Thuế GTGT có nguồn gốc từ thuế doanh thu được nghiên cứu, áp dụng từ sau Đại chiến thế giới lần thứ nhất (1914-1918) nhằm động viên sự đóng góp rộng rãi của quảng đại quần chúng nhân dân cho nhu cầu chi tiêu của Nhà nước, để nhanh chóng hàn gắn vến thương chiến tranh. Thuế doanh thu được áp dụng ở Pháp từ năm 1917. Thời kỳ đầu, thuế doanh thu chỉ đánh ở giai đoạn cuối cùng của quá trình lưu thông hàng hoá (khâu bán lẻ), với thuế suất rất thấp. Đầu năm 1920, thuế doanh thu được điều chỉnh, đánh vào từng khâu của quá trình sản xuất. Trong thực tế, cánh đánh thuế này đã phát sinh nhược điểm về tính chất trùng lắp. Nói cách khác, quá trình sản xuất ra sản phẩm càng qua nhiều khâu thì thuế càng cao và thuế chồng lên thuế. Để khắc phục nhược điểm này, năm 1936, Pháp đã cải tiến thuế doanh thu qua hình thức đánh thuế một lần vào công đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất (từ là khi sản phẩm được đưa vào lưu thông lần đầu). Như vậy, việc đánh thuế độc lập, một lần với độ dài của quá trình sản xuất, khắc phục được hiện tặng đánh thuế trùng lắp trước đó. Tuy nhiên, chính sách thuế này lại phát sinh nhược điểm là việc thu thuế bị chậm trễ so với trước, vì chỉ khi sản phẩm được đưa vào khâu lưu thông lần đầu, Nhà nước mới thu được thuế,.
26 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1272 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số vấn đề về phương pháp tính và hạch toán thuế giá trị gia tăng ở các doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời nói đầu
Kế toán là một bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống công cụ quản lý kinh tế, tài chính , có vai trò tích cực trong quản lý,điều hành và kiểm soát các hoạt động kinh tế. Một công cụ quan trọng giúp Nhà nước thực hiện vai trò điều tiết, quản lý của mình đó là thuế.
Nước ta từ một nền kinh tế kế hoạch hoá chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Vì vậy kinh tế của nước ta không ngừng phát triển. Trong sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế các doanh nghiệp không chỉ chịu tác động của các quy luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường mà còn chịu sự tác động, điều tiết quản lý của Nhà nước.
Trong bước chuyển biến của nền kinh tế, thuế hiện tại không còn phù hợp và cùng với xu thế hoà nhập khu vực và quốc tế cần có những sắc thuế phù hợp. Do đó trong chương trình công tác cải cách thuế bước hai (1998-2000) Bộ Tài chính đã đưa ra các loại thuế mới thay thế các thuế không còn phù hợp và đưa thêm các loại thuế mới phát sinh mà Nhà nước cần phải thu.
Một trong những bước cải cách này đó là thuế doanh thu được thay thế bằng thuế Giá trị gia tăng (GTGT) mà Quốc hội đã thông qua có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-1999.
Đối với các doanh nghiệp, trong công tác hạch toán kế toán nói riêng, việc áp dụng Luật thuế mới đã dẫn đến những thay đổi đáng kể trong hầu hết các phần hành của công tác kế toán. Sẽ không ít vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện và hoàn thiện về cách tính và hạch toán thuế GTGT. Chính vì vậy mà em chọn đề tài:
“Một số vấn đề về phương pháp tính và hạch toán thuế GTGT ở các doanh nghiệp”.
Nội dung đề án bao gồm:
Phần I : Lý luận chung về thuế và thuế giá trị gia tăng.
Phần II : Một số ý kiến hoàn thiện về phương pháp tính và hạch toán thuế GTGT trong các doanh nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Chu Thành và thày cô giáo trong khoa đã nhiệt tình hướng dẫn giúp em hoàn thành đề án này.
phần I
Lý luận chung về thuế và thuế giá trị gia tăng
I-/ Thực trạng của hệ thống thuế nước ta:
1-/ Vai trò của thuế và thực trạng hệ thống thuế nước ta:
a-/ Thuế và vai trò của thuế:
Thuế được xem như là một nguyên tố đặc biệt có ý nghĩa xã hội, kinh tế, chính trị, lịch sử và là “công cụ” động viên có tính chất bắt buộc, được quy định bằng luật và không hoàn trả trực tiếp.
Để đảm bảo cho các nhu cầu chi tiêu cho các mục đích phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia thì thuế là nguồn thu Ngân sách chủ yếu. ở nước ta hiện nay và trong những năm sau này, thuế phải tiếp tục trở thành công cụ tài chính quan trọng giúp Nhà nước điều hành quản lý điều tiết nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển hơn.
Ngoài ra chính sách thuế còn là một bộ phận của chính sách tài chính quốc gia, có tầm quan trọng đặc biệt vì nó mang tính chất chính trị, kinh tế - xã hội tổng hợp. Một chính sách thuế đúng đắn và thống nhất sẽ từng bước đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế, góp phần xây dựng một cơ cấu kinh tế giữa các ngành nghề, giữa các địa phương, giữa thị trường trong nước và ngoài nước, tham gia có hiệu quả vào sự phân công và hiệp tác lao động quốc tế. Chính sách thuế không chỉ liên quan đến các hoạt động sản xuất, đầu tư và tiết kiệm của xã hội mà nó còn liên quan chặt chẽ đến việc giải quyết lợi ích giữa ba chủ thể: Nhà nước, doanh nghiệp và từng người dân. Mặt khác, chính sách thuế còn làm bật dậy mọi tiềm năng của đất nước, đóng góp tích cực vào việc đảm bảo công bằng xã hội, bảo đảm sự tăng trưởng kinh tế cho đất nước.
b-/ Thực trạng của hệ thống thuế nước ta:
Hệ thống thuế nước ta đã được cải cách cơ bản từ cuối năm 1990, các Luật và Pháp lệnh thuế mới đã lần lượt được ban hành và từng bước được thực hiện đã có tác dụng điều tiết mạnh mẽ nền kinh tế thị trường đang phát triển, nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa và tạo ra những tiền đề cho việc tiếp tục cải cách chính sách thuế của Nhà nước ta.
Những loại thuế chính chia làm ba nhóm: Các loại thuế đánh vào thu nhập hay còn gọi là thuế trực tiếp, các loại đánh vào hàng tiêu dùng hay thuế gián tiếp, các loại thuế đánh vào tài sản hay thuế của cải, áp dụng thống nhất cho mọi thành phần kinh tế. Bao gồm các Luật và Pháp lệnh thuế như:
Luật thuế doanh thu; Luật thuế tiêu thụ đặc biệt; Luật thuế xuất, nhập khẩu; Luật thuế lợi tức; Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp; Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất; Pháp lệnh thuế thu nhập; Pháp lệnh thuế tài nguyên; Pháp lệnh thuế nhà đất.
Và một loạt các loại thuế khác như thuế môn bài, thuế sát sinh, thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, lệ phí mang sắc thuế như lệ phí trước bạ, lệ phí bay qua bầu trời, lệ phí giao thông như phí cầu, phà,...
ở nước ta thời kỳ bao cấp, thuế thường chỉ mới bảo đảm được khoảng 50-60% tổng số thu của Ngân sách Nhà nước, lúc đó còn phải dựa vào viện trợ, vay nợ. Đến nay nguồn thu từ nước ngoài, nhất là các khoản viện trợ cho không đã giảm nhiều. Quan hệ kinh tế đối ngoại đã chuyển dần sang cơ chế có vay có trả, cả hai bên cùng có lợi. Thuế đã chiếm khoảng 80-90% tổng số thu Ngân sách Nhà nước, đáp ứng được nhu cầu chi tiêu thường xuyên của Nhà nước, giảm tỉ lệ bội chi, góp phần hạn chế và đẩy lùi lạm phát, bước đầu đã ổn định được giá cả và tiền tệ và đã có phần tích luỹ cho nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng và trả nợ,... Các kết quả đạt được của hệ thống thuế không chỉ thể hiện trong tổng thu ngân sách mà nó còn được thể hiện qua các mặt kinh tế, xã hội khác.
Tuy nhiên bên cạnh đó, hệ thống thuế mới trong quá trình kiểm nghiệm trong thực tế những năm qua cũng đã bộc lộ một số mặt tồn tại đó là: các sắc thuế trong hệ thống được thiết kế tách rời, chưa gắn bó hỗ trợ lẫn nhau nên không phát huy được tác dụng đồng bộ của hệ thống thuế. Mặt khác cơ cấu thuế suất thường phức tạp, có nhiều thuế suất khác nhau, trong khi đó nội dung của luật thuế và các văn bản hướng dẫn lại không quy định rõ ràng, cụ thể. Đặc biệt với thuế xuất khẩu, nhập khẩu thì biểu thuế còn quá nhiều mặt hàng và thuế suất khác nhau. Do đó có thể thấy hệ thống thuế của ta vẫn còn phức tạp, chưa phù hợp với điều kiện và trình độ của cán bộ quản lý thuế, chưa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp yên tâm phát triển sản xuất kinh doanh.
Ngoài ra, chính sách thuế hiện hành còn chưa bao quát được hết các đối tượng thu và nguồn thu, về cơ bản vẫn chưa khắc phục được tình trạng thu chồng chéo, trùng lắp ở các khâu (thể hiện rõ ở thuế doanh thu), còn chưa công bằng; phân biệt giữa kinh tế quốc doanh và ngoài quốc doanh, giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài và còn chưa phù hợp với tình hình kinh tế xã hội đã và đang biến đổi hiện nay.
Do đó, việc tiếp tục hoàn thiện chính sách thuế của Nhà nước ta là cần thiết, việc thay đổi thuế Giá trị gia tăng cho thuế doanh thu điểm mốc đánh dấu (được thực hiện từ ngày 1-1-1999) là một bước ngoặt lớn cho quá trình đổi mới và hoàn thiện này.
2-/ Sự cần thiết phải áp dụng thuế GTGT ở Việt Nam:
Trong hệ thống thuế nước ta, loại thuế gián tiếp quan trọng nhất là thuế doanh thu với tổng thu tương ứng khoảng 3-4% GDP mỗi năm. Nhưng thuế doanh thu là một loại thuế phức tạp, có nhiều mức thuế suất khác nhau và biểu hiện trong khoảng rộng trên cơ sở giá bao gồm cả thuể (trong đó có cả thuế nhập khẩu). Do đó nó có một số tồn tại sau:
Thứ nhất, diện thu thuế bị thu hẹp và đánh thuế doanh thu với nhiều mức thuế suất tuỳ theo nguồn doanh thu là một việc không thể thực hiện được, vì thế cán bộ thu thuế phải dựa vào kinh nghiệm để xác định mức thuế dẫn tới hiện tượng thương lượng thuế giữa cán bộ thuế và đối tượng nộp thuế, khó tránh khỏi tiêu cực.
Thứ hai, cơ chế thuế này đòi hỏi lưu trữ hồ sơ đầy đủ, đây là một vấn đề khó khăn với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Thứ ba, vì thuế chồng chéo nhiều khi tạo khả năng cho người sản xuất tiến hành liên kết ngang dọc để tránh một số khâu chịu thuế, gây ra hiện tượng trốn thuế.
Thứ tư, thuế doanh thu trên thực tế hầu như không thể loại bỏ hoàn toàn yếu tố cấu thành trong giá hàng xuất khẩu nền trong khuyến khích xuất khẩu. Mặt khác, về nhập khẩu, thuế doanh thu không được thu ngay khi hàng nhập vào cửa khẩu có thể dẫn tới tình trạng thất thu thuế, nhất là đối với công ty tư nhân.
Những tồn tại của thuế doanh thu có thể được giải quyết căn bản bằng thuế GTGT.
Thuế GTGT là thuế đánh trên giá tự tăng thêm, tức là đánh trên giá trị chênh lệch giữa các khoản bán ra của một doanh nghiệp với khoản mua vào về chi phí vật chất và dịch vụ từ các doanh nghiệp khác. Thuế GTGT đã khắc phục được các nhược điểm của thuế doanh thu, cụ thể là:
Thứ nhất, thuế GTGT đánh vào tiêu thụ nên nó được thu ở mọi khâu của quá trình sản xuất cho nên việc thu thuế ở khâu sau còn kiểm tra được việc nộp thuế ở khâu trước nên hạn chế thất thu, lượng thuế thực thu sẽ tăng lên rất mạnh.
Thứ hai, về kỹ thuật tính toán, có thể tách thuế này ra khỏi giá thành hàng xuất khẩu một cách dễ dàng và không những không phải hợp thuế GTGT ở khâu xuất khẩu mà còn được thoái trả toàn bộ số thuế GTGT đã nộp ở các khâu trước cho nên nó khuyến khích mạnh mẽ việc đẩy mạnh xuất khẩu.
Thứ ba, bản chất thuế GTGT là mang tính trung lập về mặt kinh tế. Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh chỉ là khâu trung gian, thu thuế hộ Nhà nước rồi nộp vào kho bạc Nhà nước. Chính vì thế mà thuế GTGT khắc phục được nhược điểm là thuế đánh chồng lên thuế của thuế doanh thu, tạo nên mặt bằng cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp với nhau, từ đó thúc đẩy các doanh nghiệp tích cực tổ chức cơ cấu lại bộ máy quản lý và dây chuyền công nghệ.
Thứ tư, thuế GTGT có diện bao quát rộng, bao gồm hầu như toàn bộ các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế. Vì vậy về lâu dài thuế GTGT sẽ làm tăng thu ngân sách và là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước.
Ngoài ra, việc áp dụng thuế GTGT sẽ giảm bớt mức thuế suất (bốn mức thuế suất). Khuyến khích các doanh nghiệp giữ sổ sách kế toán tốt hơn, kích thích mạnh mẽ việc sử dụng hoá đơn, tạo điều kiện cho việc kiểm tra và thanh tra tài chính. Mặt khác khi triển khai áp dụng thuế GTGT sẽ góp phần đổi mới tư duy về cơ chế thu nộp thuế (tự động kê khai, tự động nộp thuế, thực hiện kiểm tra sau) và cho phép nền kinh tế nước ta nói chung tiếng nói với các nước trong khu vực và thế giới trong lĩnh vực thuế.
II-/ Một số nội dung cơ bản của thuế GTGT:
1-/ Quá trình ra đời và phát triển của thuế GTGT trên thế giới:
Thuế GTGT có nguồn gốc từ thuế doanh thu được nghiên cứu, áp dụng từ sau Đại chiến thế giới lần thứ nhất (1914-1918) nhằm động viên sự đóng góp rộng rãi của quảng đại quần chúng nhân dân cho nhu cầu chi tiêu của Nhà nước, để nhanh chóng hàn gắn vến thương chiến tranh. Thuế doanh thu được áp dụng ở Pháp từ năm 1917. Thời kỳ đầu, thuế doanh thu chỉ đánh ở giai đoạn cuối cùng của quá trình lưu thông hàng hoá (khâu bán lẻ), với thuế suất rất thấp. Đầu năm 1920, thuế doanh thu được điều chỉnh, đánh vào từng khâu của quá trình sản xuất. Trong thực tế, cánh đánh thuế này đã phát sinh nhược điểm về tính chất trùng lắp. Nói cách khác, quá trình sản xuất ra sản phẩm càng qua nhiều khâu thì thuế càng cao và thuế chồng lên thuế. Để khắc phục nhược điểm này, năm 1936, Pháp đã cải tiến thuế doanh thu qua hình thức đánh thuế một lần vào công đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất (từ là khi sản phẩm được đưa vào lưu thông lần đầu). Như vậy, việc đánh thuế độc lập, một lần với độ dài của quá trình sản xuất, khắc phục được hiện tặng đánh thuế trùng lắp trước đó. Tuy nhiên, chính sách thuế này lại phát sinh nhược điểm là việc thu thuế bị chậm trễ so với trước, vì chỉ khi sản phẩm được đưa vào khâu lưu thông lần đầu, Nhà nước mới thu được thuế,...
Qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung, thuế doanh thu vẫn còn nhược điểm nổi bật là thuế thu chồng chéo, trùng lắp,... Đến năm 1954, Chính phủ Pháp đã ban hành loại thuế mới với tên gọi là thuế giá trị gia tăng “theo tiếng Pháp là TAXE SUR LA VALEUR AJOUTéE (được viết tắt là T.V.A). Lúc đầu TVA được ban hành để áp dụng trước đối với ngành sản xuất, chủ yếu nhằm hạn chế việc thu thuế chồng chéo qua nhiều khâu trong lĩnh vực công nghiệp, với thuế suất đồng loạt là 20% và chỉ khấu trừ thuế ở khâu trước đối với nguyên liệu, vật liệu. Quá trình thống nhất hoá Châu Âu được thúc đẩy vào những năm 50 đã có tác dụng thuận lợi để TVA được triển khai nhanh chóng ở các nước khác. Đến năm 1966, trong xu hướng cải tiến hệ thống thuế “đơn giản và hiện đại” chung ở Châu Âu, TVA được ban hành chính thức để thay thế một số sắc thuế gián thu.
Khai sinh từ nước Pháp, thuế TGGT đã nhanh chóng được áp dụng rộng rãi trên thế giới, trở thành nguồn thu quan trọng của nhiều nước. Đến nay đã có trên 100 nước áp dụng thuế TGGT, chủ yếu là các nước Châu Phi, Châu Mỹ La Tinh, các nước trong khối Cộng đồng Châu Âu (EC) và một số nước Châu á.
Về tên gọi, có nhiều nơi gọi là thuế trị giá gia tăng như Pháp, Anh, Thuỵ Điển,... Một số nước gọi là thuế hàng hoá và dịch vụ như Canada, Niu-Di-Lân,... ở một số nước Phần Lan, áo, Đức là thuế doanh thu và họ cho rằng đây không phải là sắc thuế mới mà vẫn là thuế doanh thu, chỉ được thay đổi nội dung và biện pháp thu.
2-/ Đối tượng chịu thuế, đối tượng nộp thuế:
Theo Điều 2 của Luật thuế GTGT: hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam là đối tượng chịu thuế GTGT.
Theo Điều 3 của Luật thuế: tổ chức, cá nhân sản suất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế (gọi chung là cơ sở kinh doanh) và tổ chức, cá nhân khác nhập khẩu hàng hoá chịu thuế (gọi chung là người nhập khẩu) là đối tượng nộp thuế GTGT. Đối tượng không chịu thuế GTGT gồm 26 loại hàng hoá, dịch vụ được quy định rõ.
3-/ Căn cứ tính thuế GTGT:
Căn cứ tính thuế GTGT là: số lượng hàng hoá, dịch vụ, giá tính thuế đơn vị và thuế suất.
a-/ Giá tính thuế:
Đối với hàng hoá, dịch vụ sản xuất trong nước, giá tính thuế GTGT là giá bán chưa có thuế GTGT. Đối với hàng hoá nhập khẩu, giá tính thuế GTGT là giá nhập khẩu (giá CIF) cộng với thuế nhập khẩu.
Một số quy định cụ thể:
- Đối với hàng hoá bán theo phương thức trả góp, giá tính thuế GTGT là giá bán của hàng hoá tính theo giá bán trả một lần, không tính theo số tiền trả từng kỳ.
- Đối với hoạt động gia tăng hàng hoá, giá tính thuế GTGT là giá gia công.
- Các trường hợp khác như: hàng hoá mang trao đổi, biếu tặng, sử dụng tiêu dùng nội bộ, giá tính thuế GTGT là giá tính thuế của hàng hoá cùng loại tương đương, với hoạt động cho thuê tài sản giá tính thuế là số tiền thu từng kỳ.
- Giá tính thuế GTGT bao gồm cả khoản phụ thu, phối thu thêm mà cơ sở kinh doanh không được hưởng.
b-/ Thuế suất:
Thuế GTGT có 4 mức thuế suất là 0%, 5%, 10% và 20%. Trong đó:
- Mức thuế 0% đối với hàng xuẩt khẩu.
- Mức thuế suất 5% đối với các mặt hàng thiết yếu, hiện đang chịu thuế doanh thu với thuế suất thấp như: nước, phân bón, thuốc trừ sâu, thuốc chữa bệnh, thiết bị và dụng cụ y tế, giáo cụ để giảng dạy và học tập, đồ chơi trẻ em, sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi,...
- Mức thuế suất 20% đối với hàng hoá, dịch vụ chưa khuyến khích tiêu dùng hiện đang chịu thuế doanh thu với mức thuế suất cao như: vàng bạc, đá quý, khách sạn, du lịch, ăn uống, đại lý tàu biển, môi giới,...
- Mức thuế suất 10% đối với hàng hoá, dịch vụ khác.
4-/ Hoàn thuế GTGT:
Các trường hợp được hoàn thuế GTGT:
Đối với cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế, được xét hoàn thuế trong các trường hợp:
ã Có số thuế đầu vào của các tháng trong quý thường xuyên lớn hơn số thuế đầu ra phát sinh các tháng trong quý hoặc nếu có số kinh doanh.
ã Xuất khẩu mặt hàng theo thời vụ hoặc theo từng lần xuất khẩu với số lượng lớn, nếu phát sinh số thuế đầu vào được khấu trừ lớn thì được xét hoàn thuế GTGT theo từng kỳ hoặc tháng.
Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế nếu có đầu tư, mua sắm tài sản cố định, có số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ lớn được hoàn thuế như sau:
ã Đối với cơ sở đầu tư mới đã đăng ký nộp thuế nhưng chưa có phát sinh doanh thu bán hàng để tính thuế GTGT đầu ra, nếu thời gian đầu tư một năm trở lên được xét hoàn thuế đầu vào theo từng năm. Trường hợp số thuế GTGT đầu vào lớn thì được xét hoàn thuế từng quý.
ã Đối với cơ sở kinh doanh đầu tư mở rộng, đầu tư chiều sâu, nếu số thuế GTGT đầu vào của tài sản đầu tư đã khấu trừ trong 3 tháng (kể từ tháng phát sinh thuế) mà chưa được khấu trừ hết thì được hoàn lại số thuế chưa được khấu trừ này.
Cơ sở kinh doanh quyết toán thuế khi sát nhập, hợp nhất, chia tách, giải thể, phá sản có thuế GTGT nộp thừa có quyền đề nghị cơ quan thuế hoàn thuế.
Ngoài ra cơ sở kinh doanh còn được hoàn thuế trong trường hợp có quyết định của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật: Quyết định của Bộ trưởng Bộ Tài chính yêu cầu phải hoàn trả lại thuế cho cơ sở kinh doanh.
Phần II
Một số ý kiến hoàn thiện về phương pháp tính và hạch toán thuế GTGT trong các doanh nghiệp
I-/ Phương pháp tính thuế GTGT:
1-/ Phương pháp tính thuế GTGT:
Từ khái niệm về giá trị gia tăng và TGTGT, các nhà kinh tế đã đưa ra 4 phương pháp cơ bản của việc tính thuế GTGT:
- Phương pháp cộng trực tiếp: theo phương pháp này thì thuế GTGT phải nộp được tính bằng cách lấy thuế suất (t) nhân với giá trị tăng thêm được hiểu là tiền công và lợi nhuận. Cụ thể:
Thuế GTGT phải nộp = t x (tiền công + lợi nhuận)
- Phương pháp cộng gián tiếp: theo phương pháp này thuế GTGT phải nộp được tính căn cứ vào từng thành phần riêng biệt của giá trị tăng thêm.
Thuế GTGT phải nộp t x tiền công + t x lợi nhuận
- Phương pháp trừ trực tiếp: theo phương pháp này thuế GTGT phải nộp được tính dựa trên cơ sở tính trị giá tăng thêm là chênh lệch giữa giá đầu ra và giá đầu vào, cụ thể là:
Thuế GTGT phải nộp = t x (giá đầu ra - giá đầu vào)
- Phương pháp trừ gián tiếp: còn gọi là phương pháp hoá đơn hoặc phương pháp khấu trừ. Theo phương pháp này, thuế GTGT phải nộp được xác định trên cơ sở lấy thuế tính trên giá đầu ra trừ đi thuế tính trên giá đầu vào, cụ thể:
Thuế GTGT phải nộp = (t x giá đầu ra) - (t x giá đầu vào)
Trong 4 phương pháp tính thuế GTGT nói trên thì 3 phương pháp đầu hầu như chỉ tồn tại trên lý thuyết, ít được áp dụng trong thực tế. Riêng phương pháp trừ gián tiếp (hay phương pháp khấu trừ) được áp dụng phổ biến vì việc tính thuế phải nộp dựa vào hoá đơn - bằng chứng của nghiệp vụ kinh doanh - gắn nghĩa vụ nộp thuế với nghiệp vụ kinh doanh của cơ sở cho nên có ưu điểm nổi trội hơn hẳn những phương pháp khác về mặt kỹ thuật và luật pháp. Mặt khác phương pháp tính thuế dựa vào hoá đơn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự theo dõi, kiểm tra của cơ quan quản lý, thu thuế và người ta có thể tính được nghĩa vụ nộp thuế một cách kịp thời và tương đối chính xác cho một năm tài chính.
ở nước ta, theo thông tư số 89/1998/TT-BTC hướng dẫn thi hành chi tiết luật thuế giá trị giá tăng thì việc tính thuế giá trị gia tăng phải nộp được áp dụng theo 2 phương pháp: phương pháp trừ gián tiếp (hay phương pháp khấu trừ) và phương pháp trừ trực tiếp.
Theo phương pháp trừ:
Số thu GTGT phải nộp = Thuế GTGT đầu ra - Thuế GTGT đầu vào
Trong đó:
= x
Theo phương pháp tính thuế trực tiếp trên GTGT:
= -
Trong đó:
= -
Việc tính thuế GTGT theo từng phương pháp được áp dụng đối với từng đối tượng cụ thể: phương pháp khấu trừ thuế được áp dụng đối với cơ sở kinh doanh đã thực hiện tốt chế độ sổ sách kế toán, mua bán hàng có hoá đơn, còn phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng được áp dụng với cơ sở kinh doanh chưa thực hiện đầy đủ các điều kiện về kế toán, hoá đơn và các cơ sở kinh doanh mua bán vàng bạc, đá quý.
2-/ Chứng từ kế toán:
Để thực hiện kế toán thuế GTGT các cơ sở kinh doanh phải thực hiện chế độ hoá đơn chứng từ theo quy định hiện hành của Bộ Tài chính. Dưới đây là một số hoá đơn, chứng từ có liên quan:
Hoá đơn giá trị gia tăng: Các cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế khi bán hàng hoá, dịch vụ phải sử dụng “Hoá đơn giá trị gia tăng” do Bộ Tài chính phát hành (trừ trường hợp được dùng chứng từ ghi giá thanh toán là giá có thuế GTGT). Khi lập hoá đơn bán hàng hoá, dịch vụ cơ sở kinh doanh phải ghi đầy đủ các yếu tố quy định và ghi rõ: giá bán (chưa thuế), các phụ thu và tính ngoài giá bán (nếu có), thuế GTGT và tổng giá thanh toán.
Hoá đơn bán hàng: Do Bộ Tài chính phát hành, được sử dụng ở các cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp và khi lập hoá đơn cơ sở kinh doanh cũng phải ghi đầy đủ, đúng các yếu tố quy định và ghi rõ giá bán, các phụ thu (nếu có) và tổng giá thanh toán.
Hoá đơn tự in, chứng từ đặc thù: Các hoá đơn này muốn được sử dụng phải đăng ký với Bộ Tài chính (Tổng cục thuế) và chỉ được sử dụng sau khi được chấp thuận bằng văn bản. Loại hoá đơn này cũng phải đảm bảo phản ánh đầy đủ các thông tin quy định của hoá đơn, chứng từ.
Với các chứng từ đặc thù như tem bưu điện, vé máy bay, vé sổ xố,... giá trên vé là giá đã có thuế GTGT.
Bảng kê bán lẻ hàng hoá, dịch vụ: Trường hợp này được áp dụng đối với cơ sở kinh doanh trực tiếp cung ứng, dịch vụ, hàng hoá cho người tiêu dùng không thuộc diện phải lập hoá đơn bán hàng thì phải lập bảng kê bán lẻ hàng hoá, dịch vụ theo mẫu quy định.
Bảng kê thu mua nông sản, lâm sản, thuỷ sản của người trực tiếp sản xuất: Trường hợp này được áp dụng đối với cơ sở sản xuất, chế biến mua hàng hoá là các mặt hàng nông, lâm, thuỷ sản của sản xuất trực tiếp bán ra thì phải lập “Bảng kê thu mua hàng nông sản, lâm sản, thuỷ sản của người sản xuất trực tiếp” theo mẫu quy định.
II-/ Hạch toán thuế giá trị gia tăng ở các doanh nghiệp:
Phần 1: Phương pháp hạch toán thuế GTGT đối với cơ sở kinh doanh nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế.
A-/ Hạch toán thuế GTGT đầu vào:
1-/ Tài khoản sử dụng:
Tài khoản 133 : Thuế GTGT được khấu trừ.
Tài khoản này dùng để phản ánh số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ, đã khấu trừ và còn được khấu trừ.
Bên Nợ: Số thuế GTGT đầu vào đã được khấu trừ.
Bên Có: Số thuế GTGT đầu vào đã khấu trừ.
Kết chuyển số thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ.
Số thuế GTGT đầu vào đã hoàn lại.
Số dư Nợ: VAT còn được khấu trừ được hoàn trả nhưng ngân sách chưa hoàn trả.
Tài khoản 133 có 2 tài khoản cấp 2:
TK 1331 - Thuế GTGT được khấu trừ của hàng hoá, dịch vụ.
TK 1332 - Thuế GTGT được khấu trừ của tài sản cố định.
2-/ Nguyên tắc hạch toán TK 133:
- TK 133 chỉ áp dụng đối với cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế, không áp dụng đối với cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp và cơ sở kinh doanh không thuộc diện chịu thuế GTGT.
- Đối với hàng hoá, dịch vụ mua vào dùng đồng thời cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT và không chịu thuế GTGT thì cơ sở kinh doanh phải hạch toán riêng thuế GTGT đầu vào được khấu trừ và thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ.
- Trường hợp không thể hạch toán riêng được thì số thuế GTGT đầu vào được hạch toán vào TK 133. Cuối kỳ kế toán phải xác định số thuế GTGT được khấu trừ theo tỷ lệ % giữa doanh thu chịu thuế GTGT so với tổng doanh thu bán ra. Số thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ được tính vào giá vốn của hàng hoá bán ra trong kỳ. Nếu số thuế GTGT không được khấu trừ có giá trị lớn thì tính vào giá vốn hàng bán ra trong kỳ tương ứng với doanh thu trong kỳ, số còn lại được tính vào giá vốn của hàng hoá bán ra kỳ kế toán sau.
- Trường hợp cơ sở kinh doanh mua hàng hoá, dịch vụ dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT hoặc dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp, dùng vào hoạt động sự nghiệp, dự án, hoặc dùng vào hoạt động văn hoá, phúc lợi mà được trang trải bằng các nguồn kinh phí khác, thì số thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ và không hạch toán vào TK 133. Số thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ được tính vào giá trị của vật tư, hàng hoá, tài sản cố định, dịch vụ mua vào.
- Trường hợp hàng hoá, dịch vụ mua vào được dùng hoá đơn, chứng từ đặc biệt ghi giá thanh toán là giá đã có thuế GTGT thì cơ sở kinh doanh căn cứ vào giá hàng hoá, dịch vụ mua vào đã có thuế để xác định giá không có thuế từ đó xác định thuế GTGT đầu vào.
Công thức:
=
= x
- Trường hợp cơ sở sản xuất, chế biến nguyên vật liệu là nông, lâm, thuỷ sản chưa qua chế biến của người sản xuất trực tiếp bán ra không có hoá đơn, căn cứ vào bảng kê thu mua hàng hoá nông sản, lâm sản, thuỷ sản tính ra số thuế GTGT đầu vào theo tỷ lệ % tính trên giá trị hàng hoá mua vào theo quy định trong chế độ thuế GTGT.
- Thuế GTGT đầu vào phát sinh trong tháng nào thì được kê khai khấu trừ khi xác định thuế GTGT phải nộp của tháng đó.
Nếu số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ lớn số thuế GTGT đầu ra thì chỉ khấu trừ thuế GTGT đầu vào bằng số thuế GTGT đầu ra của tháng đó, số còn lại được khấu trừ tiếp vào kỳ thuế sau hoặc xét hoàn thuế theo chế độ quy định.
3-/ Nguyên tắc hạch toán giá trị vật tư, hàng hoá, tài sản cố định, dịch vụ mua vào:
Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế, giá trị vật tư hàng hoá, tài sản cố định, dịch vụ mua vào là giá mua thực tế không có thuế GTGT đầu vào.
4-/ Phương pháp hạch toán:
- Khi mua vật tư, hàng hoá, tài sản cố định dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế, căn cứ vào hoá đơn GTGT và các chứng từ liên quan, kế toán phản ánh giá trị vật tư, hàng hoá nhập kho theo giá thực tế bao gồm giá mua chưa có thuế GTGT, chi phí thu mua, vận chuyển, bốc xếp, thuế kho bãi,... từ nơi mua về đến doanh nghiệp ghi:
Nợ TK 152,153,156 (611) : Giá trị thực tế NVL, công cụ, hàng hoá mua vào.
Nợ TK 211 : Nguyên giá tài sản cố định.
Nợ TK 133 : Thuế giá trị gia tăng đầu vào.
Có TK 111,112,311... Tổng giá thanh toán.
- Khi mua vật tư, hàng hoá, tài sản cố định dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ không chịu thuế GTGT hoặc dùng vào hoạt động sự nghiệp, dự án, hoạt động phúc lợi,... được trang trải bằng các nguồn kinh phí khác.
Giá trị vật tư, hàng hoá, dịch vụ là ồ số tiền thanh toán:
Nợ TK 152,153,156 (611) : Giá trị thực tế, công cụ, hàng hoá + TVA đầu vào.
Nợ TK 211 : Nguyên giá + TVA đầu vào.
Có TK 111,112,331 : Tổng giá thanh toán.
- Khi mua hàng hoá giao bán ngay (thuộc đối tượng chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế) cho khách hàng không qua nhập kho, ghi:
Nợ TK 632 : Giá mua chưa có thuế GTGT đầu vào.
Nợ TK 133 : Thuế GTGT được khấu trừ.
Có TK 111,112,331 : Tổng giá thanh toán.
- Khi nhập khẩu hàng hoá, kế toán phản ánh giá trị vật tư, hàng hoá, thiết bị nhập khẩu bao gồm tổng số tiền phải thanh toán cho người bán, thuế nhập khẩu phải nộp, chi phí thu mua vận chuyển, ghi:
Nợ TK 152,156,211
Có TK 3333 - Thuế xuất, nhập khẩu.
Có TK 111,112,331...
- Đối với thuế GTGT hàng nhập khẩu:
+ Nếu hàng hoá nhập khẩu dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thì thuế GTGT hàng nhập khẩu sẽ được khấu trừ, ghi:
Nợ TK 133 : Thuế GTGT được khấu trừ.
Có TK 3331 (TK 33312) : Thuế GTGT hàng nhập khẩu.
+ Nếu hàng hoá nhập khẩu dùng vào hoạt động sản xuất, kinh doanh, hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế GTGT hoặc nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp hoặc dùng vào hoạt động sự nghiệp, chương trình, dự án, hoạt động văn hoá, phúc lợi,... được trang trải bằng nguồn kinh phí khác thì thuế GTGT phải nộp của hàng nhập khẩu được tính vào giá trị hàng hoá mua vào, ghi:
Nợ TK 152,156,211 : Giá mua cả thuế nhập khẩu, VAT
Có TK 111,112,331 : Giá mua ngoài thuế.
Có TK 3333 : Thuế xuất, nhập khẩu.
Có TK 3331 (TK 33312) : Thuế GTGT của hàng nhập khẩu.
Khi nộp thuế GTGT hàng hoá nhập khẩu vào ngân sách Nhà nước, ghi:
Nợ TK 3331 (TK 33312) : Thuế giá trị gia tăng phải nộp.
Có TK 111,112
- Khi mua vật tư hàng hoá, dịch vụ, tài sản cố định dùng vào sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế GTGT hoặc dùng vào hoạt động sự nghiệp, dự án, hoạt động văn hoá, phúc lợi được trang trải bằng các nguồn kinh phí khác thì giá trị vật tư hàng hoá, dịch vụ mua ngoài bao gồm tổng số tiền phải thanh toán cho người trả (giá cả thuế) và chi phí thu mua, vận chuyển:
Nợ TK 152,153,211 : Giá bao gồm cả thuế GTGT
Có TK 111,112,331...
- Đối với vật tư, hàng hoá mua về dùng đồng thời cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá dịch vụ chịu thuế và không chịu thuế GTGT nhưng không tách riêng được, ghi:
Nợ TK 152,153,156,211 : Giá mua chưa có thuế GTGT
Nợ TK 133 : Thuế GTGT đầu vào.
Có TK 111,112,331...
Cuối kỳ, kế toán tính và xác định thuế GTGT đầu vào được khấu trừ, không được khấu trừ trên cơ sở phân bổ theo tỷ lệ doanh thu. Số thuế đầu vào được tính khấu trừ theo tỉ lệ (%) giữa doanh thu chịu thuế GTGT so với tổng doanh thu trong kỳ và ghi:
+ Số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ trong kỳ:
Nợ TK 3331 - Thuế GTGT phải nộp.
Có TK 133 - Thuế GTGT được khấu trừ.
+ Số thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ trong kỳ:
ã Số thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ tính vào giá vốn hàng bán trong kỳ:
Nợ TK 632 - Giá vốn hàng bán.
Có TK 133 - Thuế GTGT được khấu trừ.
ã Số thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ trong kỳ tính vào giá vốn hàng bán của kỳ sau, ghi:
Nợ TK 142 - Chi phí trả trước.
Có TK 133 - Thuế GTGT được khấu trừ.
Khi tính số thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ vào giá vốn của hàng bán của kỳ kế toán sau, ghi:
Nợ TK 632 - Giá vốn hàng bán.
Có TK 142 - Chi phí trả trước.
- Khi xuất hàng hoá dùng để khuyến mại, tiếp thị, quảng cáo không tính thuế GTGT đầu ra thì chỉ được khấu trừ thuế GTGT đầu vào của số hàng hoá này tương ứng với giá trị hàng hoá khuyến mại, quảng cáo tính trong khoản chi phí khác tương ứng với tỷ lệ % so với tổng chi phí hợp lý tính thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp quy định đối với doanh nghiệp. Số thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ của hàng hoá khuyến mại, quảng cáo vượt tỉ lệ % so với tổng số chi phí hợp lý tính thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp, ghi:
Nợ TK 641 - Chi phí bán hàng (chi tiết khuyến mại, quảng cáo)
Có TK 133 - Thuế GTGT được khấu trừ.
- Cơ sở sản xuất sắt, thép thuộc đối tượng tính thuế GTGT phải nộp theo phương pháp khấu trừ thuế khi thu gom sắt, thép phế liệu để làm nguyên liệu sản xuất sắt, thép, được khấu trừ 5% trên giá trị sắt, thép phế liệu mua vào. Căn cứ vào hoá đơn, chứng từ, bảng kê mua sắt thép, phế liệu, kế toán tính:
= x 5%
= -
và phản ánh:
Nợ TK 152 : Giá mua chưa có thuế GTGT.
Nợ TK 133 : Thuế giá trị gia tăng được khấu trừ.
Có TK 111,112,331 : Tổng giá thanh toán.
Đối với doanh nghiệp có tổ chức đơn vị trực thuộc làm nhiệm vụ thu mua sắt, thép phế liệu để cung ứng cho đơn vị sản xuất thuộc doanh nghiệp theo giá chỉ định của doanh nghiệp thì đơn vị thu mua được khấu trừ 5% trên giá trị sắt thép phế liệu mua vào. ở đơn vị trực thuộc làm nhiệm vụ thu mua sắt thép phế liệu, căn cứ vào chứng từ, hoá đơn mua sắt thép phế liệu để tính thuế GTGT đầu vào được khấu trừ, giá mua chưa có thuế GTGT và kế toán như trên.
Đơn vị trực thuộc khi bán sắt, thép phế liệu cho cơ sở sản xuất, bên bán phải viết hoá đơn GTGT và kế toán doanh thu bán sắt, thép phế liẹu theo giá bán chưa có thuế GTGT, ghi:
Nợ TK 111,112,136 : Tổng giá thanh toán
Có TK 3331 - Thuế GTGT phải nộp.
Có TK 512 - Doanh thu bán hàng nội bộ (giá bán chưa có thuế GTGT).
- Các tổ chức, các doanh nghiệp thương mại mua hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt của cơ sở sản xuất bán được khấu trừ 3% tính trên giá hàng hoá mua vào theo chế độ quy định. Kế toán căn cứ vào hoá đơn mua vào tính thuế GTGT đầu vào được khấu trừ 3% trên giá thanh toán, tính giá mua chưa có thuế GTGT (cách tính đối với cơ sở mua sắt thép phế liệu), ghi:
Nợ TK 156,157,632 : Giá mua chưa có thuế GTGT
Nợ TK 133 : Thuế GTGT được khấu trừ
Có TK 111,112,331 : Tổng giá thanh toán
- Trường hợp cơ sở sản xuất chế biến mua nguyên liệu là nông sản, lâm sản, thuỷ sản chưa qua chế biến của người sản xuất bán ra không có hoá đơn để phục vụ chế biến sẽ được khấu trừ thuế đầu vào 3% hoặc 5% quy định tính trên giá trị hàng hoá mua vào. Kế toán căn cứ vào bảng kê mua hàng, (cách tính như đối với cơ sở sản xuất mua sắt, thép phế liệu,...) tính số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ, tính giá mua chưa có thuế và hạch toán:
Nợ TK 152,621 : Giá mua chưa có thuế GTGT.
Nợ TK 133 - Thuế GTGT được khấu trừ.
Có TK 111,112,331 : Tổng giá thanh toán.
- Khi mua hàng phải trả lại (thuộc đối tượng chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ), căn cứ vào chứng từ xuất hàng trả lại cho bên bán và các chứng từ liên quan, ghi:
Nợ TK 111,112,331 : Tổng giá thanh toán.
Có TK 133 - Thuế GTGT được khấu trừ.
Có TK 152,153,156,211 : Giá mua chưa có thuế GTGT.
- Khi mua TSCĐ có hoá đơn GTGT dung chung vào hoạt động sản xuất, kinh doanh chụi thuế GTGT và không chịu thuế GTGT, kế toán phản ánh giá trị TSCĐ theo giá mua chưa có thuế GTGT, thuế GTGT đầu vào được phản ánh vào TK 133. Cuối kỳ kế toán và xác định số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ và không được khấu trừ trên cơ sở tỷ lệ doanh thu chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ và doanh thu không chịu thuế so với tổng doanh thu trong kỳ. Số thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ được hạch toán vào các chi phí có liên quan sử dụng tài sản cố định, ghi:
+ Trường hợp số thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ lớn, ghi:
Nợ TK 142 - Chi phí trả trước
Có TK 133 - Thuế GTGT được khấu trừ
Khi phân bổ số thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ vào chi phí, ghi:
Nợ TK 627,641,642...
Có TK 142 - Chi phí trả trước
+ Trường hợp số thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ nhỏ, ghi:
Nợ TK 627,641,642,...
Có TK 133 - Thuế GTGT được khấu trừ
- Khi phát sinh các khoản chi trợ cấp thôi việc cho người lao động, các khoản chi nghiên cứu khoa học, nghiên cứu đổi mới công nghệ, chi sáng kiến, chi đào tạo nâng cao tay nghề công nhân, chi bảo vệ môi trường, chi cho lao động nữ,... ghi:
Nợ TK 642 - Chi phí quản lý doanh nghiệp.
Nợ TK 133 - Thuế GTGT được khấu trừ (nếu có)
Có TK 111,112,331,...
b-/ Hạch toán thuế GTGT đầu ra:
1-/ Tài khoản sử dụng:
TK 3331: Thuế GTGT phải nộp:
TK này dùng để phản ánh số thuế GTGT đầu ra, số thuế GTGT phải nộp, số thuế giá trị gia tăng đã nộp và còn phải nộp vào ngân sách Nhà nước.
- Bên Nợ phản ánh: Số thuế GTGT đầu vào đã khấu trừ.
Số thuế GTGT được giảm trừ vào số thuế GTGT phải nộp.
Số thuế GTGT đã nộp vào ngân sách Nhà nước.
Số thuế, giá trị GT của hàng bán bị trả lại.
- Bên Có p hản ánh: Số thuế GTGT đầu ra phải nộp của hàng hoá, dịch vụ đã tiêu thụ. Số thuế GTGT đầu ra phải nộp của hàng hoá, dịch vụ dùng để trao đổi, biếu tặng, sử dụng nội bộ. Số thuế GTGT phải nộp của thu nhập hoạt động tài chính bất thường. Số thuế GTGT phải nộp của hàng hoá nhập khẩu.
- Số dư bên Có: VAT còn phải nộp cuối kỳ.
- Số dư bên Nợ: Số thuế GTGT đã nộp thừa vào ngân sách Nhà nước.
TK 3331 có 2 tài khoản cấp 3:
TK 33311 : Thuế GTGT đầu ra.
Dùng để phản ánh số thuế GTGT đầu ra, số thuế GTGT phải nộp, đã nộp, còn phải nộp của hàng hoá, sản phẩm, dịch vụ tiêu thụ.
TK 33312 : Thuế GTGT hàng nhập khẩu.
Dùng để phản ánh thuế GTGT phải nộp, đã nộp, còn phải nộp của hàng nhập khẩu.
TK 3331 áp dụng cho cả các cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế và cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp trên GTGT.
2-/ Phương pháp xác định thuế GTGT đầu ra, thuế GTGT phải nộp:
* Tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ:
= -
= x
3-/ Phương pháp hạch toán:
- Khi bán hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế, căn cứ vào hoá đơn GTGT, kế toán ghi:
Nợ TK 111,112,131 : Tổng giá thanh toán.
Có TK 3331 : Thuế GTGT đầu ra.
Có TK 511,512 : Giá chưa có thuế GTGT
- Khi bán hàng hoá, dịch vụ không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT hoặc chịu thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp, kế toán phản ánh doanh thu bán hàng là tổng giá thanh toán:
Nợ TK 111,112,133 : Tổng giá thanh toán.
Có TK 511,512 : Tổng giá thanh toán.
- Đối với hoạt động cho thuê tài sản có nhận trước tiền cho thuê của nhiều năm thì doanh thu của từng năm là tổng số tiền cho thuê chia cho số năm thuê tài sản. Khi nhận trước, kế toán phản ánh doanh thu nhận trước là giá chưa có thuế GTGT.
Nợ TK 111,112 : Tổng số tiền nhận trước.
Có TK 3387 : Doanh thu trước chưa có thuế GTGT.
Có TK 3331 : Thuế GTGT.
Đồng thời tính và kết chuyển doanh thu kỳ kế toán:
Doanh thu của kỳ kế toán
Sang kỳ kế toán sau, tính và kết chuyển doanh thu của kỳ kế toán:
Số doanh thu của kỳ kế toán sau
Số tiền phải trả cho khách hàng vì hợp đồng cung cấp dịch vụ về cho thuê tài sản không được thực hiện, ghi:
Nợ TK 3387 : Giá chưa có thuế GTGT
Nợ TK 531 : Trường hợp đã ghi doanh thu trong kỳ theo giá chưa thu.
Nợ TK 3331 : Số tiền trả lại cho người đi thuê về thuế GTGT của hoạt động thuê tài sản không thực hiện được.
Có TK 111,112,3388 : Tổng số tiền trả lại.
- Khi phát sinh các khoản thu nhập từ hoạt động tài chính, các khoản thu nhập bất thường thuộc đối tượng chịu thuế theo phương pháp khấu trừ, ghi:
Nợ TK 111,112,138 : Tổng giá thanh toán.
Có TK 3331 (33311) : Thuế GTGT.
Có TK 711,721 : Giá chưa có thuế GTGT.
- Trường hợp bán hàng theo phương pháp trả góp, doanh thu bán hàng là doanh thu là giá bán trả một lần chưa có thuế GTGT, ghi:
Nợ TK 111,112,131 : ồ giá thanh toán.
Có TK 3331 : Thuế GTGT.
Có TK 511 : Doanh thu bán hàng (ngoài thuế).
Có TK 711 : Lãi bán hàng trả chậm.
- Bán hàng theo phương thức hàng đổi hàng:
+ Nếu bán hàng đổi lấy hàng hoá để sử dụng cho hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ, để phản ánh doanh thu bán hàng là giá bán chưa có thuế GTGT:
Nợ TK 131 : Tổng giá thanh toán.
Có TK 3331 : Thuế GTGT.
Có TK 511 : Giá không có thuế GTGT.
Khi nhận được vật tư hàng hoá trao đổi, ghi:
Nợ TK 152,153,156,211 : Giá mua chưa có thuế GTGT.
Nợ TK 133 : Thuế GTGT được khấu trừ.
Có TK 131 : ồ giá thanh toán.
III-/ Một số ý kiến hoàn thiện về phương pháp tính và hạch toán thuế GTGT:
1-/ Về đối tượng chịu thuế GTGT:
Đặc điểm của thuế GTGT là có diện bao quát rộng, bao gồm hầu như toàn bộ các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế, đó là mảng tiêu dùng thu nhập đã có.
Theo Điều 3 Luật thuế GTGT và Điều 3 NĐ 28/1998/NĐ - CP thì tất cả các tổ chức, cá nhân có hoạt động sản xuất kinh doanh, kinh doanh hàng hóa,... đều là đối tượng nộp thuế GTGT. Vấn đề đặt ra ở đây là việc thu thuế một cách bao quát như vậy có hiệu quả hay không. Số thuế thu được trong một số trường hợp có bù đắp được chi phí cho việc quản lý thu thuế của một số trường hợp cụ thể hay không? đó là việc thu thuế ở các hộ kinh doanh nhỏ. ở nước ta việc thu thuế ở các đối tượng này rất khó khăn và phức tạp nên chăng loại trừ một số hộ kinh doanh nhỏ ra khỏi đối tượng nộp thuế GTGT và dùng sắc thuế khác để điều chỉnh.
ở các nước, nhằm nâng cao tính hiệu quả của chính sách thuế họ quy định mức doanh thu bình quân tháng hoặc năm để giới hạn đối tượng nộp thuế. Cụ thể như Philippines quy định doanh thu của các doanh nghiệp hàng năm dưới 200.000 pê xô thì không phải là đối tượng nộp thuế GTGT, Thuỵ Điển là dưới 200.000 SEK,...
Ngoài ra, việc xác định đối tượng chịu thuế và không chịu thuế GTGT sẽ gây ra hiện tượng phân đoạn các hoạt động kinh tế, gây tác động khấu trừ thuế GTGT để các đơn vị đáp ứng đủ điều kiện của thuế GTGT đều được khấu trừ thuế. Và trong quy định phải thật đơn giản nhưng rõ ràng tránh mọi khả năng phân đoạn nền kinh tế một cách bất lợi như trên.
2-/ Về thuế suất thuế GTGT:
Một trong những ưu điểm của thuế GTGT so với thuế doanh thu là có ít mức thuế suất (4 mức thuế suất) nhưng chính điều này lại không đảm bảo yêu cầu công bằng trong chính sách động viên giữa người giầu và người nghèo. Vì thuế GTGT có ít mức thuế suất cho nên người tiêu dùng có thu nhập cao hay thấp thường phải nộp thuế giống nhau. Do đó thuế mang tính luỹ thoái. Tỉ lệ động viên qua thuế GTGT của người có thu nhập thấp lại lớn hơn tỷ lệ động viên đối với người có thu nhập cao.
Nhưng cũng chính điều này, hiện nay với 4 mức thuế suất ở ta là quá phức tạp và lạc hậu so với tiến bộ của thuế GTGT hiện đại. Đa số các nước công nghiệp phát triển đều áp dụng một mức thuế ưu đãi (khoảng 5%) và một mức thông dụng (khoảng 10%) ngoài mức 0% dành cho xuất khẩu. Điều này gây nhập nhằng và tuỳ tiện khi vận dụng, tạo cơ hội cho trốn lậu thuế. Tăng chi phí cho việc thanh tra kiểm soát thuế.
Do đó việc quy định thuế GTGT một cách đơn giản để nâng cao tính hiệu lực pháp lý của thuế GTGT thì lại mâu thuẫn với một trong những vai trò của chính sách thuế như đã nêu trên, đó là đảm bảo sự công bằng xã hội.
3-/ Về phương pháp tính thuế GTGT:
Luật thuế GTGT của Việt Nam quy định áp dụng hai phương pháp tính thuế GTGT là phương pháp khấu trừ thuế và phương pháp tính thuế trực tiếp trên giá trị gia tăng. Với hai phương pháp này đã tạo ra sự khác biệt giữa các doanh nghiệp áp dụng phương pháp tính thuế khác nhau. Theo phương pháp khấu trừ thuế:
= -
Theo phương pháp này, mỗi một ngường trung gian trong các khâu luân chuyển thu từng phần thuế và thanh toán lại cho ngân sách. Luật thuế GTGT khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng phương pháp khấu trừ và khi áp dụng doanh nghiệp phải thực hiện đầy đủ chế độ hoá đơn chứng từ. Về phương pháp tính thuế này không có gì phải làm thêm, nhưng đối với phương pháp tính thuế trực tiếp trên GTGT thì:
= x
Mà GTGT của hàng hoá, dịch vụ là khoản chênh lệch giữa giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ bán ra và giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ mua vào tương ứng với loại hàng hoá bán ra. Cách tính trên cho thấy vẫn còn có hiện tượng thuế chồng thuế. Để khắc phục nhược điểm này, theo kinh nghiệm của một số nước bằng cách áp dụng phương pháp quy đổi thuế suất GTGT (theo luật thuế) thành thuế suất tính theo giá thanh toán như sau:
Y =
Trong đó: X là thuế suất thuế GTGT theo Luật thuế.
Y là thuế suất GTGT quy đổi.
Và căn cứ vào thuế suất quy đổi (Y) và giá thanh toán trên hoá đơn GTGT ta có thể xác định được thuế GTGT phải nộp và từ đó xác định được cả giá bán. Đây là một cách tính hợp lý, có thể tham khảo vận dụng.
3-/ Về phương pháp hạch toán thuế GTGT:
Để thực hiện được thuế GTGT, công tác hạch toán kế toán, tổ chức chứng từ thanh toán phải rất khoa học. Đây là công việc phải có thời gian hoàn thiện và nâng cao chất lượng công tác kế toán. Việc kế toán thuế GTGT được hướng dẫn một cách cụ thể trong thông tư số 100/1998/TT-BTC ngày 15/7/1998 và được sửa đổi, bổ sung bởi các thông tư số 180/1998/TT-BTC ngày 26-12-1998 và thông tư số 120/1999/TT-BTC.
Đối với kế toán thuế GTGT em xin đưa ra một số ý kiến sau:
- Đối với vật tư hàng hoá mua về dùng đồng thời cho sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT và không chịu thuế GTGT. Đối với trường hợp không thể hạch toán riêng số thuế GTGT đầu vào thì toàn bộ số thuế GTGT đầu vào sẽ được hạch toán vào TK 133. Chu kì kế toán xác định số thuế GTGT được khấu trừ theo tỷ lệ (%) giữa doanh thu chịu thuế GTGT so với tổng doanh thu bán ra, số thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ tính vào giá vốn của hàng hoá bán ra trong kỳ.
Trường hợp thuế GTGT không được khấu trừ có giá trị lớn thì được tính vào giá vốn của hàng hoá bán ra trong kỳ tương ứng với doanh thu trong kỳ, số còn lại được tính vào giá vốn hàng bán ra của kỳ kế toán sau.
Quy định này là không khoa học bởi vì: nếu kỳ kế toán sau doanh thu đạt thấp đơn vị vẫn phải kết chuyển toàn bộ thuế GTGT không được khấu trừ vào giá vốn hàng bán, sẽ gây nên tình trạng lỗ giả.
Vì thuế GTGT không được khấu trừ là một bộ phận xác định chính xác kết quả kinh doanh, nên phân bổ dần thuế GTGT không được khấu trừ tương ứng với doanh thu thực hiện qua các kỳ kế toán như sau:
Kỳ này:
Nợ TK 142 - Chi phí trả trước.
Có TK 133 - Thuế GTGT được khấu trừ.
Các kỳ sau:
Nợ TK 632 - Giá vốn hàng bán.
Có TK 142 - Chi phí trả trước.
Việc hạch toán như vậy sẽ hợp lý hơn và tránh được tình trạng lỗ giả của doanh nghiệp.
- Đối với các đơn vị nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp quy định: Thuế GTGT được hạch toán và chi phí quản lý doanh nghiệp (TK 642). Điều này không phản ánh đúng bản chất của nội dung nghiệp vụ bởi vì chi phí quản lý doanh nghiệp là một chỉ tiêu có liên quan đến việc phản ánh chất lượng công tác quản lý doanh nghiệp. Thông qua TK này có thể đánh giá công tác quản lý doanh nghiệp có hiệu quả hay không. Cho nên ở đây cũng giống như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, thuế GTGT nên hạch toán giảm doanh thu (TK 511):
Nợ TK 511 : Doanh thu bán hàng.
Có TK 3331 : Thuế GTGT phải nộp.
Hạch toán như vậy ngoài chỉ rõ bản chất của nghiệp vụ nó còn giảm thiểu các bút toán đơn lẻ tránh được sự phức tạp cho quá trình thực hiện kế toán thuế GTGT.
- Đối với các khoản chiết khấu bán hàng, theo quy định mới được đưa vào chi phí hoạt động tài chính, bởi vậy doanh nghiệp không được ghi giảm số thuế GTGT phải nộp. Đây là điều hợp lý vì nếu được giảm thuế trong chiết khấu bán hàng thì doanh nghiệp có thể thoả thuận với khách hàng từ đó tìm cách gian lận, giảm thuế thông qua việc khai tăng chiết khấu bán hàng. Đối với giảm giá hàng bán, lẽ ra cũng phải quy định tương tự (không được ghi giảm thuế GTGT phải nộp trên khoản giảm giá). Vì doanh nghiệp thông qua việc giảm giá đã thực sự tiêu thụ được hàng. Đã phát sinh doanh nghiệp. Giảm giá chính là điều kiện mà doanh nghiệp phải đánh đổi để có thể tiêu thụ được nhiều sản phẩm hơn sau khi đã cân nhắc lợi ích nào cao hơn giữa hai phương án này. Nhưng đối với hàng bán bị trả lại (TK 531) thì việc giảm thuế GTGT trên khoản hàng bị trả lại là hợp lý vì thực tế doanh nghiệp không tiêu thụ được hàng không phát sinh doanh thu.
4-/ Hoàn thuế GTGT:
Về vấn đề hoàn thuế GTGT cho các doanh nghiệp, đặc biệt là trong trường hợp đầu tư tài sản cố định cho sản xuất kinh doanh. Do giá trị tài sản là lớn nên số thuế GTGT đầu vào tính trên tỷ lệ (%) của tài sản là một khoản tài sản không phải là nhỏ. Đối với Nhà nước, việc hoàn lại tức thời cho doanh nghiệp số thuế GTGT đầu vào phát sinh lớn hơn so với số thuế GTGT đầu ra của doanh nghiệp, có thể gây ra giảm thu tạm thời. Nhưng về phía các doanh nghiệp số dư nợ của TK 133 quá lớn trong thời gian dài (3 tháng đối với tài sản cố định đầu tư mở rộng chiều sâu, quý hoặc năm đối với tài sản cố định đầu tư mới) làm chậm vòng quay vốn của doanh nghiệp, giảm hiệu quả hoạt động của đồng vốn và đôi khi doanh nghiệp chịu mất đi những cơ hội kinh doanh do thiếu vốn.
Như vậy cần có một cơ chế hoàn thuế hợp lý, bởi vì xét về lâu dài đồng vốn ở trong tay doanh nghiệp sẽ đem lại hiệu quả hơn việc đảm bảo số thu tạm thời của Nhà nước và khi đồng vốn đưa vào kinh doanh Nhà nước sẽ tăng thu (phát sinh thuế).
Trong luật thuế hiện nay, Nhà nước ta đã cố gắng thực hiện việc hoàn thuế một cách nhanh chóng và thuận lợi cho doanh nghiệp, song trên thực tế sẽ không tránh khỏi sự trậm trễ, phức tạp do những người thực hiện tạo nên.
Kết luận
Thuế GTGT là một sắc thuế tiến bộ,khuyến khích các cơ sở thực hiện tốt chế độ thanh toán. Mặc dù trong nó cũng còn không ít nhược điểm như về Chính phủ quản lý, thu thuế tốn kém, thiếu linh hoạt mềm dẻo không thật thích hợp với nền kinh tế mới bước đầu chuyển sang nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế tham gia. Nhưng chúng ta không thể phủ nhận những ưu điểm của nó.Thuế GTGT nói chung và về hạch toán kế toán nói riêng sẽ được bổ sung hoàn thiện dần trong quá trình thực hiện.
“Một số vấn đề về phương pháp tính và hạch toán thuế Giá trị gia tăng ở các doanh nghiệp” là một đề tài rộng và xung quanh nó sẽ không ít vấn đề nảy sinh, được bàn cãi. Do trình độ bản thân cũng như thời gian nghiên cứu có hạn nên không thể tránh khỏi những sai xót trong đề án này. Em kính mong sự góp ý của các thầy cô và các bạn. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo đã giúp đỡ em hoàn thành đề án này.
Tài liệu tham khảo
1-/ Giáo trình lý thuyết hạch toán kế toán.
2-/ Thông tư số 100/1998/TT-BTC, ngày 15-7-1998.
3-/ Thông tư số 180/1998/TT-BTC, ngày 26-12-1998.
4-/ Thông tư số 178/1998/TT-BTC, ngày 26-12-1998.
5-/ Lý thuyết và thực hành kinh tế chính trị.
Chủ biên - PTS - Phạm Văn Công.
6-/ Thuế và kế toán thuế Giá trị gia tăng, thuế TNDN.
Tác giả Ngô Thế Chi.
7-/ Tạp chí nghiên cứu kinh tế - số 12/1998.
8-/ Tạp chí Nhà nước và pháp luật - số 3/1996.
9-/ Tạp chí kinh tế và phát triển - số 17/1997.
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5959.doc