PHẦN PHỤ LỤC
1. LỜI MỞ ĐẦU
2. PHẦN NỘI DUNG 3
Chương I: Môi trường và ô nhiễm môi trường
1.1. Môi trường và môi trường sinh thái 3
1.2. Sự phát triển của các doanh nghiệp công nghiệp và các làng nghề ở Việt Nam 4
1.3. Mối quan hệ giữa phát triển công nghiệp với môitrường sinh thái .5
1.4. Tình trạng ô nhiễm môi trường hiện nay . .7
1.5. Phát triển bền vững là nỗ lực của toàn nhân loại trước nguy cơ diệt vong .11
Chương II: Thực trạng phát triển làng nghề sản xuất cao
ở Sóc Sơn - Hà Nội với hoạt động bảo vệ môi trường
2.1. Hoạt động khai thác và sản xuất cao lanh tại Sóc Sơn .13
2.2. Tình trạng ô nhiễm môi trường ở Sóc Sơn .16
2.3. Những thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra .19
Chương III: Một số giải pháp hạn chế ô nhiễm
3.1. Các biện pháp hạn chế tác động tiêu cực và thiệt hại tài
nguyên và môi trường trong hoạt động sản xuất cao lanh tại Sóc Sơn 21
3.2. Một số kiến nghị nhằm phát triển bền vững . 22
3. PHẦN KẾT LUẬN .26
30 trang |
Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 1957 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số vấn đề về phát triển công nghiệp với môi trường sinh thái (thực trạng tại làng nghề khai thác và sản xuất cao lanh ở Sóc Sơn - Hà Nội), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Chóng ta đều biết tác dụng to lớn, tích cực cũng nh vai trò động lực của công nghiệp hoá- hiện đại hoá đối với sự phát triển của xã hội loài người là hết sức quan trọng. Chỉ vài ba thế kỷ lại đây, nhờ có công nghiệp hóa- hiện đại hoá đã biến nhiều nước vốn lạc hậu, kém phát triển trở thành những nước phát triển cao. Các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ cùng với quá trình công nghiệp hoá đã làm biến đổi sâu sắc và triệt để tự nhiên- xã hội- con người. Thắng lợi to lớn đó đã làm cho con người tưởng rằng họ có thể hoàn toàn thống trị được tự nhiên. Do vậy, đã từ lâu con người tác động vào tự nhiên, khai thác tự nhiên không thương tiếc,sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên lãng phí, đó là nguyên nhân chính gây ra ô nhiễm môi trường sinh thái.
Đối với Việt Nam, trong quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể đưa nền kinh tế đất nước từ lạc hậu sang bước phát triển mới với cơ cấu ngành đa dạng. Trong đó nền công nghiệp Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng, nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất ra đời đang tạo chỗ dựa vững chắc cho nền kinh tế phát triển, đồng thời không thể không kể đến sự duy trì và phát triển của các làng nghề truyền thống. Hiện nay, nước ta có khoảng 1450 làng nghề đem lại doanh thu hàng nghìn tỷ đồng.Trong những năm đổi mới, với chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong cơ chế thị trường, các làng nghề truyền thống được khôi phục mạnh mẽ và phát triển lan toả thêm hàng trăm làng nghề mới.
Sự phát triển của các làng nghề truyền thống không chỉ đóng góp vào sự tăng trưởng của nền kinh tế mà còn có tác dụng giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người nông dân, làm thay đổi bộ mặt nông thôn…Tuy nhiên, nó cũng đã và đang thải ra môi trường khối lượng lớn chất thải, bụi khói…gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe cộng đồng, việc khai thác không hợp lý tài nguyên thiên nhiên tại các làng nghề gây tình trạng cạn kiệt tài nguyên, làm mất cảnh quan chung không chỉ tại chính địa phương…
Như vậy, vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay không chỉ là vấn đề mà Đảng và Nhà nước quan tâm mà là vấn đề của tất cả mọi người với phương châm lấy phòng ngừa và ngăn chặn làm nguyên tắc chủ đạo kết hợp với xử lý ô nhiễm, cải thiện môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên, mỗi chúng ta cần phải không ngừng bảo vệ và cải thiện môi trường nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống, đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước, đó cũng chính là bảo vệ và cải thiện cuộc sống của chính mình.
Thực tế hiện nay ở Sóc Sơn-Hà Nội, hoạt động khai thác,sản xuất cao lanh đang tiến hành trên qui mô lớn( hàng trăm nghìn tấn sản phẩm/năm), theo nhiều phương pháp (cơ giới, bán cơ giới,thủ công) đang gây ra tình trạng lãng phí tài nguyên và ô nhiễm môi trường khu vực đòi hỏi phải có nhiều giải pháp xử lý thích hợp và hiệu quả.
Do vậy,việc xây dựng và phát triển phải đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái, đó là lý do mà em thực hiện đề tài:
“Một số vấn đề về phát triển công nghiệp với môi trường sinh thái”
(thực trạng tại làng nghề khai thác và sản xuất cao lanh ở Sóc Sơn- Hà Nội)
Đây là vấn đề có tính chất chung mà hiện nay đang được các cấp, các ngành cũng nh các cá nhân quan tâm .
Bài viết này chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự giúp đỡ của thầy giáo để có thể hoàn thành tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.
PHẦN NỘI DUNG
Chương I:
Môi trường và ô nhiễm môi trường
1.1. Môi trường và môi trường sinh thái
1.1.1. Môi trường
Môi trường là một khái niệm rất rộng, được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau nhưng tất cả đều thống nhất theo định nghĩa sau:
Môi trường bao gồm các yếu tố vật chất nhân tạo, quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên.
Theo đó, ta thấy rằng môi trường bao gồm nhiều thành phần hợp thành, các thành phần Êy thường xuyên tác động lẫn nhau, quy định và phụ thuộc lẫn nhau làm cho hệ thống môi trường phát triển. Môi trường không phải là một hệ tĩnh mà luôn luôn thay đổi trong cấu trúc của nó, trong quan hệ tương tác giữa các phần tử cơ cấu và trong từng phần tử cơ cấu. Môi trường dù có quy mô thế nào thì nó cũng là hệ thống mở, tức là các dòng vật chất, năng lượng, thời gian liên tục “chảy” trong không gian và thời gian, vì thế, các vấn đề môi trường cần được giải quyết bằng nỗ lực của toàn thể cộng đồng. Đồng thời, môi trường có khả năng tự tổ chức và tự điều chỉnh , tức là chúng có khả năng tự tổ chức lại hoạt động của mình và tự điều chỉnh để thích ứng với những thay đổi bên ngoài theo qui luật tiến hoá nhằm hướng tới sự ổn định, nhờ có đặc tính này đã tạo mở hướng giải quyết căn bản, lâu dài cho các vấn đề môi trường cấp bách hiện nay (tạo khả năng tự phục hồi của các tài nguyên sinh vật đã suy kiệt…).
1.1.2. Môi trường sinh thái
Môi trường sinh thái được định nghĩa là hệ thống các quần thể sinh vật cùng sống và cùng phát triển trong một môi trường nhất định, có quan hệ tương tác với nhau và với môi trường đó.
Qua định nghĩa trên ta thấy được mối quan hệ chặt chẽ giữa con người và tự nhiên, đó là mối quan hệ song song cùng tồn tại và phát triển, không thể có sự phát triển tách rời giữa tự nhiên và con người.
1.1.3. Ô nhiễm môi trường
Ô nhiễm môi trường là sự làm thay đổi tính chất của môi trường bởi các chất gây ô nhiễm, trong đó chất gây ô nhiễm là những chất độc hại được thải ra trong sinh hoạt, trong quá trình sản xuất hay trong các hoạt dộng khác, chất thải có thể ở dạng rắn, lỏng, khí hoặc các dạng khác.
Ô nhiễm môi trường gây ảnh hưởng xấu cho đời sống của con người và thiên nhiên (thành phần của môi trường bao gồm không khí, đất, nước, âm thanh, ánh sáng, núi, rừng, sông, hồ, các khu dân cư, khu sản xuất, cảnh quan thiên nhiên, và các hình thái vật chất khác,…).
Ô nhiễm môi trường còn có thể dẫn đến suy thoái và những sự cố môi trường, đó là các tai biến hay rủi ro xảy ra như bão, lũ, hạn hán, cháy rừng, mưa axit, núi lửa phun trào, động đất,…gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới đời sống của con người.
1.2. Sự phát triển của các doanh nghiệp công nghiệp và các làng nghề ở Việt Nam
Các doanh nghiệp hay các làng nghề được hình thành đều nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh để sinh lời, tìm kiếm lợi nhuận. Chúng có vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, vừa là tế bào kinh tế vừa là tổ chức xã hội của đất nước, đồng thời đóng góp phần đáng kể vào thu nhập quốc dân.
Trong 5 năm gần đây, ngành công nghiệp nước ta đã có những bước tiến đáng kể nhờ có sự đổi mới các chính sách kinh tế, tốc độ tăng GDP trong ngành đạt hơn 13%, tỷ trọng các ngành công nghiệp trong GDP đang tăng (năm 1991 là19,8% lên 23,7% năm 1996, đến năm1999 đã là 29,1%…) và phấn đấu đến năm 2010 sẽ đạt tỷ trọng 35%.
Bên cạnh các ngành công nghiệp truyền thống ngày càng phát triển nhanh cả về qui mô, chất lượng, hiệu quả như dệt may,da giày, chế biến nông sản- thực phẩm…, đã hình thành một số ngành công nghiệp mới đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế như dầu khí, điện tử, cơ khí lắp ráp ôtô-xe máy…Kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp ngày càng tăng nhanh, chiếm khoảng 70% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất ra đời đã và đang tạo nên chỗ dựa vững chắc cho nền kinh tế. Hiện nay, nước ta đã có hàng trăm khu công nghiệp thu hút hàng nghìn dự án với tổng số vốn đầu tư đăng ký trên 10 tỷ USD, giải quyết việc làm cho hơn 100.000 người lao động, đóng góp đáng kể vào giá trị sản lượng công nghiệp và xuất khẩu.
Đồng thời không thể không nhắc đến sự đóng góp của các làng nghề vào sự phát triển chung của nền kinh tế quốc dân, nó đã góp phần cải tạo bộ mặt nông thôn Việt Nam, cải thiện đời sống cho người nông dân. Nước ta có khoảng 1450 làng nghề hàng năm đem lại doanh thu tới hàng nghìn tỷ đồng. Hiện nay, cùng với sự đổi mới của các chính sách kinh tế, các làng nghề đang phát triển mạnh mẽ.
Tuy nhiên, nhìn chung thực tế nền công nghiệp nước ta vẫn chỉ là một nền công nghiệp lạc hậu so với thế giới, vẫn còn là nền công nghiệp ở trình độ thấp, đa phần là qui mô vừa và nhỏ, công nghệ cũ, lạc hậu hoặc không đồng bộ…, hơn nữa nguồn vốn cho xử lý chất thải lại quá eo hẹp, đôi khi còn không được tính đến nên đã gây thiệt hại lớn về môi trường.
1.3. Mối quan hệ giữa phát triển công nghiệp với môi trường sinh thái
Kinh tế, xã hội và môi trường luôn ở trong mối quan hệ hữu cơ ràng buộc và thúc đẩy lẫn nhau. Tác động của môi trường tới quá trình phát triển kinh tế - xã hội là sự tác động hai chiều, vừa có tính tích cực cũng lại có tính tiêu cực. Nói cách khác, môi trường có những tác động thúc đẩy sự phát triển, song nó cũng gây ra những cản trở đối với quá trình phát triển. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa môi trường và phát triển kinh tế – xã hội là nhiệm vụ có tính sống còn của loài người. Tuỳ thuộc vào trình độ khoa học công nghệ và trình độ quản lý, ở mỗi thời kỳ, mỗi cộng đồng có những cách giải quyết mối quan hệ này khác nhau.
Trong mối quan hệ với kinh tế, môi trường đóng vai trò là nguồn cung cấp đầu vào cho quá trình sản xuất, phát triển (nhất là đối với ngành công nghiệp vì công nghiệp là ngành kinh tế chủ đạo, quyết định sự phát triển của các ngành khác cũng như của toàn bộ nền kinh tế ). Không có một quá trình sản xuất nào không đòi hỏi phải khai thác tài nguyên thiên nhiên, các thành phần môi trường. Ngay từ thời kỳ sơ khai con người đã nhận thức được mối quan hệ xuôi chiều này, con người đã sớm lệ thuộc vào tự nhiên vì khi đó, săn, bắt, hái lượm là nguồn thu nhập chính của con người. Đến thế kỷ 18, cuộc cách mạng công nghiệp đã biến công nghiệp trở thành một ngành phát triển rất nhanh về cả qui mô, phạm vi và tốc độ. Và hoạt động của ngành công nghiệp có những tác động mạnh mẽ nhất, làm biến đổi nhanh chóng môi trường thiên nhiên nhất. Các quá trình công nghiệp tạo ra những vòng tuần hoàn, chu chuyển mới của vật chất trong hệ thống “sản xuất công nghiệp – môi trường ” như sau:
Môi trường Sản xuất công nghiệp Chất thải công nghiệp
Sản phẩm có Ých
Quá trình tiêu dùng
Chất thải
Tốc độ sử dụng và khai thác tài nguyên động thực vật dùng cho chế biến công nghiệp nhanh hơn rất nhiều lần khả năng tự tái sinh của chúng, tốc độ khai thác tài nguyên khoáng sản của ngành công nghiệp khai thác cũng nhanh không kém và tốc độ này tăng không ngừng trong những năm gần đây. Nhìn chung hầu hết các ngành công nghiệp đều sử dụng lãng phí nguồn tài nguyên thiên nhiên. Tuy nhiên nguồn cung cấp này có giới hạn, không phải là vô hạn như người ta vẫn tưởng. Do đó, yêu cầu đặt ra là vấn đề khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Trong mối quan hệ với các hiện tượng xã hội, môi trường lại chịu sự chi phối, sự tác động mạnh mẽ bởi các hiện tượng này như vấn đề gia tăng dân số đã gây áp lực rất lớn với môi trường do các nhu cầu tiêu dùng tăng quá nhanh cộng với lối sống thiếu tính ổn định của tầng lớp giàu có cũng gây sức Ðp nhất định; nạn nghèo đói, thất nghiệp, trình độ dân trí thấp … cũng là những vấn đề đe dọa đối với môi trường.
Nh vậy, môi trường có vai trò hết sức quan trọng trong cuộc sống con người. Phát triển kinh tế không những gây ra những tác động trực tiếp tới môi trường mà còn có thể gây ra tác động gián tiếp do các hiện tượng xã hội phát sinh trong quá trình phát triển. Vì vậy, công tác bảo vệ môi trường luôn phải tiến hành song song với những hoạt động kinh tế - xã hội,tức là vấn đề về môi trường phải là vấn đề được đưa ra ngay khi bắt đầu lập kế hoạch của quá trình sản xuất.
1.4.Tình trạng ô nhiễm môi trường hiện nay
Ngày nay, các vấn đề về môi trường như ô nhiễm không khí, ô nhiễm nguồn nước, hiệu ứng nhà kính, mưa axit, lỗ thủng tầng ôzôn…không còn là vấn đề mới mẻ trên trái đất của chúng ta, chúng được đề cập thường xuyên hơn trên các phương tiện thông tin đại chúng, dù vậy chúng không những chưa được giải quyết mà còn có xu hướng gia tăng mạnh.
1.4.1.Một vài đánh giá chung về tình trạng ô nhiễm môi trường
Trong gần 20 năm nay, tầng ôzôn của trái đất có nhiều biến đổi, theo báo cáo của Tổ chức Khí tượng thế giới cho biết tầng ôzôn đã giảm tới mức thấp nhất trong 100 năm qua. Dự báo đến năm 2075 tầng ôzôn của khí quyển sẽ giảm xuống 40% so với năm 1985, do đó số người mắc bệnh ung thư da sẽ là 150 triệu người, đục thuỷ tinh thể sẽ là 18 triệu người, sản lượng mùa màng giảm 7,5%, tài nguên thuỷ sản tổn thất 25%, khả năng miễn dịch của cơ thể con người sẽ bị suy giảm nhiều. Nếu cứ tiếp tục nh vậy thì không bao lâu sau con người cũng nh các loài sinh vật khác đều sẽ bị huỷ diệt.
Nước của các biển và đại dương luôn bị ô nhiễm bởi các chất phế thải từ trên bờ, các đại dương đang dần trở thành “thùng rác” của trái đất.
Rác thải đang là một tai họa lớn của nhân loại trong thế giới hiện đại, rác thải tràn ngập khắp các lục địa, các đại dương và bầu trời của trái đất. Rác thải chủ yếu từ sinh hoạt, từ sản xuất đã trở thành vấn đề của nhiều nước. Hiện nay, mỗi năm trên thế giới có khoảng 2 tỷ tấn rác thải công nghiệp, trong đó có khoảng 500 triệu tấn có chất độc hại. Vấn đề về rác thải đang được liệt vào một trong mười vấn đề lớn nhất về môi trường.
Trên trái đất có hằng hà sa số các loại sinh vật gọi là tính đa dạng sinh học. Tuy nhiên, tính đa dạng bao gồm cả loài người Êy đang bị tổn thương nghiêm trọng: tính đến cuối thế kỷ này, toàn cầu sẽ có khoảng 100 loài sinh vật bị tuyệt chủng, đã có 75% giống cây trồng bị tuyệt chủng, trong 4500 loài gia súc và gia cầm có 1/3 đang có nguy cơ tuyệt chủng…Dự báo hai đến ba năm tới sẽ có khoảng 1/ 4 sinh vật trên trái đất lâm vào cảnh tuyệt chủng, đến năm 2050 tỷ lệ Êy có thể là 1/ 2, như vậy có nghĩa là mỗi ngày có khoảng 15 –150 loài biến mất.
Rừng nuôi dưỡng nhân loại và được coi là “lá phổi siêu cấp của thiên nhiên”, có thể nói không có rừng thì không thể có ngày nay của nhân loại. Thế nhưng ngày nay tài nguyên rừng đang ngày càng cạn kiệt, ở thời kỳ đầu văn minh của con người diện tích rừng khoảng 8 tỷ ha, đến thế kỷ 19 chỉ còn 5,5 tỷ ha, cuối thế kỷ 20 thì chỉ còn 2,6 tỷ ha, như vậy, cứ mỗi năm giảm đi 11 –15 triệu ha.
Nói riêng ở Việt Nam, rừng đang bị phá hoại nghiêm trọng và ngày nay cũng bị giảm sút nghiêm trọng, rừng nguyên thuỷ nước ta ban đầu có diện tích gần bằng diện tích cả nước giờ chỉ còn lại 66432 km2, độ che phủ từ 48% tổng diện tích cả nước chỉ còn 20% trong năm 1990, nói chung mỗi năm rừng Việt Nam bị mất khoảng 200.000 ha.
1.4.2. Tình trạng ô nhiễm môi trường do sản xuất công nghiệp
Quy mô sản xuất công nghiệp ngày càng mở rộng và tăng với tốc độ rất nhanh ( hàng loạt các ngành công nghiệp mới ra đời, số lượng các doanh nghiệp công nghiệp xuất hiện ngày càng tăng…) đã khai thác và sử dụng tài nguyên với khối lượng ngày càng lớn làm cho nguồn tài nguyên trở nên bị cạn kiệt.
Công nghiệp chế biến gỗ đã làm giảm tài nguyên rừng nghiêm trọng, diện tích rừng không ngừng bị thu hẹp, riêng ở nước ta diện tích rừng hiện nay chỉ còn trên 10%, theo ước tính hàng năm khai thác phá huỷ 60-200 ngàn ha…Công nghiệp chế biến với công nghệ hiện đại sử dụng nguồn tài nguyên còn lãng phí rất nhiều. Lượng chất thải lớn được thải ra từ công nghiệp trở lại môi trường dưới các dạng lý, hoá tính khác nhau. Những năm gần đây với công nghệ hiện đại, hoạt động sản xuất của con người thải vào không khí 110 triệu tấn SO2 ,69 triệu tấn NO2, 2 triệu tấn chì, 11000 tấn thuỷ ngân… Ở nước ta, sản xuất công nghiệp cũng đã thải ra một khối lượng lớn chất thải làm tăng dần ô nhiễm môi trường sinh thái ( khu công nghiệp Việt Trì hàng năm lượng nước thải từ các nhà máy lên tới 35 triệu m3 trong đó có chứa khoảng 100 tấn H2SO4, 4000 tấn HCl,…).
Công nghiệp khai thác tài nguyên khoáng sản phát triển nhanh đáp ứng nhu cầu trực tiếp của công nghiệp chế biến, vì thế đã góp phần làm giảm nguồn tài nguyên thiên nhiên một lượng đáng kể.
Ở các khu công nghiệp của Việt Nam thường tiêu thụ và thải ra một lượng lớn nước rất lớn có mức ô nhiễm cao, đến nay hầu như đều chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung hoàn chỉnhvà vận hành theo qui trình, mới chỉ có 5 khu công nghiệp có trạm xử lý nước thải tập trung là Loteco, Vedan ( Đồng Nai ), khu công nghiệp Việt Nam – Singapor (Bình Dương ), khu công nghiệp Nomura (Hải Phòng), khu công nghiệp Nội Bài ( Hà Nội ). Vì thế lượng nước thải ô nhiễm thải ra môi trường ngày càng tăng, theo tính toán hiện tại các khu công nghiệp trọng điểm phía Nam hàng ngày thải vào sông Sài Gòn, Đồng Nai khoảng 130.000 m3 nước thải trong đó có khoảng 23,2 tấn cặn lơ lửng, 7,5 tấn nitro, 1 tấn photpho và nhiều kim loại nặng…
Đo đạc thực tế tại một số khu công nghiệp cho thấy đã có một số khu bị ô nhiễm khí SO2 như các khu Thượng Đình (Hà Nội ), dệt Nam Định có nồng độ SO2 vượt tiêu chuẩn cho phép 3- 4 lần, một số khu công nghiệp thải nhiều khí SO2 gây hiện tượng lắng đọng axit cục bộ, làm môi trường đất xung quanh bị axít hoá.
Tuy nhiên, tình trạng ô nhiễm môi trường cũng thường xảy ra ở các cơ sởan xuất qui mô vừa và nhỏ do không được đầu tư nhiều, công nghệ còn lạc hậu, chưa chú trọng đến vấn đề xử lý ô nhiễm.
Ở Bắc Ninh hiện nay có khoảng 158 làng nghề truyền thống đang trong tình trạng báo động về ô nhiễm môi trường, trong đó có nhiều làng nghề nổi tiếng như làng mộc Đồng Kỵ ( Đồng Quang – Từ Sơn), làng tranh Đông Hồ, làng giấy Phong Khê…, các làng nghề đã khôi phục và phát triển góp phần nâng cao đời sống nhân dân, song nó cũng góp phần không nhỏ vào vịêc làm ô nhiễm môi trường. Một trong những làng nghề có nguồn nước thải khá lớn là làng giấy Phong Khê (Yên Phong) và khu vực sản xuất giấy Phúc Lâm (Tiên Du) với hơn 50 xí nghiệp và trên 70 phân xưởng sản xuất đã tạo ra 1200 – 1500 m3 nước thải; làng nghề Đa Hội, nơi có hơn 200 hộ sản xuất chuyên nghề sắt với qui mô xí nghiệp và hàng ngàn hộ sản xuất thủ công với qui mô nhỏ mỗi ngày đã thaỉi ra môi trường 2,5 – 3,5 tấn gỉ sắt cùng với 3500 – 4000 m3 nước thải…; vấn đề về ô nhiễm không khí phải kể đến làng nghề đúc nhôm ở Văn Môn ( Yên Phong), ở đâycó 80 hộ đúc thường xuyên, thời gian cao điểm lên tới 120 hộ với sản lượng 10 – 12 tấn một ngày, tuy không lớn nhưng khí thải và bụi lơ lửng đã phát tán khắp nơi làm cho bầu không khí ở khu vực này và các khu vực xung quanh bị ô nhiễm nặng…
Việc ô nhiễm môi trường làng nghề đã gây ra không Ýt bệnh tật cho những người sống trong các làng nghề đó. Tại các làng nghề ở Bắc Ninh, Nam Định, Hưng Yên trong 6 tháng đầu năm 2002 có gần 70 ca tai nạn lao động trong đó chủ yếu là bỏng và chấn thương chân tay, tại làng nghề Phong Khê (Bắc Ninh) hiện nay có khoảng 57% người dân bị các bệnh về đường hô hấp, khoảng 16% người dân mắc các bệnh ngoài da, 15,6% mắc bệnh đau đầu mất ngủ…, tại làng nghề Bát Tràng hiện nay có khoảng 65% người dân mắc các bệnh về hô hấp như xoang, viêm họng, viêm mũi…
Làng nghề ô nhiễm không còn là vấn đề của riêng khu vực nào mà đã trở thành tình trạng chung của cả nước vì trên thực tế do hạn chế về vốn và kỹ thuật nên ở đây chưa đặt vấn đễ xây dựng các dự án xử lý chất thải, khói bụi…vì thế tình trạng ô nhiễm là phổ biến.
Vậy chóng ta phải có hướng phát triển mới nh thế nào để có thể phát triển mà hạn chế những thiệt hại về môi trường, đây đang là vấn đề cấp bách cần giải quyết. Hiện nay, vấn đề phát triển bền vững ngày càng được quan tâm đúng mức?
1.5.Phát triển bền vững là nỗ lực của toàn nhân loại trước nguy cơ diệt vong
Đây không còn là khái niệm hoàn toàn mới mẻ, nó phản ánh xu thế của thời đại và định hướng tương lai của loài người. Phát triển bền vững được định nghĩa là sự phát triển lành mạnh, trong đó sự phát triển của cá nhân hay cộng đồng này không làm thiệt hại đến lợi Ých của cá nhân hay cộng đồng khác, sự phát triển của thế hệ hôm nay không làm thiệt hại đến lợi Ých của thế hệ sau, sự phát triển của loài người không đe dọa hay làm giảm nơi sinh sống của các loài khác trên hành tinh (các loài cộng sinh). Bởi vì sự sống còn của con người là dựa trên cơ sở khai thác tiềm năng của các loài khác, dựa trên cơ sở duy trì dược sản lượng, năng suất tự nhiên, khả năng phục hồi và sự đa dạngcủa sinh quyển. Một xã hội phát triển bền vững không sử dụng các nguồn tài nguyên không tái tạo (khoáng sản, nhiên liệu hoá thạch) nhanh hơn quá trình tìm ra những loại thay thế chúng và không thải ra môi trường những chất độc hại nhanh hơn quá trình trái đất hấp thụ và vô hiệu hoá chúng.
Phát triển bền vững vừa đáp ứng nhu cầu hiện tại vừa không xâm phạm đến lợi Ých của thế hệ tương lai. Tuy nhiên, phát triển bền vững là bài toán cực khó không thể giải quyết triệt để được, song đây là phương pháp lành mạnh nhất, có giá trị nhất. Đòi hỏi phải tìm ra cách giải hợp lý nhất.
Ở Việt Nam, chóng ta đã ý thức được những nguy cơ và thách thức đòi hỏi phát triển bền vững, vấn đề này đã được đề cập đến như một yêu cầu quan trọng trogn hoạch định và tổ chức thực hiện các chiến lược, các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở tất cả các cấp, các lĩnh vực. Đại hội Đảng khoá IX đã đề ra chiến lược phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2001- 2010: “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tể đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường” - đặt bảo vệ môi trường ngang hàng với các nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của đất nước đã thể hiện ý chí quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc kiến tạo một đất nước Việt Nam trong lành và bền vững trong tương lai.
Tuy vậy, phạm vi phát triển bền vững vẫn còn chưa được hiểu một cách thấu đáo nhất. Mặc dù chúng ta đã có nhiều nỗ lực từng bước cải thiện chất lượng môi trường song công tác này vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của quá trình phát triển kinh tế- xã hội trong giai đoạn mới. Nhìn chung môi trường nước ta vẫn tiếp tục bị ô nhiễm và suy thoái, có nơi nghiêm trọng, ý thức tự giác bảo vệ, giữ gìn môi trường công cộng chưa trở thành thói quen trong cách sống của đại bộ phận dân cư.
Chương II
Thực trạng phát triển làng nghề
sản xuất cao lanh ở Sóc Sơn – Hà Nội
với hoạt động bảo vệ môi trường
2.1. Hoạt động khai thác và sản xuất cao lanh tại Sóc Sơn – Hà Nội
Sóc Sơn là vùng nguyên liệu khoáng sản cao lanh quan trọng của Hà Nội cà các tỉnh vùng đồng bằng Bắc Bộ. Vùng khoáng sản cao lanh Sóc Sơn được phát hiện từ những năm 70. Năm 1984, Viện Địa chất Khoáng sản phát hiện và thăm dò hai điểm cao lanh trên cánh đồng trồng lúa thuộc hai xã Phù Linh và Nam Sơn; năm 1986, đoàn Địa chất Hà Nội đã phát hiện và thăm dò bổ sung một số điểm cao lanh phong tại Đồi Mã, xã Phù Linh; năm 1994, các nhà địa chất trường Đại học Tổng hợp Hà Nội phát hịên và thăm dò được một số điểm cao lanh khác tại các xã Minh phó, Minh Trí và Bắc Sơn.
Năm 1985 cùng với sự thành lập của xí nghiệp Cao lanh sứ gốm Sóc Sơn, hoạt động khai thác bắt đầu có qui mô hơn. Hiện nay, quy mô khai thác ngày càng được mở rộng với qui mô ngày càng lớn, địa điểm khai thác ban đầu của xí nghiệp là các quặng cao lanh trầm tích do Viện Địa chất Khoáng sản thăm dò, sau đó từ năm 1987 đến năm 1996 tập trung chủ yếu ở Đồi Mã. Do nhu cầu thị trường, đến năm 1997, dân cư địa phương bắt đầu khai thác mạnh ở xã Minh Phú và Minh Trí. Ban đầu thị trường tiêu thụ chủ yếu của cao lanh Sóc Sơn là làng gốm sứ Bát Tràng, tiếp theo là các nhà máy sứ và gốm xây dựng vùng đồng bằng Bắc bộ. Tính riêng năm 2001 sản lượng tiêu thụ các loại sản phẩm cao lanh của xí nghiệp Cao lanh Gốm sứ Sóc Sơn đã đạt 140.000 tấn, diện tích các trường khai thác cao lanh Sóc Sơn hiện chiếm khoảng 10 – 15% diện tích phân bố cao lanh.
2.1.1. Về diện tích khai thác :
Theo thống kê về diện tích các khai trường khai thác cao lanh và sét cao lanh ta có những số liệu chứng tỏ rõ hơn về dấu hiệu lãng phí trong quá trình khai thác tại địa bàn Sóc Sơn:
Tại xã Phù Linh có hai địa điểm khai thác là Đồi Mã và cánh đồng Vệ Linh thì tổng diện tích các trường khai thác là 7,5 ha, trong đó gồm có ba đơn vị khai thác là xí nghiệp Cao lanh sứ gốm Sóc Sơn tại xã Đồi Mã với diện tích 1,5 ha (tuy nhiên hiện nay moong khai thác đã ngừng hoạt động và trở thành ao chứa nước sinh hoạt của dân địa phương ), tại cánh đồng Vệ Linh với diện tích 3 ha ( hiện nay moong khai thác đang hoạt động cùng với các phương tiện cơ giới), xí nghiệp Gốm xây dựng Hồng Hà có địa điểm khai thác tại cánh đồng Vệ Linh với diện tích 3 ha (moong khai thác mới bắt đầu hoạt động năm 2001 và hiện nay vẫn đang hoạt động bình thường).
Tại xã Minh Phú có địa điểm khai thác là đồi Phúc Thịnh đang được khai thác theo mùa vụ do dân cư địa phương khai thác trên diện tích khai trường là 10 ha.
Tại xã Minh Trí có địa điểm khai thác là đồi Đồng Đò hiện nay vẫn do dân cư địa phương tổ chức khai thác tự phát theo mùa vụ trên diện tích trường khai thác là 8 ha.
Tại xã Phù Lỗ có địa điểm khai thác là Thái Phù với diện tích trường khai thác là 1,5 ha do xí nghiệp Cao lanh Gốm sứ Sóc Sơn khai thác, hiện nay moong khai thác đang hoạt động bình thường.
Như vậy diện tích trường khai thác của các đơn vị khai thác cao lanh Sóc Sơn hiện nay khá lớn so với diện tích cao lanh có tại địa bàn và có sự khai thác lãng phí không có sự quản lý, qui hoạch của địa phương do khai thác tự phát của người dân địa phương… chỉ vì lợi Ých trước mắt, hơn nữa diện tích trường sau khai thác không được san lấp, lại sử dụng cho mục đích chứa nước sinh hoạt, đó là nguồn nước bị ô nhiễm.
2.1.2.Về công nghệ - kỹ thuật khai thác và sản xuất
Đa sè khai thác vẫn ở dạng manh mún tự phát, không có khả năng sử dụng các thiết bị kỹ thuật – công nghiệp hiện đại để kiểm soát và hạn chế sự phát thải của loại tác nhân gây ô nhiễm môi trường xung quanh.Do nguồn vốn bị hạn chế nên thiếu các biện pháp xử lý chất thải cũng như thiếu các công nghệ hiện đại để có thể sử dụng tiết kiệm nguồn tài nguyên cao lanh, từ đó hạn chế chất thải ra môi trường giảm bớt ô nhiễm. Thể hiện:
Ở các khai trường khai thác cao lanh, việc đào xúc và vận chuyển quặng từ dưới moong sâu lên mặt đất bằng lao động thủ công do đó năng suất không cao, lại dễ gây lãng phí trong quá trình vận chuyển, dẫn đến sử dụng lãng phí tài nguyên.
Kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ, kém phát triển: các khu chế biến trong các xí nghiệp không được xây dựng đồng bộ mà đa số là mới tăng thêm một vài khu trong thời gian gần đây khi nhu cầu về sản xuất sản phẩm cao lanh tăng lên, như vậy dù qui mô có tăng thêm nhưng cũng vẫn chỉ là do chắp vá nên hiệu suất không cao. Cơ sở chế biến kỹ thuật lạc hậu, chưa có máy móc thiết bị hiện đại nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất mới (vừa tăng năng suất vừa tiết kiệm nguyên liệu lại vừa giữ gìn môi trường hạn chế ô nhiễm ). Vì vậy sẽ gây ra tình trạng sử dụng lãng phí nguyên liệu, gián tiếp làm tăng lượng chất thải.
Đường vào các trường khai thác chưa thuận lợi vẫn chỉ là đường đất không bằng phẳng, sẽ gây khó khăn rất nhiều khi gặp thời tiết không thuận lợi ( trời mưa thì đường trơn và lầy lội, trời nắng thì bụi vô cùng đều làm giảm hiệu suất của quá trình sản xuất ) vì quá trình vận chuyển nguyên liệu bị hạn chế ảnh hưởng đến quá trình sản xuất ra sản phẩm.
Việc quy hoạch các khai trường khai thác, san lấp phục hồi cảnh quan chưa được thực hiện. Các khai trường khai thác không được qui hoạch lại, hầu hết các đơn vị khai thác đều khai thác tất cả những nơi họ có thể khai thác với tất cả các phương tiện có thể khai thác, còn nhiều cơ sở khai thác tự phát do dân cư địa phương khai thác vì nhìn thấy những lợi Ých trước mắt. Sau khi khai thác xong không có giai đoạn san lấp mặt bằng nên để lại những hố sâu, một số địa điểm trở thành những ao chứa nước sinh hoạt của người dân địa phương. Những ao nước này đều bị ô nhiễm nặng với nồng độ các chất độc ở mức cao nh sắt, nitro, photpho…
Trong các xí nghiệp sản xuất cao lanh, hầu như không có công nghệ xử lý chất thải mà chỉ thải trực tiếp ra môi trường xung quanh (khói bụi, nước thải, khí độc hại… ), vì thế gây ra những thiệt hại cho môi trường là điều không tránh khỏi.
Không những hạn chế các điều kịên về vật chất như trên mà hiện nay ở làng nghề Sóc Sơn ta còn thấy rằng việc sử dụng tài nguyên cao lanh và sét cao lanh lãng phí là tình trạng chung của nhiều cơ sở khai thác và chế biến trên địa bàn.
2.2.Tình trạng ô nhiễm môi trường tại Sóc Sơn
Nguồn ô nhiễm chủ yếu do hoạt động khai thác và chế biến cao lanh và sét cao lanh gây ra đã được tính toán theo công thức sau: (những thiệt hại với tài nguyên môi trường do quá trình khai thác và chế biến cao lanh và sét cao lanh - tính bằng tiền)
C = Ccq + Cđ + Côkk + Cks + Côn + Ctr + Cyt
Trong đó:
C : tổng thiệt hại về tài nguyên và môi trường
Ccq : thiệt hại về cảnh quan mà doanh nghiệp phải trả để hoàn thổ khai trường khai thác (san lấp mặt bằng )
Cđ : chi phí đền bù đất đai và hoa màu cho chủ sử dụng
Côkk: chi phí khắc phục ô nhiễm không khí
Cks : tổn thất tài nguyên khoáng sản ( tiền thuế tài nguyên khoáng sản của số lượng cao lanh còn lại ở các moong sau khi khai thác kết thúc )
Côn : chi phí xử lý và khắc phục ô nhiễm nguồn nước
Ctr : chi phí khắc phục ô nhiễm chất thải rắn
Cyt : tiền bảo hiểm y tế của công nhân và chi phí khám chữa bệnh của công nhân, dân cư phát sinh từ tình trạng ô nhiễm môi trường khu vực
Nhìn chung tình trạng ô nhiễm ở Sóc Sơn khá nghiêm trọng .
2.2.1. Xem xét nồng độ bụi và khí độc ở khu vực khai thác và chế biến cao lanh ta thấy đều cao hơn nhiều so với tiêu chuẩn cho phép
Tại sân công nghiệp xí nghiệp cao lanh sứ gốm Sóc Sơn: nồng độ bụi là 0,92 mg/m3, nồng độ khí SO2 là 0,3 mg/m3, nồng độ khí NO2 là 0,04 mg/m3, nồng độ khí CO là 0,02 mg/m3.
Trong xưởng gần lò sấy và máy nghiền bột cao lanh: nồng độ bụi là 3,51 mg/m3, nồng độ khí SO2 là 0,42 mg/m3, nồng độ NO2 là 0,1 mg/ m3, nồng độ khí CO là 0,05 mg/m3.
Sân xí nghiệp môi trường thị trấn Sóc Sơn: nồng độ của bụi là 0,43 mg/m3, nồng độ khí SO2 là 0,22 mg/m3, nồng độ khí NO2 là 0,08 mg/m3, nồng độ khí CO là 0,01 mg/m3.
Moong khai thác Phú Thịnh: nồng độ bụi là 0,35 mg/m3, nồng độ khí SO2 là 0,15 mg/m3, nồng độ khí NO2 là 0,06 mg/m3, nồng độ của khí CO là 0,01 mg/m3.
Trên đường 35 tại lối rẽ vào moong khai thác Phú Thịnh: nồng độ bụi là 0,49 mg/m3, nồng độ khí SO2 là 0,67 mg/m3, nồng độ NO2 là 0,11 mg/m3, nồng độ khí CO là 0,06 mg/m3.
Nhìn chung nồng độ bụi và các chất khí độc tại khu vực khai thác và chế biến cao lanh đều bị ô nhiễm ở mức khá nghiêm trọng (nồng độ bụi cao hơn mức tiêu chuẩn từ 1,5 – 4 lần, nồng độ các khí thải cũng đều cao hơn mức tiêu chuẩn từ 1,6 – 5 lần ) cần có những biện pháp xử lý thích hợp.
2.2.2.Thành phần và nồng độ các chất ô nhiễm chính trong nước tại các khu vực khai thác và chế biến cao lanh
Nước moong đã ngừng khai thác cao lanh trên Đồi Mã có nồng độ PH là 5,5 – 5,7, hàm lượng sắt (Fe) là 0,002 mg/l, hàm lượng amoniac (NH4+) là 1,96 mg/l, nồng độ nitrorat (NO3-) là 1,066 mg/l, nồng độ photphat (PO43-) là 2,12 mg/l.
Nước moong đang khai thác cao lanh đồi Phú Thịnh, Minh Phú có nồng độ PH là 4,1 –4,4, hàm lượng sắt là 0,05 mg/l, hàm lượng amoniac là 1,79 mg/l, nồng độ nitrorat là 1,03 mg/l, nồng độ photphat là 0,98 mg/l.
Nước giếng khơi nhà bác Hiệu nằm cạnh moong khai thác cao lanh trên đồi Phú Thịnh, Minh Phú có nồng độ PH là 4,5, hàm lượng của sắt là 0,028 mg/l, hàm lượng amoniac là 1,83 mg/l, nồng độ nitrorat là 0,908 mg/l, nồng độ photphat là 0,862 mg/l.
Nước moong đang khai thác sét cao lanh Thái Phù, Phù Lỗ có nồng độ PH là 6,3, hàm lượng sắt là 0,025 mg/l, hàm lượng amoniac là 3,51 mg/l, nồng độ nitrorat là 4,52 mg/l, nồng độ photphat là 2,79 mg/l, như vậy nồng độ các chất độc ở địa điểm này rất cao so với nồng độ tiêu chuẩn cho phép.
Nước ao chứa nước thải từ xưởng tuyển cao lanh xí nghiệp Cao lanh Gốm sứ Sóc Sơn có nồng độ PH là 6,1, hàm lượng sắt là 0,023 mg/l, hàm lượng amoniac là 1,85 mg/l, nồng độ nitrorat là 4,05 mg/l, nồng độ photphat là 2,74 mg/l, như vậy nồng độ các chất độc ở địa điểm này cũng là cao so với nồng độ tiêu chuẩn cho phép.
Nước giếng khoan xí nghiệp Cao lanh Gốm sứ Sóc Sơn có nồng độ PH là 6,4, hàm lượng sắt là 0,01 mg/l, hàm lượng amoniac là 2,26 mg/l, nồng độ nitrorat là 1,09 mg/l, nồng độ photphat là 1,18 mg/l.
Nhìn chung hiện nay nước ở khu vực khai thác và chế biến cao lanh và sét cao lanh ở đây đang bị ô nhiễm nghiêm trọng.
Hơn nữa, nơi đây số người tiếp xúc với bụi, nóng, hoá chất…chiếm khoảng trên 70% (số người tiếp xúc với bụi khoảng 95,5%, số người tiếp xúc với nóng khoảng 86%, với hoá chất khoảng 60%), việc cấp trang thiết bị phòng hộ lao động cá nhân còn kém va gần như 100% không được tập huấn về an toàn lao động, không được phổ biến về các kiến thức về pháp luật, đặc biệt là Luật Lao động, Luật Bảo vệ sức khoẻ nhân dân, Luật Bảo vệ môi trường nên thực trạng ô nhiễm là không tránh khỏi. Đa số người lao động không được khám tuyển sức khoẻ định kỳ, bệnh tật chủ yếu của những người lao động là đau lưng, đau cột sống, viêm phế quản, dị ứng ngoài da và đau mắt…Hiện nay việc sử dụng công cụ thủ công là phổ biến đa số các làng nghề và làng nghề Sóc Sơn không nằm ngoài đa số Êy do qui mô sản xuất nhỏ, chủ yếu vẫn còn hoạt động tự phát, thiếu tổ chức, do đó môi trường làm việc ở đây đáng lo ngại vì phải tiếp xúc trực tiếp với nguyên vật liệu, các cơ sở sản xuất lại rất Ýt quan tâm đến vấn đề xử lý ô nhiễm, vì vậy nguy cơ mắc bệnh là rất cao.
2.3. Những thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra
Ta biết được rằng những thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra thật khó có thể tính toán chính xác được nhưng nếu theo công thức đã nêu trên thì những thiệt hại có thể được xem xét là:
Thiệt hại về cảnh quan được tính là khoảng 3200 đồng/ tấn cao lanh khai thác, khoảng 2500 đồng/ tấn sét cao lanh được khai thác.
Thiệt hại về ô nhiễm không khí là 7500 đồng/ tấn cao lanh khai thác, khoảng 7500 đồng/ tấn sét cao lanh khai thác .
Thiệt hại về ô nhiễm nguồn nước khoảng 1500 đồng/tấn cao lanh khai thác, khoảng 500 đồng/ tấn sét cao lanh khai thác .
Thiệt hại về ô nhiễm do chất thải rắn là 2000 đồng/tấn cao lanh khai thác, khoảng 3000 đồng/ tấn sét cao lanh khai thác.
Thiệt hại về tài nguyên khoáng sản khoảng 5000 đồng/ tấn cao lanh khai thác, khoảng 2000 đồng/ tấn sét cao lanh khai thác.
Thiệt hại về tài nguyên đất và hoa màu khoảng 2000 đồng/m3 cao lanh khai thác, khoảng 28.000 đồng/tấn sét cao lanh khai thác.
Thiệt hại về cơ sở hạ tầng là 5000 đồng/tấn cao lanh khai thác, khoảng 8500 đồng/ tấn sét cao lanh khai thác .
Thiệt hại về chi phí y tế là 7100 đồng/tấn cao lanh khai thác, khoảng 7100 đồng/ tấn sét cao lanh khai thác.
Vậy ô nhiễm môi trường ở khu vực gây ra những thiệt hại về cảnh quan, về nguồn nước, về không khí ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ của người dân nơi đây, gây ra những thiệt hại về đất đai làm ảnh hưởng đến năng suất cây trồng không chỉ trong hiện tại mà còn ảnh hưởng đến tương lai phát triển cây trồng ở Sóc Sơn và các khu vực lân cận. Vấn đề này đặt ra những giải pháp cấp bách nhằm hạn chế những thiệt hại đó và bảo vệ môi trường trong tương lai.
Chương III
Một số giải pháp hạn chế
ô nhiễm môi trường
3.1. Các biện pháp hạn chế tác động tiêu cực và thiệt hại tài nguyên và môi trường trong hoạt động sản xuất cao lanh tại Sóc Sơn
Hiện trạng ô nhiễm ở Sóc Sơn đã được làm rõ nh ta đã thấy cùng với những thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra, vậy những biện pháp nào cần được áp dụng để giảm thiểu thiệt hại và hạn chế tối đa ô nhiễm môi trường ở đây.
Trước hết phải tìm cách gia tăng hiệu suất khai thác tài nguyên khoáng sản cao lanh để giảm thiệt hại do tổn thất tài nguyên trong quá trình khai thác (bước đầu hãy cơ giới hoá việc khai thác và vận chuyển quặng từ các moong sâu lên mặt đất), đồng thời phải có biện pháp tăng quy mô chế biến và sử dụng cao lanh và sét cao lanh, do đó phải đầu tư công nghệ mới để khai thác và công nghệ mới để sản xuất, từ đó hạn chế việc khai thác và sản xuất thủ công, góp phần tránh lãng phí tài nguyên, gia tăng giá trị sản phẩm va giảm thiệt hại về tài nguyên và môi trường.
Đầu tư xử lý nước thải tại các moong khai thác cao lanh và nước thải tuyển cao lanh, ô nhiễm bụi trong xưởng sản xuất cao lanh để giảm tác động đối với môi trường và sức khỏe con người bằng các công nghệ xử lý nước thải và chất thải tiên tiến nhất có thể, việc này sẽ góp phần làm giảm các bệnh về phổi và khí quản đối với công nhân sản xuất trực tiếp và ngay cả đối với những người dân địa phương. Tại các moong khai thác cao lanh quy mô lớn, sau khi trung hoà bằng vôi có thể sử dụng làm nơi nuôi cá và chăn thả gia cầm, chi phí để trung hoà nước thải thấp nên có thể thử nghiệm và thực hiện được ở những nơi đã khai thác xong như một số khai trường ở Minh Phó.
Qui hoạch lại các khai trường khai thác và qui hoạch quản lý, san lấp phục hồi cảnh quan và tài nguyên đất khai trường sau khi kết thúc khai thác. Qui hoạch gia tăng tỷ trọng đầu tư kinh phí cho các cơ sở chế biến và sử dụng cao lanh, trước hết là đầu tư bổ sung một cơ sở chế biến tại xã Minh Phú, đầu tư các dây truyền sản xuất gạch ceramic tại Sóc Sơn. Quy hoạch đầu tư nâng cấp các tuyến đường giao thông vào các khu khai trường, đặc biệt là các khai trường ở các xã Minh Phó, Minh Trí. Khuyến khích trồng thêm cây xanh ở hai bên đường cũng nh trong khu vực sản xuất. Qua đó có thể giảm tổn thất về cơ sở hạ tầng và cải thiện cảnh quan tại khu vực.
Ngoài ra chính quyền địa phương còn có thể dùng các công cụ kinh tế môi trường để tăng cường hiệu lực quản lý hành chính và giảm thiểu thiệt hại môi trường như địa tô tài nguyên khoáng sản, xử phạt hành chính đối với các doanh nghiệp cũng như các cơ sở vi phạm qui định về môi trường, khuyến khích hình thành trang trại tại những nơi đã kết thúc khai thác…,các vi phạm sẽ bị kiểm tra thường xuyên và phạt theo các qui đinh hành chính, nếu vi phạm nghiêm trọng có thể đình chỉ khai thác và thu hồi giấy phép khai thác của doanh nghiệp. Nhà nước ta cần có các chính sách cụ thể khuyến khích giảm ô nhiễm bằng các biện pháp trợ giúp về tài chính, kĩ thuật…đối với các cơ sở khai thác và chế biến, có chế độ khen thưởngthoả đáng đối với những cơ sở thực hiện tốt việc bảo vệ môi trường.
Trên đây là một số biện pháp có thể áp dụng nhằm giải quyết vấn đề cấp bách đặt ra hiện nay ở Sóc Sơn - đó là vấn đề về hạn chế ô nhiễm và bảo vệ môi trường sinh thái.
Một số kiến nghị nhằm phát triển bền vững
Công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta đang diễn ra nhanh chóng, việc khai thác tài nguyên chưa được kiểm soát nghiêm ngặt, chất thải ô nhiễm từ sản xuất công nghiệp và sinh hoạt đô thị ngày càng tăng trong khi đó hệ thống quản lý cũng như ý thức người dân chưa cao. Vì thế:
Trước hết cần nâng cao ý thức của người sản xuất trong việc bảo vệ môi trường bằng cách đẩy mạnh giáo dục truyền thống, đặc biệt là tuyên truyền sâu rộng trong các làng nghề các mô hình, các giải pháp kĩ thuật mới, những kinh nghiệm tốt về xử lý không khí, đất, nước…áp dụng vào sản xuất, phòng tránh bệnh tật, các tai nạn nghề nghiệp trong quá trình sản xuất.
Các doanh nghiệp cũng như các cơ sở sản xuất tiến hành đổi mới công nghệ sản xuất, đổi mới thiết bị nhằm hạn chế lượng tiêu hao và tránh thất thoát nguyên vật liệu, xem xét sản phẩm có thể tiết kiệm nguyên vật liệu hơn không, từ đó hạn chế lượng chất thải ra môi trường, đồng thời nên áp dụng công nghệ Ýt gây ô nhiễm. Triển khai trương trình “sản xuất sạch” (sử dụng nguyên vật liệu tiết kiệm, nếu tái sử dụng, tái chế thì càng tốt…) trong cả nước, tức là phải tiến hành điều chỉnh cho hợp lý quá trình sử dụng nguyên vật liệu và sản xuất sản phẩm, giảm thiểu chi phí đầu vào, đây là biện pháp dễ được chấp nhận vì nó mang lại hiệu quả thiết thực nhất cho doanh nghiệp.
Nhà nước cần có các biện pháp và chính sách áp dụng đối với bảo vệ môi trường như các công cụ kinh tế môi trường, công tác kiểm soát ô nhiễm phải được thực hiện triệt để, cần có biện pháp hỗ trợ việc thu gom xử lý chất thải, đảm bảo tốt công tác qui hoạch vùng phát triển, đồng thời phải có chính sách ưu đãi thiết thực hơn đối với những cơ sở làm tốt công tác bảo vệ môi trường, Nhà nước phải xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường để có cơ sở so sánh kiểm soát chặt chẽ hơn đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh.
Các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường ở Việt Nam có thể áp dụng như các loại phí đánh vào người sử dụng, phí hành chính, phí đánh vào sản phẩm, thuế, quĩ trợ cấp…Trong thực tế không phải lúc nào cũng phân biệt được mọt cách rõ rang và sử dụng riêng biệt từng loại mà chúng thường được kết hợp nhằm mục đích cuối cùng là cải thiện chất lượng môi trường
( Phí đánh vào người sử dụng là khoản phí mà người sử dụng phải trả cho các dịch vụ môi trường như thu gom hay xử lý các chất thải gây ô nhiễm; Phí đánh vào sản phẩm là khoản phí đưa vào giá bán các sản phẩm dễ gây ô nhiễm; Thuế là các biện pháp ưu tiên về thuế cho các sản phẩm, các hoạt động có Ých cho môi trường hoặc biện pháp đánh thuế nặng hơn đối với sản phẩm có hại cho môi trường; Quĩ trợ cấp là quĩ hỗ trợ về tài chính để khuyến khích những người gây ô nhiễm thay đổi hành vi hoặc trợ giúp cho các đối tượng khó khăn để giúp họ tuân thủ tốt hơn các tiêu chuẩn môi trường…). Như vậy, nội dung chủ yếu của các loại hình công cụ kinh tế này nhấn mạnh rằng chúng ta phải trả giá cho những loại tài nguyên thiên thiên mà chúng ta sử dụng, việc này sẽ giúp chúng ta giảm thiệt hại về môi trường. Các công cụ kinh tế trên nên được áp dụng từ phạm vi hẹp đến phạm vi rộng, từ thấp lên cao, phải áp dụng linh hoạt đối với từng loại doanh nghiệp với từng qui mô khác nhau.
Việc qui hoạch cho phát triển làng nghề truyền thống trước hết cần hình thành các khu sản xuất tập trung, tách khu dân cư ra khái khu sản xuất, từ đó đầu tư chiều sâu để xây dựng hệ thống cấp thoát nước trong khu vực sản xuất của làng nghề, đó chính là tạo điều kiện thuận lợi cho làng nghề phát triển, đồng thời nâng cấp các khu sản xuất tập trung cũ, sắp xếp lại qui hoạch hợp lý hơn nhằm đạt hiệu quả sản xuất và hiệu quả bảo vệ môi trường tối đa. Qui hoạch phải thực hiện đi kèm và phù hợp với qui hoạch phát triển đô thị và các khu dân cư, phải đặt trong sự phát triển của cả vùng không riêng cho khu vực nào.
Về thu gom chất thải, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ việc thu gom, xử lý chất thải tập trung đối với các cơ sở sản xuất công nghiệp nhỏ vì sẽ thiếu thực tế khi đòi hỏi những cơ sở này phải tiến hành đầy đủ các qui trình để bảo vệ môi trường, giải pháp này có tính thực thi cao để đảm bảo bảo vệ môi trường vừa đảm bảo hiệu quả kinh tế.
Đào tạo, bồi dưỡng và cung cấp những thiết bị cùng với kinh phí cho các bộ phận chuyên trách về bảo vệ môi trường trong làng nghề truyền thống, hiện nay lượng cán bộ hiểu biết về môi trường chiếm tỷ lệ rất nhỏ và chưa qua đào tạo cơ bản, cơ sở vật chất phục vụ cho bảo vệ môi trường còn hết sức thô sơ và lạc hậu, cho nên đòi hỏi phải có sự quan tâm thoả đáng của chính quyền địa phương và chính phủ, nhất là chính sách đãi ngộ của Nhà nước đối với những người làm công tác này ở địa phương.
Nhà nước cần có những chính sách cụ thể khuyến khích làng nghề giảm ô nhiễm thông qua các biện pháp hỗ trợ về công nghệ cũng như kinh phí, khuyến khích sử dụng công nghệ Ýt ô nhiễm , đặc biệt phải có sự khen thưởng thoả đáng đối với những nơi làm tốt công tác bảo vệ môi trường, cũng như phải có biện pháp xử lý thích đáng đối với những nơi vi phạm làm ô nhiễm môi trường. Muốn vậy phải tăng cường quản lý kiểm soát, chỉ đạo trong các cơ sở sản xuất ở các địa phương.
Đặc biệt, Nhà nước cần khuyến khích trồng cây xanh ở mọi nơi, ở khu vực sản xuất cũng như ở khu vực sinh sống của dân cư, hiện nay đây là biện pháp rất hiệu quả mà lại Ýt tốn kém, biện pháp này không những làm cho môi trường sinh thái trở nên trong lành hơn mà còn góp phần làm đẹp cảnh quan trong điều kiện phát triển hiện nay.
Phát triển bền vững không chỉ là mục tiêu của riêng ai, của riêng đất nước nào mà đã trở thành mục tiêu của tất cả mọi người, của tất cả các quốc gia, các kiến nghị nêu trên đây cũng nhằm vào mục đích chung Êy.
PHẦN KẾT LUẬN
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam chóng ta khẳng định đó là “một cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội” vì mục đích cải thiện đời sống cho người dân ngày càng tốt đẹp hơn.
Thực tế, muốn phát triển kinh tế chúng ta không thể không tác động vào môi trường sinh thái vì đó là nguồn tài nguyên cho sản xuất nhưng lại không phải là nguồn tài nguyên vô cùng vô tận. Lâu nay con người dường nh chưa hiểu được điều đó nên họ đã vì những lợi Ých trước mắt mà quên đi cái hại to lớn, đó là sự huỷ hoại môi trường sinh thái sẽ dẫn đến những tác hại nh thế nào đến chính cuộc sống của họ. Và đến bây giờ, mục tiêu phát triển bền vững được đề cập đến nh một vấn đề cấp thiết của nhân loại.
Kiến tạo phát triển bền vững là một quá trình lâu dài và khó khăn. Nhưng có được cách tiếp cận hợp lý, sự đồng thuận cần thiết ở mức toàn cầu, sự nỗ lực của quốc gia và cộng đồng trên toàn thế giới, mục tiêu tươi sáng và sự vĩnh hằng của con người trong phồn vinh và phát triển sẽ là hiện thực, mặc dù trước mắt còn nhiều khó khăn.
Việt Nam chóng ta phải tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, không thể chỉ vì mục tiêu phát triển kinh tế trước mắt, phải hướng sự phát triển của đất nước vào con đường phát triển bền vững để đất nước ta có thể trở thành nước phát triển rực rỡ như mọi người mong đợi, như thế mục đích cải thiện cuộc sống của người dân mới có thể đạt được. Em tin rằng sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta cùng với sự nỗ lực của mọi người dân Việt Nam thì mục tiêu Êy sẽ đạt được trong tương lai không xa .
Cuối cùng em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành của mình đối với sự giúp đỡ của thầy giáo Lê Công Hoa, thầy đã hướng dẫn và định hướng cho em hoàn thành bài viết này. Bài viết còn nhiều thiếu sót, mong thầy góp ý để bài viết sau của em được tốt hơn.
Tài liệu tham khảo
Giáo trình Kinh tế và Quản lý công nghiệp
Giáo trình Kinh tế môi trường
Giáo trình Công nghệ và Quản lý công nghệ
Tạp chí Bảo vệ môi trường: Số 4 - 2001
Sè 3 – 2002
Sè 8 - 2002
Sè 7 - 2003
Sè 9 – 2003
Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 2/2003
Tạp chí Sức khoẻ và đời sống số 8/ 2002
Tạp chí Thương mại số 15/2001
Tạp chí Nghiên cứu – Trao đổi số 10 ( 5/2001)
Tạp chí Hoạt động khoa học: số 5/2001
Sè 7/2002
Tạp chí Xây dựng số 3/2000
Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn số 5/2001
Tạp chí Khoa học công nghệ & Môi trường số 6/2002
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX
PHẦN PHỤ LỤC
1. LỜI MỞ ĐẦU¼¼…………………………..………………………………1
2. PHẦN NỘI DUNG………………………………..………………………....3
Chương I: Môi trường và ô nhiễm môi trường
1.1. Môi trường và môi trường sinh thái………..………………………3
1.2. Sự phát triển của các doanh nghiệp công nghiệp
và các làng nghề ở Việt Nam…………………..…………………....4
1.3. Mối quan hệ giữa phát triển công nghiệp với môi
trường sinh thái……………………………………..……………….5
1.4. Tình trạng ô nhiễm môi trường hiện nay………………...………….7
Phát triển bền vững là nỗ lực của toàn nhân loại trước
nguy cơ diệt vong …………………………………………...11 Chương II: Thực trạng phát triển làng nghề sản xuất cao
ở Sóc Sơn - Hà Nội với hoạt động bảo vệ môi trường
2.1. Hoạt động khai thác và sản xuất cao lanh tại Sóc Sơn ……..……...13
2.2. Tình trạng ô nhiễm môi trường ở Sóc Sơn ……………………..….16
2.3. Những thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra……………….........19
Chương III: Một số giải pháp hạn chế ô nhiễm
3.1. Các biện pháp hạn chế tác động tiêu cực và thiệt hại tài
nguyên và môi trường trong hoạt động sản xuất cao lanh
tại Sóc Sơn ………………………………………………………....21
3.2. Một số kiến nghị nhằm phát triển bền vững…………………….…22
3. PHẦN KẾT LUẬN………………………………………………………...26
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 246 cao lanh.doc