Đề tài khoa học về "Một số vấn đề phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho quá trình CNH-HĐH ở Việt Nam" rút ra một số kết luận sau:
1. Chủ trương của Đảng, Nhà nước về nguồn nhân lực có thể tóm gọn lại là: nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Điều đó càng cho thấy tầm quan trọng của nguồn nhân lực trong công cuộc CNH-HĐH. Quy mô, chất lượng của nguồn nhân lực càng tiến bộ sẽ cho phép một quốc gia tiến hành CNH, HĐH càng thành công.
Nguồn nhân lực chính là lực lượng lao động mà khi nhìn vào đó, người ta có thể đánh giá trình độ phát triển yếu tố ảnh hưởng như giáo dục-đào tạo, y tế, các chính sách xã hội của Nhà nước.Vì vậy, một nước có nguồn nhân lực phát triển, tiến bộ thì có nghĩa là có giáo dục-đào tạo, y tế, kinh tế phát triển và như vậy thì chắc chắn có một trình độ phát triển cao.
40 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1693 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số vấn đề về phát triển nguồn nhân lưc phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
doanh tính đến ngày 1/7/2002 có đến 8260625 người, chiếm 76,1% số lao động còn trong các cơ sở hành chính sự nghiệp có 2.583.035, chiếm 23,9%. Như vậy, số lao động trong các cơ sở kinh tế, hành chính sự nghiệp đều tăng lên song tốc độ tăng của lao động trong cơ sở hành chính sự nghiệp (70,9% so với nqưm 1995) là nhanh hơn rất nhiều so với trong các cơ sở sản xuất kinh doanh (48,4%). Nó cho thấy số người hưởng lương từ ngân sách đang tăng mạnh, một thách thức với chương trình cải cách hành chính, giảm biên chế, cải cách tiền lương ở nước ta.
Về tình hình giảm biên chế, sau 2 năm mới giảm và chuyển đổi được khoảng 2 vạn người nghĩa là mới được chưa đến 30% so với yêu cầu đặt ra là 7 vạn người. Theo một quan chức trong Bộ Nội vụ ước đoán có khoảng 30% người không đạt yêu cầu, vào biên chế rồi thì có “biểu hiện ì ra”. Tính giảm biên chế là một xu hướng tất yếu cần phải để cho người lao động hiểu rằng quyền lợi và các chế độ phúc lợi của người lao động làm việc theo biên chế và theo thể thức hợp đồng không có gì khác biệt (báo đầu tư 22/1/2003). Theo bộ tài chính, tính đến nay trong 61 tỉnh thành mới có 22 địa phương thực hiện khoán biên chế. Tại 22 tỉnh thành lại mới có 181 cơ quan thực hiện khoán, chiếm 36% tổng số cơ quan, đơn vị trên cả nước. Tiền lương tối thiểu của những đối tượng hưởng lương từ ngân sách nhà nước và người lao động trong các doanh nghiệp (trừ doanh nghiệp nước ngoài) cũng được điều chỉnh từ 210.000đ/tháng lên 290.000đ/tháng. Song nếu xét bình quân lương tối thiểu theo đầu người cho một gia đình, xem xét tốc độ tăng giá cả hàng hoá, và tốc độ tăng trưởng kinh tế thì lương tối thiểu có thể là chưa đủ sống.
Trong 4 nguồn lực cơ bản của sản xuất kinh doanh, KHCN đang ngày càng dóng vai trò quan trọng. Nó làm tăng năng suất lao động của con người, làm thay con người những công việc khói khăn, nguy hiểm. KHCN cũng là nguồn lực không có giới hạn, không ngừng phát triển. Tuy nhiên, cần phải thấy rõ rằng KHCN lại phụ thuộc rất chặt chẽ vào trình độ con người. Nhận thức của con người về thế giới càng cao bao nhiêu, sự thành công của con người trong chinh phục và khám phá tự nhiên càng tốt bao nhiêu thì các phát minh, sáng kiến càng nhiều và KHCN càng phát triển bấy nhiêu. Con người mới là chủ thể tạo ra KHCN và khi hình thành rồi, KHCN quay lại giúp con người lao động sản xuất và phần nào đó nâng cao nhận thức và trình độ con người. Con người sử dụng, điều khiển KHCN và vì vậy, chính con người mới quyết định sự thành công hay thất bại của công việc, của KHCN. Nguồn lực con người và nguồn lực KHCN có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Chúng đều là nguồn lực vô tận để phát triển kinh tế. Tất nhiên để phát triển KHCN, cần đầu tư cả vốn và nguồn nhân lực, việc quyết định sử dụng vốn thế nào lại dựa vào con người, con người cũng luôn tác động vào tự nhiên, đất đai, môi trường... Do đó, cả 4 nguồn lực đều tác động qua lại lẫn nhau nhưng nhân tố con người vẫn luôn giữ vai trò chủ thể quyết định. Để thực hiện vai trò đó, con người càng ngày càng cần đến tri thức, chuyên môn, cần được giáo dục và đào tạo một cách nghiêm túc.
Tóm lại, có thể nói, lao động có trình độ chuyên môn ở Việt Nam còn rất thiếu, cả về số lượng và chất lượng. Điều đó không đảm bảo cho sự thành phố kinh tế bền vững lâu dài. Cung và cầu về lao động có chuyên môn đã không gặp nhau tại diểm thoả mãn cả người lao động và người thuê lao động.
Việt Nam cần có sự xem xét lại chính sách giáo dục - đào tạo, có định hướng nghề cho học sinh, phân bổ chỉ tiêu đào tạo có định hướng nghề cho học sinh, phân bổ chỉ tiêu đào tạo hợp lý cho các trường đại học, cao đẳng, các cấp, các ngành, các điạ phương...
1.2.2 Sử dụng lao động phổ thông
Lao động phổ thông hay lao động chưa qua đào tạo nghề chiếm số đông ở Việt Nam. Trước hết đó là lực lượng đông đảo người làm nghề nông (hơn 70% dân số), sau đó là những người đầu tư tuổi lao động hàng năm và gia nhập ngay thị trường lao động mà không qua trường lớp đào tạo nghề lao động phổ thông bao gồm lao động chân tay, nhận được tiền lương thấp, điều kiện làm việc thấp kém, chế độ đãi ngộ chưa hợp lý. Lao động phổ thông tập trung chủ yếu vào các ngành dệt may, da giày, các ngành nghề thủ công thu hút nhiều lao động không đòi hỏi trình độ cao. Hiện nay ơ các nước phát triển, nhu cầu sử dụng lao động phổ thông (LĐPT) đang giảm mạnh trong khi ở những nước đang phát triển, sử dụng LĐPT vẫn đóng vai trò quan trọng. Khi trình độ nguồn nhân lực có hạn, các nước đang phát triển không thể tập trung vào các ngành công nghiệp mũi nhọn những ngành có tiềm năng và tác động tích cực tới các ngành khác luôn đòi hỏi trình độ chuyên môn rất cao, mà phải mở rộng những ngành công nghiệp chế biến, công nghiệp nhẹ cần nhiều lao động vói một trình độ nhất định. Qua đó giúp các nước nghèo tích luỹ vốn, giải quyết việc làm và các vấn đề xã hội trước mắt. Đây cũng là hệ quả của phân công lao động giữa các nước trên thế giới.
Lực lượng đầu tiên tham gia vào những người LĐPT là nông dân. Việt Nam là một nước nông nghiệp trồng lúa nước, thiên nhiên ưu đãi 2 đồng bằng màu mỡ. Xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới nhưng phần lớn nông dân chưa qua các lớp đào tạo kỹ thuật chuyên môn. Trình độ dân trí ở nông thôn trung bình đạt gần lớp 7. Số cán bộ và công nhân kỹ thuật nông nghiệp được đào tạo hàng năm rất ít. Chính vì thế việc đưa KHKT và cơ giới vào đồng ruộng gặp không ít khó khăn. Năng suất lao động của người nông dân rất thấp, thời gian lao động chỉ đạt hơn 70%, kỹ thuật lạc hậu, chịu ảnh hưởng tập quán thói quen nhiều hơn. Những cơ quan khuyến nông ở các địa phương chưa phát huy được hiệu quả, song đã làm được những việc như tìm ra giống cây con phù hợp cho từng vùng miền, đảm nhiệm công tác điện khí, thủy lợi. Nhìn chung, bộ phận này cũng góp phần giúp nông dân nâng cao năng suất. Vậy vì sao nông thôn lại là địa bàn có số lao động phổ thông lớn như vậy? Trước hết đó là do tính kế thừa cố hữu trong hoạt động nông nghiệp. Những người nông dân Việt Nam cho rằng, họ kế thừa đất đai, đồng ruộng, vật nuôi, kinh nghiệm từ cha ông mình. Chính vì lẽ đó mà rất nhiều công việc nhà nông được làm tuỳ tiện theo những gì thế hệ được truyền lại, có cái đúng, có cái sai. Họ có thể hành động vì các lợi nhỏ trước mắt mà quên đi cái hại to lớn lâu dài như đánh cá bằng thuốc nổ, bẫy chuột bằng điện... Thứ hai, giáo dục - đào tạo còn ít được coi trọng ở nông thôn. Đây là nơi còn tồn tại nhiều suy nghĩ lạc hậu cho rằng con em nông dân đằng nào cũng làm nghề nông thì không cần học cao... Chính vì thế, giáo dục - đào tạo chưa nhận được sự quan tâm đầu tư đúng mức, tạo ra một lượng lớn người LĐPT ở nông thôn cũng không sử dụng hết quỹ thời gian lao động của mình gây ra một sự lãng phí lớn về nguồn lực.
Những lao động khi tham gia LLLĐ mà chưa được đào tạo nghề cũng là những LĐPT. Họ có thể là học sinh tốt nghiệp THCS, PTTH, đi làm ngay, những người làm việc thủ công hoặc cũng có thể là những nông dân lúc nông nhàn di chuyển đến thành phố tìm việc. Lực lượng này được thu hút chủ yếu vào các ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến, trong đó riêng ngành dệt may dã thu hút hơn 2,7 vạn lao động. Các làng nghề truyền thống như làm chiếu, đồ gốm, các ngành thủ công như đồ mỹ nghệ, các ngành chế biến nông thủy sản, ngành dệt may da giày... ngày càng được mở rộng và tạo ra nhiều việc làm cho những LĐPT, lao động dôi dư ở nông thôn. Đây cũng lại là những ngành xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam, mang lại ngoại tệ lớn cho một nước nông nghiệp đang phát triển. Những ngành này trước mắt giúp cho Việt Nam tích luỹ vốn, lại hợp vớ trình độ rất đông những người LĐPT, tạo việc làm giải quyết nạn thất nghiệp. Tuy nhiên về lâu dài, đây lại không phải là những ngành mũi nhọnn. Trước hết vì những ngành này cần rất nhiều lao động, giá thành sản phẩm, sẽ rất cao, sức cạnh tranh kém. Thứ hai, nguồn lợi từ các ngành này không cao so với những ngành có sử dụng KHCN, lại rất bấp bênh vì phụ thuộc vào nông nghiệp, tự nhiên, vào thị trường thế giới.
Bên cạnh đó, LĐPT lại là loại hình xuất hiện nhiều tiêu cực mà trước tiên là sự vi phạm luật lao động. Hệ thống pháp luật về lao động đã có những quy định khá chặt chẽ về việc người, đơn vị sử dụng lao động đã có những quy định khá chặt chẽ về người, đơn vị sử dụng lao động phải ký kết hợp đồng lao động với người lao động. Tuy nhiên qua tình hình tuyển dụng lao động năm 2002, tỷ lệ ký hợp đồng lao động chỉ đạt 90% với các doanh nghiệp nhà nước, 80% với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khoảng 40% trong doanh nghiệp tư nhân. Đây mới chỉ là tỷ lệ thống kê được qua những doanh nghiệp được thanh tra, trên thực tế, tỷ lệ ký kết hợp đồng lao động có thể thấp hơn nhiều. Ngoài ra, môi trường làm việc cho những LĐPT rất hạn chế. Trong ngành dệt may, điều kiện về nhiệt độ độ ẩm. Trong các nhà xưởng luôn không đạt tiêu chuẩn, nồng độ hơi khí hoá chất công nghiệp quá mức cho phép, kích cỡ các loại máy thiết bị không phù hợp với thể hình người Việt Nam. Điều đó đã dẫn đến 58,2% nữ công nhân mệt mỏi sau ca làm việc 36,4% cho là cường độ lao động nặng (Thời báo kinh tế số ngày 23/12/02). Ngoài ra còn hạn chế độ dinh dưỡng các bữa ăn không đảm bảo, đãi ngộ tiền lương, làm thêm giờ chưa hợp lý, nợ đọng kéo dài Bảo hiểm xã hội. Tổng số nợ bảo hiểm xã hội của các doanh nghiệp với người lao động đã lên tới 300 tỷ đồng. Trong năm 2002 đã xảy ra 78 vụ đình công trong đó 49 vụ trong khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 23 vụ trong các công ty cổ phần và công ty tư nhân, 6 vụ trong doanh nghiệp nhà nước. Những vụ này chủ yếu bắt nguồn từ sai phạm của người sử dụng lao động về quyền lợi của người lao động.
Không chỉ có vậy, người lao động Việt Nam cũng rất khó khăn kiếm được việc làm cho các hình thức LĐPT. Tố độ gia tăng dân số quá nhanh mà khả năng tạo việc làm luôn không đáp ứng kịp. Năm 2002 đã tạo thêm được 1,4 triệu việc làm mới, đạt kế hoạch đề ra nhưng chưa giải quyết hết nhu cầu việc làm. Những người cung và cầu trên thị trường lao động có ít thông tin về nhau và cũng có những thông tin thiếu chính xác. Vì vậy mà có tình trạng doanh nghiệp không tuyển được lao động phù hợp và lao động vẫn không tìm được việc làm. Từ đó đã xuất hiện những trung gian làm nhiệm vụ môi giới, cung ứng việc làm hay các dịch vụ việc làm. Đây là những trung tâm giới thiệu, xúc tiến việc làm cho người lao động và thu lệ phí. Một số trung tâm hoạt động rất có hiệu quả, góp phần tích cực mang lại việc làm cho người lao động song từ đây cũng lại nảy sinh nhiều tiêu cực. Có những trung tâm thu tiền của người lao động mà không tìm việc làm cho họ hoặc tìm được việc cho người lao động nhưgn thu lệ phí quá cao. Hiện trạng này đang xảy ra phổ biến ở rất nhiều nơi trong cả nước. Trong khi đó, những dịch vụ việc làm này vãn liên tiếp mọc lên ngày càng nhiều. Theo bộ luật lao động sửa đổi, có hiệu lực từ 1/1/2003, Bộ lao động thương binh và xã hội là cơ quan quản lý nhà nước đối với các tổ chức giới thiệu việc làm nhưng do thiếu các quy định cụ thể với hoạt động này nên hầu như chỉ mới quản lý được các trung tâm công lập. Việc đó đã tạo kẽ hở cho một số các trung tâm thực hiện hành vi lừa đảo của mình. Riêng ở thành phố Hồ Chí Minh thời gian vừa qua đã đóng cửa 800 doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ việc làm - chiếm 70% số doanh nghiệp này tại đây.
Tuy nhiên, đảm bảo việc làm cho người lao động không phải chỉ là tìm cho họ một công việc mà giải pháp lâu dài vẫn phải là đào tạo nghề cho họ. Trang bị cho họ một công việc mà giải pháp dài vẫn phải là đào tạo nghề cho họ. Trang bị cho người lao động những tri thức, kỹ năng để họ nhanh chóng hoà nhập, thích nghi với cơ chế thị trường, đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao về chất lượng lao động. Theo tổng cục dạy nghề (Bộ Lao động thương binh và xã hội), trong năm 2002, đã có hơn 1 triệu người được đào tạo nghề, trong đó có hơn 858.500 người được đào tạo ngắn hạn và 146.500 người được đào tạo dài hạn. So với năm 2001, số học viên được đào tạo nghề dài hạn tăng 16,8% nhưng vẫn chưa đủ cho thị trường lao động. Nguyên nhân chủ yếu do các trường dạy nghề gặp khó khăn về kinh phí.
Trong thực trạng sử dụng LĐPT cũng không thể không nhắc tới những tai nạn lao động đang ngày càng gia tăng. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Bộ lao động thương binh và xã hội, năm 1996 có 1545 vụ TNLĐ làm chết 285 người, bị thương 1665 người thì đến năm 2001 có 3601 TNLĐ, tăng 133,08% làm chết 395 người. Bị thương 3748 người, tăng 125,1% số người bị TNLĐ. Con số thực tế còn có thể nhiều hơn. Điều đó cho thấy việc đảm bảo an toàn vệ sinh lao động đang ở mức báo động. Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu, những thành phố tập trung nhiều ngành nghề kinh tế quan trọng của cả nước luôn đứng đầu doanh sách xảy ra TNLĐ. Các ngành như xây dựng, GTVT, công nghiệp có số người chết vì TNLĐ hàng năm chiếm 25% đến 34% người chết vì TNLĐ thống kê được (Thời báo kinh tế 10/1/2003). Theo các chuyên gia thì nguyên nhân chủ yếu do người sử dụng lao động và người lao động vi phạm nội quy, quy trình quy phạm, biện pháp làm việc không an toàn, không huấn luyện, hoặc huấn luyện không đầy đủ cho người lao động. Bên cạnh đó, việc thiếu thanh tra lao động và an toàn lao động cũng gây ra tình trạng này. Vì vậy, cần nâng cao hơn nữa nhận thức và trách nhiệm của các cấp chính quyền, cơ quan quản lý, mọi tổ chức xã hội, người sử dụng lao động và người lao động về công tác bảo hộ lao động nói chung, khai báo, điều tra, thống kê, báo cáo TNLĐ nói riêng.
Một hướng khác rất có hiệu quả để tạo việc làm đó là xuất khẩu lao động. Năm 2002, cả nước đã đưa hơn 46.120 lao động đi làm việc ở nước ngoài, tăng 24,65% so với năm trước và tăng 21,37% so với kế hoạch (thời báo kinh tế 20/1/2003). Như vậy đến nay, tổng số lao động Việt Nam ở nước ngoài đã lên tới trên 300.000 người tại hơn 40 nước và lãnh thổ, làm trên 30 ngành nghề khác nhau và mỗi năm gửi về nước 1.400 triệu USD (đứng sau kim ngạch xuất khẩu dầu thô, dệt may, thuỷ sản, giầy dép). Ngay từ đầu những năm 1980, lao động Việt Nam xuất khẩu chủ yếu sang Liên Xô và Đông Âu với mục tiêu “giải quyết việc làm và đào tạo nghề cho người lao động” nay đổ thành mục tiêu “giải quyết việc làm, nâng cao tay nghề và tang thu nhập cho người lao động” . Hiện nay, lao động Việt Nam cũng phải cạnh tranh với các nước khác như Thái Lan, Trung Quốc... nên số lượng đi xuất khẩu hàng năm có giảm sút song chất lượng có tăng lên và điạ chỉ đến của lao động đã được mở rộng. Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Đông, Malaysia.. Tuy nhiên, hoạt động xuất khẩu lao động cũng còn tồn tại nhiều bất cập.
Thứ nhất, là thiếu chặt chẽ trong quản lý dẫn đến nhiều tiêu cực như lừa dảo, đào tạo người lao động trái phép...
Thứ hai, xuất khẩu lao động mới ở dạng thô, đa số là lao động phổ thông, không có chuyên môn. Ngoài ra, hiên nay tình trạng người lao động xuất khẩu bỏ trốn đang tăng lên và cuối cùng, tiền thế chấp để được đi xuất khẩu lao động quá cao, khó khăn cho người nghèo.
Lao động phổ thông ở Việt Nam đang rất cần được sự quan tâm hơn nữa của các cấp, ngành. Một lực lượng dồi dào thôi là chưa đủ và không đủ cho nhu cầu hiện tại. Cần cải thiện hơn nữa trình độ (về học vấn, kiến thức chuyên môn, ngoại ngữ...), tay nghề cho người lao động, tiến tới nâng cấp họ thành những lao động có chuyên môn kỹ thuật, đẩy mạnh dịch chuyển cơ cấu lao động theo hướng tiến bộ. Đó mới thực sự là nhiệm vụ cấp bách của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam.
1.3 Đánh giá chung về nguồn nhân lực Việt Nam
1.3.1 Những thành công
Sau hơn 15 năm “Đổi mới”, sự nghiệp Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Nền kinh tế tăng trưởng khá (7%/năm), chính trị ổn đinh, xã hội phồn binh, đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể. Cùng với những thay đổi đó, nhân tố con người được phát huy mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Con người, được đảm bảo các quyền học tập, được chăm sóc sức khoẻ, quyền nghiên cứu khoa học và ứng dụng khoa học vào thực tiễn.
Nguồn nhân lực Việt Nam vừa tham gia vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vừa không ngừng tự chuyển biến, nâng cao sức mạnh của mình nhằm công hiến hơn nữa cho sự nghiệp “Đổi mới”. Năm 2002, cả nước đã tạo việc làm và bổ sung việc làm mới cho 1,4 triệu lao động, đạt kế hoạch, đào tạo nghề cho 982.000 người xấp xỉ mức kế hoạch. Có việc làm, có nghề đã giúp người lao động có thu nhập, đảm bảo cho cuộc sông sống của họ. Tỷ lệ hộ đói nghèo (theo tiêu chuẩn mới) còn 14,3% đạt kế hoạch (Báo đầu tư 30/12/2002). Việt Nam được thế giới công nhận là nước có thành tích xoá đói giảm nghèo đặc biệt tốt với phương pháp hợp tác ba bên: vốn của tổ chức quốc tế, chính sách của nhà nước và nỗ lực lao động của người dân.
Những thành công của Việt Nam về phát triển nguồn nhân lực đã được ghi nhận. Trong năm 2001, phát triển nguồn nhân lực Việt Nam đứng thứ 7 trong 10 ngành nhận ODA nhiều nhất của (86 triệu USD), chiếm 14% tổng vốn ODA, Công tác phát triển xã hội boa gồm xoá đói giảm nghèo, giáo dục - đào tạo đứng thứ 4 trong bảng xếp hạng, nhận được 113 triệu USD, y tế đứng thứ 8 nhận được 80 triệu USD, đều là những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn nhân lực. Tình hình giải nhân ODA đã được cải thiện (tăng 9% so với 2000), vấn đề là phải phát huy nguồn vốn này có hiệu quả.
10 ngành tiếp nhận ODA nhiều nhất 2001
Đơn vị: triệu USD
Giao thông
Quản lý kinh tế
Năng lượng
Phát triển XH
Phát triển vùng, lãnh thổ
Nông nghiệp
Phát triển nhân lực
Y tế
Tài nguyên thiên nhiên
Quản lý phát triển
294
281
165
113
112
108
86
80
45
33
Hình 3: 10 ngành tiếp nhận ODA nhiều nhất 2001
(Nguồn: Thời báo kinh tế số ngày 13/12/2002)
Nguồn nhân lực Việt Nam ngày nay đã đạt được trình độ học vấn, tay nghề cao hơn, nhờ đó đưa KHKT vào sản xuất nhanh hơn, phục vụ công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Nhờ đó, tỷ trọng cơ hí hoá và tự động hoá trong một số ngành đã có những kết quả bước đầu.
Bảng 6: Tỷ trọng cơkhí hoá và tự động hoá trong một số ngành
sản xuất kinh doanh
Xí nghiệp do TW quản lý
Xí nghiệp do địa phương quản lý
Tổng số
Tự động hoá
Cơ khí hoá
Thủ công
Tổng số
Tự động hoá
Cơ khí hoá
Thủ công
Tổng số
100
3,7
41,9
54,4
100
2
24
74
Công nghiệp
100
7
58
35
100
4
46
50
Xây dựng
100
2
41
57
100
1,5
13,5
85
Nông nghiệp
100
_
21
79
100
_
22
78
(Nguồn: GS.TS Ngô Đình Giao “suy nghĩ về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước ta”)
Mặc dù, thủ công còn chiếm tỷ trọng lớn song xu hướng cơ khí hoá đang ngày càng tăng lên, một số bộ phận đã tự động hoá được. Từ một xuất phát điểm thấp mà đạt được như vậy, kết quả thật đáng khích lệ.
Một thành công nữa phải kể đến là thiết lập thị trường lao động. Đây là điều kiện cần thiết và thuận lợi để phát triển toàn diện nguồn nhân lực. Nó cũng là hệ quả tất yếu của cơ chế thị trường. Nhận lại cơ chế “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu” để tạo sự công bằng tạo ra thị trường, lao động, tuy chưa hoàn thiện song đã tạo động lực cho lao động, cho nền kinh tế.
1.3.2. Những hạn chế
Bên cạnh những thành công, nguồn nhân lực Việt Nam cũng còn nhiều hạn chế. Trước tiên đố là những bất cập trong quản lý và kiểm soát nguồn nhân lực. LLLĐ gia tăng quá nhanh với thất nghiệp cao, sự buông lỏng dẫn tới nhiều tiêu cực... Thứ hai, năng lực của những người làm quản lý về lao động còn yếu, do đó không có những biện pháp giải quyết và chậm sửa đổi những sai lầm. Thứ ba, những thành công đạt được là chưa đủ. Bảng 6 cho thấy sản xuất mang tính chất thủ công chiếm đa số ở các ngành nghề, công nghiệp hoá - hiện đại hoá hầu như chưa đáng kể, thậm chí chưa xuất hiện trong nông nghiệp.
Những hạn chế trên xuất phát từ 2 nhu cầu mà Việt Nam đang rất thiếu: là vốn và nhân lực. Vốn đầu tư cho con người và con người cần được đầu tư, đào tạo để biết sử dụng, quản lý vốn và nhân lực có hiệu quả. Nó thể hiện một trong những vòng luẩn quẩn mà Việt Nam và các nước đang phát triển gặp phải.
Trong giai đoạn Công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nguồn nhân lực Việt Nam cũng đang vận động và phát triển không ngừng để phù hợp với những điều kiện mới. Cơ chế thị trường đòi hỏi nguồn nhân lực phải đáp ứng những nhu cầu như thực sự hiệu quả, có khả năng tham gia vào tiến trình hội nhập, thực hiện theo phân công lao động thế giới... Nguồn nhân lực Việt Nam đã có những thành công đáng kể trong việc tự hoàn thiện và nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật, tay nghề, bắt nhịp với cuộc sống công nghiệp và cơ chế thị trường, nổi bật nhất là sự phân chia lao động xã hội vào những ngành nghề, thành phần kinh tế có hiệu quả cao, giải quyết cả vấn đề kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, nó vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế như số người có trình độ chuyên môn kỹ thuật không phổ biến trên diện rộng, lực lượng thất nghiệp đông đảo mà đa phần không có tay nghề chuyên môn, những tồn tại về mặt nhân sự của cơ chế hành chính bao gồm... Con người là trung tâm của mọi hoạt động kinh doanh - xã hội và vì vậy, đầu tư vào con người, vào nguồn nhân lực luôn đem lại lợi ích to lớn và lâu dài. Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn nhân lực trong giai đoạn mới, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn chú trọng tìm ra hướng đi và giải pháp thiết thực, phù hợp cho nguồn nhân lực - nguồn lực kinh tế có ý nghĩa quyết định và quan trọng bậc nhất.
Chương 2
Một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực
việt nam phục vụ quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước
2.1 Định hướng và mục tiêu phát triển nguồn nhân lực.
2.1.1 Yêu cầu của công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá (CNH - HĐH) là xu hướng tất yếu khách quan trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam. CNH là sử dụng các phương tiện, phương pháp tiên tiến, hiện đại cùng với kỹ thuật và công nghệ cao trong hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và hoạt động quản lý kinh tế- xã hội. HĐH là sự tiếp thu những thành tựu mới nhất về khoa học, công nghệ trên thế giới. Việc áp dụng KHKT - công nghệ, phương pháp tiên tiến đòi hỏi phải có vốn, trình độ kỹ thuật, tài nguyên... và đặc biệt cần nguồn lực con người với đầy đủ phẩm chất, năng lực để khai thác và sử dụng những nguồn lực khác.
CNH - HĐH đã đem lại cho Việt Nam những thành tựu KH - XH quan trọng. Trước năm 1986, đất nước luôn trong tình trạng "làm không đủ ăn, thu không đủ chi, xuất không đủ nhập". Kể từ sau khi phát động công cuộc "đổi mới" kinh tế đã có những bước tiến đáng kể. GDP tăng liên tục, tốc độ năm sau cao hơn năm trước, trong đó có những năm đã đạt tới mức rất cao 9,54% (1995), 9,34%(1996). Đặc biệt năm 2002, trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động với những bất ổn kinh tế - chính trị, Việt Nam vẫn đạt chỉ tiêu đề ra, tốc độ tăng GDP ước tính 7,04%. Tình hình chính trị ổn định được đánh giá là một trong những điểm đến an toàn nhất thế giới. Kinh tế đang chuyển biến tích cực, biểu hiện ở cơ cấu GDP ngày càng tiến bộ.. Đặc biệt năm 2002, trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động với những bất ổn kinh tế - chính trị, Việt Nam vẫn đạt chỉ tiêu đề ra, tốc độ tăng GDP ước tính 7,04%. Tình hình chính trị ổn định được đánh giá là một trong những điểm đến an toàn nhất thế giới. Kinh tế đang chuyển biến tích cực, biểu hiện ở cơ cấu GDP ngày càng tiến bộ.
Bảng - Cơ cấu GDP giai đoạn 1995 - 2002
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Nông lâm - Thuỷ sản
27.18
27.76
25.77
25.78
25.43
24.53
23.25
22.99
Công nghiệp và xây dựng
28.76
29.73
32.08
32.78
34.49
36.73
38.12
38.55
Dịch vụ
44.06
42.51
42.15
41.73
40.08
38.74
38.63
38.46
(Nguồn: Thời báo kinh tế - Kinh tế 2002- 2003)
Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản đang giảm dần vai trò nhưng vẫn giữ ở mức cao trong khi công nghiệp và xây dựng đóng góp ngày càng lớn vào GDP. Ngành dịch vụ chưa phát huy hết vai trò quan trọng của mình và vì vậy phần đóng góp cho GDP còn khiêm tốn, chưa đạt yêu cầu.
Nông nghiệp nông thôn từng bước được CNH - HĐH. Năm 2002, ước tính tốc độ tăng toàn ngành là 5,4% (cao hơn năm 2001: 4,9%). Trong khi đó công nghiệp tiếp tục phát triển ước tính giá trị sản xuất 14,5%. Năm 2002, riêng khu vực nhà nước tăng 11,7%. Kết cấu hạ tầng không ngừng được hiện đại hoá. Giao thông đứng đầu các ngành nhận ODA nhiều nhất năm 2001 (294 triệu USD). Chất lượng các ngành dịch vụ được nâng cao. Các ngành này đều tăng trưởng khá. Riêng du lịch năm 2002 ước tính có 2.628.200 khách quốc tế tới Việt Nam, tăng gần 13% so với năm 2001. Tốc độ luân chuyển hành khách toàn ngành vận tải tăng 7,3%, luân chuyển hàng hóa tăng 6,2%.
Phần lớn những nội dung chủ yếu cuả CNH - HĐH trong giai đoạn trước mắt Việt Nam đều đạt được. Bên cạnh đó, các chính sách luôn quan tâm đến sự phát triển hợp lý các vùng lãnh thổ, chú trọng sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ và cải thiện môi trường, đồng thời mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Những thành công đó tạo tiền đề cho Việt Nam tiến bộ trở thành nước công nghiệp vào năm 2020 không phải dễ dàng. Đại hội Đảng IX đã đề ra yêu cầu với CNH - HĐH giai đoạn 2001 - 2010: "Đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất văn hoá, tinh thần của nhân dân,tạo nền tảng để đến năm 2020 đưa đất nước cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn nhân lực con người, năng lực KHCN kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng - an ninh được tăng cường, thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN được hình thành về cơ bản ".
Yêu cầu đầu tiên của công nghiệp hoá - hiện đại hoá đối với nguồn nhân lực là chất lượng lao động. Bằng thể lực hoặc trí lực, hay bằng lao động phổ thông hoặc lao động có chuyên môn kỹ thuật, con người tạo ra của cải cho xã hội. Trong đó lao động có chuyên môn đem lại năng suất lớn hơn nhiều. Lao động có chuyên môn được đánh giá thông qua trình độ văn hóa, chuyên môn kỹ thuật, tri thức và khả năng điều hành, quản lý nền kinh tế. ...Do đó, nó ngày càng đóng vai trò quan trọng. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu của CNH - HĐH, lao động phổ thông cũng góp phần tích cực giải quyết việc làm, tích luỹ vốn. Yêu cầu đối với lao động phổ thông là phải tiếp tục được đào tạo nghề, nâng cao trình độ để người lao động có cơ hội và năng lực tiếp cận với máy móc thiết bị hiện đại, thực hiện chuyển giao công nghệ, nâng cao năng suất. Cả lao động phổ thông và lao động có chuyên môn cùng được nâng cao chất lượng, giảm dần khoảng cách về trình độ và mức sống giữa hai loại hình lao động.
Ngoài ra, người lao động không chỉ cần tài năng mà phải có ý thức, kỷ luật, tác phong. Họ vừa kế thừa những đức tính truyền thống như chăm chỉ, chụi khó, vừa biết tiếp thu những ưu điểm từ nhân dân lao động thế giới. Nguồn nhân lực Việt Nam không chỉ là năng lực sản xuất nòng cốt của xã hội mà còn xâydựng nền tảng vật chất cho CNXH, vì thế nó cần có bản lĩnh chính trị vững vàng và phẩm chất con người mới XHCN. Đó là: tích cực lao động, tuân thủ pháp luật, yêu nước......Nguồn nhân lực Việt Nam gồm những người lao động thuộc liên minh công nhân - nông dân - tri thức. Trong đó giai cấp công nhân giữ vai trò tiên phong lãnh đạo. Giai cấp công nhân trưởng thành về chính trị, có trình độ tổ chức, kiến thức nghề nghiệp cao, khả năng làm chủ KHKT công nghiệp sẽ càng góp phần làm liên minh thêm đoàn kết, thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH - HĐH.
Để đạt được như vậy , CNH- HĐH đòi hỏi ở ngành giáo dục đào tạo tập trung phát triển toàn diện con người. Giáo dục đào tạo phải đi tiên phong, phải là quốc sách hàng đầu. Giáo dục đào tạo trang bị cho con người những kiến thức khoa học, nâng cao trình độ nhận thức, trình độ chuyên môn kỹ thuật. Nguồn nhân lực được đào tạo phải có cơ cấu đồng bộ bao gồm các ngành khoa học cơ bản (KHTH, KHXH), khoa học kỹ thuật, các cán bộ quản lý kinh tế... Việc xây dựng nguồn nhân lực cho CNH-HĐH phải tiến hành với tốc độ và quy mô thích hợp, tạo điều kiện từng bước tiếp cận nền kinh tế tri thức đáp ứng yêu cầu của mỗi thời kỳ CNH-HĐH. Do đó, vừa phải đào tạo, bồi dưỡng, vừa phải sử dụng tốt nguồn nhân lực đã được đào tạo, phát huy đầy đủ khả năng, sở trường và nhiệt tình lao động của họ để tạo ra năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao.
CNH-HĐH cũng đòi hỏi người lao động có sức khỏe và thể lực tốt. Do đó phải phát triển y tế, đảm bảo quyền được khám chữa bệnh của nhân dân, đảm bảo dinh dưỡng đầy đủ, cải thiện môi trường sống.
Tóm lại, CNH-HĐH đòi hỏi nguồn nhân lực Việt Nam chất lượng lao động (bao gồm năng suất, phẩm chất người lao động ) đồng thời các chính sách về giáo dục đào tạo, y tế cần phải phát triển để nâng cao chất lượng đó.
2.1.2 Thuận lợi và khó khăn
a. Thuận lợi
* Nguồn nhân lực Việt Nam luôn nhận được sự quan tâm, đầu tư đặc biệt của Đảng, Nhà nước.
Đảng cộng sản Việt Nam quan điểm "Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Động viên toàn dân cần kiệm xây dựng đất nước, không ngừng tăng tích luỹ cho đầu tư phát triển. Tăng trưởng kinh tế gắn với đời sống nhân dân, phát triển văn hoá giáo dục, thực hiện tiến bộ công bằng xã hội"
Từ quan điểm đó, Đảng, Nhà nước đã đề ra rất nhiều chính sách, chủ trường mà mục tiêu là phát triển con người. Một trong ba nội dung của CNH-HĐH là phát triển LLSX, cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH trên cơ sở thực hiện cơ khí hoá nền sản xuất và áp dụng những thành tựu KHCN hiện đại. Sức lao động là nhân tố quyết định trong LLSX, do đó muốn phát triển LLSX trên thế giới diễn ra như vũ bão, muốn phát triển KHCN trong điều kiện Việt Nam cần tạo dựng những điều kiện cần thiết cho nó như đối ngũ cán bộ KHCN với số lượng đủ lớn, chất lượng cao. Vì thế, phát triển nguồn lực con người, càng cần cho CNH-HĐH.
Chủ trương, chính sách của Đảng nhằm đẩy mạnh không ngừng giáo dục đào tạo, y tế, tạo việc làm nâng cao chất lượng lao động. Đó là thuận lợi hết sức to lớn cho nguồn nhân lực Việt Nam.
* Trong quá trình CNH-HĐH nguồn nhân lực Việt Nam có thể học hỏi, tiếp thu KHCN, kinh nghiệm của các nước.
Đổi mới kinh tế muộn hơn nhiều nước trên thế giới, trình độ kỹ thuật lại yếu kém lạc hậu là một bất lợi lớn. Song Việt Nam có thể tận dụng những thành tựu nghiên cứu, phát minh, sáng chế của những nước đi trước. Nhờ đó tiết kiệm vốn, thời gian và các nguồn lực.
Tuy nhiên không thể chỉ chờ thành công khoa học của nước khác bởi như vậy sẽ luôn tụt hậu phía sau. Ngoài ra, các nước cũng giữ bí mật công nghệ của họ. Đảng chủ trương CNH phải gắn với HĐH, người lao động Việt Nam tiếp thu tri thức nhân loại, vừa chủ động tìm tòi, sáng tạo theo hướng của mình.
* Thuận lợi thứ ba nằm ở chính ưu điểm của nguồn nhân lực Việt Nam
CNH-HĐH đòi hỏi những con người có đủ phẩm chất và năng lực khai thác, sử dụng hiệu quả các nguồn lức: vốn, kỹ thuật, tài nguyên. Nguồn nhân lực Việt Nam có đầy đủ phẩm chất của con người lao động chân chính lại luôn được Đảng chăm lo, đào tạo, nâng cao trình độ thường xuyên sẵn sàng đáp ứng mọi yêu cầu của CNH-HĐH
b. Khó khăn
* Nguy cơ tụt hậu rất lớn.
Chiến tranh kéo dài, nền kinh tế chậm đổi mới, khoảng cách giữa Việt Nam và các nước phát triển về vốn, KHCN và nguồn nhân lực là rất lớn. Nguồn lao động mới ra khỏi nền kinh tế thuộc địa nửa phong kiến được 50 năm, ra khỏi nền kinh tế hoạch hoá tập trung bao cấp chưa đầy 20 năm. Tâm lý tiểu nông làm việc tuỳ tiện, phương cách sản xuất nhỏ và trình độ thủ công lạc hậu vẫn tồn tại phổ biến.
* Về giáo dục đào tạo
Như trên đã nói, giáo dục đào tạo ở Việt Nam còn nhiều bất cập. Trước tiên là sự lạc hậu trong cơ cấu đào tạo. ở các nước phát triển với trình độ KHCN tiến tiến, hiện đại có thể đảm bảo năng suất lao động cao chỉ với ít lao động. Vì vậy, phần lớn học sinh đều có nhu cầu học hết đại học. Hơn thế nữa, trong cơ cấu ngành nghề, rất chú trọng đào tạo những ngành khoa học ứng dụng, đặc biệt khoa học tự nhiên và kỹ thuật. Nhờ đó mà cán bộ kỹ thuật chiếm tỷ trọng lớn so với công nhân kỹ thuật (82%;18%) song không làm mất cân đối đến mức "thừa thầy thiếu thợ". Việt Nam còn ở một trình độ kỹ thuật thấp, sản xuất cần nhiều lao động có tay nghề nhưng lại đào tạo nhiều nhà kinh doanh, quản lý... sao nhãng đào tạp nghề lĩnh vực đang có nhu cầu rất lớn trên thị trường. Thêm vào đó, nền giáo dục từ cấp tiểu học đến PTTH còn mang nặng tính hình thức, lý thuyết, nặng về thành tích. Những bất cập đó đã tạo nên nguồn nhân lực mà phần nào chưa đáp ứng với yêu cầu thị trường, không phù hợp với giai đoạn phát triển của CNH-HĐH.
* Về y tế
Y tế là loại hình dịch vụ có chi phí cao ở Việt Nam. Trong khi người lao động có thu nhập và không phải mọi doanh nghiệp đều thực thi một chế độ làm việc bảo đảm sức khoẻ cho người lao động ( bảo hiểm, điều kiện làm việc, dinh dưỡng ...). Do đó, nhu cầo lớn về y tế, về việc được chăm sóc sức khoẻ định kỳ của người lao động chưa được đáp ứng đầy đủ.
* Các vấn xã hội khác
Tỷ lệ hộ đói nghèo còn cao, mức sống trung bình thấp kém so với khu vực và thế giới (năm 1997 thu nhập bình quân đầu người là 310$) chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng, ô nhiễm môi trường ở mức báo động.
2.1.3 Định hướng và mục tiêu
Nghị quyết Đại hội Đảng IX vạch ra đường lối kinh tế củ đất nước là: " Đẩy mạnh CNH-HĐH, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp, ưu tiên phát triển LLSX, đồng thời xây dựng QHSX phù hợp theo định hướng XHCN, phát huy cao độ nội lực đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường, kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường quốc phòng an ninh.
Trước mắt, mục tiêu tổng quát của kế hoạch 5 năm (2001- 2005) nêu rõ: tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng CNH-HĐH. Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Mở rộng kinh tế đối ngoại. Tạo chuyển biến mạnh về giáo dục đào tạo, KHCN, phát huy nhân tố con người. Tạo nhiều việc làm, cơ bản xoá hộ đói, giảm hộ nghèo, đẩy lùi tệ nạn xã hội. Tiếp tục tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, hình thành một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN...
Qua đó cho thấy CNH-HĐH vẫn là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu đối với Việt Nam. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam cũng rất triệt để, rõ ràng là coi trọng nhân tố con người, nguồn lực con người là yếu tố căn bản và quyết định cho thành công của mọi hoạt động kinh tế.
Mục tiêu tổng quát nêu trên đã được cụ thể hoá thành 7 định hướng và nhiệm vụ chủ yếu trong Nghịe quyết Đại hội IX. Trong đó có 2 nhiệm vụ đề cập tới phát triển nguồn nhân lực là:
- Tiếp tục đổi mới, tạo chuyển biến cơ bản, toàn diện về phát triển giáo dục đào tạo, KHCN, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực với cơ cấu hợp lý, triển khai thực hiện chương trình phổ cập trung học cơ sở, ứng dụng nhanh các công nghệ tiên tiến, hiện đại từng bước phát triển kinh tế tri thức.
- Giải quyết có hiệu quả những vấn đề xã hội bức xúc, tạo nhiều việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở cả thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn, cải cách cơ bản chế độ tiền lương, cơ bản xoá đói, giảm nhanh hộ nghèo, chăm sóc tốt người có công, an ninh xã hội, chống tệ nạn xã hội. Phát triển mạnh văn hoá, thông tin quốc tế và thể dục thể thao, nâng cao mức sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Đại hội IX cũng đề ra các chỉ tiêu định hướng cụ thể và phát triển nguồn nhân lực:
- Năm 2005, tỷ lệ học sinh PTCS trong độ tuổi là 80%, học sinh PTTH trong độ tuổi là 45%.
- Tiếp tục củng cố và duy trì mục tiêu phổ cập giáo dục tiểu học. Thực hiện chương trình phổ cập giáo dục THCS.
- Giảm tỷ lệ sinh bình quân năm: 0,5o/oo, tốc độ gia tăng dân số năm 2005: 1,7%
- Tạo việc làm, giải quyết thêm việc làm cho 7,5 triệu lao động, bình quân 1,5 triệu lao động/ năm, nâng tỷ lệ qua đào tạo tăng lên 30%.
Đối với GD - ĐT, Đảng khẳng định đây là quốc sách hàng đầu, từ đó đưa ra định hướng: Đưa học sinh trung học tăng 7% số học sinh tuyển mới vào đại học, cao đẳng tăng 5%/ năm. Đặc biệt chú trọng đào tạo đội ngũ lao động có chất lượng cao, mốt số ngành công nghiệp, kinh tế và quản lý nhà nước đáp ứng nhu cầu nhân lực và nhân tài đất nước. Số công nhân kỹ thuật tăng 11 - 12%/năm.
Từ những định hướng trên, Đảng ta dự báo: Cần giải quyết việc làm trong giai đoạn 2001 - 2005. Khu vực nông thôn chuyển mạnh cơ cấu sản xuất mùa vụ, cây trồng - vật nuôi, phát triển đa dạng ngành nghề thu hút trên 9 triệu lao động. Thành thị thu hút 1,78 triệu, tổng số lao động có việc làm là 11 triệu. Đến năm 2005, tỷ lệ thời gian sử dụng lao động ở nông thôn khoảng 80%, tỷ lệ chưa có việc làm ở thành thị là 5,4% số người trong độ tuổi.
Tóm lại, phát triển nguồn nhân lực là điều kiện tiền quyết, tiền đề căn bản để tiến hành CNH - HĐH đất nước. Được sự quan tâm của Đảng, trước những thuận lợi và khó khăn đặt ra, nguồn nhân lực Việt Nam cần phấn đấu hơn nữa để thực sự trở thành LLLĐ tiến bộ, hiện đại, là lực lượng đóng góp chủ lực cho CNH - HĐH.
2.2 Những giải pháp cơ bản nhằm phát triển nguồn nhân lực:
Để tìm ra giải pháp, trước hết cần tìm cách khắc phục những hạn chế, những tồn tại của nguồn nhân lực.
* Về GD - ĐT
Đây là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới nguồn nhân lực. Một nền GD - ĐT tốt với cơ cấu hợp lý, hệ thống phương pháp dạy và học tiên tiến, hiện đại sẽ có tác dụng tích cực lớn đối với nguồn nhân lực. Trong khi đó, ở Việt Nam, GD - ĐT vừa bất hợp lý về cơ cấu, vừa lạc hậu ở phương pháp giảng dạy - học tập.
Trước tiên, cần đẩy ạnh hơn nữa những cải cách trong giáo dục - đào tạo. Giáo dục mầm non cần được quan tâm nhiều hơn. Đây là giai đoạn chuyển tiếp cho trẻ từ người con trong gia đình thành người học trò trong nhà trường. Cần phải xoá bỏ việc bắt trẻ ở mầm non phải học như gần hết chương trình ở lớp 1. Việc làm này xuất phát từ suy nghĩ chủ quan của một số giáo viên. Chỉ cho trẻ làm quen với chữ cái, con số, khong bắt buộc phải học thêm, dạy thêm để vào lớp 1. Chấn chỉnh ngay tâm lý bằng mọi cách đưa con em vào trường chuyên lớp chọn. Năm 2002, cải cách bộ SGK lớp 1 và 6. Đây là một số nỗ lực lớn, là kết quả sau nhiều năm nghiên cứu của các thầy cô giáo, ccs chuyên gia. Tuy nhiên bộ sách này lại gây ra nhiều dư luận tranh cãi. Một bộ sách lớn như vậy nên chăng đưa ra thảo luận rộng rãi, tiến hành lấy ý kiến nhân dân, tiếp tục hoàn thiện và bổ sung để đạt được thống nhất trên diện rộng. Cải cách là tất yếu nhưng để cải cách đúng, theo đúng tiến bộ thì không đơn giản. Do đó các nhà giáo dục cần nhanh chóng kịp thời cải cách cho GD - ĐT phù hợp hơn với nhu cầu mới, đồng thời hết sức thận trọng, cân nhắc để ra được quyết định đúng đắn.
Các cấp THCS và PTTH cũng đang phấn đấu để đạt chuẩn phổ cập. Tuy nhiên hiện nay, tình trạng học sinh học thụ động rất phổ biến. Các bài tập phần lớn không phát huy sự tự giác và tính sáng tạo của học sinh. Giờ học lý thuyết nhiều song giờ thực hành ít, trong khi các phòng thí nghiệm, dụng cụ chuyên môn phục vụ môn học lại thiếu thốn, thậm chí có nơi không có. Hệ thống thư viện hầu như không phát triển. Các buổi hoạt động ngoại khoá còn ít, chưa đáp ứng mong muốn của học sinh. Vấn đề ở đây là giáo viên vẫn quen với phương pháp giảng dạy cũ: người thầy là trung tâm trong giờ học. Cần đổi mới phương pháp này: coi người trò mới là tung tâm trong hoạt động học tập, nghiên cứu. Người học tự tìm tòi, tự học, tự tích luỹ kiến thức cho mình còn người dạy làm nhiệm vụ phổ biến rộng rãi tới mọi trường học, mọi giáo viên, mọi học sinh. Nó sẽ giúp cho học sinh tự giác, cố gắng hơn. Một hiện tượng nữa cần khắc phục là việc dạy thêm, học thêm tràn lan, gây ra sự quá tải trong tiếp thu kiến thức của học sinh. Hơn thế, lĩnh vực này cũng nảy sinh nhiều tiêu cực: học sinh nghèo không thể học thêm, giáo viên cho biết trước đề thi, kiểm tra... Nhà nước cần quản lý chặt chẽ hơn các trung tâm dạy thêm tư nhân, đòi hỏi các trung tâm này có giấy phép hoạt động, thường xuyên báo cáo hoạt động của mình; có những quy định cụ thể, rõ ràng về việc nhà trường tổ chức dạy thêm, học thêm, thường xuyên thanh tra trường lớp, nâng lương giáo viên.
Năm 2002, lần đầu tiên thực hiện ba chung trong tuyển sinh đại học, cao đẳng. Phương pháp này đã tiết kiệm cho nhân dân hàng tỷ đồng, chưa kể đến chi phí thời gian, công sức, góp phần giải quyết vấn đề giao thông, quá tải dân số ở các đô thị lớn như Hà Nội, Thành Phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên cũng đã nảy sinh nhiều vấn đề ở khâu xét tuyển. Do đó, đây là một phương pháp mới có nhiều ưu điểm được nhân dân đồng tình ủng hộ, cần tiếp tục được thực thi song nên có sự đồng bộ, sự hợp tác chặt chẽ hơn giữa các trường và Bộ GD - ĐT để khắc phục những hạn chế còn tồn tại. Một hiện tượng cũng rất bức xúc hiện nay là vấn đề bằng giả, bằng thật. Bộ GD - ĐT cần phối hợp với cơ quan công an phát hiện, xử lý và thu hồi bằng giả.
Về đào tạo nghề, cần mở rộng hơn nữa quy mô các trường dạy nghề, đặc biệt với các nghề có chuyên môn kỹ thuật cao. Hiện nay, các trường dạy nghề đang lâm vào tình trạng thiếu kinh phí đào tạo.
Nguồn kinh phí nhà nước cấp không đủ để đào tạo nghề có chất lượng. Các trường dạy nghề vẫn giữ tình trạng "lấy ngắn nuôi dài" tức là ồ ạt đào tạo nghề ngắn hạn, phần nào sao nhãng nghề dài hạn. Tình trạng này gây nhiều khó khăn cho việc xây dựng nguồn nhân lực có tay nghề, kỹ thuật cao. Hiện nay, một số trường dạy nghề đã thực hiện 30% kinh phí do nhà nước cấp, 70% do nhà trường tự thu phí học phí học viên. Biện pháp này bước đầu có hiệu quả tích cực. Các trường nâng cao cơ sở vật chất, chất lượng đào tạo đồng thời tích cực hơn đào tạo nghề dài hạn. Vì vậy, các chính sách cần khuyến khích các trường tự tìm nguồn thu cho mình. Cần quy định chỉ tiêu cho các trường, cân đối số sinh viên và số người học nghề.
Đại hội Đảng IX đã đề ra " Phải thực hiện chuẩn hoá, hiện đại hóa, xã hội hoá giáo dục". Giáo dục không chỉ phải đổi mới theo hướng tiến bộ, phù hợp mà còn phải trở thành công việc của toàn dân, toàn xã hội. Việc thiếu vốn đầu tư cho giáo dục có thể khắc phục bằng huy động vốn trong dân, kêu gọi sự đóng góp cho cơ sở hạ tầng của trường học từ phía phụ huynh học sinh hoặc phát hành trái phiếu giáo dục. Cách này đã giúp xây dựng lại một số trường lớp tạm. Các trường dân lập được phép vay ngân hàng với lãi suất ưu đãi hơn. Trước đây, lĩnh vực giáo dục dân lập thu hút ít người đầu tư bởi chi phí cao, ít học sinh theo học, thu hồi vốn chậm mà không nhận được khuyến khích từ việc vay ngân hàng. Vì vậy, cần mở rộng quyền tự chủ cho các trường trong việc tự quyết toán nguồn thu chi cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngân hàng, nhất là các ngân hàng hỗ trợ giáo dục - đào tạo phát triển.
Giáo dục - đào tạo rất quan trọng với nguồn nhân lực. Những biện pháp đề ra ở trên nhằm đưa đến một nền giáo dục phát triển toàn diện con người, giúp con người được chuẩn bị sẵn sàng khi bước vào lực lượng lao động.
* Về y tế
Cần thực hiện xã hội hoá y tế. Mọi người dân cần được đảm bảo quyền khám chữa bệnh. Cần phát triển hơn nữa dịch vụ bảo hiểm, đặc biệt là bảo hiểm y tế. Ngành y tế cũng cần hiện đại hoá, nâng cao chất lượng phục vụ. Ngoài ra, các thầy thuốc cần phải rèn luyện cả trình độ chuyên môn và y đức để dịch vụ y tế thực sự trở nên gần gũi với nhân dân.
Phát triển mạnh mạng lưới y tế tới các vùng sâu, vùng xa để được như vậy phải có những điều kiện khuyến khích các y bác sĩ tới những nơi đó: cải thiện thu nhập, đẩy mạnh các công trình dân dụng và cơ sở kinh tế cho vùng sâu, vùng xa. Tại đây, đẩy mạnh các đợt tổ chức khám chữa bệnh cho các bà con của quân y.
Các cơ quan chức năng kiểm soát chặt chẽ tình trạng cấp bằng bác sỹ. Quan chức Bộ y tế phải kiểm soát được các loại thuốc trên thị trường, yêu cầu có chỉ dẫn tiếng Việt trên bao bì thuốc. Pháp luật trừng trị nghiêm khắc kẻ giả danh y bác sỹ hoặc kẻ tuyên truyền chữa bệnh bằng mê tín dị đoan gây hậu quả nghiêm trọng...Y tế hợp tác chặt chẽ với hải quan, sân bay, cửa khẩu ngăn chặn bệnh dịch từ ngoài vào. Đầu tư cho phòng bệnh là chính. Chính phủ tích cực trong công tác đàm phán ngoại giao, về vấn đề giảm giá thuốc nhập khẩu cho nước nghèo.
Tóm lại ngành y tế với nhiệm vụ chăm sóc, cải thiện và nâng cao sức khoẻ nhân dân cần làm tốt hơn nữa nhiệm vụ này để nguồn nhân lực Việt Nam không chỉ giỏi về trình độ mà còn khoẻ về thể chất.
* Về lao động - việc làm:
Hình thành thị trường lao động thực sự góp phần giải quyết việc làm và nhu cầu cần người của các doanh nghiệp, bằng cách thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng hoạt động hiệu quả hơn. Nếu chỉ khu vực Nhà nước tạo việc làm, chắc chắn nó sẽ không tận dụng hết những người lao động có chuyên môn và lãng phí lao động phổ thông. Vì vậy, cần khuyến khích cả doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cùng hoạt động, tạo ra nhiều việc làm.
Ngoài ra, Chính phủ mà cụ thể là Bộ LĐTB &XH cần quản lý chặt chẽ các trung tâm giới thiệu việc làm. Các xí nghiệp có thể trực tiếp tuyển dụng lao động cho mình mà không cần qua trung gian. Đối với lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, xuất hiện một mô hình mới đã được làm ở Thành phố Hồ Chí Minh là: các doanh nghiệp đặt hàng về yêu cầu và số lượng với UBND thành phố. Thành phố sẽ giao lại cho các đơn vị đào tạo. Bước đầu mô hình đã rất thành công. Theo đó, doanh nghiệp có được lao động mong muốn, người lao động được đảm bảo quyền lợi, các đơn vị dạy nghề hoạt động tốt hơn, nhà nước lại kiểm soát được tình hình cung ứng lao động. Các trung tâm, trường dạy nghề nên tích cực hơn tìm đầu ra cho số lao động mình đào tạo, vừa thu hút học viên, vừa mở thêm một hướng hoạt động cho các đơn vị này. Cần lập ra các quỹ hỗ trợ đào tạo nghề, động viên những người theo học, đầu tư trường, lớp.... Bộ cũng cần kiểm soát chặt chẽ các tổ chức, đơn vị đưa người đi xuất khẩu lao động, tránh tình trạng "qua cầu rút ván", người lao động bị lừa tiền của hoặc bị bỏ rơi ở nước ngoài. Phải đẩy mạnh xuất khẩu lao động qua đào tạo, giảm tỷ trọng lao động xuất khẩu thô.
Thực hiện và áp dụng nghiêm túc các điều trong Bộ luật lao động. Tăng cường thanh tra, kiểm tra các cơ sở kinh doanh các xí nghiệp về điều kiện làm việc của người lao động. Hiện nay công tác thanh tra còn yếu. Thanh tra lao động tách rời với thanh tra an toàn vệ sinh lao động. Do đó chưa phát hiện hết những sai phạm của nhiều doanh nghiệp. Trước tiên cần buộc doanh nghiệp và người lao động ký kết hợp đồng (với lao động từ 3 tháng trở lên). Các doanh nghiệp phải thực thi chế độ đãi ngộ (lương, thưởng...), điều kiện làm việc hợp lý. việc này cần được kiểm tra thường xuyên bởi thanh tra Nhà nước. Phổ biến các điều luật, quy định về an toàn vệ sinh lao động cho mọi người lao động. Bảo hiểm xã hội cần đến được với mọi người dân, đặc biệt những người lao động. Công đoàn phát huy tích cực vai trò của mình trong việc bảo vệ quyền lợi người công nhân, đi sát hơn với đời sống công nhân và phản ánh nguyện vọng của họ với các doanh nghiệp.
Lao động-việc làm là lĩnh vực được rất nhiều người quan tâm bởi nó ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống người lao động, tới tình hình ổn định kinh tế-chính trị của một quốc gia. Khi Nhà nước tạo điều kiện cho nguồn nhân lực phát triển sẽ là một tiền đề vô cùng quan trọng cho CNH, HĐN.
* Về các chính sách khác:
Giảm tốc độ gia tăng dân số, tăng vốn đầu tư cho bảo vệ môi trường nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống, phát huy nội lực đồng thời tranh thủ sự hợp tác giúp đỡ quốc tế: cử chuyên gia, học sinh đi học tập ở nước ngoài, đẩy mạnh giao lưu, trao đổi các đoàn công tác giữa các nước.
Kết luận
Đề tài khoa học về "Một số vấn đề phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho quá trình CNH-HĐH ở Việt Nam" rút ra một số kết luận sau:
1. Chủ trương của Đảng, Nhà nước về nguồn nhân lực có thể tóm gọn lại là: nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Điều đó càng cho thấy tầm quan trọng của nguồn nhân lực trong công cuộc CNH-HĐH. Quy mô, chất lượng của nguồn nhân lực càng tiến bộ sẽ cho phép một quốc gia tiến hành CNH, HĐH càng thành công.
Nguồn nhân lực chính là lực lượng lao động mà khi nhìn vào đó, người ta có thể đánh giá trình độ phát triển yếu tố ảnh hưởng như giáo dục-đào tạo, y tế, các chính sách xã hội của Nhà nước...Vì vậy, một nước có nguồn nhân lực phát triển, tiến bộ thì có nghĩa là có giáo dục-đào tạo, y tế, kinh tế phát triển và như vậy thì chắc chắn có một trình độ phát triển cao.
2. Trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam, nguồn nhân lực càng có vai trò quan trọng. Trong 4 nguồn lực cơ bản để tăng trưởng, phát triển kinh tế, Việt Nam đang thiếu vốn, cạn kiệt tài nguyên, thấp kém về trình độ KHCN nhưng có nguồn lao động dồi dào với tầng lớp tri thức và những người có tay nghề, chuyên môn kỹ thuật ngày càng tăng. Trong khi đó vốn tài nguyên thiên nhiên là những nguồn lực có giới hạn thì nguồn nhân lực và khoa học công nghệ là không có giới hạn. Việt Nam chưa có KHCN thực sự phát triển, vì vậy nguồn nhân lực chính là một thế mạnh. Nguồn nhân lực phát triển sẽ thu hút vốn đầu tư, khai thác tài nguyên tốt hơn, nâng cao trình độ KHCN và từ đó dẫn tới tăng trưởng kinh tế. Do đó, với điều kiện của Việt Nam, cần phải đặc biệt chú trọng phát triển thế mạnh nguồn nhân lực.
3. Với thực trạng Việt Nam, phát triển nguồn nhân lực phụ thuộc rất nhiều vào giáo dục-đào tạo. Chính vì thế cần hết sức tạo thuận lợi, ưu tiên cho sự nghiệp giáo dục-đào tạo, coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, đồng thời phải giải quyết tốt các vấn đề xã hội về lao động, việc làm, khắc phục những hạn chế cản trở nguồn nhân lực phát triển.
Ngày nay, nguồn nhân lực đã trở thành một khái niệm công cụ để điều hành, thực thi chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Trong phạm vi nghiên cứu, đề tài đã chỉ ra thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam và nêu một số giải pháp cụ thể.
Em xin chân thành cảm ơn giáo viên hướng dẫn, thạc sỹ Vũ Thị Dậu đã tận tình chỉ bảo, sửa chữa trong quá trình viết bài.
Tài liệu tham khảo
* Giáo trình kinh tế học
* Giáo trình kinh tế học phát triển
* Giáo trình quản trị nhân lực
* Phạm Minh Hạc - Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào CNH-HĐH.
* Số liệu thống kê kinh tế - xã hội Việt Nam 1975-2000
* Số liệu thống kê kinh tế - xã hội Việt Nam 1975-2001
* Tạp chí: Thời trang kinh tế 1999-2000, 2000-2001, 2001-2002
Đầu tư số tháng 11,12/2002 và tháng 1,2,3/2003
* Tìm hiểu đường lối kinh tế trong nghị quyết Đại hội Đảng IX
* Văn kiện Đại hội Đảng IX
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35510.doc