7- Các khoản nộp ngân sách
1.253
1.231
1.551
8- Số lao động (người)
638
621
581
Ngành vận tải:
Các công ty vận tải ô tô gặp khó khăn, phương tiện vận tải cũ nát, không đủ sức cạnh tranh, giá cước vận tải không đủ bù đắp chi phí.
Các ngành khác:
+ Một doanh nghiệp : Công ty tư vấn xây dựng và Khảo sát Thiết kế Giao thông sản xuất kinh doanh ổn định có hiệu quả.
+ 2 doanh nghiệp thua lỗ: Công ty số số kiến thiết, Công ty Điện ảnh.
+ 3 doanh nghiệp có quy mô quá nhỏ: Xí nghiệp khảo sát thiết kế thuỷ lợi, xí nghiệp Khảo sát thiết kế xây dựng, công ty Văn hoá tổng hợp.
Biểu 7: tổng hợp một số kết quả hoạt động các DNNN khác
Đơn vị tính: Triệu đồng
Chỉ tiêu
1995
1996
1997
1- Nguyên giá tài sản cố định
389
496
638
2- Nguồn vốn kinh doanh
- Tổng số
400
487
587
- Vốn Nhà nước
175
174
221
3 - Nợ phải thu
467
635
1.411
4- Nợ phải trả
794
1.255
1.430
5 - Tổng doanh thu
2.444
2.966
3.593
6 - Lãi lỗ
230
289
435
7- Các khoản nộp ngân sách
187
201
282
8- Số lao động (người)
66
76
80
Nguồn: Báo cáo Phương án sắp xếp DNNN, Ban tư vấn đổi mới DNN, năm 1998
- Doanh thu tiêu thụ sản phẩm:
+ Doanh thu bình quân 3 năm (1997 -1999) đạt : 199 tỷ đồng, bình quân 1 doanh nghiệp đạt 4,06 tỷ đồng doanh thu và cứ 1 đồng vốn kinh doanh tạo ra được 1,18 đồng doanh thu.
- Lợi nhuận và các khoản nộp ngân sách:
Lãi thực hiện (trước thuế) hàng năm ở mức từ 3 tỷ đồng đến 3,6 tỷ đồng. Năm 1997, lãi thực hiện tính đến vốn kinh doanh đạt 2% và lãi thực hiện tính trên doanh thu đạt 1,7%. Bình quân 1 lao động tạo ra được 770 ngàn đồng lãi. Tổng mức lãi thực hiện (trước thuế) của các doanh nghiệp Nhà nước hàng năm giảm 1,1 so với năm trước. Số doanh nghiệp kinh doanh có lãi giảm từ 44 doanh nghiệp (năm 1995) xuống còn 37 doanh nghiệp (của năm 1997), số doanh nghiệp phát sinh lỗ tăng từ 3 doanh nghiệp (năm 1995) lên 10 doanh nghiệp (của năm 1997).
+ Tổng mức nộp ngân sách của các doanh nghiệp nhà nước hàng năm đạt từ 5,6 tỷ đồng đến 6 tỷ đồng, bằng 12% tổng thu ngân sách từ kinh tế địa phương.
+ Tổng số nợ phải thu: 45.488 triệu đồng trong đó nợ khó đòi : 1.839 triệu đồng; tổng số nợ phải trả : 98.066 triệu đồng gấp 2,15 lần số nợ phải thu.
* Như vậy trên cơ sở phân tích tình hình tài chính 3 năm (1995 -1997) của các doanh nghiệp Nhà nước và tiêu chí hướng dẫn của Bộ Tài chính, kết quả phân loại doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Lai Châu như sau:
- Nhóm 1: Những doanh nghiệp Nhà nước sản xuất kinh doanh ổn định, phương hướng nhiệm vụ sản xuất kinh doanh rõ ràng, kinh doanh có lãi, nộp ngân sách Nhà nước, bảo toàn phát triển vốn. Nhóm này gồm 18 doanh nghiệp (xem phụ lục 1)
- Nhóm 2: Những doanh nghiệp nhà nước sản xuất kinh doanh không ổn định, kém hiệu quả, làm ăn thua lỗ cần được Nhà nước hỗ trợ về cơ chế chính sách, sắp xếp, tổ chức lại sản xuất kinh doanh. Nhóm này gồm 16 doanh nghiệp (xem phụ lục 1)
- Nhóm 3: Là doanh nghiệp kinh doanh không có hiệu quả, mất khả năng thanh toán nợ và thua lỗ kéo dài cần phải giải thể hoặc cho phá sản theo luật phá sản. Nhóm này gồm 15 doanh nghiệp (xem phụ lục)
Phân loại doanh nghiệp Nhà nước theo tiêu chỉ tiêu hiệu quả
2 - Đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước trên địa bàn tỉnh Lai Châu.
2.1- Hiệu quả đạt đuợc:
Sau khi đăng ký thành lập lại theo nghị định 388/HĐBT, doanh nghiệp Nhà nước đã được phát triển ở hấu hết các ngành, các lĩnh vực kinh tế trên địa bàn toàn tỉnh. Sự hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước những năm qua đã góp phần quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, thúc đẩy nền kinh tế có mức phát triển khá.
Thông qua dịch vụ, doanh nghiệp Nhà nước đã đáp ứng ngày càng cao hơn nhu cầu về vật tư, giống cho sản xuất nông nghiệp, các loại vật tư cơ bản như: than, xi măng, sắt thép cho công nghiệp và xây dựng cơ bản, góp phần ổn định giá vật tư cho sản xuất và xây dựng; cung ứng đầy đủ, kịp thời các hàng hoá tiêu dùng thiết yếu và các mặt hàng tiêu dùng thuộc chính sách xã hội cho đồng bào các dân tộc, góp phần quan trọng vào việc thực hiện đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước.
- Doanh nghiệp Nhà nước đã đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng, củng cố cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội. Với tiềm lực về vốn, khoa học kỹ thuật, trình độ tổ chức và quản lý nhiều doanh nghiệp đã vươn lên để tiếp cận và thắng thầu, có đủ năng lực, điều kiện và đã làm được nhiều công trình có quy mô lớn, kỹ thuật phức tạp đòi hỏi chất lượng cao.
- Trên cơ sở phát triển sản xuất, doanh nghiệp Nhà nước đã thu hút được một lực lượng lao động vào làm việc trực tiếp trong doanh nghiệp, đồng thời tạo việc làm cho một bộ phận dân cư ngoài xã hội một cách gián tiếp thông qua vai trò dịch vụ - hỗ trợ của doanh nghiệp.
Mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng nhiều doanh nghiệp đã đảm bảo thu nhập cho công nhân ngày càng tăng; năm 1997 thu nhập bình quân 1 lao động là 415 ngàn đồng/tháng, tăng 22,7 % so với năm trước.
- Một số doanh nghiệp đã mạnh dạn đầu tư máy móc thiết bị mới để nâng năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Nhiều doanh nghiệp đã chủ động mở rộng sản xuất thông qua việc phát triển các ngành nghề tổng hợp nhằm tận dụng năng lực sản xuất của doanh nghiệp, tạo thêm công việc làm và tăng thêm thu cho ngân sách Nhà nước.
- Doanh nghiệp Nhà nước đã đóng góp khá cho ngân sách địa phương, mức đóng góp hàng năm của doanh nghiệp Nhà nước địa phương bằng 135 tổng thu ngân sách từ kinh tế địa phương và bằng 2% mức chi ngân sách thường xuyên của tỉnh.
- Doanh nghiệp Nhà nước trong tỉnh là đại diện cho việc phát rriển lực lượng sản xuất trong các ngành, các lĩnh vực kinh tế. Hệ thống các doanh nghiệp Nhà nước là khu vực kinh tế có tiềm lực khoa học kỹ thuật, có đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật đông đảo, có trình độ tổ chức cao hơn các thành phần kinh tế khác trong tỉnh. Những ưu thế đó chính là tiền đề các doanh nghiệp Nhà nước phát huy vai trò chủ đạo và thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá theo đường lối đổi mới của Đảng.
* Các doanh nghiệp đã đạt được những kết quả trên đây là do các nguyên nhân sau:
- Nhờ có đường lối mới của Đảng, nhất là trong lĩnh vực kinh tế, quyền chủ động trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ngày càng được mở rộng hơn; cơ chế, chính sách quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp (tuy có hạn chế nhất định) nhưng nhìn chung đã bước đầu tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp Nhà nước tổ chức sản xuất kinh doanh phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng.
- Một số doanh nghiệp đã chủ động trong tổ chức sản xuất kinh doanh, mạnh dạn đầu tư chiều sâu để phát triển sản xuất, chủ động tìm kiếm thị trường, trách nhiệm trước Nhà nước và người lao động của một số doanh nghiệp đã được nâng cao.
- Vai trò của cấp uỷ đảng cơ sở đã bước đầu được củng cố và phát huy hiệu quả trong lĩnh đạo phát triển sản xuất kinh doanh. Phương thức hoạt động và cơ chế tổ chức của một số cấp uỷ đã có sự đổi mới phù hợp với quy định số 49 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá VII). Uy tín của cấp uỷ, vai trò của các tổ chức chính trị trong một số doanh nghiệp đã được nâng cao, do đó đã động viên được công nhân, viên chức trong doanh nghiệp phấn đấu hoàn thành mục tiêu kế hoạch hàng năm của doanh nghiệp.
2.2 - Những hạn chế và tồn tại trong các doanh nghiệp Nhà nước trên địa bàn tỉnh Lai Châu.
- Đa số các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, nhiều doanh nghiệp có quy mô quá nhỏ đã gây nhiều khó khăn trong quá trình tổ chức sản xuất kinh doanh, nhất là trong việc huy động vốn, trong dầu tư chiều sâu để đổi mới thiết bị, công nghệ và khả năng cạnh tranh trên thị trường, yêu cầu sắp xếp theo quy hoạch vẫn chưa đạt kết quả cao: Cơ cấu doanh nghiệp vẫn còn bất hợp lý, tình trạng chồng chéo vẫn chưa được khắc phục, số lượng doanh nghiệp vẫn còn nhiều mang tính chất hành chính và quá manh mún.
- Đa số các doanh nghiệp rất lúng túng trong việc xác định phương hướng sản xuất, không xây dựng được kế hoạch sản xuất, quá trình tổ chức sản xuất mang tính chắp vá.
- Thiếu vốn kinh doanh là hiện tượng phổ biến ở hấu hết các doanh nghiệp, nhiều doanh nghiệp hoạt động chủ yếu bằng vốn vay và vốn chiếm dụng. Vốn vay nhiều, tiền lãi phải trả lớn làm cho hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp.
Trong khi thiếu vốn kinh doanh, nhiều doanh nghiệp đã sử dụng vốn lãng phí, hiệu quả thấp. Ví dụ năm 1997 cứ 1 đồng vốn kinh doanh (kể cả vốn Nhà nước và vốn vay) tạo ra 1,3 đồng doanh thu và 0,019 đồng lợi nhuận. Tình hình trên đã làm trầm trọng thêm vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
- Tình hình lao động, việc làm, thu nhập và các chính sách đối với người lao động ở nhiều doanh nghiệp đang là một vấn đề bức xúc. Tình trạng thiếu việc làm thường xuyên diễn ra ở nhiều doanh nghiệp; đặc biệt có một số doanh nghiệp công nhân phải phải nghỉ tự túc 100%... tình hình đó làm đời sống người lao động ở nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn, cuộc sống không ổn định, việc giải quyết các chế độ chính sach cho người lao động còn nhiều vướng mắc. Trong thời gian vừa qua các doanh nghiệp đó vẫn chưa có biện pháp giải quyết tích cực, thường là trông chờ vào sự giải quyết của Nhà nước.
- Đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý doanh nghiệp nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý doanh nghiệp trong thời kỳ đổi mới; trình độ chuyên môn hạn chế, hầu hết chưa được đào tạo, trang bị kiến thức về quản trị doanh nghiệp trong cơ chế thị trường, tính năng động chưa cao, khả năng tiếp thị yếu. Có só ít cán bộ lãnh đạo còn thể hiện lợi ích cục bộ và sự vun vén cá nhân.
- Thị trường tiêu thụ sản phẩm đã và đang là vấn đề khó khăn gay gắt ở nhiều doanh nghiệp trong nhiều lãnh vực. Các doanh nghiệp chưa đủ khả năng và điều kiện để mở rộng thị trường ra ngoài tỉnh. Thị trường trong tỉnh đã hẹp lại bị sự cạnh tranh không lành mạnh với các thành phần kinh tế khác đã đẩy một số doanh nghiệp Nhà nước vào thế không ổn định và thua thiệt trong cạnh tranh.
- Kết quả và hiệu quả trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước thấp và đang có chiều hướng chững lại và giảm sút ở một số chỉ tiêu quan trọng.
Trong nhiều năm liền tổng doanh thu tiêu thụ của các doanh nghiệp Nhà nước liên tục giảm xuống. Ví dụ như năm 1996 giảm 1,4%; năm 1997 giảm 5,3% so với năm trước. Lợi nhuận thực hiện năm 1997 giảm 5,4 so với năm 1996, số lượng các doanh nghiệp kinh doanh lỗ, hoà vốn hoặc lãi dưới 5,5 triệu động.
Năm 1996 có 8 doanh nghiệp lỗ, 2 doanh nghiệp hoà vốn, 7 doanh nghiệp lãi dưới 5,5 triệu đồng, sang năm 1997 có 10 doanh nghiệp lỗ; 2 doanh nghiệp hoà vốn và 8 doanh nghiệp lãi 5,5 triệu đồng, trong đó có 6 doanh nghiệp lỗ liên tục 2 năm liền (năm 1996 & năm 1997).
Nguyên nhân của những tồn tại đó là:
- Do hoạt động trên địa bàn miền núi có nhiều khó khăn, nhất là việc mở rộng giao lưu kinh tế với bên ngoài phát triển thị trường trong và ngoài tỉnh, thu hút vốn đầu tư và việc liên kết liên doanh với các đối tác ngoài tỉnh. Bên cạnh đó, thiên tai lũ lụt đã làm cho một số doanh nghiệp mất vốn, mất tài sản dẫn đến đình đốn sản xuất.
- Do nội lực của doanh nghiệp Nhà nước nhìn chung còn nhiều mặt yếu kém, nhiều doanh nghiệp không đủ điều kiện tối thiểu để hoạt động, đặc biệt là thiếu vốn, kỹ thuật công nghệ lạc hậu lại chậm được đổi mới, chất lượng lao động thấp, năng lực quản lý doanh nghiệp yếu, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp trước đây để lại chưa khắc phục hết được, tâm lý trông chờ vào sự bao cấp của Nhà nước ở nhiều doanh nghiệp còn nặng dẫn đến thụ động trong tổ chức sản xuất kinh doanh, một số doanh nghiệp bị tê liệt hoàn toàn.
- Vai trò quản lý Nhà nước bị buông lỏng, thiếu sự chỉ đạo thường xuyên đối với doanh nghiệp Nhà nước. Việc thực hiện nghị định 388/HĐBT trước đây còn tồn tại đã để lại hậu quả trong quá trình hoạt động của các doanh nghiệp, tuy có định hướng lớn về cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước nhưng còn chậm xây dựng quy hoạch phát triển, cụ thể đối với từng ngành và lĩnh vực để có hướng đầu tư trọng điểm; công tác kiểm tra kiểm soát đối với hoạt động của doanh nghiệp là cần thiết nhưng thực hiện còn có tình trạng dàn trải, kéo dài, kết luận không rõ ràng gây tâm lý căng thẳng, có ảnh hưởng xấu đến hoạt động của doanh nghiệp.
- Cơ chế chính quản lý vĩ mô của Nhà nước đã có những tác động tích cực đối với sản xuất kinh doanh, nhưng vẫn còn những quy định không phù hợp với điều kiện thực tế; quyền chủ động sản xuất kinh doanh chưa được định rõ nên chậm khắc phục được tình trạng "vô chủ" ở các doanh nghiệp, chưa tạo được động lực thúc đẩy doanh nghiệpvươn lên, đặc biệt là việc cụ thể hoá những chính sách để tháo gỡ khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Tóm lại: Trong những năm qua, hệ thống doanh nghiệp Nhà nước trên địa bàn tỉnh Lai Châu đã góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, điều đó khẳng định được vị trí, vai trò của doanh nghiệp Nhà nước đối với kinh tế - xã hội khi thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá theo đường lối đổi mới của đảng. Cũng từ thực tiễn đó đặt ra nhiều vấn đề cần được tiếp tục xử lý trong các doanh nghiệp như: vốn, lao động, thị trường.... và cả sự chỉ đạo điều hành trong lĩnh vực quản lý Nhà nước.
chương 3
Phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh đối với các doanh nghiệp Nhà nước trên địa bàn tỉnh Lai châu
1. Phương hướng chung:
Mặc dù trong thời gian qua, một số doanh nghiệp Nhà nước trên địa bàn Lai Châu đã làm ăn thua lỗ, kém hiệu quả, chưa vươn lên làm tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế song không có nghĩa là phải xoá bỏ nó trong khi các doanh nghiệp Nhà nước này đã tồn tại mấy chục năm qua và là nguồn thu ngân sách chủ yếu của tỉnh nói riêng và Nhà nước nói chung. Mặt khác, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh của tỉnh còn nhỏ bé, đang ở giai đoạn đầu của sự phát triển, chưa phát huy hết được các tiềm năng (vốn, lao động, công nghệ, thị trường....) để trở thành vừa là đối tượng, vừa là đối tác với doanh nghiệp Nhà nước. Vì vậy, phương hướng chủ đạo trong quá trình đổi mới nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh lai Châu là:
Thứ nhất: Doanh nghiệp Nhà nước trên địa bàn tỉnh phải được tăng cường sức mạnh để tiếp tục phát huy vai trò mở đường và hỗ trợ cho các thành phần kinh tế khác phát triển, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, thúc đẩy công nghệ kỹ thuật, đào tạo bồi dượng lực lượng cán bộ, công nhân. Doanh nghiệp Nhà nước phải có mặt trên tất cả các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế tỉnh, là chỗ dựa vật chất, kỹ thuật để Nhà nước điều hành nền kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội và an ninh quốc phòng.
Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Lai Châu lần thứ IX cũng đã khẳng định: "Tiếp tục sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả kinh tế của các quốc doanh, để thực sự vươn lên giữ được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế của tỉnh. Các doanh nghiệp Nhà nước trong lĩnh vực nông - lâm nghiệp cần chuyển hoạt động sang thực hiện chức năng dịch vụ, đồng thời phát huy vai trò là trung tâm kinh tế - văn hoá - khoa học kỹ thuật trong vùng. Nghiên cứu chính sách để chuyển dần công nhân trong các doanh nghiệp đó thành cư dân nông - lâm nghiệp, thực hiện việc giao đất, khoán rừng, bán vườn, đồi cây cho hộ gia đình. Phát triển kinh tế quốc doanh ở những ngành quan trọng là cần thiết, trong đó tập trung vào lĩnh vực khai thác khoáng sản, sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến nông - lâm sản xuất khẩu, dịch vụ cung ứng vật tư, hàng hoá thiết yếu... Khuyến khích và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có hướng phát triển lâu dài và hoạt động có hiệu quả".
Thứ hai: Để đạt được hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, phát huy vai trò chủ đạo của doanh nghiệp Nhà nước trên các lĩnh vực, các ngành kinh tế của tỉnh phải thực hiện đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, đó là sự đổi mới bên trong nội bộ từng doanh nghiệp và đổi mới bên ngoài là các cơ chế chính sách vĩ mô. Đồng thời, việc sắp xếp đổi mới doanh nghiệp Nhà nước phải căn cứ vào điều kiện thực tế của tỉnh về vốn, lao động....
Thứ ba: Đổi mới doanh nghiệp phải dựa trên cơ sở hiệu quả kinh tế - xã hội, lấy tiêu chuẩn và hiệu quả kinh tế - xã hội làm mục tiêu cho quá trình đổi mới. Vì vậy, khi xem xét hoạt động của doanh nghiệp không chỉ đơn thuần chỉ dựa vào mức lãi thực hiện hay lỗ trong sản xuất kinh doanh để xử lý, vấn đề quan trọng là đánh giá đúng vai trò của doanh nghiệp trong quá trình phát triển của các thành phần kinh tế trong sự nghiệp phát triển kinh tế chung của tỉnh theo định hướng chuyển đổi cơ cấu kinh tế đã được xác định vai trò, ý nghĩa trong việc thực hiện các mục tiêu xã hội và các chính sách xã hội.
Thứ tư: Đổi mới doanh nghiệp Nhà nước phải trên cơ sở phát huy tính chủ động sáng tạo của từng doanh nghiệp, khắc phục tình trạng trông chờ vào sự bao cấp của Nhà nước. Trên cơ sở các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp được luật pháp cho phép, mỗi doanh nghiệp phải chủ động và tự tổ chức thực hiện.
Trên cơ sở phương hướng chung, có thể xác định những quan điểm đổi mới và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước trên địa bàn tỉnh Lai châu là:
- Để các doanh nghiệp Nhà nước thực sự phát huy được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, phải tiếp tục củng cố, sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước, Nhà nước hỗ trợ các doanh nghiệp bằng cơ chế, chính sách quản lý vĩ mô như đầu tư vốn ban đầu, điều tiết thị trường, các biện pháp ưu đãi về tiêu thụ sản phẩm... nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Nhà nước ổn định và phát triển, tăng cường sức cạnh tranh và quyền tự chủ cho doanh nghiệp.
- Đối với những doanh nghiệp hoạt động công ích sản xuất sản phẩm, cung ứng dịch vụ công cộng theo chính sách của Nhà nước, cần được xem xét, đảm bảo đủ các điều kiện để các doanh nghiệp này thực hiện nhiệm vụ công ích được giao.
- Đối với những doanh nghiệp Nhà nước đã ổn định sản xuất kinh doanh, có hiệu quả, có nguồn thu lớn cho ngân sách cần được ưu tiên đầu tư thoả đáng để cho các doanh nghiệp này phát triển.
- Đối với những doanh nghiệp Nhà nước sản xuất kinh doanh không ổn định, kinh doanh kém hiệu quả thua lỗ kéo dài... phải sắp xếp tổ chức lại sản xuất, thành lập lại doanh nghiệp Nhà nước trên cơ sở sáp nhập, hợp nhất hoặc giải thể....vv.
2. Một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước trên điạ bàn tỉnh Lai Châu.
2.1- Tiến hành phân loại và sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước
Quan điểm cơ bản khi sắp xếp doanh nghiệp Nhà nước trên địa bàn tỉnh Lai Châu
- Mục tiêu chung trong quá trình sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước là phải thật sự tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt, vùng kinh tế quan trọng nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững và giải quyết các vấn đề xã hội, năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế, thực hiện nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước. Khắc phục tình trạng manh mún, tăng khả năng tích tụ và tập trung vốn, tài sản, lao động, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Nhà nước ngày càng lớn mạnh, đủ khả năng để hướng dẫn, tổ chức và liên kết các thành phần kinh tế khác cùng phát triển; bảo đảm cho doanh nghiệp Nhà nước phát huy được vai trò chủ đạo. Việc tăng, giảm số lượng các doanh nghiệp thông qua việc sáp nhập, hợp nhất các doanh nghiệp với nhau không phải là mục tiêu mà đó chỉ là làm giải pháp thực hiện. Trong điều kiện của một tỉnh miền núi như Lai Châu thì việc sắp xếp lại các doanh nghiệp phải nhằm xác định được một cơ cấu doanh nghiệp hợp lý theo ngành, trong từng ngành và theo vùng lãnh thổ.
- Việc sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước phải nhằm mục tiêu nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội, sau khi được sắp xếp lại thì các doanh nghiệp phải mạnh lên so với trước khi sắp xếp. Vì vậy khi sắp xếp lại, sáp nhập, hoặc hợp nhất các doanh nghiệp phải tính toán đầy đủ đến triển vọng phát triển của doanh nghiệp, trong việc sáp nhập các doanh nghiệp với nhau phải chọn ra được những doanh nghiệp làm trụ cột trong quá trình sáp nhập.
- Việc sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước nhằm phát huy hơn nữa vai trò chủ đạo của doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần, hướng dẫn, giúp đỡ các thành phần kinh tế khác, làm đòn bẩy phát triển kinh tế, thực hiện tốt chính sách xã hội đối với đồng bào các dân tộc trong tỉnh, phấn đấu trở thành một trung tâm kinh tế, khoa học kỹ thuật trong vùng.
Tiến hành phân loại doanh nghiệp
Với các quan điểm về sắp xếp lại doanh nghiệp như trên, cùng với căn cứ vào tiêu chí hướng dẫn của chỉ thị 20/1998 CT/TTg của Thủ tướng Chính phủ, căn cứ vào điều kiện đặc thù của nền kinh tế xã hội tỉnh và thực trạng của từng doanh nghiệp Nhà nước trên địa bàn tỉnh Lai Châu thời gian qua ( mà trọng tâm là tài chính, lao động, việc làm, thu nhập của người lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh; tỷ suất lợi nhuận trên vốn) - Có thể phân loại các doanh nghiệp Nhà nước trên địa bàn tỉnh thành 1 trong 3 loại như sau:
Loại thứ nhất: Là các doanh nghiệp cần duy trì 100% vốn Nhà nước gồm:
- Các doanh nghiệp hoạt động công ích.
- Các doanh nghiệp thuộc ngành kinh tế được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn, thực sự cần thiết phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế làm điểm tựa vững chắc cho các ngành và các thành phần kinh tế khác phát triển.
- Các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành quan trọng đối với nền kinh tế của tỉnh và những ngành mà tư nhân không có khả năng hoặc không muốn đầu tư (chủ yếu là các doanh nghiệp hoạt động công ích và những doanh nghiệp mà hiệu quả được xem xét không chỉ vì kinh tế mà cả về mặt xã hội).
- Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả, nền tài chính được lành mạnh hoá, có đóng góp lớn vào ngân sách, có tỷ suất lợi nhuận cao, mới được đầu tư hiện đại hoá.
Nhóm này gồm 36 doanh nghiệp (xem phụ lục 2)
Loại thứ hai: Gồm các doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế kinh doanh có quy mô vừa, đang hoạt động có hiệu quả và có triển vọng phát triển tốt thì tiếp tục duy trì sản xuất - kinh doanh, cần được kiện toàn về tổ chức, ưu tiên bổ sung thêm nguồn vốn lưu dộng. Đồng thời có biện pháp thích hợp để huy động các nguồn vốn khác với lãi suất ưu đãi dưới hình thúc khác nhau theo quy định của Nhà nước và pháp luật hiện hành để đầu tư chiều sâu nâng cao khả năng cạnh tranh.
Nhóm này gồm có 8 doanh nghiệp (xem phụ lục 2)
Loại thứ ba: Đó là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu làm ăn không hiệu quả hoặc thua lỗ kéo dài, vai trò của doanh nghiệp không có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế. Đối với các doanh nghiệp này cần sắp xếp sáp nhập với các doanh nghiệp khác, nếu không được thì cho phá sản theo luật phá sản đã ban hành, hoặc có thể xem xét đấu thầu quản lý, khoán kinh doanh, bán chịu cho tập thể người lao động các thành phần kinh tế khác để họ tự lựa chọn hình thức hoạt động.
Nhóm này gồm có 5 doanh nghiệp (xem phụ lục 2)
Sau khi đã được sắp xếp lại, số lượng các doanh nghiệp Nhà nước là 39 doanh nghiệp (trong đó có 14 doanh nghiệp công ích, 25 doanh nghiệp kinh doanh) được phân bổ ở các ngành cụ thể như sau:
STT
Ngành
Tổng số doanh nghiệp
Trong đó
DN công ích
DN kinh doanh
1
Nông nghiệp và phát triển nông thôn
9
5
4
2
Công nghiệp
1
3
Xây dựng
9
2
7
4
Giao thông
5
3
2
5
Văn hoá
3
3
0
6
Thương nghiệp + Bán lẻ
10
1
9
7
Tài chính
1
0
1
8
Tư vấn
1
0
1
Tổng cộng
39
14
25
Doanh nghiệp Nhà nước trong lĩnh vực Nông nghiệp:
Cần phải tổ chức lại để vươn lên làm tốt chức năng dịch vụ cho phát triển toàn diện nông nghiệp của tỉnh: phát huy vai trò chủ đạo của doanh nghiệp trong nông nghiệp; thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá; đưa các doanh nghiệp nông nghiệp trở thành trung tâm khoa học kỹ thuật trong vùng và trong toàn tỉnh. Để thực hiện mục tiêu đó, hướng tổ chức sắp xếp các doanh nghiệp Nhà nước trong nông nghiệp theo hướng sau:
- Về tổ chức cần thống nhất việc kinh doanh vật tư nông nghiệp (kể cả việc kinh doanh giống cây troòng, vật nuôi) về một doanh nghiệp; đồng thời hình thành tổ chức một đơn vị sự nghiệp chuyên làm công tác thực nghiệm bảo tồn quỹ gen và chuyển giao giống, cây con có hiệu quả kinh tế phù hợp với điều kiện tự nhiên ở các vùng trong tỉnh.
- Tháo gỡ những khó khăn vướng mắc hiện nay như : cấp vốn lưu động, tín dụng trung và dài hạn để đầu tư cho công nghiệp chế biến, đầu tư ngân sách cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng; xử lý dứt điểm những tồn tại về tài sản, lao động và công nợ khó đòi, tạo điều kiện thông thoáng để doanh nghiệp đi vào tổ chức sản xuất - kinh doanh một cách thuận tiện.
- Thực hiện một cách kiên quyết việc tổ chức lại sản xuất, thay đổi cách nghĩ, cách làm trong nội bộ một số doanh nghiệp, nhất là trong 2 doanh nghiệp sản xuất cây công nghiệp theo tinh thần nghị quyết số 08/NQ -TƯ tháng 6/1993 của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh khoá VIII và nghị quyết Đại hội tỉnh bộ lần thứ IX. Phương hướng chung là các doanh nghiệp này không trực tiếp tổ chức sản xuất nông nghiệp mà gắn trực tiếp lợi ích kinh tế của người lao động với đất đai vườn cây, thông qua cơ chế giao khoán thích hợp cho hộ gia đình công nhân, dân cư trên địa bàn để họ tự tổ chức lao động sản xuất lâu dài. Chuyển phương thức hoạt động sang làm dịch vụ cho hộ gia đình, gắn nông nghiệp với công nghiệp chế biến làm tăng giá trị sản phẩm và tham gia xuất khẩu, nên cần đi vào khâu công nghiệp chế biến sản phẩm cây công nghiệp (chè, cà phê) và bao tiêu thu mua nông sản cho nhân dân trong vùng, thực hiện tốt công tác dịch vụ bao gồm dịch vụ về vốn, khoa học kỹ thuật, giống vật tư cho nhân dân.
Đổi mới tổ chức - hoạt động của các Lâm trường quốc doanh:
Trong những năm tới, vai trò của các Lâm trường quốc doanh hết sức quan trọng. Các Lâm trường quốc doanh sẽ là lực lượng chủ đạo trong việc bảo vệ, xây dựng và phát triển vốn rừng, trước mắt là sẽ tham gia vào việc thực hiện dự án trồng 5 triệu ha rừng đã được Quốc Hội khoá X thông qua.
Trong điều kiện của tỉnh Lai Châu là một tỉnh miền núi cao, địa hình rộng, giao thông chậm phát triển và dân trí còn thấp, thì vai trò của lâm trường quốc doanh có ý nghĩa quan trọng. Sự hoạt động của Lâm trường quốc doanh ở các vùng nhằm khai thác lợi thế so sánh của một tỉnh miền núi: bảo vệ môi trường và tài nguyên rừng, góp phần thúc đẩy mở mang dân trí, là điểm sáng về phát triển kinh tế văn hoá, khoa học kỹ thuật ở các vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Chính vì vậy cần thiết phải duy trì hoạt động của các Lâm trường quốc doanh ở những hình thức và mức độ khác nhau.
Từ thực tiễn hoạt động của các lâm trường quốc doanh những năm vừa qua đặt ra vấn đề bức xúc là phải đổi mới sắp xếp lại sản xuất trong các lâm trường. Việc sắp xếp và đổi mới hoạt động trong thời gian tới được xác định trên cơ sở chiến lược phát triển Lâm nghiệp tỉnh Lai Châu đến năm 2010 và 2020 để từ đó xác định mô hình hoạt động phù hợp cho từng doanh nghiệp ở từng vùng khác nhau.
- Đối với lâm trường được giao quản lý rừng tự nhiên và còn được phép khai thác, cần tổ chức lại để đưa vào hoạt động theo cơ chế của doanh nghiệp kinh doanh (vì mục tiêu lợi nhuận).
- Đối với các Lâm trường được giao quản lý rừng tự nhiên trong thời kỳ đóng cửa để nuôi dường, không được phép khai thác.
- Đối với lâm trường làm nhiệm vụ bảo vệ, khoanh nuôi, làm giàu rừng theo kế hoạch Nhà nước, được ngân sách Nhà nước cấp kinh phí thì chuyển thành lâm trường công ích.
- Nếu lâm trường chỉ làm nhiệm vụ bảo vệ rừng đơn thuần thì xem xét để chuyển thành ban quản lý rừng; hoặc giải thể để trả lại rừng cho địa phương để giao cho hộ gia đình, thôn bảo vệ.
- Đối với các lâm trường bố trí trên địa bàn khu rừng đặc dụng, rừng phòng hộ xung yếu thì chuyển bộ máy quản lý Lâm trường thành Ban quản lý và hoạt động theo quy chế của đơn vị sự nghiệp kinh tế.
- Đối với các lâm trường trồng rừng phòng hộ và trồng rừng sản xuất có chu kỳ kinh doanh dài (trên 20 năm) được Nhà nước cấp vốn vay ưu đãi. khi chưa được khai thác thì hoạt động theo cơ chế của doanh nghiệp công ích. Khi được khai thác thì chuyển sang hoạt động theo cơ chế kinh doanh và phải hoàn trả vốn Nhà nước.
- Đối với Lâm trường trồng rừng sản xuất bằng các loại cây mọc nhanh, có chu kỳ kinh doanh dưới 20 năm và để làm nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp thì củng cố lại hoạt động theo cơ chế của doanh nghiệp kinh doanh.
- Đối với lâm trường ở vùng đông dân, đang quản lý rừng và đất phân bố xen kẽ với khu dân cư, dân có nhu cầu và khả năng kinh doanh rừng, thì xem xét giao rừng và đất đến hộ gia đình theo nghị định 02/CP và thu hồi lại vốn Nhà nước đã đầu tư cho lâm trường. Đồng thời tổ chức di chuyển địa bàn hoạt động và bộ máy của các Lâm trường đó đến vùng xa, dân cư thưa thớt để trực tiếp trồng rừng, khoanh nuôi, bảo vệ rừng theo quy hoạch, kế hoạch phát triển rừng của tỉnh Lai Châu.
Trong lĩnh vực Công nghiệp:
Dựa trên cơ cấu kinh tế của tỉnh Lai Châu đã được xác định trong chiến lược "ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000" được thông qua tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Lai Châu lần thứ VIII (năm 1991) và tinh thần của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ IX thì vai trò của công nghiệp rất quan trọng, nhất là khi thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Vì vậy việc củng cố đổi mới các doanh nghiệp Nhà nước trong công nghiệp là cần thiết và cấp bách. Từ thực tiễn của tỉnh Lai Châu, trong thời gian tới việc củng cố đổi mới doanh nghiệp Nhà nước trong công nghiệp phải nhằm vào các mục tiêu:
- Trang bị các loại nông cụ cải tiến các loại máy móc cơ khí nhỏ để phục vụ trực tiếp cho sản xuất nông nghiệp, cho quá trình thu hoạch và sơ chế nông sản nhằm tăng năng suất lao động nông nghiệp, thay thế một phần lao động chân tay, tăng chất lượng và giá trị nông sản, góp phần quyết định vào sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá - nông thôn.
- Tổ chức có hiệu quả việc khai thác khoáng sản để sớm phát huy được tiềm năng, lợi thế so sánh của Lai Châu, tăng thu cho ngân sách và giải quyết việc làm cho một bộ phận lao động xã hội.
Trên cơ sở đó, các doanh nghiệp Nhà nước trong công nghiệp được tổ chức sắp xếp lại theo hướng:
- Củng cố các hoạt động của nhà máy cơ khí tỉnh như: đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ trong chế tạo; bổ xung vốn lưu dộng, tổ chức sắp xếp lại bộ máy tổ chức, củng cố đội ngũ công nhân lành nghề thực hiện đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao năng lực tiếp thị mở rộng mạng lưới tiêu thụ ra các huyện trong tỉnh và ngoài tỉnh. Có phương án hợp lý để di chuyển nhà máy về thị xã Điện Biên Phủ.
- Hình thành một công ty khai thác khoáng sản. Nhưng trước mắt bổ xung nhiệm vụ khai thác khoáng sản cho Công ty Than để đến khi đủ điều kiện thì chuyển Công ty than thành Công ty Khai thác Khoáng sản...
Sắp xếp, tổ chức các doanh nghiệp Nhà nước ngành Xây dựng:
- Tiếp tục duy trì, củng cố hoạt động của các doanh nghiệp hoạt động công ích; và doanh nghiệp đặc thù; đồng thời hình thành một số công ty mạnh theo hướng cần tích tụ và tập trung để xây dựng một số doanh nghiệp đầu đàn có quy mô vừa, có trình độ công nghệ hiện đại, có chất lượng sản phẩm cao, để khắc phục tình trạng chồng chéo, chia cắt trong tổ chức sản xuất - kinh doanh (trong lĩnh vực xây lắp) theo mô hình tổ chức dọc để tăng năng lực và điều kiện thực hiện cạnh tranh trong cơ chế thị trường.
- Đối với các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, hiệu quả thấp thì tổ chức sáp nhập với doanh nghiệp hoạt động trong cùng một ngành kinh tế - kỹy thuật. Nếu không tổ chức sáp nhập được thì giải thể doanh nghiệp.
Những doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ nhiều năm liền thì kiên quyết giải thể hoặc cho phá sản theo luật phá sản doanh nghiệp.
Trong ngành giao thông vận tải:
- Tiếp tục duy trì và củng cố hoạt động của 3 doanh nghiệp hoạt động công ích. Hàng năm Nhà nước cân đối kế hoạch đảm bảo cho doanh nghiệp hoạt động ổn định: Ưu tiên bổ sung vốn lưu động; thanh toán kịp thời khối lượng công việc đã hoàn thành theo kế hoach hàng năm cho các doanh nghiệp, chuyển giao chức năng quản lý đường bộ toàn tỉnh lộ thuộc địa giới hành chính của tỉnh Lai Châu cho các đoạn quản lý đường bộ quản lý.
- Có biện pháp đồng bộ để củng cố đối mới 2 doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế kinh doanh. Trong từng doanh nghiệp phải thực hiện chủ động tự đổi mới trên tất cả các mặt hoạt động như: Đổi mới tổ chức và quản lý doanh nghiệp, đổi mới trang thiết bị bằng nhiều hình thức và nguồn vốn khác nhau.... Nhà nước ưu tiên cấp vốn lưu động và vốn tín dụng ưu đãi cho doanh nghiệp.
Trong lĩnh vực Thương mại - Du lịch:
Tiếp tục duy trì, củng cố hoạt động của các công ty Thương mại từ tỉnh đến huyện để vươn lên thực hiện vai trò chủ đạo và điều tiết thị trường để chiếm lĩnh thị trường, làm chủ bán buôn và chi phối bán lẻ, tác động tích cực đến việc bình ổn giá thị trường và thực hiện tốt chính sách xã hội đối với nhân dân ở các vùng trong tỉnh, mở rộng mạng lưới thu mua tiêu thụ hàng hoá cho nhân dân ở các vùng (nhất là các mặt hàng nông - lâm sản) để kích thích sản xuất phát triển, kich thích nhu cầu tiêu dùng của nhân dân các dân tộc.
Hình thành tổ chức kinh doanh dịch vụ du lịch và huy động các thành phần kinh tế khác nhau cùng tham gia phát triển du lịch, tạo nguồn vốn " lồng ghép" để xây dựng cơ sở hạ tầng và tôn tạo cảnh quan, mở rộng liên doanh liên kết tạo ra bước chuyển biến mới trong kinh doanh du lịch.... để khai thác có hiệu quả tiềm năng du lịch phong phú đa dạng của Lai Châu.
2.2- Tiếp tục hoàn thiện, đổi mới cơ chế quản lý, kinh doanh
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh gay gắt và sự rủi ro thường xẩy ra, đặt ra yêu cầu đối với mỗi doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì phải năng động, chủ động, nhạy bén trong kinh doanh, chủ động điều chỉnh các phương án sản xuất theo yêu cầu của thị trường nhằm hạn chế rủi ro, đem lại hiệu quả kinh doanh tối đa. Để tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện được điều đó cần thực hiện một cơ chế "mở" cho các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp được kinh doanh tổng hợp trên cơ sở pháp luật hiện hành, không bó hẹp kinh doanh của doanh nghiệp theo chức năng, nhiệm vụ đã quy định như thời gian vừa qua. Ngoài việc kinh doanh theo chức năng, nhiệm vụ chính, các doanh nghiệp được mở rộng kinh doanh những mặt hàng, trong những ngành nghề khác nhau nếu xét thấy có điều kiện (về vốn, kỹ thuật, thị trường, lao động) và đem lại lợi nhuận cao nhằm hỗ trợ cho sản xuất chính.
Cơ chế huy động vốn:
Cần làm lành mạnh tài chính của các doanh nghiệp, đổi mới cơ chế tạo vốn đảm bảo vốn cho hoạt động và thực hiện quyền tự chủ tài chính của doanh nghiệp, do đó cần bổ sung vốn kinh doanh theo Nghị định 50/CP của Chính phủ cho những doanh nghiệp hoạt động ổn định và có xu hướng phát triển sản xuất kinh doanh có hiệu quả và những doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong việc thực hiện chính sách và giải quyết các vấn đề xã hội.
Tạo điều kiện thuận lợi và có hành lang pháp lý thông thoáng nhằm khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng liên doanh liên kết với các đối tác ngoài tỉnh (kể cả với nhà đầu tư nước ngoài); khuyến khích việc liên kết giữa các doanh nghiệp Nhà nước với nhau, giữa doanh nghiệp Nhà nước với các thành phần kinh tế khác nhau trong tỉnh nhằm huy động vốn phát triển sản xuất.
Sau khi sắp xếp lại doanh nghiệp, bổ sung thêm vốn kinh doanh cho các doanh nghiệp nhất là đối với những doanh nghiệp có hướng phát triển, kinh doanh có hiệu quả; có chính sách ưu đãi về vốn tín dụng đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ.
Khuyến khích người lao động trong doanh nghiệp góp vốn cùng doanh nghiệp để kinh doanh, đồng thời có cơ chế thoả đáng đảm bảo lợi ích của người góp vốn với lợi ích của doanh nghiệp và của Nhà nước thông qua quá trình phân phối và phân phối lại, có sự ưu đãi về việc làm cho người góp vốn.
Đánh giá đúng giá trị tài sản để thực hiện hạch toán đầy đủ, có biện pháp xử lý hợp lý các khoản nợ của doanh nghiệp từ thời bao cấp. Xử lý dứt điểm nợ dây dưa thanh toán nợ 2 chiều giữa ngân hàng và doanh nghiệp.
Thực hiện triệt để tiết kiệm vốn trong sản xuất kinh doanh đối với từng doanh nghiệp và trong toàn tỉnh bằng nhiều biện pháp thích hợp như: sử dụng hợp lý và hiệu quả vốn kinh doanh, tăng tốc độ chu chuyển vốn...
Cơ chế tạo việc làm và áp dụng linh hoạt quy chế đấu thầu:
Trong quá trình kinh doanh, điều quan trọng hàng đầu để tạo việc làm trong mỗi doanh nghiệp là các doanh nghiệp cần chủ động, năng động tìm tòi theo tín hiệu của thị trường. Tuy vậy trong những điều kiện có thể được, Nhà nước quan tâm hơn đến doanh nghiệp Nhà nước. Đối với những đơn đặt hàng sản xuất kinh doanh, những dự án đầu tư cần được bố trí trước hết cho doanh nghiệp Nhà nước thực hiện. Trong quá trình thực hiện quy chế dấu thầu (nhất là trong lĩnh vực xây dựng cơ bản) một mặt cần thực hiện nghiêm chỉnh Nghị định 43/CP, nhưng mặt khác cần phải được vận dụng linh hoạt hơn cho phù hợp với điều kiện thực tế của Lai Châu trên nguyên tắc đảm bảo hiệu quả kinh tế, tiêu chuẩn kỹ thuật chất lượng sản phẩm, nhưng lại đảm bảo cho doanh nghiệp Nhà nước ở Lai Châu có điều kiện thắng thầu...
Giải quyết hợp lý vấn đề lao động:
Phương châm chung trong quá trình sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước là các doanh nghiệp phải có kế hoạch và biện pháp cụ thể để bố trí, sử dụng hết số lao động hiện có, đảm bảo việc làm và thu nhập ổn định cho công nhân sau khi sắp xếp lại doanh nghiệp.
Tuy nhiên trong quá trình sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước sẽ có khó tránh khỏi có một bộ phận lao động không bố trí được việc làm. Vì vậy cần có chính sách ưu đãi trong khuôn khổ cho phép để giải quyết chế độ cho những người lao động dôi ra trong quá trình sắp xếp lại doanh nghiệp, đảm bảo nguyên tắc đạt tình thấu lý. Đối với những người đã có đủ năm công tác nhưng chưa đến tuổi nghỉ hưu thì có thể tổ chức giám định sức khoẻ. Đối với những người đủ năm công tác, chưa đủ tuổi về hưu nhưng vẫn còn sức lao động thì có thể áp dụng hình thức cho nghỉ chờ đến khi đủ tuổi nghỉ hưu sẽ giải quyết chế độ hoặc cho thôi việc nếu họ tự nguyện. Đối với những người chưa đủ năm công tác và chưa đủ tuổi nghỉ hưu thì có thể giải quyết chính sách thôi việc một lần...vv.
Để giải quyết được số lao động dôi ra trong quá trình sắp xếp lại doanh nghiệp cần phải có kinh phí. Vì vậy, trung ương và các bộ ngành cấp cần cấp kinh phí hỗ trợ để giải quyết chính sách đối với người lao động dôi dư. Đồng thời Uỷ ban nhân dân tỉnh cần xem xét từng trường hợp cụ thẻ để có thể cho phép một số doanh nghiệp thanh lý một số tài sản lấy kinh phí để giải quyết chế độ cho người lao động.
2.3- Giải pháp về thị trường
Thị trường là vấn đề quyết định đối với sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Vì vậy việc xác định các biện pháp để phát triển thị trường của các doanh nghiệp là rất cần thiết.
Trước hết cần có cơ chế, chính sách đảm bảo cho môi trường cạnh tranh lành mạnh, thực hiện sự bình đẳng trong kinh doanh giữa các thành phần kinh tế.
Tiến hành xem xét bổ sung thêm chức năng, nhiệm vụ cho một số doanh nghiệp theo hướng sản xuất kinh doanh tổng hợp, đa dạng hoá sản phẩm. Thực hiện tự do hoá trong khâu lưu thông.
Thực thi các biện pháp đồng bộ nhằm nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm để tăng khả năng cạnh tranh và ccó điều kiện mở rộng ra bên ngoài tỉnh và xuất khẩu. Một số mặt hàng phải tiến tới thực hiện việc xuất khẩu trực tiếp.
Nâng cao trình độ và năng lực tiếp thị của các doanh nghiệp, mở rộng các hình thức đại diện và đại lý tiêu thụ hàng hoá ra ngoài tỉnh.
Có chính sách ưu đãi đối với một số mặt hàng đang khuyến khích phát triển và ở một số thời điểm nhất định để khuyến khích tiêu thụ sản phẩm và mở rộng thị trường.
2.4. Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước.
- Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước chính là quá trình chuyển đổi hình thức sở hữu của doanh nghiệp từ hình thức sở hữu Nhà nước duy nhất sang hình thức đa sở hữu. Từ sự thay đổi đó dẫn đến những thay đổi quan trọng về hình thức tổ chức, quản lý, phương hướng hoạt động của doanh nghiệp, thực hiện được triệt để những nguyên tắc quản lý kinh tế.
- Cổ phần hoá mà trọng tâm là việc đa dạng hoá hình thức sở hữu sẽ nâng cao quyền tự chủ tài chính và khả năng tự quản trong sản xuất kinh doanh, nâng cao trách nhiệm và tính sáng tạo của người lao động, khắc phục việc buông lỏng quản lý tài sản của doanh nghiệp, xoá bỏ tình trạng "vô chủ" của doanh nghiệp hiện nay.
- Cổ phần hoá sẽ huy động được nguồn trong xã hội cho sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển của doanh nghiệp, như vậy vừa tháo gỡ khó khăn cho ngân sách Nhà nước, vừa có điều kiện để đầu tư mở rộng sản xuất.
- Cổ phần hoá sẽ tạo động lực mới trong quản lý doanh nghiệp thông qua cơ chế gắn kết chặt chẽ quyền lợi của những chủ sở hữu doanh nghiệp với kết quả sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp. Từ đó tạo ra sự đoàn kết, thống nhất, sáng tạo trong việc xây dựng củng cố doanh nghiệp ngày càng lớn mạnh, kích thích được tính tích cực và tinh thần trách nhiệm trong lao động sản xuất.
Thực tiễn tỉnh Lai Châu trong những năm qua đã xuất hiện một số hình thức sơ khai về cổ phần hoá ỏ một số lĩnh vực: vận tải, xây lấp; trồng cây công nghiệp "chè", qua quá trình thực hiện các hình thức đó đã mang lại kết quả khá rõ.
Vì vậy, trong thời gian tới cần xác định phương hướng cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước trên địa bàn tinhr Lai Châu như sau:
+ Cần đánh giá tổng kết đầy đủ những mô hình mới trong các lĩnh vực có mầm mống cổ phần hoá để từ đó rút kinh nghiệm vận dụng trong thời gian tới.
+ Xác định cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là một giải pháp cần thiết trong quá trình đổi mới, sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước nhằm phát huy tối đa nội lực của doanh nghiệp. Tuy vậy, mức độ, phạm vi, bước đi của cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở tỉnh Lai Châu phải được xác định phù hợp với điêù kiện cụ thể của tỉnh, không thực hiện tràn lan. Thực hiện thí điểm cổ phần hoá một bộ phận hoặc một số doanh nghiệp Nhà nước có đủ điều kiện.
+ Cần sớm xác định rõ lĩnh vực nào, doanh nghiệp nào sẽ thực hiện cổ phần hoá ngay. Đặc biệt Nhà nước (địa phương) phải có cơ chế thực hiện cổ phần hoá trên cơ sở đường lối chủ trương của Đảng, sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
3- Kiến nghị với Nhà nước:
Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách quản lý vĩ mô, hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với các doanh nghiệp Nhà nước cho phù hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh ở một tỉnh miền núi có nhiều khó khăn đặc thù riêng, nhằm khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế cụ thể là:
Chính sách tài chính, chính sách thuế phải thật sự tạo động lực cho hoạt động của các doanh nghiệp.
Có cơ chế phân biệt, xác định rõ quyền chủ sở dụng vốn, tài sản giao cho doanh nghiệp, trên cơ sở đó mở rộng quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đồng thời có cơ chế để gán trách nhiệm của giám đốc doanh nghiệp với số tài sản được Nhà nước giao cho sử dụng.
- Có biện pháp kiên quyết, kiên trì chống tham ô lãng phí và hối lộ, buôn lậu gian lận thương mại.
Tăng cường công tác tổ chức kiểm tra và quản lý của các cơ quan chức năng theo đúng pháp luật quy định tạo ra được môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng. Cần tổng kết rút kinh nghiệm về thực hiện quy chế đấu thầu có chính sách bảo hộ lực lượng thầu cho doanh nghiệp Nhà nước và địa phương.
* Nhà nước cần quan tâm đầu tư thích đáng cho công tác đào tạo để không ngừng nâng cao năng lực quản lý cho cán bộ và tay nghề cho công nhân nhất là việc đào tạo đội ngũ cán bộ quản trị doanh nghiệp, trang bị đầy đủ những kiến thức kinh doanh trong cơ chế thị trường, có kế hoạch phát hiện, bồi dưỡng, bố trí sử dụng đúng cán bộ quản lý doanh nghiệp, trên cơ sở đức tài của họ.
* Phát huy vai trò của Đảng và các tổ chức đoàn thể trong doanh nghiệp :
Trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng ở các doanh nghiệp rất quan trọng cần được khẳng định và phát huy nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả của cơ sở Đảng cơ sở.
Vai trò lãnh đạo của Đảng trong các doanh nghiệp Nhà nước phải thể hiện ở việc lãnh đạo phát triển sản xuất kinh doanh trong điều kiện cơ chế thị trường và lãnh đạo công tác cán bộ trong đơn vị.
Tổ chức Đảng trong từng doanh nghiệp phải xác định được mục tiêu nhiệm vụ phát triển sản xuất kinh doanh vừa có tính định hướng vừa có tính định lượng ở những mục tiêu chủ yếu. Muốn vậy các cấp uỷ Đảng phải nắm bắt được các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, các thông tin về kinh tế thị trường, quan tâm tổng kết thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp để rút ra những vấn đề có tính qui luật và bài học kinh nghiệm để xây dựng phương án sản xuất kinh doanh một các cụ thể, chặt chẽ. Tránh khuynh hướng bao biện làm thay giám đốc, nhưng cũng tránh tình trạngđại khái, hình thức.
Đồng thời với việc lãnh đạo bằng phương hướng, chủ chương chung,tổ chức đảng trong DNNN phải lãnh đạo việc tổ chức thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra và kịp thời uốn nắn những vấn đề mới phát sinh trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp.
Trong công tác cán bộ, cấp uỷ phải có thẩm quyền quyết định việc quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán bộ, cho nghỉ chế độ đối với những cán bộ chủ chốt của doanh nghiệp; các đối tượng khác do giám đốc quyết định trên cơ sở kế hoạch, nguyên tắc và tiêu chuẩn cụ thể đã được cấp uỷ quyết định.
Để thực hiện được vai trò lãnh đạo, mỗi cấp uỷ phải có quy chế làm việc cụ thể, xác định trách nhiệm, quyền hạn giữa cấp uỷ và giám đốc. Phải không ngừng nâng cao trình độ năng lực của cấp uỷ và của Ban chấp hành các tổ chức chính trị trong doanh nghiệp, bí thư cấp uỷ phải có trình độ ngang tầm với giám đốc doanh nghiệp. Đồng thời phải có đủ điều kiện để cho cấp uỷ hoạt động như : Kinh phí và phương tiện làm việc.
Phát huy vai trò làm chủ của các tổ chức đoàn thể trong việc động viên đoàn viên, hội viên tham gia quản lý doanh nghiệp và đẩy mạnh phong trào thi đua lao động sản xuất. Đổi mới nội dung và hình thức hoạt động của các tổ chức đoàn thể phù hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh của từng đơn vị; phát huy quyền dân chủ hoá trong mọi công việc của đơn vị.
Để thực hiện đổi mới doanh nghiệp Nhà nước có hiệu quả, tỉnh cần thành lập ban chỉ đạo đổi mới doanh nghiệp Nhà nước với chức năng nhiệm vụ cụ thể, đồng thời tập trung cán bộ có năng lực chuyên môn biệt phái về làm việc tại ban do Chủ tịch UBND tỉnh quy định để giúp UBND tỉnh trong chỉ đạo đổi mới DNNN.
Đối với các ngành cũng phải có ban chỉ đạo đổi mới DNNN trong ngành, đồng thời phải xây dựng phương án cụ thể về đổi mới DNNN trong ngành trình UBND tỉnh quyết định.
Đồng thời với quá trình sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước phải có một phương án về nhân sự để thực hiện ý tưởng về đổi mới, sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước. Đây là một việc có nhiều khó khăn, nhưng vẫn phải kiên quyết thực hiện, nếu không thì việc sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước cũng chỉ là hình thức và không mang lại hiêụ quả thiết thực.
Cần thay thế những cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp yếu về trình độ năng lực quản lý điều hành, những cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp chỉ lo lợi ích cục bộ, vun vén cá nhân, xa hoa lãng phí của công. Mạnh dạn đề bạt giao trách nhiệm lãnh đạo doanh nghiệp cho những cán bộ có trình độ năng lực, năng động dám nghĩ dám làm biết lo lợi ích của Nhà nước tập thể và người lao động.
Kết luận
Nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước là một vấn đề lớn, phức tạp và khó khăn, là sự quan tâm của toàn đảng và toàn xã hội.
Nghiên cứu vấn đề nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh đối với các doanh nghiệp nhà nưóc trên địa bàn tỉnh Lai Châu càng chứng minh rõ ràng việc nâng cao hiệu quả luôn là vấn đề cần thiết trong mọi xã hội, với tất cả các doanh nghiệp Nhà nước trên địa bàn cả nước, và các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Doanh nghiệp hay bất kỳ một hệ thống tổ chức sản xuất kinh doanh nào muốn khẳng định sự tồn tại và phát triển của mình không có con đường nào khác là phải tự hoàn thiện tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Nằm trong tổng thể của một nền kinh tế thống nhất, bài toán doanh nghiệp Nhà nước không thể được giải quyết một cách độc lập, tách rời khỏi sự chuyển đổi chung của nền kinh tế. Do đó phải là quá trình gắn liền với sự chuyển đổi đồng bộ nền kinh tế thị trường. Hơn nữa xử lý doanh nghiệp Nhà nước còn liên quan trực tiếp đến con người, đến lợi ích của cán bộ lãnh đạo, quản lý và người lao động, đó là lĩnh vực rất nhạy cảm và tế nhị. Do đó tất cả các giải pháp phải nằm trong mối quan hệ biện chứng, ràng buộc lẫn nhau. Những giải pháp phải mang tính tổng thể, khái quát. Do vậy, khi vận dụng trong thực tiễn cần phải được nghiên cứu, vận dụng một cách đồng bộ, linh hoạt, đảm bảo phù hợp với những điều kiện chung của hệ thống và đặc điểm từng đơn vị thì hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp mới không ngừng được nâng cao./.
Danh mục tài liệu tham khảo
1./ PGS, PTS Đặng Đình Đào (chủ biên) - Kinh tế thương mại và dịch vụ, tổ chức và quản lý kinh doanh - Nhà xuất bản thống kê, năm 1997.
2./ GS, PTS Đỗ Hoàng Toàn (chủ biên) - Giáo trình lý thuyết quản lý kinh tế - Nhà xuất bản giáo dục, năm 1997.
3./ TS Nguyễn Văn Công (chủ biên) - Phân tích hoạt động kinh doanh - Nhà xuất bản giáo dục, năm 1998.
4./ PGS, TS Nguyễn Cảnh Hoan (chủ biên) - Một số vấn đề về quản trị kinh doanh/ Tập bài giảng - Nhà xuất bản chính trị quốc gia, năm 1996.
6./ TS Vũ Huy Từ - Doanh nghiệp Nhà nước theo cơ chế thị trường ở Việt Nam - Nhà xuất bản chính trị quốc gia , Hà nội 1994.
7./ Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VII, VIII - Đảng Cộng sản Việt Nam
8./ Luật doanh nghiệp Nhà nước.
9./ Luật doanh nghiệp tư nhân.
10./ Báo cáo của Ban đổi mới doanh nghiệp Trung ương về đổi mới doanh nghiệp Nhà nước, năm 1999.
11./ Văn kiện Đại hội Đại biểu đảng bộ tỉnh Lai Châu lần thứ IX.
12./ Báo cáo phương án tổng thể sắp xếp doanh nghiệp Nhà nước do Uỷ ban nhân dân tỉnh Lai Châu quản lý.
13./ Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết trung ương 4 (khoá VIII)
14./ Chỉ thị 500/TTg Thủ tướng chính phủ ngày 25/08/1995.
15./ Nghị định 388/HĐBT về việc thành lập lại doanh nghiệp Nhà nước.
16./ Tiết kiệm và hiệu quả trong kinh doanh hàng hoá thương mại và dịch vụ - Trung tâm thông tin thương mại, Hà nội 1994.
mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4602.doc