Trong điều kiện hiện nay của nhà nước Việt Nam chúng ta, nhất là sau những vụ tham nhũng lớn đã và đang được phanh phui, chúng ta đều nhận ra những khiếm khuyết trong tổ chức và hoạt động của nhà nước, nhất là trong quản lý nhà nước về kinh tế, quản lý vốn đầu tư. Do đó muốn xây dựng một nhà nước pháp quyền ở nước ta thì hiện nay phải nhấn mạnh đến tiêu chí chống tham nhũng, xây dựng một nhà nước không dung túng tham nhũng.
Nhà nước pháp quyền có rất nhiều tiêu chí đòi hỏi khác nhau: Thứ nhất là tính tối cao của hiến pháp, luật, thứ hai là Nhà nước phải bảo vệ nhân quyền, thứ ba, Nhà nước phải phân quyền, thứ tư Nhà nước phải chịu trách nhiệm trước nhân dân và nhân dân phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước và thứ năm là Nhà nước phải có tư pháp (tòa án) độc lập.
Khi sinh ra học thuyết phân quyền, các tác giả của nó cũng suy nghĩ Nhà nước cũng như cơ thể con người. Tham nhũng phải được xem xét như là một căn bệnh địch. Kiểu gì Nhà nước cũng mắc phải nếu như không có những biện pháp phòng ngừa hữu hiệu. Vì vậy một Nhà nước anh minh, dân chủ nào cũng phải có chủ trương chống tham nhũng. Mà đã là bệnh dịch thì không còn một cách chữa nào khác là trước hết phải bằng cách phòng bệnh, tức là phải tiêm "vắc-xin" vào cơ thể của Nhà nước.
Như vậy, tham nhũng là một căn bệnh của nhân loại. Và cũng như các loại bệnh tật khác, nó là khuyết tật tự nhiên mang tính bản năng, là một phần thuộc về bản chất đời sống con người. Chính vì vậy, dù có căm thù hay nguyền rủa tham nhũng đến mức nào, chúng ta cũng không thể xóa sạch được tham nhũng, đơn giản vì chúng ta không thể tiêu diệt con người. Chúng ta không thể chỉ nhìn tham nhũng dưới con mắt của một nhà tội phạm học mà phải nghiên cứu nó một cách toàn diện và biện chứng dưới những khía cạnh khác nhau của đời sống kinh tế - xã hội. Chỉ có cách nhìn đúng đắn và khách quan mới giúp chúng ta có được những phương thuốc hiệu nghiệm để chế ngự, hay ít nhất là hạn chế thứ bệnh dịch xã hội này.
26 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2231 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số vấn đề về tham nhũng và chống tham nhũng ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hóa hay mở doanh nghiệp tạo công ăn việc làm là những điều tốt, nhưng nhiều doanh nhân vẫn phải chi tiền để được phép làm những việc tốt này.
Loại “phá hoại” xảy ra khi chi tiền để làm được điều xấu. Ví dụ như buôn lậu là xấu, nhưng nhiều kẻ vẫn chi tiền để làm được điều này.
Loại “bôi trơn” xảy ra khi vui vẻ chi tiền để đẩy nhanh tiến độ. Ví dụ như khi sắp hết giờ làm việc, người dân chi một khoản khuyến khích để anh công chức làm thêm giờ và hoàn thành thủ tục ngay trong ngày.
Dường như loại ba là hiền hòa và vô hại. Tổng cục Hải quan đã từng ra quy định cán bộ Hải quan đi kiểm hóa ngoài giờ được phép nhận tiền bồi dưỡng của khách hàng. Nhưng điều nguy hại là trên thế giới người ta thấy loại ba không bao giờ dừng lại ở loại ba mà sẽ rất nhanh chóng chuyển sang loại một và loại hai.
Các cấp độ của tham nhũng: 5 cấp độ:
Bôi trơn: một khoản chi nhỏ để đẩy nhanh những thủ tục thông thường.
Hối lộ: chi tiền cho người tham nhũng để thúc đẩy người này làm theo quyền lợi của người chi.
Nhũng nhiễu: lợi dụng chức quyền để thu tiền một cách bất hợp pháp.
Lại quả: chi tiền cho các nhân vật có tác động, sau khi một giao dịch được thực hiện (thường là giao dịch với nhà nước).
Cấp nhà nước: chính sách hay qui chế của chính phủ chịu tác động của một nhóm tham nhũng.
2. Nguồn gốc của tham nhũng.
Tham nhũng xuất hiện từ rất sớm từ khi có sự phân chia quyền lực và hình thành nhà nước. Có ý kiến cho rằng tham nhũng bắt nguồn từ nền văn hóa độc tài đề cao cá nhân, coi trọng biếu xén. Ý kiến khác cho rằng: xã hội thay đổi các chuẩn mực về đạo đức, xã hội biến đổi liên tục, nền kinh tế biến đổi mạnh sinh ra tham nhũng.
Tham nhũng thường xuất hiện nhiều hơn từ các nước có nền kinh tế kém phát triển hoặc có mức thu nhập bình quân đầu người thấp. Tại các nước này con người thường có ý đồ nắm các cương vị cao trong hàng ngũ lãnh đạo để tham nhũng. Đối với một số nước kinh tế phát triển, có mức thu nhập bình quân đầu người cao, các cá nhân có sở hữu tài sản lớn mới bắt đầu tham gia chính trường để làm lãnh đạo.
Tham nhũng là căn bệnh muôn thuở, và cội nguồn của nó là thuộc tính tự nhiên của con người. Khi xây dựng một lý luận, một tiêu chuẩn trong lĩnh vực tư tưởng hay đạo đức xã hội, một khuynh hướng thường thấy là người ta không hoặc cố tình không nhìn nhận những gì đang tồn tại trong thực tế với đầy đủ các khuyết tật tự nhiên của nó. Nếu nhìn nhận một cách tỉnh táo, chúng ta không thể không thừa nhận sự tồn tại của những mặt khuyết tật, cái mà chúng ta thường gọi là các căn bệnh xã hội. Trong vấn đề đang nghiên cứu, chúng ta buộc phải thừa nhận rằng tham nhũng tồn tại trong mọi xã hội. Mọi thời đại, mọi hệ thống chính trị và mọi dân tộc ở mọi nơi trên thế giới đều phải đối mặt với tham nhũng với nhiều biến thái tinh vi. Thậm chí nếu nhìn nhận một cách nghiêm khắc, người ta sẽ thấy rằng tham nhũng còn diễn ra dưới cả các mái nhà ít nhiều yên ấm, nơi các bậc gia trưởng dựa vào quyền của mình để phân phối vật chất và tinh thần một cách không bình đẳng.
Mặc dù là một hiện tượng muôn thuở, tham nhũng ở mỗi quốc gia, mỗi thời đại lịch sử, chịu tác động của những nhân tố kinh tế - chính trị - xã hội khác nhau. Để chống tham nhũng hiệu quả cần phải dựa trên cơ sở phân tích khoa học những nhân tố đó. Dưới đây đưa ra những phân tích sơ bộ:
2.1. Về mặt chính trị, tham nhũng là kết quả của hệ thống chính trị thiếu khả năng tự kiểm soát.
Một hệ thống chính trị không xây dựng được các tiêu chuẩn, không tự kiểm soát được, để cho quyền lực bị đánh cắp đại trà trên quy mô xã hội, dưới mọi hình thức, mọi mức độ sẽ tạo cơ hội tốt cho tham nhũng phát triển. Hệ thống chính trị thiếu khả năng tự kiểm soát sẽ làm xuất hiện sự nhập nhằng trong nhận thức và những cơ cấu không được pháp chế hóa. Tất cả những yếu tố này giải thích tại sao trong thời đại chúng ta, tham nhũng lại nở rộ tại những quốc gia có nền chính trị không chuyên nghiệp, hay nói một cách giản dị, tại những quốc gia trong đó nền chính trị tuột khỏi tầm kiểm soát của xã hội.
Tham nhũng là kết quả của tình trạng thiếu dân chủ trong sinh hoạt chính trị. Tham nhũng gắn liền với bản chất con người, nhưng không phải bất kỳ ai cũng tham nhũng và cũng có thể tham nhũng. Để tham nhũng phải có quyền hoặc quyền lực. Ngoài ra, tham nhũng phụ thuộc vào các cơ chế xã hội có nhiệm vụ ức chế hành vi tham nhũng. Khi một quốc gia lâm vào tình trạng thiếu dân chủ trong sinh hoạt chính trị, những người thoát khỏi sự ức chế của các cơ chế xã hội sẽ lợi dụng, lạm dụng quyền lực, địa vị, uy tín xã hội để thực hiện hành vi tham nhũng. Cùng với tình trạng thiếu dân chủ trong sinh hoạt chính trị, sự thiếu công khai trong đời sống chính trị cũng tạo ra không gian đen tối cho hiện tượng tham nhũng phát sinh và phát triển.
2.2. Về mặt kinh tế, tham nhũng là hậu quả của môi trường kinh tế thiếu minh bạch.
Môi trường kinh tế thiếu minh bạch là mảnh đất tốt cho các hành vi tham nhũng sinh sôi nảy nở. Điều này lý giải tại sao tham nhũng tại các nước đang phát triển trầm trọng hơn nhiều so với các nước phát triển, nơi có môi trường kinh tế minh bạch hơn. Tại những nước có môi trường kinh tế kém minh bạch, việc trốn thuế diễn ra tràn lan, lý do đơn giản là tại đó hành vi này dễ dàng thực hiện trót lọt hơn tại các quốc gia khác.
Trong môi trường kinh tế thiếu minh bạch, sự can thiệp thái quá và nhiều khi thô bạo của các cơ quan nhà nước vào hoạt động kinh doanh làm méo mó các quan hệ kinh tế - xã hội. Đó là tình trạng thích hợp, là cơ hội vàng để các quan tham dễ bề trục lợi.
2.3. Về mặt nhà nước, tham nhũng là con đẻ của những thể chế tồn tại bất hợp lý và bị độc quyền lũng đoạn.
Chúng ta đã thấy tham nhũng phát triển cả về hình thức lẫn quy mô cùng với sự phát triển của xã hội, nhưng điều đó không có nghĩa là có một sự tương quan tỷ lệ nào đó giữa tham nhũng và phát triển. Quy mô tham nhũng lệ thuộc nhiều vào tính chất của thể chế nhà nước. Chẳng hạn tại các quốc gia nghèo khổ Châu Phi, nơi tập trung nhiều thể chế lạc hậu và phi dân chủ, các quyền lực nhà nước, quyền lực chính trị bị phân chia một các tùy tiện hoặc không được bảo vệ và sử dụng cẩn trọng, tức là các quyền lực này dễ bị tham nhũng để mở đường cho nạn tham nhũng tràn lan trong xã hội. Các thể chế này không đủ năng lực để tự kiểm soát, nhưng lại ra sức ngăn cản việc xây dựng một thể chế mới có thể quản lý xã hội hữu hiệu hơn. Tình trạng bất hợp lý của thể chế có thể thấy rõ ở những quốc gia mà một bộ phận nhân lực quan trọng của nó được trả lương quá thấp so với nhu cầu tối thiểu của cuộc sống. Thể chế bất hợp lý đã buộc nhiều người phải tham nhũng để sống, để tồn tại.
2.4. Về mặt pháp luật, tham nhũng là kết quả của tình trạng các quyền và lợi ích cá nhân bị hạn chế hoặc chưa được hợp pháp hóa.
Tình trạng nhiều quyền lợi chính đáng của cá nhân không được hợp pháp hóa hoặc bị hạn chế có thể quan sát thấy tại nhiều quốc gia chậm phát triển. Ta có thể lấy ví dụ như tình trạng “ngăn sông cấm chợ” tại Việt Nam trước đây hay sự hạn chế các hoạt động của nữ giới tại Afghanistan mới đây, khi chỉ vì những suy nghĩ thiển cận, người ta muốn tối thiểu hóa không gian sống của mỗi cá nhân. Điều này trên thực tế đã đẩy nhiều người vào vòng xoáy tham nhũng để thỏa mãn các khát vọng thật ra là chính đáng của họ. Điều nguy hiểm là ở chỗ tình trạng này sẽ tạo ra sự nhập nhằng về nhận thức. Việc thay thế các quy định của pháp luật bằng những thỏa thuận ngầm trên quy mô xã hội hoặc đạo đức xã hội khiến các nhóm lợi ích luôn chèn ép, chen lấn lẫn nhau trên cùng một cá nhân. Nếu chúng ta tạo cho cá nhân một không gian sống tốt, nếu chúng ta hợp pháp hóa các quyền cá nhân chính đáng để mỗi cá nhân có thể phát huy tối đa sức sống, sức sáng tạo của họ trong khuôn khổ pháp luật, chắc chắn rất nhiều người bình thường sẽ sống và ứng xử theo những chuẩn mực được chấp nhận rộng rãi trong xã hội.
2.5. Về mặt văn hóa xã hội, tham nhũng bắt nguồn từ sự đạo đức giả của hệ thống chinh trị - xã hội.
Hệ thống xã hội được xây dựng trên nền tảng đạo đức giả này đã đẩy nhiều người phải sống với bộ mặt giả tạo. Chẳng hạn, việc trả công chủ yếu không theo hình thức tiền lương mà dưới hình thức các tiêu chuẩn hưởng thụ là cơ sở kinh tế của một lối sống đạo đức giả. Một ví dụ khác có thể thấy ở nhiều nền kinh tế chuyển đổi, khi người ta thủ tiêu chế độ đặc quyền đặc lợi, nhưng lại không có biện pháp cân bằng các lợi ích bị đột ngột xóa đi ấy, dẫn đến kết quả là một số người tìm đến những biện pháp phi pháp để giành lại những gì đã mất.
Với cách nhìn như vậy, chúng ta thấy rằng đôi khi các vị quan tham vừa là thủ phạm, vừa là nạn nhân của một hệ thống xã hội xa lạ với bản chất con người. Tham nhũng còn được hỗ trợ bởi những yếu tố tiêu cực trong nền văn hóa, chẳng hạn tính gia trưởng vốn là một đặc điểm rất rõ nét tại nhiều nước Châu Á. Trong lịch sự đương đại Châu Á có quá nhiều ví dụ về các nhà chính trị gia trưởng, độc tài, những người trong thời kỳ cầm quyền lâu dài đã trở thành những “bố già” của đất nước. Văn hóa gia trưởng gắn liền với việc độc quyền sở hữu lẽ phải chúng tôi vừa đề cập ở trên. Kết quả là quyền lực dễ bị đánh cắp, tạo cơ sở cho cả tham nhũng vật chất và tinh thần.
2.6. Về mặt nhân văn, tham nhũng là hậu quả của quan niệm lệch lạc và thái độ thiếu tôn trọng các giá trị cá nhân.
Các giá trị cá nhân không được tôn trọng sẽ dẫn đến sự xâm hại các giá trị công cộng. Điều này có vẻ ngược đời nhưng thực ra rất hợp lô gích. Trên thực tế, việc chống chủ nghĩa cá nhân một cách thái quá luôn luôn dẫn đến một tình trạng cực đoan trong đời sống tinh thần của xã hội. Tâm lý xem nhẹ, nếu không muốn nói là bài bác các giá trị cá nhân khiến người ta tìm mọi cách tối thiểu hóa không gian sống của cá nhân, làm cho con người thiếu ý thức trách nhiệm về hành vi của mình, dễ dàng bằng lòng với thực tại, dễ dàng tham nhũng, tiếp tay hoặc ít nhất là mặc nhiên thừa nhận tham nhũng. Sự ngộ nhận về giá trị cá nhân và giá trị tập thể còn dẫn đến cả hiện tượng tham nhũng mang tính tập thể, nghĩa là có sự kết cấu, đồng tình để tiến hành hành vi tham nhũng trên quy mô lớn hơn. Đó là gì nếu không phải là mầm mống của tội phạm có tổ chức? Còn nếu cá nhân nào không chịu tham nhũng, họ sẽ không còn là người của tập thể, họ sẽ bị loại khỏi cuộc chơi. Điều này giải thích tại sao tham nhũng tại những nước có sự nhìn nhận sai lạc về cá nhân và tập thể lại càng trầm trọng và khó đẩy lùi hơn nhiều nước khác.
3. Nguyên nhân của tham nhũng.
Nguyên nhân gây ra tham nhũng có nhiều, nhưng nguyên nhân đầu tiên có tính sâu xa, bản chất là do chế độ người bóc lột người sinh ra. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: Tham ô, lãng phí, quan liêu là những xấu xa của xã hội cũ. Nó do lòng tự tư tự lợi, ích kỷ hại nhân mà ra, nó do chế độ người bóc lột người mà ra. Một đặc điểm nổi bật của sự vận động xã hội, khác với mọi sự vận động vật chất khác trong giới tự nhiên ở chỗ con người hành động đều tính đến lợi ích hoặc mục đích. Mọi hành vi tham nhũng đều là nhằm thực hiện một mục đích tư lợi ích kỷ nào đó. Bởi vậy chế độ tư hữu chính là cơ sở tư tưởng của các hành vi tham nhũng. Không có tư tưởng tư lợi ích kỷ sẽ không có tham nhũng thiệt người lợi mình.
Nguyên nhân thứ hai gây ra tham nhũng là do luật pháp về sở hữu không rõ ràng,chủ thể sỏ hữu không được định rõ làm cho người có quyền lợi dẽ biến của công thành của tư, còn quần chúng vì không rõ tài sản đó là của mình nên để mặc kẻ xấu tung hoành.Chính sự yếu kém của luật pháp trong quản lý đã làm cho các vấn đề kinh tế trở thành khuất tất, không rõ ràng, tạo kẽ hở cho kẻ xấu tham nhũng. Một anh trưởng phòng tài vụ với vài chục tỷ đồng trong tay nếu đem gửi ngân hàng để lấy lãi ( mà hệ thống sổ sách tài vụ không chuẩn xác) dễ dàng kiếm được vài trăm triệu đồng trong một năm mà không hề bị phạm tội gì. Một cảnh sát kinh tế tóm được một vụ buôn bán ma tuý, nhưng đồng ý nhận vài trăm đô la để tha bọn tội phạm, dễ trở thành giàu có v.v… Chính hệ thống luật pháp không chuẩn xác của nhiều nước, do sử phạt về tội tham nhũng quá nhẹ, kẻ giàu sẵn sàng phạm tội để đi tù vài năm rồi ra tù, để rồi cả đời hưởng thụ số tài sản bất minh đã kiếm được.
Nguyên nhân thứ ba gây ra tham nhũng là sự hư hỏng và kéo bè kéo cánh của các giới lắm giữ guồng máy quyền lực, họ bao che nhau, họ ủng hộ và chạy tội cho nhau, đây là một thực tế đang sảy ra ở rất nhiều nước.
Nguyên nhân thứ tư gây ra tệ nạn tham nhũng là bản chất của nền kinh tế thị trường, của việc tự do hoá cạnh tranh đã tạo ra.
Nguyên nhân thứ năm là sự tê liệt ý chí của công dân, do mất lòng tin vào bộ máy Nhà nướ, do không có điều kiện, không có thông tin và không có đủ trình độ nhận thức, không được bảo vệ để chỉ và phân biệt ra các kẻ tham nhũng mà trừng phạt chúng.
4. Tác hại của tham nhũng.
Tham nhũng sinh ra hàng loạt tác hại cho xã hội.
Nó gây tổn hại to lớn về mặt kinh tế cho sự phát triển xã hội, kéo lùi sự phát triển tuỳ theo quy mô và mức độ gây hại của nó.
Nó làm giảm sút lòng tin của công dân đối với bộ máy và công chức, viên chức của bộ máy Nhà nước, triệt tiêu động lực cơ bản nhất của sự phát triển.
Tham nhũng sẽ làm “tầm thường hoá hệ thống pháp luật của Nhà nước, kỷ cương xã hội sẽ không thể giữ vững và làm cơ hội để cho kẻ thù phá hoại xâm lược. Nếu các nhà hành pháp mà tự mình phá hoại luật pháp thì làm sao có thể duy trì được phép nước. Những kẻ tham nhũng chính là những tên đầu chò trong việc làm tê liệt hệ thống hành pháp, làm cho Nhà nước trở thành đối lập và là gánh nặng cho công dân”.
Tham nhũng tất yếu dẫn đến phá hoại đội ngũ cán bộ Nhà nước bởi ví những kẻ tham nhũng sẽ lừa dối hủ hoá cấp trên, làm cho bộ máy Nhà nước trở thành quan liêu, chúng sẽ tăng cường đưa kẻ xấu vaof guồng máy và triệt hại đội ngũ viên chức tốt. Những kẻ tham nhũng chính là những tên phá hoại từ bên trong của hệ thống hành pháp quốc gia.
Chính với các tác hại to lớn kể trên cũng như nhìu tác hại do bệnh tham nhũng tạo ra, nhiều nước dã coi tham nhũng ( và cùng với nó là quan liêu) là quốc nạn của đất nước. Văn kiện Đại hội VIII của Đảng ta cũng lại một lần nữa khẳng định: nạn tham nhũng đang là một nguy cơ trực tiếp quan hệ đến sự sống còn của hệ thống chính trị, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã có những biện pháp khắc phục song hiệu quả còn thấp. Phải tiến hành đấu tranh kiên quyết thường xuyên và có hiệu quả chống tham nhũng trong bộ máy Nhà nước, trong tất cả các ngành các cấp từ Trung ương đến cơ sở. Kết hợp với những biện pháp cấp bách với những giải pháp có tầm chiến lược nhằm hoàn thiện cơ chế chính sách, kiện toàn tổ chức, chấn chỉnh công tác quản lý, khắc phục sơ hở, vừa sử lý nghiêm kịp thời mọ vi phạm, tội phạm, huy động và phối hợp chặt chẽ mọi lực lượng đấu tranh nhằm ngăn chặn, đẩy lùi và loại trừ tham nhũng. Thủ trưởng cơ quan đợn vị, cán bộ chủ chốt các cấp phải gương mẫu đi đầu trong đấu tranh chống tham nhũng, trước hết là đối với bản thân. Đấu tranh chống tham nhũng phải gắn liền với đấu tranh chống buôn lậu, lãng phí, quan liêu, tập trung vào các hành vi tham ô, chiếm đoạt, làm thất thoát tài sản Nhà nước, đòi hối lộ, đưa và nhận hối lộ.
5.Thực trạng tham nhũng ở nước ta hiện nay.
Hiện tượng tham nhũng không những đặc biệt nan tràn trong số các quan chức làm việc tại cơ quan chuyên trách về kinh tế đối nội và đối ngoại mà nó còn sảy ra phổ biến ở các lĩnh vực luật pháp, văn hoá, giáo dục và quân sự. Nó đã và đang gây ra hậu quả hết sức nghiêm trọng làm sói mòn lòng tin của nhân dân, của xã hội vào Đảng và Nhà nước. Sự tha hoá của một số cán bộ Đảng viên cộng thêm thế lực thù địch lợi dụng diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và trong nưởca sức tuyên truyền kích động, thực hiện diễn biến hoà bình đang trở thành một nguy cơ to lớn uy hiếp đến sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Các khoảng cách giàu nghèo tới mức phi lý, từ đó kích thích sự ham muốn ích kỷ của kẻ cầm quyền thoái hoá lao vào vòng tội lỗi. Chính nền kinh tế thị trường đã đẻ ra hố sâu ngăn cách giữa các con người, quan hệ giữa người với người mờ nhạt dần về trách nhiệm và đạo lý mà tăng dần về mối quan hẹ quyền lực, quan hệ vật chất đã tạo ra môi trường tốt cho tệ nạn tham nhũng phát triển.
Số đối tượng phạm tội tham nhũng như sau: ngưòi phạm tội tham ô nhận hối lộ, là đội ngũ giám đốc từ tổng giám đốc, giám đốc cơ sở, giám đốc công ty chiếm tỷ lệ khá lớn từ 15%-20%. Đội ngũ kế toán, thủ kho, cán bộ chuyên môn khác chiếm 20% và có khoảng 15% kẻ phạm tội là chủ tịch, phó chủ tịch uỷ ban nhân dân các cấp, một số là cán bộ cấp vụ, cấp thứ trưởng và tương đương. Bên cạnh kẻ phạm tội la công nhân viên chức Nhà nước, còn có 30% là tư thương và các phần tử ngoài xã hội. Điểm đặc biệt là có 75% số người phạm tội tham nhũng nêu trên đều có cuộc sống không những không khó khăn, thậm chí còn rất khá giả so với nhiều người khác, đồng thời có trình độ văn hoá cao.
Trong hầu hết các vụ án tham nhũng, nhận hối lộ gần đây thường có quy mô hoạt động rộng lớn, tạo thành đường dây tội phạm có vòng tròn khép kín. Nó không chỉ dừng ở phạm vi một đơn vị, một công ty, một huyện, một tỉnh mà xảy ra theo hiện tượng liên tỉnh với sự liên kết chặt chẽ cùng thực hiện phạm tội. Các hành vi thông đồng này diễn ra một cách trắng trợn, công khai chứ không bí mật, lén lút như trước đây. Do đó các vụ án do loại này gây ra thường có thiệt hại lớn, thủ đoạn phạm tội tinh vi, phức tạp nên khi bị phát hiện và sử lý số người phạm tội lớn và thường cùng lúc bị truy tố nhiều tội danh khác nhau như tham ô, cố ý làm trái, buôn lậu, cho vay sai nguyên tắc v.v…
Một vấn đề cần phải quan tâm là Nhà nước chỉ mới phát hiện và đưa ra xét xử những cán bộ trực tiếp quản lý sản xuất kinh doanh, cán bộ quản lý ở tầm vi mô, còn những cán bộ quản lý ở tầm vĩ mô thì rất ít bbị phát hiện và xử lý. Hiện tượng ô dù bao che hành vi phạm tội của cán bộ trung ương còn tồn tại, chưa có sự cương quyết sử lý những khuyết điểm sai lầm, gây ra hậu quả vô cùng nghiêm trọng cho Nhà nước của các cán bộ có thẩm quyền quyết định khi ký duyệt việc bổ nhiệm, việc thành lập công ty, duyệt các dự án đầu tư xây dựng… trước pháp luật, nếu có thì chỉư phạt hành chính qua loa cho xong chuyện.
Bởi vậy Nhà nước cần phải tăng cường va xử lý nhũng cán bọ quản lý Nhà nước ở tầm vĩ môcó hành vi phạm tội dù họ ở cấp nào, thêm nữa phải phát động phong trào của quần chúng, của toàn xã hội vào trận địa chống tham nhũng mới có khả năng ngăn chặn và hạn chế chúng ở mức tối đa.
Điểm một số vụ tham nhũng nổi cộm trong một vài năm gần đây:
Thứ nhất là: Tháng 12/2005, vụ án PMU18 bùng lên gây phẫn uất trong dư luận. Không ai có thể tưởng tượng ông Tổng Giám đốc xuất thân từ một gia đình dòng dõi (bố là tướng quân đội về hưu...) như Bùi Tiến Dũng lại có thể vác một lúc vài triệu USD đi đánh bạc dưới hình thức cá độ bóng đá. Tuy nhiên Bùi Tiến Dũng chưa phải là kẻ hoang phí đầu tiên và cuối cùng. Hàng loạt anh em của Dũng tại PMU18, hay tại các đơn vị khác như: Vũ Mạnh Tiên, Lương Mạnh Hoa, Nguyễn Việt Bắc... lần lượt lộ sáng. Ban PMU18 được giao quản lý số vốn tới 33.000 tỷ đồng, còn Bùi Tiến Dũng thì được giao quyền sinh, quyền sát đối với các nhà thầu muốn lăm le vào cuộc. Công ty Nam Bắc của Vũ Việt Dũng, Công ty Hoa Việt của Nguyễn Mậu Thôn... lần lượt bị phanh phui, cáo buộc là sân sau của Bùi Tiến Dũng. Một con đường 18 bị "rút ruột" chưa đủ, Quốc lộ 2 cắt băng khánh thành tháng 6/2005, chỉ chưa đầy 6 tháng sau quan sát bằng mắt thường dọc tuyến từ Đoan Hùng lên Hà Giang, đã thấy xuống cấp nghiêm trọng. Một căn nhà trên đường Phạm Huy Thông, giá hiện tại cũng vài chục tỷ đồng. Một biệt thự nữa trên phố lớn của Hà Nội đang cho thuê. Một căn nhà ở đường Trường Chinh... tổng khối tài sản ấy, giá thị trường hiện tại cũng vài chục tỷ. Một mảng tối "chạy án" được mở ra. Tháng 4/2006, nguyên Thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải Nguyễn Việt Tiến bị bắt. Trước đó, là hàng loạt thông tin liên quan đến vị Thứ trưởng được đánh giá là rất có năng lực này. Sau đó nữa, là cuộc “đấm bốc” giữa Thứ trưởng và Bộ trưởng trên báo chí. Mọi chuyện được phanh phui hết: Quan hệ cá nhân, công việc, nhờ vả lẫn nhau... Bộ Giao thông vận tải rung rinh trước sức ép dữ dội của công luận. Tân Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chỉ thời gian ngắn sau khi nhậm chức, lập tức điều chuyển ngay Phó Chủ nhiệm Văn phòng chính phủ Nguyễn Văn Lâm về vai trò chuyên viên. Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Thiếu tướng Cao Ngọc Oánh, vì có liên quan đến một bị can trong vụ án, cũng đành chấp thuận sự phân công công tác mới của tổ chức... Báo giới, công luận nhìn nhận những phán quyết mạnh mẽ của Thủ tướng trong thời gian ngắn là khẳng định quyết tâm của Chính phủ trong việc chống tham nhũng. Nhưng vụ án PMU18 là một khối lượng đồ sộ. Hàng chục dự án do siêu ban này quản lý, với hàng ngàn công trình, một C14 không thể kham nổi. Thiếu tướng Phạm Xuân Quắc trong 1 cuộc họp báo tại Tổng cục cảnh sát đã phải lên tiếng: "C14 chỉ điều tra riêng về dự án đường 18. Những dự án còn lại sẽ chuyển hồ sơ về Tổng cục phân công đơn vị khác làm", cho thấy, việc chứng minh tội phạm tham nhũng, không bao giờ dễ dàng, và nhanh chóng, như công luận chờ đợi
Thứ hai là: Bản án sơ thẩm tuyên 3 bị cáo nguyên là cán bộ lãnh đạo thị xã Đồ Sơn vì tiêu cực đất đai tại địa phương này hình thức: Cảnh cáo, các bị cáo phải nộp 50.000 đồng tiền án phí, đã gây sốc đối với công luận. Hàng chục mảnh đất trị giá tiền tỷ được chia chác, mang đi "đối ngoại". Địa phương trù dập người khiếu nại tố cáo... Sự phẫn uất của những người dân Hải Phòng đang chờ đợi một phiên toà tuyên "đúng người, đúng tội, không bỏ lọt tội phạm" suốt mấy năm trời cũng là điều dễ hiểu. Lại đích thân Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phải yêu cầu Bộ Công an, kiến nghị Viện kiểm sát Nhân dân tối cao, Tòa án Nhân dân tối cao ra kháng nghị, huỷ án sơ thẩm để yêu câù cơ quan điều tra làm lại vụ án, cho thấy một lần nữa quyết tâm của Chính phủ. Lại đến lượt báo giới phanh phui ra: Lãnh đạo Hải Phòng đã có sự can thiệp sâu vào quá trình điều tra vụ án. Mục đích của sự can thiệp này, sẽ được làm rõ trong thời gian tới. Nhưng điều đó cho thấy, chống tham nhũng luôn không dễ dàng. Nếu không sự đồng thuận quyết tâm từ trung ương đến địa phương thì không thể thành công. Trong vụ án này, sẽ thiếu nếu không nhắc tới vai trò của một cá nhân: Ông Đinh Đình Phú. Kinh nghiệm của một đại tá công an về hưu đã giúp người hùng của Đồ Sơn sưu tầm, tìm kiếm đủ tài liệu để cung cấp cho báo giới vào cuộc phanh phui sự việc. Chứng cứ rõ ràng, tài liệu chắc chắn, sự thật bị bóc trần trên mặt báo như vậy, ra tới toà chỉ là một bản án "cảnh cáo"... Công luận không phẫn nộ mới là điều khó hiểu. Cũng vì lẽ đó, những vụ án khác chỉ có thể nêu nghi ngờ, đặt dấu hỏi... vì tài liệu của báo chí không thể đủ chứng minh, cũng là điều dễ hiểu. Vì vậy, cần thiết sự mạnh tay của cơ quan điều tra khi vào cuộc, sau khi báo chí phanh phui sự việc ra ánh sáng. Gần đây nhất, Thủ tướng liên tục chỉ đạo Bộ Công an cần nhanh chóng điều ra, đưa các vụ án lớn ra xét xử: Vụ Nguyễn Lâm Thái nâng khống thiết bị bưu điện, vụ Rusalka của siêu lừa Nguyễn Đức Chi, vụ PMU18... cho thấy, quyết tâm chống tham nhũng của Chính phủ đang rất quyết liệt.
Thứ ba là: Gần đây nhất, lại là vụ xà xẻo tiền cứu trợ đồng bào bị lũ quét ở Hương Sơn - Hà Tĩnh. Rất có thể, số tiền thiệt hại trong vụ việc này không lớn như nhiều vụ án kinh tế khác, nhưng tính chất của hành vi phạm tội thì lại đặc biệt nghiêm trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến lòng tin của nhân dân. Vụ việc, kể từ khi được phanh phui, đích thân Phó Thủ tướng Trương Vĩnh Trọng đã 2 lần chỉ đạo Hà Tĩnh phải làm rõ, có báo cáo. Bộ Công an cũng vào cuộc để điều tra. Rốt cuộc, lần thứ nhất (ngày 25/8) Phó Thủ tướng chỉ đạo "phải làm rõ, báo cáo trước ngày 15/9", Hà Tĩnh xin khất hẹn. Ngày 21/9, lần thứ 2, Phó Thủ tướng tiếp tục chỉ đạo "làm rõ, báo cáo trước ngày 20/10". Tiền cứu trợ nhân đạo, dù từ bất cứ nguồn nào (ngân sách, quyên góp...) cũng luôn là một lĩnh vực nhạy cảm, ảnh hưởng trực tiếp đến lòng tin, tinh thần "tương thân tương ái", "lá lành đùm lá rách" của cả dân tộc. bộ luật hình sự có hẳn một điều luật (Điều 169) ghi rõ tội danh, quy định khu hình phạt đối với mọi hành vi xà xẻo, ăn chặn tiền cứu trợ nhân đạo. Trong bất cứ trường hợp nào, tiền và hàng hoá dùng cho mục đích nhân đạo phải được đảm bảo sử dụng đúng mục đích, đúng đối tượng. Trong vụ án này, sự quyết liệt chỉ đạo từ Trung ương đã thể hiện rất rõ. Còn ở địa phương, ít nhất đến nay đã có tới 7 đoàn thanh tra về sự việc này. Kết quả 1: Đoàn sau kết luận khác đoàn trước. Kết quả 2: Vụ việc bị phát hiện từ năm 2004, nhưng không hiểu vì lý do gì, đã không được xử lý nghiêm minh. Chỉ duy nhất một cán bộ bị điều chuyển từ vị trí Bí thư huyện uỷ Hương Sơn lên làm Phó Ban quản lý kinh tế cửa khẩu Cầu Treo. Kết quả 3: Chỉ đến khi báo chí vào cuộc quyết liệt, vụ việc mới bị phanh phui lên công luận. Kết quả 4: Hai lần Phó Thủ tướng chỉ đạo, có thời hạn báo cáo, tỉnh Hà Tĩnh vẫn liên tục khất lần.
III. HÀNH VI THAM NHŨNG.
1. Khái niệm hành vi tham nhũng.
Hành vi tham nhũng là hành vi thoả mãn đầy đủ các dấu hiệu pháp lý của một cấu thành tội tham nhũng đã được pháp luật quy định, đó là các hành vi có ý thức, có chủ định.
Điều 3: Pháp lệnh chống tham nhũng ngày 26/2/1998 ghi: các hành vi tham nhũng quy định trong Pháp lệnh bao gồm:
Tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa.
Nhận hối lộ.
Dùng tài sản xã hội chủ nghĩa làm của hối lộ; lợi dụng chức vụ, quyền hạn để đưa hối lộ, môi giới hối lộ.
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa.
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản xã hội chủ nghĩa.
Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của cá nhân.
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ để vụ lợi.
Lạm dụng quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ để vụ lợi.
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để vụ lợi.
Lập quỹ trái phép để vụ lợi.
Giả mạo trong công tác để vụ lợi.
2. Đặc điểm của hành vi tham nhũng.
Hành vi tham nhũng nói chung là hành vi của một cá nhânhoặc một nhóm người trong đó có kẻ cầm đâu, nó thường tạo thành từ các nhóm người có quan hệ thân quen, họ hàng và gần đây trên thế giới lại hình thành các hành vi tham nhũng có tính tổ chức của nhiều người dựa trên lợi ích ích kỷ của họ. Loại hành vi này đang có xu hướng tăng lên rất mạnh mang lại hậu quả rất nghiêm trọng, loại này đang có hai đặc trưng nổi bật: một là được sự hoàn thành với sự tham gia của quyền lực của một tổ chức nhất định để đạt được mục đích thu được lợi ích hoặc lợi nhuận siêu ngạch; hai là xuất hiện dưới phương thức tổ chức có đặc trưng khác với hoạt động cá nhân. Loại này được gọi là tham nhũng siêu ngạch với hình thức biểu hiện chủ yếu như biển lậu thuế có tổ chức, buôn lậu có tổ chức, làm giả có tổ chức, vơ vét có tổ chức, xâm chiếm có tổ chức biểu hiện chủ yếu ở xâm chiếm vốn Nhà nước.
Về hình thức tham nhũng vẫn chủ yếu thông qua các hành vi tham ô, hối lộ, lộng quyền, sách nhiễu, dùng quyền lực để tư lợi dùng tiền tài làm càn vi phạm pháp luật, dùng tiền tài thao túng quyền lực, chiếm đoạt quyền lực v.v…
Về thủ đoạn, các hành vi tham nhũng được hình thành bằng nhiều cách: cấu kết bên trong, móc ngoặc ngoài nước cùng với sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật phức tạp đã làm cho hoạt động tham nhũng ngày một trở nên khó bị phát hiện.
Về lĩnh vực: Đối tượng mà các hoạt động tham nhũng săn đuổi nói chung tập chung vào các nơi có tiền bạc, nguồn lực, giấy phép, quyền hạn, hợp đồng, tài chính chức vụ, cơ hội… cho nên các lĩnh vực có tỉ lệ thành án cao trên thế giới ngày nay vẫn là các ngành ngân hàng, tài chính, thương mại, xuất nhạp khẩu, dự trữ quốc gia, giao thông vận tải, bưu điện, xây dựng, các đề án nước ngoài, các nơi cấp phép hoạt động hoặc thông qua thủ tục hành chính, các cửa khẩu v.v…
3. Động cơ tham nhũng.
Động cơ của hành vi tham nhũng từ các yếu tố cơ bản như lòng tham, ham muốn vật chất, lòng ham quyền lực và địa vị cao,muốn làm giàu một cách nhanh chóng, muốn có cuộc sống và lối sống hơn người về lợi ích, hoặc còn do yếu tố như thiếu bản lĩnh, thiếu ý chí, dễ sa ngã dẫn đến sự không chấp nhận sự mất cân đối giữa nhu cầu tiêu dùng với khả năng thu nhập và địa vị công việc của mình.
Những yếu tố trên đã trở thành những giá trị thường trực, hấp dẫn chủ thể và khi gặp hoàn cảnh có điều kiện thuận lợi sẽ trở thành động cơ thúc đẩy hành vi tham nhũng. Do vậy một điểm cần chú ý là hành vi tham nhũng bao giờ cũng do động cơ phạm tội thúc đẩy vì đây là hành vi phạm tội cố ý có tính toán kỹ lưỡng.
4.Mục đích của tham nhũng.
Mục đích của hành vi tham nhũng là cái đích mà người phạm tội đặt ra trong trí óc của mình và mong muốn đạt đến bằng hành vi phạm tội. Và khi có điều kiện khách quan cho phép thực hiện thì nó dễ trở thành hiện thực.
Điều kiện khách quan để thực hiện được xem là lý do dẫn đến việc thực hiện tội phạm vì sự xuất hiện động cơ và mục đích tội là giai đoạn đầu tiên để hình thành hành vi phạm tội.Song hành vi đó có diễn ra hay không còn phụ thuộc vào hoàn cảnh bên ngoài.Do đó trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, ở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất là chủ yếu mà Nhà nước lại không có một cơ chế quản lý đúng đắn thì sẽ dễ trở thành một mảnh đất màu mỡ cho tham nhũng nảy nở.
5. Một số phương thức thực hiện hành vi tham nhũng ở Việt Nam.
Các hình thức tham nhũng ở nước ta hiện nay về cơ bản vẫn là tham ô, hối lộ, dựa vào quyền lực để sách nhiễu, dùng quyền lực để mưu lợi riêng, dùng tiền để làm chuyện phi pháp và các thủ đoạn mà kẻ phạm tội triệt để lợi dụng là những sơ hở trong pháp luật, chính sách, trong các biện pháp quản lý và tổ chức điều hành.
Thủ đoạn phạm tội rất đa dạng và phức tạp nhưng thường tập trung ở các dạng sau:
5.1. Thông qua việ ký kết các hợp đồng
Nhiều doanh nghiệp lợi dụng quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh để tiến hành ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế với thủ đoạn lấy tiền hàng từ hợp đồng này để thanh toán cho hơp đồng khác. Không dùng tiền hàng đó vào sản xuất kinh doanh đã nảy sinh hiện tượng thanh toán sòng phẳng, dây dưa trong quyết toán và trong khi đó tiền, hàng đã được rút ra từ hợp đồng để sử dụng cho mục đích tiêu dùng cá nhân hoặc vào túi một số cá nhân có chức, có quyền tha gia ký kết hợp đồng…Nhiều vụ án kinh tế đã xét xử cho thấy các bên tham gia đã thoả thuận với nhau nâng giá thanh toán cao hơn giá thực tế, nâng tỷ lệ hao hụt cao hơn so với thục tế để lấy chênh lệch chia nhau. Vấn đề thiếu nững quy định chạt chẽ, cụ thể trong việc ký kết thục hiện, thanh quyết toán hợp đồng kinh tế đã là kẽ hở dẫn đến tham nhũng.
Hành vi thông đồng với nhau giữa giám đốc, kế toán và thủ quỹ để lập chứng từ khống, sửa chữa các hợp đồng kinh tế để chiếm đoạt tiền hàng của Nhà nước đã thể hiện sự liên kết chặt chẽ giữa người trong cơ quan với người ngoài xã hội, giữa cán bộ cấp trên với cán bộ cấp dưới, giữa cơ quan đơn vị này với cơ quan đợn vị khác tạo thành một vòng tròn khép kín.
5.2. Thông qua liên doanh liên kết.
Hầu hết trong các vụ án tham ô, cố ý làm trái đều có thủ đoạn phạm tội này. Hiện tượng phổ biến là một số đơn vị sản xuất kinh doanh đã bán tư cách pháp nhân cho một số tư nhân, cái gọi là hiện tượng tư thương núp bóng hay hiện tượng thông đồng, móc ngoặc dẫn đến việc buôn bán lòng vòng giữa cơ quan này với cơ quan khác nhờ hoạt động liên doanh liên kết, tạo điêu kiện cho tư thương có thể thực hiện các hợp đồng kinh tế bất hợp pháp lấy tiền và hàng của Nhà nước vào mục đích cá nhân. Lợi dụng liên doanh liên kết đã hình thành nhiều đơn vi kinh tế, từ giám đốc, phó giám đốc, kế toán, thủ quỹ, thủ kho đều là những người thân trong gia đình bất chấp pháp luật để tìm mọi cách kiếm lời và họ đã biến tư cách pháp nhân thành phương tiện thực hiện hàng loạt những hành vi phạm pháp như lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa, tham ô, trốn thuế…
5.3. Lợi dụng việc trích thưởng và việc buông lỏng kiểm tra, kiểm soát để tham nhũng vơ vét.
Lợi dụng việc trích thưởng là một thủ đoạn khá phổ biến trong các vụ tham ô đến mức việc thưởng cho nhau được xem như chuyện bình thường trong quan hệ xã hội như thưởng hoa hồng, thưởng vì được công nhận hoàn thành kế hoạch, nghiệm thu công trình, thưởng vì ký kết hợp đồng. Điều này lý giải vì sao đấu tranh với tệ hối lộ là một việc gặp nhiều trở ngại.
5.4. Lợi dụng chức quyền để tham nhũng đất đai, đua người chốn đi nước ngoài, buôn bán trẻ em và phụ nữ, dùng các cơ quan này để đối phó cơ quan kia. Điều nay đang là nhức nhối của xã hội.
Ngoài các thủ đoạn kể trên, kẻ phạm tội còn lợi dụng triệt để việc buông lỏng về thanh tra, kiểm tra, kiểm soát để phạm các tội tham ô, hối lộ. Các cơ quan quản lý Nhà nước và các Nhà quản lý không thực hiện nghiêm túc chức năng kiểm tra, kiểm soát, buông lỏng việc kiểm tra, kiểm soát và áp dụng phương pháp quản lý lạc hậu đã giúp kể phạm tội có thể thực hiện hành vi như chi tiêu bừa bãi sai nguyên tắc, trích thưởng lan tràn tiền của Nhà nước, sử dụng vốn vào hoạt động không đúng mục đích.
IV. CÁC GIẢI PHÁP CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM.
Bàn về một số giải pháp phòng, chống tham nhũng. Bản chất của tham nhũng là sự kết hợp giữa hai yếu tố: Quyền lực Nhà nước và tư lợi. Tác hại của hành vi tham nhũng rất to lớn, xâm hại trực tiếp đến tài sản của Nhà nước, các tổ chức, cá nhân trong xã hội, kìm hãm sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, ảnh hưởng tới đạo đức cách mạng, văn hóa công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, làm giảm lòng tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Công tác phòng, chống tham nhũng ở nước ta phải là cả một quá trình đấu tranh lâu dài, cam go, phức tạp, với những nhiệm vụ khác nhau tùy thuộc vào từng thời kỳ phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng không được nôn nóng, vội vàng. Đảng và Nhà nước phải xây dựng chiến lược chống tham nhũng trong từng thời kỳ, và xuyên suốt quá trình đấu tranh là từng bước thực hiện và đạt được những mục tiêu cụ thể. Dự thảo Luật phòng, chống tham nhũng hiện nay mang tính chất là những viên gạch đầu tiên cho “thành trì” chống tham nhũng vững chãi sau này. Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta nên chú trọng một số biện pháp phòng, chống tham nhũng sau:
1. Phát triển các hệ thống hành chính công minh bạch và hữu hiệu.
Tính thanh liêm trong hệ thống hành chính công: Thiết lập các hệ thống tuyển dụng công chức đảm bảo được tính công khai, công bằng và hiệu quả, khuyến khích tuyển dụng các cá nhân có trình độ và tính thanh liêm cao nhất thông qua:
Phát triển hệ thống trả lương tương xứng với chi phí sinh hoạt theo mức độ phát triển của nền kinh tế nước đó.
-Phát triển hệ thống tuyển dụng và đề bạt một cách minh bạch nhằm tránh tình trạng lạm dụng quyền được bổ nhiệm, tình trạng vị thân và thiên vị, giúp nhanh chóng tạo ra được hệ thống hành chính công độc lập, và tăng cường sự cân bằng giữa việc bổ nhiệm chức danh nghề nghiệp và chức danh chính trị.
Phát triển hệ thống giám sát thích hợp đối với những quyết định có tính tùy tiện và những cá nhân có quyền đưa ra những quyết định tùy tiện.
Phát triển hệ thống nhân sự có sự luân chuyển nhiệm vụ thường xuyên theo hạn định nhằm giảm bớt các vỏ bọc dễ gây ra tham nhũng.
Thiết lập các quy tắc hành chính và đạo đức có thể triệt tiêu được xung đột lợi ích, đảm bảo sử dụng hợp lý các nguồn lực của nhà nước và phát triển tính chuyên nghiệp và thanh liêm tới mức cao nhất thông qua:
Việc cấm hoặc hạn chế ảnh hưởng của xung đột lợi ích.
Hệ thống tăng cường tính minh bạch chẳng hạn như bằng cách công bố hoặc giám sát tài sản và các khoản nợ cá nhân.
Hệ thống hành chính hoàn chỉnh nhằm đảm bảo rằng mối quan hệ giữa công chức và giới doanh nghiệp không bị ảnh hưởng thái quá và sai lệch, nhất là trong lĩnh vực thuế, hải quan và các lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng.
Phát triển các quy tắc đạo đức có tính đến một cách hợp lý các tiêu chuẩn quốc tế liên quan cũng như là các tiêu chuẩn văn hóa truyền thống của mỗi quốc gia, và thường xuyên giáo dục, đào tạo và giám sát quan chức để đảm bảo họ hiểu rõ trách nhiệm của mình.
Các biện pháp đảm bảo cho công chức tố giác những hành vi tham nhũng và những biện pháp bảo vệ sự an toàn và chức vụ cho những quan chức dám tố giác.
Tính minh bạch và trách nhiệm
Đảm bảo trách nhiệm của cơ quan hành chính công bằng các khuôn khổ pháp lý, phương thức quản lý và thủ tục kiểm toán hữu hiệu thông qua:
Các biện pháp và hệ thống tăng cường minh bạch tài chính.
Chấp nhận những thực tiễn và tiêu chuẩn quốc tế thích hợp hiện nay trong việc quản lý và giám sát các tổ chức tài chính.
Thủ tục kiểm toán phù hợp được áp dụng đối với hệ thống hành chính công và khu vực nhà nước, các biện pháp và hệ thống báo cáo định kỳ về tình hình hoạt động và quá trình ra quyết định.
Quy trình minh bạch hợp lý cho việc mua sắm chính phủ có thể thúc đẩy được cạnh tranh bình đẳng và ngăn chặn được hành vi tham nhũng, các thủ tục hành chính đơn giản hóa nhưng đầy đủ.
Tăng cường các tổ chức kiểm tra và giám sát.
Hệ thống cung cấp thông tin bao gồm những vấn đề như thủ tục xét duyệt hồ sơ, việc gây quỹ và chi tiêu cho các đảng phái chính trị và chiến dịch bầu cử.
Đơn giản hóa môi trường pháp lý bằng cách bãi bỏ những quy định chồng chéo, mập mờ và không cần thiết vốn gây khó khăn cho doanh nghiệp.
2. Tăng cường hoạt động chống hối lộ và nâng cao tính thanh liêm trong hoạt động kinh doanh.
Phòng chống, điều tra và truy tố hữu hiệu
Áp dụng những biện pháp hiệu quả nhằm tích cực chống lại việc hối lộ bằng cách:
Đảm bảo pháp luật có các biện pháp trừng phạt nghiêm khắc có thể chống lại tội hối lộ của công chức một cách hữu hiệu và chủ động.
Đảm bảo việc thực thi hữu hiệu những quy định chống rửa tiền với mức phạt hình sự thích đáng đối với tội rửa những khoản thu nhập từ tham nhũng và tội phạm khác phù hợp với luật pháp của Nhà nước.
Đảm bảo thực thi các điều khoản quy định tội hối lộ phải được điều tra một cách triệt để và bị truy tố; các cơ quan bảo vệ pháp luật được quyền yêu cầu xuất trình các chứng từ thương mại, tài chính, ngân hàng hay ra lệnh bắt giữ và bãi bỏ quy định về bảo mật ngân hàng.
Nâng cao khả năng điều tra truy tố thông qua việc thúc đẩy hợp tác giữa các cơ quan, đảm bảo việc điều tra và truy tố không chịu các ảnh hưởng tiêu cực và có các biện pháp hữu hiệu để thu thập bằng chứng thông qua bảo vệ được những người giúp các cơ quan hành chính công trong việc chống tham nhũng, và cung cấp đào tạo và các hỗ trợ tài chính hợp lý.
Tăng cường hợp tác song phương và đa phương trong việc điều tra và các thủ tục pháp lý khác thông qua việc phát triển các hệ thống phù hợp với luật pháp trong nước.
Trách nhiệm và nghĩa vụ của Doanh nghiệp
Áp dụng những biện pháp hữu hiệu để nâng cao trách nhiệm và nghĩa vụ của doanh nghiệp trên cơ sở tuân thủ các tiêu chuẩn có liên quan hiện nay thông qua:
Cải tiến công tác quản trị doanh nghiệp nhằm đưa ra những biện pháp kiểm soát nội bộ đầy đủ như quy tắc ứng xử, thiết lập kênh thông tin, bảo vệ người tố cáo tham nhũng và đào tạo nhân viên.
Ban hành và thực thi một cách hữu hiệu các quy định pháp luật nhằm xóa bỏ bất cứ hỗ trợ gián tiếp nào cho hối lộ như hối lộ để được miễn giảm thuế.
Ban hành và thực hiện đầy đủ các quy định pháp luật về tài khoản công ty minh bạch và trừng phạt một cách nghiêm khắc, hữu hiệu và đích đáng đối với tội bỏ sót hay giả mạo với mục đích hối lộ công chức hay che dấu việc hối lộ trong sổ sách, bản lưu, tài khoản và báo cáo tài chính của công ty.
Xem xét lại các luật và quy định về cấp phép, các hợp đồng mua sắm của chính phủ hay các công việc khác, qua đó trừng phạt tội hối lộ công chức bằng cách từ chối không cho tham gia các hợp đồng của chính phủ.
3. Hỗ trợ sự tham gia tích cực của công chúng.
Thảo luận công khai về tham nhũng
Áp dụng những biện pháp hữu hiệu để khuyến khích thảo luận công khai về vấn đề tham nhũng thông qua:
Khởi xướng các chiến dịch nâng cao nhận thức của công chúng ở các cấp khác nhau. Hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ nhằm thúc đẩy sự liêm chính và chống lại tham nhũng, chẳng hạn như bằng việc nâng cao nhận thức về tham nhũng và ảnh hưởng của tham nhũng, huy động sự trợ giúp của nhân dân vì một chính phủ trong sạch, báo cáo và cung cấp tư liệu về các vụ tham nhũng.
Chuẩn bị hoặc thực hiện các chương trình giáo dục nhằm xây dựng một văn hóa chống tham nhũng.
4. Hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, xây dựng môi trường kinh doanh cạnh tranh bình đẳng, công bằng, minh bạch.
Đây là một giải pháp quan trọng, việc hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế đảm bảo tính minh bạch, công bằng và cạnh tranh giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Cơ quan quản lý Nhà nước khi thực hiện các chính sách kinh tế đối với doanh nghiệp phải thực hiện một cách minh bạch và nhất quán.
Khi chiến lược này đi vào thực hiện thì bắt buộc các cơ quan Nhà nước phải hoàn thiện cơ chế để doanh nghiệp hoạch toán chính xác, trung thực các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh và được phản ánh đồng thời trong dữ liệu của cơ quan thuế. Các doanh nghiệp đều phải thực hiện chế độ kiểm toán định kỳ, bắt buộc.
Các doanh nghiệp thường tìm nhiều cách để giảm chi phí sản xuất, trong đó có cả hành vi hối lộ công chức. Chiến lược này sẽ bắt buộc xử lý nghiêm các hành vi hối lộ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, trong việc tham gia đấu thầu, đấu giá hoặc thực hiện hành vi gian lận thương mại...
Ngoài ra các cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân có hành vi tham nhũng sẽ bị công bố công khai danh tính. doanh nghiệp sợ nhất là bị công khai danh tính khi vi phạm pháp luật và đây sẽ là một biện pháp để hạn chế tham nhũng đến từ khu vực tư.
Hiện nay các doanh nghiệp thường bị tốn nhiều chi phí ngầm cho những hoạt động liên quan đến việc thuê đất, thuê mặt bằng sản xuất... Chiến lược này sẽ giúp doanh nghiệp trong khâu này khi quyền lợi của nhà đầu tư được đảm bảo cùng với lợi ích của Nhà nước. Trong các giải pháp mà chiến lược đưa ra cũng chú trọng việc hoàn thiện pháp luật về thị trường vốn, thị trường bất động sản, thị trường lao động.
Xác định rõ tình trạng tham nhũng đến nhiều từ khu vực công, doanh nghiệp là một trong những nơi nuôi dưỡng tham nhũng nhiều nên trong chương trình thực hiện mà chiến lược đề ra các vấn đề pháp lý liên quan đến doanh nghiệp được chú trọng nhiều.
Việc nghiên cứu quy định bắt buộc đăng ký bất động sản, thuế tài sản, thực hiện việc đăng ký thuế thu nhập cá nhân, thanh toán tài khoản, xây dựng luật chống rửa tiền.
Đặc biệt, vấn đề cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước hiện đang nảy sinh nhiều dấu hiệu tham nhũng dưới nhiều hình thức, do đó trong chiến lược phòng chống tham nhũng đã đề cập đến việc hoàn thiện pháp luật về chuyển đổi và cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, đặc biệt chú trọng việc xác định giá trị tài sản doanh nghiệp và xử lý tài sản công trong quá trình thực hiện cổ phần hoá.
5. Một số giải pháp khác.
Một là: Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước đối với công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng. Tăng cường công tác kiểm tra của Đảng, thanh tra của Nhà nước đối với đội ngũ đảng viên, cán bộ công chức. Xử lý thật nghiêm những vụ việc tham nhũng, xem đó là sự răn đe cho những kẻ lợi dụng chức vụ, quyền hạn mưu đồ lợi ích cá nhân. Thực tế cho thấy, việc xử lý kỷ luật Đảng, xử lý hành chính và xử lý hình sự đối với hành vi tham nhũng chưa thật sự nghiêm minh, còn biểu hiện bao che. Đây là vấn đề cần khắc phục trong công tác lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Và nguyên nhân sâu xa của tình trạng này là tư tưởng vị nể, là tình “đồng chí”, “đồng đội” trong các mối quan hệ giữa các Đảng viên, cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước. Đó là quan niệm của một nền văn hóa thuần Việt - trọng tình hơn trọng lý.
Hai là: Đảng, Nhà nước phải xây dựng một cơ quan chuyên trách có trách nhiệm theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng và chủ động phối hợp sức mạnh của toàn thể xã hội trong phòng chống tham nhũng. Cơ quan này có thể trực thuộc Quốc hội, chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Quy định chặt chẽ các điều kiện để trở thành thành viên của cơ quan phòng chống tham nhũng này. Cơ quan này sẽ thực hiện chức năng là cơ quan đầu mối trong công tác phòng chống tham nhũng trong giai đoạn hiện nay.
Ba là: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật. Muốn công tác phòng, chống tham nhũng đạt hiệu quả thì phải có hệ thống pháp luật hoàn chỉnh theo các tiêu chí đồng bộ, toàn diện, khoa học và có tính khả thi cao. Bên cạnh đó, phải xây dựng ý thức chấp hành pháp luật tốt ở mọi cơ quan, tổ chức, nhân dân thì pháp luật sẽ thực sự có hiệu lực, trở thành công cụ sắc bén phục vụ quản lý nhà nước nói chung và phương thuốc hữu hiệu phòng ngừa các hành vi tham nhũng. Hiện nay, các quy định về phòng, chống tham nhũng còn nhiều bất cập và không được thực hiện nghiêm chỉnh. Ví dụ: việc kê khai tài sản của cán bộ, công chức… Việc tổ chức kiểm tra, thanh tra, giám sát, thực hiện còn rất mờ nhạt. Thực trạng này đã làm giảm hiệu quả công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng.
Bốn là: Đẩy nhanh tiến độ cải cách hành chính, xóa bỏ hẳn cơ chế “xin - cho”. Thủ tục hành chính phải công khai, nhanh gọn, chính xác, giảm tối thiểu sự phiền hà cho nhân dân khi phải đến liên hệ, làm việc với cơ quan công quyền. Xây dựng chế độ chịu trách nhiệm của cán bộ, công chức rõ ràng, cụ thể, đặc biệt là trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo đối với những sai phạm, tiêu cực xảy ra trong cơ quan, đơn vị mình. Quan trọng hơn cả là chế độ cải cách tiền lương cho cán bộ, công chức. Thu nhập của cán bộ, công chức phải đủ đảm bảo nhu cầu cơ bản của cuộc sống. Nếu giải quyết tốt vấn đề này thì đây là một biện pháp cơ bản hạn chế hành vi tiêu cực, nhũng nhiễu (tham nhũng vặt) của phần đông cán bộ, công chức cơ sở hiện nay đang gây bức xúc cho đại đa số nhân dân. Bên cạnh công cuộc cải cách hành chính hiện nay, vấn đề giáo dục phẩm chất đạo đức của cán bộ, đảng viên cũng hết sức quan trọng. Trong tác động của nền kinh tế thị trường, nhiều cán bộ, đảng viên do không tự giác rèn luyện, tu dưỡng đã chạy theo các lợi ích trước mắt dẫn đến vi phạm pháp luật, tham nhũng. Đạo đức cách mạng trong sáng bị chủ nghĩa thực dụng, cá nhân lấn át. Tình trạng cả nể, sợ hãi mà không dám đấu tranh đối với các hành vi tiêu cực cán bộ, công chức của cơ quan tổ chức mình, công tác xử lý cán bộ chưa nghiêm khắc, đúng mức.
Năm là: Nhanh chóng thiết lập chế độ quản lý tiền tệ và thanh toán qua hệ thống ngân hàng nhằm mục đích kiểm soát và minh bạch hóa thu nhập và tài sản của cán bộ, công chức. Từ đó thực hiện nghiêm, triệt để chế độ kê khai tài sản đối với cán bộ, công chức.
Sáu là: Có các quy định cụ thể, phát huy hơn nữa vai trò của nhân dân trong việc giám sát các hoạt động của nhà nước. Từ đó, khuyến khích lực lượng đông đảo quần chúng nhân dân và báo chí tham gia vào cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiến tới xây dựng một xã hội thực sự của dân, do dân, vì dân, trong đó nguyên tắc dân chủ được phát huy trội hơn nguyên tắc tập trung.
V. KẾT LUẬN.
Trong điều kiện hiện nay của nhà nước Việt Nam chúng ta, nhất là sau những vụ tham nhũng lớn đã và đang được phanh phui, chúng ta đều nhận ra những khiếm khuyết trong tổ chức và hoạt động của nhà nước, nhất là trong quản lý nhà nước về kinh tế, quản lý vốn đầu tư. Do đó muốn xây dựng một nhà nước pháp quyền ở nước ta thì hiện nay phải nhấn mạnh đến tiêu chí chống tham nhũng, xây dựng một nhà nước không dung túng tham nhũng.
Nhà nước pháp quyền có rất nhiều tiêu chí đòi hỏi khác nhau: Thứ nhất là tính tối cao của hiến pháp, luật, thứ hai là Nhà nước phải bảo vệ nhân quyền, thứ ba, Nhà nước phải phân quyền, thứ tư Nhà nước phải chịu trách nhiệm trước nhân dân và nhân dân phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước và thứ năm là Nhà nước phải có tư pháp (tòa án) độc lập...
Khi sinh ra học thuyết phân quyền, các tác giả của nó cũng suy nghĩ Nhà nước cũng như cơ thể con người. Tham nhũng phải được xem xét như là một căn bệnh địch. Kiểu gì Nhà nước cũng mắc phải nếu như không có những biện pháp phòng ngừa hữu hiệu. Vì vậy một Nhà nước anh minh, dân chủ nào cũng phải có chủ trương chống tham nhũng. Mà đã là bệnh dịch thì không còn một cách chữa nào khác là trước hết phải bằng cách phòng bệnh, tức là phải tiêm "vắc-xin" vào cơ thể của Nhà nước.
Như vậy, tham nhũng là một căn bệnh của nhân loại. Và cũng như các loại bệnh tật khác, nó là khuyết tật tự nhiên mang tính bản năng, là một phần thuộc về bản chất đời sống con người. Chính vì vậy, dù có căm thù hay nguyền rủa tham nhũng đến mức nào, chúng ta cũng không thể xóa sạch được tham nhũng, đơn giản vì chúng ta không thể tiêu diệt con người. Chúng ta không thể chỉ nhìn tham nhũng dưới con mắt của một nhà tội phạm học mà phải nghiên cứu nó một cách toàn diện và biện chứng dưới những khía cạnh khác nhau của đời sống kinh tế - xã hội. Chỉ có cách nhìn đúng đắn và khách quan mới giúp chúng ta có được những phương thuốc hiệu nghiệm để chế ngự, hay ít nhất là hạn chế thứ bệnh dịch xã hội này.
VI. TÀI LIỆU THAM KHẢO.
Giáo trình chính sách kinh tế xã hội.
MỤC LỤC
I .LỜI NÓI ĐẦU.
II.THỰC TRẠNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM.
Khái niệm tham nhũng
Nguồn gốc của tham nhũng
Về mặt chính trị.
Về mặt kinh tế.
Về mặt nhà nước.
Về mặt pháp luật.
Về mặt văn hóa xã hội.
Về mặt nhân văn.
Nguyên nhân của tham nhũng
Tác hại của tham nhũng
Thực trạng tham nhũng ở nước ta hiện nay
III. HÀNH VI THAM NHŨNG.
Khái niệm hành vi tham nhũng
Đặc điểm của hành vi tham nhũng
Động cơ tham nhũng
Mục đích tham nhũng
Một số phương thức thực hiện hành vi tham nhũng ở Việt Nam.
Thông qua việ ký kết các hợp đồng.
Thông qua liên doanh liên kết.
Lợi dụng việc trích thưởng và việc buông lỏng kiểm tra, kiểm soát để tham nhũng vơ vét.
Lợi dụng chức quyền để tham nhũng đất đai, đua người chốn đi nước ngoài, buôn bán trẻ em và phụ nữ, dùng các cơ quan này để đối phó cơ quan kia. Điều nay đang là nhức nhối của xã hội.
IV. CÁC GIẢI PHÁP CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM.
Phát triển các hệ thống hành chính công minh bạch và hữu hiệu
Tăng cường hoạt động chống hối lộ và nâng cao tính thanh liêm trong hoạt động kinh doanh
Hỗ trợ sự tham gia tích cực của công chúng
Hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, xây dựng môi trường kinh doanh cạnh tranh bình đẳng, công bằng, minh bạch.
Một số giải pháp khác.
V. KẾT LUẬN.
VI. TÀI LIỆU THAM KHẢO.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26578.doc