Đề tài Một số vấn đề về thực trạng và hướng nâng cao hiệu quả hoạt động của Tổng công ty nhà nước

Chủ trương thành lập các TCT của Đảng và nhà nước là một hướng đi đúng và cần thiết để củng cố khu vực kinh tế quốc doanh hiện nay. Sự ra đời của các TCTNN mới trong thời gian ngắn hay nói đúng hơn là trong giai đoạn thử nghiệm theo mô hình mới. Từ những kết quả đã đạt được trên các mặt có thể khẳng định các TCTNN về cơ bản đã thực hiện được các mục tiêu đề ra của Đảng và nhà nước, góp phần rất lớn vào việc phát huy vai trò chủ đạo của khu vực DNNN tạo đà phát triển cho toàn bộ nền kinh tế, góp phần làm ổn định kinh tế, xã hội, an ninh, chính trị, trật tự quốc phòng được giữ vững, đóng góp lớn vào việc duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế liên tục trong nhiều năm của thập kỷ 90, đưa nền kinh tế nước ta dần dần thu hẹp khoảng cách tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, do mới thành lập và tồn tại trong thời gian ngắn do đó không thể tránh khỏi những hạn chế, tồn tại, vướng mắc đòi hỏi phải giải quyết để hoàn thiện hơn nữa loại hình doanh nghiệp này. Những tồn tại và vướng mắc đó một phần do đặc điểm nội tại khi thành lập các TCT mà chúng ta không thấy được, đó là những quy định về cơ cấu tổ chức, các bộ phận trong TCT không phù hợp với thực tế. Những tồn tại về cơ chếa chính sách luật pháp cũng cần phải khắc phục bởi vì một môi trường kinh doanh lành mạnh phải được tạo ra cho các TCT. Việc khắc phục những tồn tại cần phải được tiến hành ngay, nhưng phải có bước đi thích hợp tránh nóng vội và đòi hỏi phải có sự phối hợp của các cơ quan khác nhau cùng thực hiện. Phải tham khảo ý kiến của các chuyên gia các nhà quản lý có kinh nghiệm và nắm bắt những kinh nghệm của nước ngoài để thực hiện những điều chỉnh cần thiết nhằm nâng cao sức cạnh tranh của các TCTNN ở nước ta.

doc26 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 1078 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số vấn đề về thực trạng và hướng nâng cao hiệu quả hoạt động của Tổng công ty nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước luôn xác định "Phát triển nền kinh tế nước ta theo hướng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa". Trong đó Đảng xác định "kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế". Công cuộc đổi mới đã đem lại cho nền kinh tế nước ta thay đổi về mọi mặt. Nền kinh tế đã có sự tăng trưởng liên tục trong nhiều năm, chúng ta đã khắc phụ được tình trạng khủng hoảng về kinh tế xã hội, cơ chế kinh tế mới đã được xác lập. Tuy nhiên, cơ chế mới cũng đã và đang tạ ra cho chúng ta những thuận lợi và khó khăn đòi hỏi ddòi hỏi chúng ta phải đổi mới để khai thác những thuận lợi và khắc phục khó khăn. Cùng với điều đó, cơ chế mới cũng đặt ra cho các doanh nghiệp nước ta những cơ hội và thách thức lớn, buộc các doanh nghiệp muốn tồn tại phải biết tận dụng những cơ hội để tiến lên. Thực tiễn từ sau công cuộc đổi mới , hàng loạt các doanh nghiệp nước ta không thích ứng được với cơ chế mới hoạt động không hiệu quả buộc phải phá sản. Bên cạnh đó, có những doanh nghiệp vươn lên làm ăn có lãi và có hiệu quả một cách thích ứng vững chắc với cơ chế mới. Hiện nay trong nền kinh tế nhiều thành phần, để thực hiện được mục tiêu kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo thì một vấn đề rất quan trọng đó là đổi mới các doanh nghiệp nhà nước. Một trong các biện pháp được chính phủ tiến hành trong thời gian qua đó là thành lập các Tổng công ty nhà nước (TCTNN) với hai quyết địng được chính phủ ban hành. Đó là quyết định 91/TTG và quyết định 90/TTG của thủ tướng ban hành ngày 7/3/1994. Trong đó quyết định 91/TTG với việc thí điểm thành lập TCT theo mô hình tập đoàn kinh doanh (TĐKD) gọi chung là TCT 91, quyết định 90/TTg về việc tiếp tục sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước và thành lập công ty theo mô hình của quyết định này gọi chung là TCT 90. Tuy mới thành lập, các TCT đã và đang thể hiện được vai trò của mình trong nền kinh tế và đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Nhưng trong quá trình hoạt động của các TCTNN cũng nảy sinh nhiều tồn tại và vướng mắc đòi hỏi phải giải quyết để tiếp tục hoàn thiện mô hình này. Để làm rõ hơn vấn đề đó trong phạm vi đề án môn học này em một số nội dung về thực trạng và hương nâng cao hiệu quả hoạt động của TCTNN. Tên đề tài: "Một số vấn đề về thực trạng và hướng nâng cao hiệu quả hoạt động của Tổng công ty nhà nước". Nội dung của đề tài gồm 2 phần: - Phần I: Tổng quan về Tổng công ty nhà nước - Phần II: Thực trạng và hướng nâng cao hiệu quả hoạt động của TCTNN Em xin chân thành cảm ơn các thầy giáo đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. I. Tổng quan về mô hình tổng công ty nhà nước 1. Quá trình hình thành và phát triển a. Sự cần thiết phải thành lập các TCT ở nước ta Để đổi mới nền kinh tế, với việc chuyển nền kinh tế nước ta hoạt động theo cơ chế thị trường, mở cửa nền kinh tế, cùng với quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra một cách mạnh mẽ tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc mở rộng thị trường, khai thác những cơ hội kinh doanh và gây ra những thách thức về cạnh tranh, hội nhập. Trong tình hình đó, việc thành lập các TCTNN là rất cần thiết và thoả mãn một số đòi hỏi của môi trường kimh doanh mới. Trước hết, đó là vấn đề ngành kinh tế quốc dân, một số ngành đã đạt được trình độ tích tụ và tập trung nhất định, trong đó có những ngành trọng yếu, then chốt đang cần có những giải pháp thích hợp để nhằm thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung để có thể phát huy đầy đủ hơn vai trò làm động lực cho sự phát triển nền kinh tế. Trình độ tích tụ và tập trung sản xuất trực tiếp phản ánh trình độ phát triển của môi trường ngành, mỗi doanh nghiệp thông qua đó phản ánh trình độ ngành và vị trí của chúng trong cơ cấu nền kinh tế quốc dân. ở nước ta, nền kinh tế để đạt được những thành tựu nhất định và có những chuyển biến lớn trong cơ cấu kinh tế, một số ngành đã đạt được một số trình đọ tích tụ và tập chung hoá sản xuất cao như Điện lực, Bưu chính viễn thông, Dầu khí, xi măng, cà phê, cao su...Những ngành này đều chiếm vị trí trọng yếu trong nền kinh tế quốc dân. Điều này có ý nghĩa lớn đối với mô hình TCT theo hình thức TĐKD bởi vì nó ra đời khi mà sự tích tụ và tập trung đạt tới một mức độ nào đó. Thứ hai, vấn đề nguồn vốn để đầu tư phát triển sản xuất. Mặc dù nhiều ngành đã đạt được mức tăng trưởng cao, mức độ tập chung vốn lớn nhưng nhu cầu về vốn ngày càng tăng để đầu tư phát triển vì thế mà hầu hết các công ty ở một số ngành then chốt lại đang thiếu vốn. Ví dụ, để thực hiện mục tiêu chiến lược đến năm 2010 TCT Bưu chính viễn thông cần khoảng 28695 tỷ đồng, Tổng công ty hàng không dân dụng có nhu cầu đầu tư trong 10 năm (1996-2005) khoảng 5690 triệu USD, TCT dầu khí cần khoảng 14.165 triệu USD, TCT thép cần 6.382 triệu USD từ 1994-2010. Để đáp ứng được nhu cầu về vốn lớn như vậy thì một sự riêng lẻ rất khó khăn trong quá trình tạo nguồn vốn. Điều này chỉ thực hiện đưọc khi mô hình TCT ra đời. Thứ ba, xét về khả năng cạnh tranh, hầu hết các doanh nghiệp nhà nước trong thời là đổi mới là doanh nghiệp vừa và nhỏ, do cá sự manh mún, phân tán và trình độ công nghệ lạc hậu, khả năng cạnh tranh trong thị trường nội địa và quốc tế là rất yếu, trừ một số ngành có khả năng cạnh tranh nhưng không phải do năng lực công nghệ mà do các yếu tố khác như độc quyền về nguyên liệu (ví dụ than) hoặc một số mặt hàng truyền thống. Nếu xét trên tổng thể nền kinh tế quốc dân, thì trình độ tích tụ và tập trung đã đạt đến một mức độ nhất định nhưng xét riêng các doanh nghiệp thì trừ một vài doanh nghiệp có quy mô lớn trang bị tương đối hiện đại còn lại là hầu hết có quy mô nhỏ bé. Nếu căn cứ vào 2 tiêu thức: vốn và lao động để xem xét thì trên 2/3 số DNNN có hiệu số lao động dưới 200 người, chỉ có khoảng 4% số lao động trên 100 người. Gần 1/2 số doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỷ đồng, chưa đầy 20% có vốn 5 tỷ đồng, chỉ có 1% số doanh nghiệp có, vốn trên 20 tỷ đồng. Quy mô hạn chế do đó trình độ công nghệ cũng thấp kém, xét trong phạm vi các doanh nghiệp nhà nước chỉ có 18% được đầu tư mới. Sau năm 1996 bình quân 14-15 năm mới đổi mới trang bị. Tài sản cố định hao mòn gần hết và cũ kỹ lạc hậu. Mặt khác, từ khi chuyển sang kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, các doanh nghiệp trong các lĩnh vực hoạt động đều phải đối đầu với sự cạnh tramh ngày càng gay gắt. Về nguyên tắc, trong cơ chế thị trường các doanh nghiệp tồn tại và phát triển trong môi trường liên kết và cạnh tranh với nhau. Thực tế các quan hệ kinh tế tuy đã được thiết lập và trong một số trương hợp đã góp phần tháo gỡ khó khăn cho nhiều doanh nghiệp, nhưng nhìn chung, tình trạng cạnh tranh có xu hướng lấn lướt các quan hệ kinh tế không chỉ cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài, doanh nghiệp trong nước thậm chí các doanh nghiệp các doanh nghiệp trong cùng một ngành cũng cạnh tramh với nhau gây ra những bất lợi và thua thiệt trong quan hệ kinh tế quốc tế. Tóm lại, vấn đề đổi mới công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh là rất cần thiết, nhưng cùng với điều đó là vấn đề liên kết kinh tế và cạnh tranh có trật tự cũng phải được quan tâm nhằm tăng sức mạnh chung của các TCT, trong đó thành lập các TCT theo mô hình TĐKD là một trong những công việc của quá trình đó và là một yêu cầu cấp thiết. Thứ tư, xét về năng lực quản lý kinh tế của cơ quan nhà nước, sự ra đời của TCTNN theo mô hình TĐKD đã có từ lâu. Các TCT được thành lập theo mô hình TĐKD được coi là biện pháp để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế và là một trong những nội dung của cải cách DNNN trong điều kiện cơ chế quản lý mới. Hiện nay vẫn còn tình trạng phân tán trong quản lý các DNNN. Các DNNN do nhiều cơ quan khác nhau quản lý. Trong số các DNNN dược đưng ký thành lập lại có tới 4573 doanh nghiệp do địa phương quản lývà có tơi 1971 doanh nghiệp do các bộ và cơ quan trung ương quản lý. Trên cùng một địa bàn lãnh thổ, các doanh nghiệp trung ương và doanh nghiệp địa phương chồng chéo, trùng lắp nhau về phương hường sản xuất kinh doanh. Chẳng hạn trên địa bàn Hà Nội có 355 DNNN thì 235 doanh nghiệp do nhà nước quản lý và 120 do chính quyền thành phố quản lý. Nhưng các doanh nghiệp trung ương lại có 22 cơ quan chủ quản và doanh nghiệp địa phương lại có tới 13 cơ quan chủ quản khác nhau. Sự phân tán chồng chéo đó không thể là điều kiệ tốt để nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý nhà nước về kinh tế, cũng không thể bảo đảm phát huy sức mạnh của toàn bộ hệ thông DNNN và hệ thống kinh tế quốc dân. Sự tồn tại các cơ quan hành chính chủ quản đối với các doanh nghiệp đã gây nên những cản trở cho việc thực hiện chức năng "người nhạc trưởng" trong hoạt động điều hành của hệ thống kinh tế quốc dân của nhà nước, cản trở sự phất huy và tính tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp. Thực tiễn đã cho thấy mô hình liên hiệp xí nghiệp và TCT kiểu cũ đã phát huy được thế mạnh trong thời kỳ bao cấp nhưng trong thời kỳ nền kinh tế thị trường nó bộc lộ rất nhiều hạn chế. Nhiều liên hiệp xí nghiệp biến thành một cấp trung gian ít có tác dụng giúp đỡ các doanh nghiệp có khi gây ra những khó khăn cho hoạt động của các doanh nghiệp. Vì thế thành lập các TCT theo mô hình TĐKD là cần thiết để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế. Cs thể thấy rõ điều này qua việc các TCT ra đời, cho đến nay với việc xoá bỏ chế độ chủ quản cơ quan hành chính đã tạo cho các doanh nghiệp quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh góp phần tăng cường quản lý nhà nước về kinh tế trên cơ sở đảm bảo các cơ quan nhầ nước thực hiện đúng chức năng, quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan này. Thứ năm, về mặt quan hệ kinh tế đối ngoại. Ngày nay xu hướng toàn cầu hoá, hội nhập, đòi hỏi các doanh nghiệp nước ta phải tận dụng những cơ hội kinh doanh thuận lợi. Nền kinh tế mở cửa các quan hệ kinh tế đối ngoại được phát triển mạnh đặc biệt là trong quan hệ liên doanh liên kết. Về cơ bản hoạt động liên doanh, liên kết nhằm để học hỏi kinh nghiệm quản lý, chuyển giao công nghệ để nâng cao năng lực của các doanh nghiệp nước ta. Nhưng néu các doanh nghiệp riêng lẻ thực hiện liên doanh liên kết sẽ gây nhiều bất lợi. Tỷ lệ vốn góp ít, khả năng tài chính nhỏ bé và kinh nghiệm non kém sẽ bị bên đối tác nước ngoài chèn ép vầ phải bán phần vốn góp cho nước ngoài khi liên doanh bị thua lỗ, đó là một thực tế diễn ra trong thời gian qua. Việc ra đời các TCTNN theo mô hình TĐKD là cần thiết nhằm tăng cường tiềm lực tài chính đảm bảo cho các hoạt động kinh tế đối ngoại có hiệu quả. b. Chủ trương của Đảng và nhà nước về việc thành lập TCTNN ở nước ta Với mục đích phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, vì thế mà trong giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới, thì vấn đề đổi mới khu vực kinh tế nhà nước, mà trọng tâm là các doang nghiệp nhà nước (DNNN), được coi là một trong các nhiệm vụ quan trọng và yêu cầu phải được xúc tiến với nhịp độ nhanh, vững chắc và có hiệu quả. Việc ứng dụng các mô hình quản lý mới nhằm phát huy hiệu quả của các DNNN là rất cần thiết khi mà mô hình cũ đã bộc lộ nhiều hạn chế, xuất phatá từ hoàn cảnh đó, Đảng và nhà nước đã xác định chủ trương thành lập các TĐKD thông qua việc thí điểm thành lập các TCT theo mô hình tập đoàn kinh doanh. Ngày 7/3/1994 Thủ tướng chính phủ đã ra quyết định 91/TTG về "thí điểm thành lập các TĐKD" với mục đích tạo điều kiên thúc đẩy tập trung, nâng cao khả năng cạnh tranh. Đông thời chính phủ đưa ra quyết định 90/TTG về việc sắp xếp lại các DNNN, xoá bỏ những hoạt động có tính chất trung gian, trả lại những nhiệm vụ có tính quản lý nhà nước cho cơ quan quản lý ngành. Trong chủ trương xoá bỏ chế độ chủ quản, cấp hành chính chủ quản, tăng cường vai trò quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế nâng cao hiệu quả của nền kinh tế. Theo quyết định 91/TTG các đơn vị được lựa chọn làm thí điểm là một số công ty lớn có mối liên hệ theo ngành và theo lãnh thổ, không phân biệt doanh nghiệp trung ương hay do địa phương quản lý có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân đảm bảo những yêu cầu cho thị trường trong nước có triển vọng mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài. Chủ trương thành lập các TCTNN theo hướng TĐKD đã được nhà nước đề cập trong văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII năm 1991 về việc "sắp xếp lại các liên hiệp xí nghiệp, tổng công ty phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh của cơ chế thị trường. Xây dựng một số TCT hoặc liên hiệp xí nghiệp có quy mô lớn, có uy tín lớn và khả năng cạnh tranh trong quam hệ kinh tế với nước ngoài". Hội nghị ban chấp hành trung ương lần thứ VII (khoá IV) của Đảng khẳng định: "Hình thành một số tổ chức kinh tế lớn với mục đích tích tụ và tập trung cao về vốn, đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới, từng bước xoá bỏ chế độ bộ chủ quản cấp hành chính chủ quản đối với nhà nước. Mô hình TĐKD đã tồn tại ở nhiều nước trên thế giới từ khá lâu và đã phát huy được sức mạnh của nó trong việc mở rọng thị trường nước ngoài như các tập đoàn lớn với các công ty đa quốc gia như: Tập đoàn Misubishi của Nhật, Genera Motor (Mỹ) và các ??? ở Hàn Quốc. Chủ trương thành lập các TCTNN theo hướng TĐKD là một chủ trương lớn và cần thiết nhằm củng cố vai trò của nền kinh tế nhà nước trong điều kiện hiện nay. c. Vai trò của các TCTNN. Qua các TCTNN được thành lập có thể thấy rõ một số vai trò sau: Thứ nhất, tăng sức mạnh kinh tế và khả năng cạnh tranh của cả TCT và của từng doanh nghiệp thành viên. TCT có thể tập hợp được các nguồn lực vật chất, đặc biệt là nguồn vốn đầu tư phát triển, đổi mới công nghệ, cải tiến cơ cấu sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất từ đó nâng cao sức cạnh tranh trên tt, có điều kiện mở rộng tt đặc biệt là tt nước ngoài. Thứ hai, các TCT có vai trò trong việc tập trung và điều hoà các nguồn vốn. Các TCT có thể huy động vốn từ các thành viên, hoặc từ bên ngoài và điều hoà các nguồn vốn để thực hiên các chương trình đầu tư theo chiều sâu, đầu tư vào những ngành có triển vọng phát triển cao cần nguồn vốn lớn và có thể hỗ trợ các doanh nghiệp thành viên khi gặp khó khăn về nguồn vốn. Việc đầu tư theo chiều sâu, đổi mới công nghệ cần lượng vốn lớn do đó phải có sự tập trung vốn lớn mới thực hiện được. Việc tập trung vốn vào đầu tư có trọng điểm sẽ khắc phục được tình trạng vốn bị phân tán. Mặt khác, vốn có thể huy động từ các doanh nghiệp thành viên do đó các doanh nghiệp thành viên có mối quan hệ chặt chẽ với TCT và với các thành viên khác. Nhờ mối liên hệ này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thống nhất các phương hướng chiến lược của các doanh nghiệp trong TCT phát triển kinh doanh chống lại sự cạnh tranh của các công ty nước ngoài. Thứ ba, các TCT có vai trò trong việc triển khai ứng dụng công nghệ vào sản xuất kinh doanh. Ngoài việc tập trung các nguồn vốn, các TCT còn có vai trò trong việc tập trung các nguồc lực về con người trong triển khai nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật. Những hoạt động này đòi hỏi một khối lượng vật chất lớn mà mỗi công ty riêng rẽ gặp rất nhiều khó khăn. Việc tập trung các nguồn vốn sẽ có tác động tích cực trong việc tạo điều kiện cần thiết cho triển khai nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất. Các đề tài nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ đòi hỏi phải có sự phối hợp của đội ngũ cán bộ nghiên cứu, các phòng thí nghiệm, các thiết bị nghiên cứu cần thiết. Chỉ có trên cơ sở liên kết các công ty mới tạo được tiềm năng to lớn đó về nghiên cứu khoa học công nghệ. Mặt khác, nhờ sự liên kết của các doanh nghiệp thành viên trong TCT có thể thực hiện trao đổi thông tin và trao đổi những kinh nghiêm trong việc thực hiện nghiên cứu triển khai khoa học công nghệ. Từ đó tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thành viên có thể ứng dụng những thành tựu mới nhất vào sản xuất, sử dụng những thông tin và kinh nghiệm của các doanh nghiệp khác cho doanh nghiệp của mình. Thứ tư, TCT có vai trò trong việc giải quyết các vấn đề và định hướng cho các doanh nghiệp thành viên trong quan hệ kinh tế với nước ngoài như trong vấn đề chuyển giao công nghệ. Ngoài việc trao đổi thông tin trong lĩnh vực nghiên cứu triển khai khoa học công nghệ thì trong vấn đề chuyển giao công nghệ các công ty sẽ thực hiện hiệu quả hơn do các công ty có thể trao đổi thông tin trong lĩnh vực này, điều đó sẽ tránh cho vấn đề trùng lắp công nghệ chuyển giao hoặc có thêm kinh nghiệm chuyển giao công nghệ có hiệu quả. Cuối cùng, đối với các TCTNN hiện nay, ngoài các vai trò quan trọng nêu trên thì TCTNN còn có vai trò là công cụ vật chất của nhà nước trong việc quản lý nền kinh tế nhằm định hướng xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện được mục tiêu đó thì bộ phận doanh nghiệp quốc doanh phải nắm vai trò chủ đạo và thông qua các DNNN, nhà nước có thể tác động tới định hướng phát triển của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Các TCTNN có vai trò trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ phận kinh tế quốc doanh để kinh tế quốc doanh thực sự phát huy vai trò chủ đạo của mình. Trên thực tế, các TCT ở nước ta đã và đang nắm giữ những ngành có vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước ta như điện lực, bưu chính viễn thông, thép, xi măng.v.v... và những ngành có tiềm năng phát triển và được ưu tiên phát triển cao để tạo động lực phát triển toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Bên cạnh đó, các TCT hoạt động có hiệu quả sẽ có vai trò trong việc góp phần giải quyết công ăn việc làm, tăng nguồn thu ngân sách, góp phần làm ổn định chính chị xã hội trong nước. 2. Những đặc điểm cơ bản của TCTNN ở nước ta hiện nay. Hiện nay, ở nước ta đang tồn tại 2 loại hình TCTNN. Đó là TCT 91 (thành lập theo quyết định 91 TTg) và TCT 90 (thành lập theo quyết định 90 TTg). Giữa hai loại TCT này có sự phân biệt dựa trên một số vấn đề: Quy mô vốn pháp định, số lượng doanh nghiệp thành viên, cấp có thẩm quyền quyết định thành lập, phê chuẩn điều lệ và bổ nhiệm nhân sự của bộ máy của TCT. Tính đến nay, cả nước có 18 TCT 91 và 77 TCT 90 qua những doanh nghiệp đang tồn tại hiện nay ta có thể rút ra một số vấn đề sau: Đối với TCT 91 thí điểm thành lập TĐKD có một số đặc điểm đáng chú ý sau: Thứ nhất, xét về quy mô, các TCT ở nước ta đều có qui mô tương đối lớn xét trên các mặt: vốn, doanh thu và số lượng thành viên tham gia. Điều này một phần là do quy định của chính phủ (Theo quyết định 91 TTg của thủ tướng chính phủ thì các TCT phải có vốn pháp định từ 1000 tỷ đồng trở lên và phải có ít nhất 7 thành viên tham gia). Theo tính toán đến ngày 31-12-1993, tổng giá trị tài sản cố định của TCT dầu khí là 180,5 tỷ đồng và 948 triệu USD tương đương 10428 tỷ đồng. Doanh thu của các đơn vị đều ở mức cao. Ví dụ TCT Bưu chính viễn thông đạt doanh thu 1920,31 tỷ đồng, TCT thép là 2693 tỷ đồng, TCT hàng không là 2320 tỷ đồng. Về số lượng thành viên, TCT Bưu chính viễn thông có 17 doanh nghiệp nhà nước hạch toán độc lập, 59 đơn vị thanh toán phụ thuộc, 12 đơn vị sự nghiệp. TCT Giấy Việt Nam có 15 doanh nghiệp nhà nước hạch toán độc lập, một đơn vị hạch toán phụ thuộc và 2 đơn vị sự nghiệp. Thứ hai, các TCT đều nắm giữ những vị trí trong mỗi ngành và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Vị trí trọng yếu này thể hiện rõ trên hai mặt: - Sản lượng sp của TCT chiếm đại bộ phận sản lượng trong toàn ngành. Do vậy, sự phát triển của TCT có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển của các doanh nghiệp khác không nằm trong thành phành của TCT. Chẳng hạn TCT thép năm 1993 chiếm 99,6% tổng sản lượng thép cả nước, TCT xi măng chiếm 97,9%. - Sự phát triển của ngành và của TCT có ảnh hưởng to lớn tới toàn bộ quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Do vậy, các TCT được thành lập đều thuộc những ngành trọng yếu, được nhà nước ưu tiên pr và có triển vọng phát triển cao. Thứ ba, thành phần của các TCT rất đa dạng nhưng có nét chung. Các TCT ở nước ta hiện nay về cơ bản là thuộc sở hữu nhà nước, do đó gọi là TCTNN. Trong quá trình thành lập. TCT đã thực hiện việc sắp xếp lại tổ chức, từng bước xoá bỏ sự phân tán của các doanh nghiệp. Thành phần các doanh nghiệp bao gồm cả doanh nghiệp do trung ương quản lý và doanh nghiệp do địa phương quản lý. Điều đó có nghĩ là tình trạng chia cắt các doanh nghiệp thuộc trung ương quản lý và chính quyền địa phương quản lý về cơ bản đã được xoá bỏ tạo điều kiện thuận lợi để thống nhất và đầu tư phát triển. Tuy vậy, cũng có những TCT thành phần về cơ bản không có gì thay đổi so với trước khi thành lập loại hình kinh doanh mới này. Chẳng hạn như TCT điện lực, xi măng, thép... ở các TCT này, các đơn vị thành viên của TCT có quan hệ với nhau về cùng tính chất ngành. Nói cánh khác tính đơn ngành của của các TCT thể hiện rõ nét. Nét mới đáng chú ý trong thành phần các TCT nhà nước là các TCT đều có công ty tài chính, một đặc trưng của mô hình của mô hình tập đoàn kinh doanh. Ví dụ TCT than thành lập công ty tài chính than, TCT điện lực có công ty tài chính điện lực. Thứ tư, các TCT theo mô hình tập đoàn kinh doanh đều có chung nền tảng tổ chức ban đầu. Đó là sự chuyển đổi từ liên hiệp xí nghiệp, TCT kiểu cũ sang TCT theo mô hình TĐKD. Nói cách khác, sự thành lập chúng là kết quả trực tiếp của quá trình thực hiện quyết định 91 TTg về thí điểm thành lập TĐKD và quyết định 90 TTg về việc tiếp tục sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước. Điều này cho thấy việc thành lập các TCT theo mô hình TĐKD ở nước ta có thuận lợi là dựa trên cơ sở đk tiền đề đã có. Song nếu không xác định rõ tính chất của loại hình kinh doanh mới này sẽ không tránh khỏi việc đi theo lối mòn của các tổ chức tiền thân đã mắc nhiều khuyết điểm. Thứ năm, xét về cơ cấu tổ chức quản lý. Các TCT ở nước ta có cơ cấu tổ chức bộ máy cũng gần giống như công ty cổ phần nhưng về sở hữu lại khác. Như đã đề cập, các TCT về cơ bản thuộc sở hữu nhà nước. Cơ cấu bộ máy TCT bao gồm: Hội đồng quản trị, Ban điều hành và Ban kiểm soát. Hội đồng quản trị của tập đoàn gồm 7 - 9 thành viên do thủ tướng chính phủ bổ nhiệm thực hiện các nhiệm vụ đại diện cho nhà nước về phần vốn góp của nhà nước trong TCT chịu trách nhiệm trước chính phủ và trước luật pháp. Tổng giám đốc do thủ tướng chính phủ bổ nhiệm, khen thưởng, kỷ luật, miễn nhiệm theo đề nghị của HĐQT, TGĐ là đại diện pháp nhân của TCT chịu trách nhiệm trước HĐQT trước người bổ nhiệm mình và trước pháp luật về hoạt động điều hành TCT. Ban kiểm soát có 5 thành viên trong đó có thành viên HĐQT làm trưởng ban theo sự phân công của HĐQT và 4 thành viên khác do HĐQT quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật. Ban kiểm soát thực hiện nhiệm vụ do HĐQT giao về việc kiểm tra, giám sát hoạt động diều hành của TCT, bộ máy giúp việc và các đơn vị thành viên của TCT trong hoạt động tài chính, chấp hành pháp luật, điều lệ TCT, các nghị quyết và quyết định của HĐQT. Đó là đặc điểm của TCT91 theo mô hình tập đoàn kinh doanh. So với các TCT 91 các TCT 90 về cơ bản cũng mang những đặc điểm trên như của TCT 91 nhưng có một vài khác biệt ở chỗ: Về quy mô, TCT 90 có mức vốn và doanh thu nhỏ hơn nhiều so với TCT 91. Vốn bình quan của 1 TCT 90 là 280 tỷ đồng rất nhỏ so với mức vốn bình quan 3661 tỷ đồng của TCT 91 theo số liệu năm 98. Năng lực sản xuất của TCT 90 rất nhỏ bé. Mặt khác xét về vị trí trong các ngành kinh tế quốc dân không phải là các đơn vị đều chiếm vị trí trọng yếu trong nền kinh tế nhưng là các doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong ngành và có đóng góp lớn cho nền kinh tế. Một số TCT 90 hoạt động trong những ngành không thuộc định hướng phát triển của chính phủ chẳng hạn TCT thuốc lá... Cũng như TCT 91, các TCT 90 ra đời trên cơ sở 250 TCT kiểu cũ được thành lập trước năm 1991 và do đó cũng có chung nền tảng ban đầu. Thành phần của các TCT 90 về cơ bản cũng như của TCT 91 và cũng mang tính đơn ngành rõ nét. Về cơ cấu tổ chức bộ máy, cũng giống như đối với TCT 91 nhưng chỉ khác ở chỗ người ra quyết định thành lập không phải là thủ tướng chính phủ mà là thủ tướng uỷ nhiệm thành ???. Người ra quyết định thành lập sẽ bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật các thành viên HĐQT, Tổng giám đốc, các bộ phận khác cũng hoạt động giống như TCT 91. II. Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của tổng công ty nhà nước. 1. Thực trạng: a. Những kết quả đạt được: Tính đến năm 2000 cả nước có 95 TCT trong đó có 18 TCT được thành lập theo quyết định số 91TTG của chính phủ. Trong các TCTNN có 1392 doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập bằng 24% số doanh nghiệp hiện có. Riêng 17 TCT 91 trong năm 1999 có tới 460 doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập chiếm 9% tổng số doanh nghiệp hiện có. Các TCTNN này đều nằm trong những ngành kinh tế quốc dân quan trọng, trong đó bộ công nghiệp có 19 TCTNN (7 TCT 91 và 12 TCT 90) bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn có 18 TCTNN (4 TCT 91 và 14 TCT 90) bộ giao thông vận tải có 15 TCT (trong đó có 2 TCT 91 và 13 TCT 90) bộ xây dựng có 13 TCTNN (1 TCT 91 và 12 TCT 90). Nếu so với toàn bộ các DNNN thì TCT 91 và TCT 90 mặc dù chiếm 24% số lượng doanh nghiệp nhưng lại chiếm tỷ lệ 66% về vốn, 60% về lực lượng lao động, 69% về nộp ngân sách nhà nước. Các TCT đã thể hiện được vị trí then chốt trong nền kinh tế. Có thể ghi nhận vị trí quan trọng của 17 TCT 91 qua các con số như sau: các TCT 91 chỉk chiếm 9% số lượng doanh nghiệp nhưng lại chiếm 54,9% về vốn, 64,2% về lợi nhuận trước thuế, và 54,9% về nộp ngân sách. Từ sau khi thành lập đến nay, nhiều TCT đã nhanh chónh đi vào ổn định, khắc phục khó khăn, vươn lên đạt kết quả đáng kể trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhiều TCT đã phát huy được vai trò chủ lực của mình trong ngành và nền kinh tế, hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả duy trì tỷ lệ tăng trưởng tương đối cao, hoàn thành nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước, nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên chức và tích cực tham gia các chính sách xã hội. Các TCT đã đạt được mức tăng trưởng được giao về giá trị tổng sản lượng, tổng doanh thu thu nộp ngân sách lãi, lỗ, bình quân thu nhập của cán bộ công nhân viên. Kim ngạch xuất khẩu và các chỉ tiêu khác đều tăng qua các năm. Một số TCT ngày càng lớn mạnh, có tiềm lực phát triển, hoạt động có hiệu quả ổn định vững chắc như TCT Bưu chính viễn thông, TCT dầu khí, TCT điện lực. Các công ty này không những đạt được các chỉ tiêu tăng trưởng mà còn phát triển được thị phần của ngành. Phần lớn các TCT 91 và nhiều TCT 90 hoạt động trong lĩnh vực thuộc các ngành giao thông vân tải, xây dựng, thuỷ lợi, thương mại, đã hoạt động tương đối tốt ở các khâu: tập hợp được sức mạnh của TCT trong tham gia đấu thầu, bảo lãnh tín dụng, mua sắm thiết bị công nghệ mới điều hoà vốn nhà rồi của các thành viên cho yêu cầu đầu tư tăng thêm nâưng lực mới, hỗ trợ các doanh nghiệp gặp khó khăn theo cơ chế liên doanh liên kết, tín dụng nội bộ hoặc hỗ trợ cán bộ quả lý có năng lực, chấn chỉnh tình trạng cạnh tranh bừa bãi giữa các doanh nghiệp thành viên trong xuất nhập khẩu, tổ chức các dịch vụ chung, phát huy trí tuệ tập thể và trách nhiệm tập thể trong việc xen xét các chủ trương đầu tư và bảo toàn vốn của nhà nước. Thời gian qua nếu không có vai trò của TCT thì không thể khắc phục được tình hình của nhà máy dệt Nam Định, không thể thực hiện chủ trương di chuyển các nhà máy lớn ra khỏi thành phố như nhà may xi măng Hải Phòng, xi măng Thủ Đức... Nhiều doanh nghiệp để huy động được nguồn lực của toàn bộ TCT kết hợp huy động các nguồn vốn khác để điều hoà việc thực hiện chủ trương đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh, khai thác thị trường trong nước và mở rộng thị trường nước ngoài, làm nòng cốt trong việc bảo đảm các cân đối chủ yếu của nền kinh tế về những hàng hoá tiêu dùng thiết yếu, cân đối ngoại tệ góp phần quan trọng vào việc ổn định giá cả và ổn định kinh tế xã hội. Các TCT đã góp phần quan trọng trong việc thiết lập trật tự xuất nhập khẩu phát huy vai trò chủ động của doanh nghiệp thành viên ngăn chặn tình trạng các doanh nghiệp cùng cạnh tranh nâng giá mua, hạ giá bán, tăng chi phí giao dịc quốc tế và hạn chế sơ hở trong việc ký kết các hợp đồng thương mại. Các TCT đã tăng sức mạnh cạnh tranh trong sản xuất kinh doanh và trong thị trường tiêu thụ trong nước. Một số loại sản phẩm của một số ngành kinh tế do các TCT sản xuất đã và đang có vị trí đứng ở thị trường nước ngoài, tạo khả năng tự cân đối được kim ngạch xuất nhập khẩu, như các ngành rượu bia, nước giải khát, thuốc lá, than may mặc và dầu khí. Nhìn chung các TCT có khả năng và thực lực để thực hiện các nhiệm vụ và chiến lược phát trriển ngành do chính phủ giao b. Những tồn tại và vướng mắc Nhìn vào những kết quả đã đạt được của các TCT trong thời gian qua cho thấy mô hình TCTNN phần nào đã phát huy được ưu điểm. Tuy nhiên qua thực tiễn hoạt động của các TCT nảy sinh nhiều tồn tại và vướng mắc cần phải giải quyết để hoàn thiện hơn nữa mô hình này. Đó là các tồn tại trên các mặt: - Trước hết, như phần trước đã đề cập so với các DNNN khác , các TCTNN chiếm tỷ trọng lớn về vốn (71,9%) nhưng mới tạo ra được 49,8% về doanh thu. Trong đó các TCT 91 chiếm 54,9% về số vốn nhưng chỉ đạt được 26,4% về tổng doanh thu, TCT 90 chiếm 17% về vốn nhưng đạt được 23,2% về doanh thu. Như vậy bên cạnh các TCT hoạt động tốt, tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội còn có những TCT chiếm số vốn lớn nhưng hoạt động kém hiệu quả. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của đa số TCT, mặc dù các chỉ tiêu về kinh tế đều tăng về giá trị tuyệt đối nhưng mắc tăng đều giảm qua các năm. Các chỉ tiêu tăng trưởng về vốn, doanh thu, lợi nhuận và nộp ngân sách nhà nước của các TCT 91 trong năm 1998 đều thấp hơn năm 1997. Tỷ lệ thuế lợi tức trong tổng nộp ngân sách của các TCT 91 giảm dần từ 34,8% năm 1996 xuống 30,5% năm 1998. Trong nửa đầu năm 1999 so với cùng kỳ năm 1998 chỉ có 9 trong tổng số 17 TCT 91 tăng về doanh thu 10 trong 17 TCT 91 tăng về nộp ngân sách. TCT cà phê chỉ đạt được 61% về doang thu và 83,6% về nộp ngân sách so với cùng là năm 1998. Tương tự TCT lương thực miền nam đạt 83,6% về doanh thu và 51,7% về nộp ngân sác, TCT xi măng đạt 83,28% về doanh thu và 74,45% về ngân sách. - Thứ hai, tình hình tài chính của các TCT 91 gặp nhiều khó khăn, tính đến tháng 6/1999 các TCT này có tổng số nợ phải trả lên tới 60 ngàn tỷ đồng, tổng lương tồn kho lên tới 4164 tỷ đồng. Riêng TCT mía đường I và II đã tồn kho 1000 tỷ đồng, TCT xi măng tồn kh 500 tỷ đồng, hàng dệt tồn kho 500 tỷ đồng. Năm 1998 TCT than lỗ 60 tỷ đồng. Vấn đề vốn đối với các TCT cũng là vấn đề lớn phải quan tâm. Các TCTNN, điển hình là TCT 91 có mức độ tập chung vốn cao hơn nhiều so voiư các doanh nghiệp nhà nước độc lập và trong một chừng mực nào đó nó góp phần tăng trưởng kinh tế xã hội đất nước. Tuy nhiên vốn của các TCTNN, mà cụ thể là TCT 90 cũng như toàn bộ khu vực kinh tế quốc doanh còn nhỏ bé chưa tương xứng với nhu cầu và vị trí chiến lược của chúng. TCT90 và TCT 91 vốn lưu động được cấp còn nhỏ bé trong khi đó nhiệm vụ được giao lớn. Vì vậy tình trạng thiếu vốn nghiêm trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh đang là trở ngại, khó khăn cho các TCT, mặc dù các TCT này đã được ưu tiên các điều kiện vật chất, nguồn lực để phát triển. Năm 1998 vốn bình quân của TCT 91 chỉ đạt 3661 tỷ đồng. Trong số 17 TCT 91 thì có tới 14 TCT (82%) có mức vốn dưới mức vốn trung bình, trong đó 6 TCT (35%) có mức vốn dưới 1000 tỷ đồng. Ngoài một số TCT có trình độ tích tụ và tập chung cao như TCT điện lực Việt Nam, TCT bưu chính viễn thông, TCT dầu khí Việt Nam, TCT hàng không Việt Nam có số vốn tương đối lớn vào cỡ vài ngàn tỷ đồng, còn lại có tới 6 TCTNN chưa đảm bảo được số vốn pháp định tối thiểu (1000 tỷ đồng). Vốn của các TCT 90 còn thấp hơn nhiều năm 1998 vốn bình quân của TCT 90 là 280 tỷ đồng trong số đó có 80% có số vốn nhà nước thấp hơn mức bình quân, hơn 35% có số vốn dưới 100 tỷ đồng, số TCT 90 có 500 tỷ đồng vốn nhà nước trở lên chỉ chiếm 13%. Như vậy, nếu quy đổi số vốn bình quân của các TCT 90 ra USD và so với các tập đoàn kinh doanh trong khu vực thì có thể thấy các TCT của chúng ta còn có mức vôn nhỏ bé. Nhu cầu thị trường và khả năng kinh doanh cho phép mở rộng quy mô kinh doanh, nhưnh các TCT đều bó tay vì không có khả năng huy động vốn hoặc chỉ có thể vay vốn với số lượng hạn chế, dẫn tới khả năng không thể đổi mới được công nghệ, khả năng cạnh tranh yếu và dễ bị các công ty nước ngoài chèn ép. - Thứ ba, về mặt luật pháp và cơ chế chính sách của nhà nước đối với TCT. Hiện nay các quy định, quy chế đối với TCT cần phải sửa đổi và hoàn thiên cho phù hợp với điều kiện thực tế. Các hạn chế về mặt cơ chế chính sách, luật pháp và cách thức quản lý, do tính chất thiếu đồng bộ hoặc do triển khai thực hiên cũng gây ra một số tác động bất lợi cho các doanh nghiệp trong điều kiện cạnh tranh quốc tế. Đáng chú ý nhất là cơ chế quản lý tài chính và các quy đinh liên quan tới tổ chức bộ máy hoạt động của TCT. Một số cơ chế chính sách đối với TCT nhà nước không còn phù hợp đặc biệt là cơ chế kế hoạch hoá. Doanh nghiệp thành viên hạch toán phụ thuộc thì bị hạn chế về quyền chủ động sáng tạo, còn doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập thì chỉ chăn lo tới lợi ích riêng của doanh nghiệp mìmh những doanh nghiệp độc lập ngoài TCT Theo luật doanh nghiệp nhà nước hiện hành, TCT được xác đinh là DNNN, có quyền và nghĩa vụ như các doanh nghiệp khác. TCT gồm nhiều doanh nghiệp thành viên có quan hệ với nhau về công nghệ, sản xuất tiêu thụ sản phẩm. Doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập cũng là một DNNN có đầy đủ tư cách pháp nhân, các quyền và nghĩa vụ như một DNNN khác, từ việc nhận vốn, nhiệm vụ do TCT giao chứ không phải nhà nước. Các doanh nghiệp này chịu sự ràng buộc của TCT theo điều lệ trong các vấn đề như kinh doanh phải phù hợp với phương án của TCT, các dự án đầu tư phải theo nhiệm vụ của TCT giao, phải nộp kinh phí cho TCT. Các quy định như trong luật hiện hành rất khó thực hiện. Bởi vì tính độc lập về kinh doanh do đod TCT không thể chỉ đạo được các doanh nghiệp thành viên nhất là doanh nghiệp hạc toán độc lập. Những quy định này buộc trách nhiệm của các doanh nghiệp hạc toán độc lập mâu thuẫn với quyền tự chủ kinh doanh của các doanh nghiệp. Trong thực tế hiện nay, chỉ có một số ít TCT được thành lập trên cơ sở các doanh nghiệp thành viên gắn bó với nhau vàe công nghệ, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Nhiều tổng công ty được thành lập theo ý muốn chủ quan của người sáng lập do đó sự ra nhập TCT chưa hẳn là tự nguyện. Vấn đè sử lý mối quan hệ chưa dựa trên nền tảng lợi ích kinh tế dẫn tới sự dính kết giữa các đơn vị thành viên và TCT bị hạn chế, động lực xây dựng TCT đối với các đơn vị thành viên bị thả nổi. Mặt khác, cùng với việc các TCT chưa có thế mạnh về vốn đủ sức chi phối cũng như liên kết các doanh nghiệp thành viên, không ràng buộc được các doanh nghiệp do đó vai trò cuẩ TCT mờ nhạt, chỉ là hình thức. Vấn đề tổ chức cơ cấu bộ máy và việc phân định rõ chức năng của các bộ phận trong TCT cần thiết giải quyết. Thiếu các quy định rõ ràng về vị trí, chức năng, quyền hạn, trách nhiệm của hội đồng quản trị, cũng như mối quan hệ của HĐQT và tổng giám đốc trong quản lý và điều hành TCT. Theo điều lệ mẫu của TCT cơ cấu bộ máy của TCT bao gồm: Hội đồng quả trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc, bộ máy giúp việc cho Tổng giám đốc và các đơn vị thành viên. TCT được quản lý bởi HĐQT và được điều hành bởi TGĐ. Nhưng thực tế thời gian qua, vai trò của HĐQT trong các TCT hầu như rất mờ nhạt. Có một số TCT đã hoạt động được vài năm rồi mà vẫn chưa đủ số thành viên HĐQT, cá biệt có TCT cho tới năm 1999 mới có chủ tịch HĐQT. Qua tình hình hoạt động cho thấy, một số thành viên HĐQT không có năng lực vì thiếu am hiểu chuyên môn quản lý, chưa gắn với hoạt động sản xuất kinh doanh của TCT. Mặt khác, vị trí, chức năng, thẩm quyền của HĐQT và TGĐ chưa phân định rõ ràng nên người ta cảm thấy TCT là "một cơ thể có hai đầu" vừa HĐQT vừa TGĐ, mà quyền lực của HĐQT thì cao nhất trên phương diện quản lý còn TGĐ quyền lực cao nhất trên phương diện điều hành. Thật ra sự tách biệt giữa quản lý và điều hành chỉ là tường đối nhưng cần quy định rõ ràng nhiệm vụ của mỗi bên. Hiện nay, phần lớn các cán bộ đều chưa phân cấp đầy đủ cho HĐQT về quyền quyết định các dự án đầu tư, quyền đề bạt bổ nhiệm cán bộ. Một số đề nghị của TGĐ mặc dù chưa có ý kiến của HĐQT vẫn được lãnh đạo xem xét quyết định. Điều đó làm cho vai trò của HĐQT có phần hạn chế. Trong nhiều lĩnh vực có sự tham gia quyết định của cả hai bộ phận HĐQT và TGĐ sẽ gây ra sự chồng chéo dẫn tới khó xác định trách nhiệm khi gây ra hậu quả bao che bao biện đối với các hành động sai trái của nhau. - Xét về vấn đề quản lý của các cơ quan nhà nước. Do sự thiếu phân công, phân cấp cụ thể rõ ràng về quản lý nhà nước và thực hiện quyền sở hữu nhà nước đối với DNNN giữa chính phủ và các bộ quản lý ngành, bộ chức năng và UBNN cấp tỉnh, huyện do đó mối quan hệ giữa cơ quan quản lý nhà nước và TCT rất phức tạp, có quá nhiều đầu mối, trách nhiệm giải quyết công việc không rõ ràng và khó trách nhiệm khi xảy ra hậu quả. Hiện tại, đại diện sở hữu nhà nước được dàn trải ở nhiều cơ quan đại diện làm nảy sinh nhiều vấn đề phiền hà cho các doanh nghiệp, tạo ra nhiều cơ sở trong cơ chế quản lý vốn của doanh nghiệp mà hậu quả khó lường hết cho cả cơ quan quản lý nhà nước lẫn cho cả doanh nghiệp. - Về mặt tính chất sở hữu, các TCT nhà nước về cơ bản thuộc sở hữu nhà nước thể hiện tính chất đơn sở hữu. Vấn đề cổ phần hoá còn rất hạn chế. Năm 1999 mới có 31 doanh nghiệp thuộc TCT 91 tiến hành cổ phần hoá. Tốc độ cổ phần hoá chậm đã làm giảm khả năng thu hút các nguồn lực cũng như vai trò XH hoá của các TCT. Cuối cùng, đó là tính chất ngành kinh doanh. Các TCT hiện nay về cơ bản đã tham gia vào nhiều lĩnh vực kinh doanh khác nhau nghĩa là đa dạng hoá như đối với các tập đoàn kinh doanh trên thế giới. Nhưng các TCT ở nước ta thường dựa trên một ngành một lĩnh vực cụ thể mang tính chất xương sống. Mặt khác, các doanh nghiệp thành viên lại có mối quan hệ nhất định với nhau về lĩnh vực kinh doanh nào đó. Vì thế, tính chất đơn ngành thể hiện rõ nét. Sự ra đời của các TCT làm cho trật tự cạnh tranh được tạo lập song với tính chất đơn ngành cộng với các ưu đãi phát triển đã gây ra tình trạng độc quyền trên một số ngành, lĩnh vực kinh doanh, cạnh tranh bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Điều này sẽ gây thiệt hại cho nền kinh tế và hạn chế việc thúc đẩy các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, giảm chi phí nâng cao hiệu quả hoạt động. Một số TCT như TCT điện lực, TCT bưu chính viễn thông có hiện tượng độc quyền trong kinh doanh, Tăng giá liên tục gây thiệt hại cho các đơn vị kinh doanh khác và nảy sinh bất bình giữa các doanh nghiệp. Thực tế, các TCT này hoạt động có hiệu quả không phải do năng lực quản lý điều hành tốt mà có lẽ một phần do sự bảo hộ trực tiếp cho tính độc quyền ở các đơn vị này từ phía chính phủ. Nên chăng phải có liệu pháp hạn chế tính độc quyền trong một số TCT hiện nay. Xuất phát từ sự phân tích nêu trên, có thể khái quát một số tồn tại và vướng mắc chính cần phải giải quyết để đưa các doanh nghiệp hoạt động ngày càng có hiệu quả. Các vướng mắc chủ yếu có thể nhận thấy tập trung vào vấn đề; hoàn thiện hơn nữa cơ chế chính sách, các luật và hệ thống văn bản pháp quy dưới luật nhằm tạo cho các doanh nghiệp môi trường kinh doanh lành mạnh. Trong đó cần tạo cho TCT quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh tránh sự can thiệp quá sâu của cơ quan nhà nước. Vấn đề xác định rõ mối quan hệ giữa TCT và các doanh nghiệp thành viên. Các mặt hạn chế của bản thân các TCT là vấn đề năng lực tài chính, vốn, công nghệ, mối liên hệ và hiệu quả công việc của các bộ phận trong TCT. 2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của TCTNN. Tuy đã đạt được một số kết quả bước đầu song để nâng cao hiệu quả hoạt động của TCTNN thì cần thiết phải thực hiện một số vấn đề có tính cấp bách sau: Trước hết, cần hoàn thiện mối quan hệ giữa TCT và các doanh nghiệp thành viên. Rõ ràng đối với các quy định hiện nay thì các doanh nghiệp hạch toán độc lập sẽ giống như một doanh nghiệp độc lập ngoài TCT do đó không gắn kết được TCT và các thành viên này. Vấn đề được đặt ra là: nếu hạch toán tập trung toàn TCT thì có thể phát huy sức mạnh gắn kết chung nhưng lại hạn chế vai trò chủ động sáng tạo của các doanh nghiệp thành viên, còn nếu hạch toán độc lập và điều phối mang tính hành chính hiện nay thì quan hệ giữa TCT và các thành viên sẽ rời rạc. Do vậy, cần thực hiện quy chế phân cấp hoặc uỷ quyền của TCT đối với các đơn vị thành viên theo hướng: Những đơn vị thành viên hoạt động có hiệu quả ổn định và những doanh nghiệp hạch toán phụ thuộc được phân cấp mạnh hơn. Những đơn vị thành viên còn yếu kém, hoạt động chưa ổn định và những doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập được phân cấp dần dần cho phù hợp với tình hình thực tiễn và cần đảm bảo chủ động trong sản xuất kinh doanh vừa tuân thủ điều lệ tổ chức hoạt động. Ngoài ra cần tăng cường hơn nữa vai trò của TCT trong việc xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển doanh nghiệp tổ chức phối hợp, kiểm tra giám sát trên cơ sở phát huy được sức mạnh của toàn TCT khắc phục tình trạng rời rạc của các doanh nghiệp thành viên trong TCT hiện nay. Cơ chế tổ chức hoạt động của TCT cần phát huy được sức mạnh toàn TCT và phát huy tính năng động, tự chủ, sáng tạo không biến TCT thành bộ máy trung gian hành chính cấp trên của các doanh nghiệp thành viên. Muốn vậy, bộ máy TCT, trước hết là HĐQT, TGĐ phải xác định hướng hoạt động sao cho gắn kết được lơi ích, trách nhiệm của các doanh nghiệp thành viên với TCT và giữa các doanh nghiệp thành viên với nhau bằng các biệ pháp kinh tế, tài chính. Bản thân TCT phải có thực lực về kinh tế, tài chính, phải có các đơn vị hạch toán đủ mạnh đảm đương những mũi nhọn kỹ thuật công nghệ chủ chốt của ngành, phải nắm số lượng lao động có tay nghề cao và có cơ chế tổ chức khoa học để trở thành một công ty mẹ, làm hạt nhân quy tụ mọi hoạt động của các doanh nghiệp thành viên - các công ty con. Mặt khác, TCT phải nắm những mặt hàng, nắm công cụ tài chính của toàn TCT để nâng cao năng lực cạnh tranh và mở rộng thị trường đổi mới kỹ thuật công nghệ nâng cao hiệu quả hoạt động. Thứ hai, cần xác định TCT không phải là một tập hợp các đơn vị thành viên mà là một tổ chức kinh tế, gắn kết với nhau, hỗ trợ nhau để nâng cao sức mạnh của mỗi thành viên và nhân sức mạnh của toàn TCT. Do đó, TCT phải có đủ điều kiện để huy động và sử dụng có hiệu quả nhất nguồn tài chính của TCT rõ ràng, trong đó quy định về các nguyên tắc căn bản về quản lý tài chính tronh toàn TCT, mối quan hệ tài chính giữa TCT với các doanh nghiệp thành viên, quan hệ về đầu tưvà tín dụng. Đồng thời cần lập một số tổ chức tài chính trực thuộc TCT để thực hiện việc huy động và điều hoà các nguồn vốn, tập trrung vốn cho các mục tiêu cần thiết trong đó có mục tiêu chủ yếu là đầu tư. Thứ ba, cần xác định rõ mối quan hệ phối hợp giữa HĐQT và TGĐ. Theo quy định của luật DNNN thì đại diện sở hữu nhà nước trong TCT được giao cho 2 người là chủ tịch HĐQT và TGĐ nên trách nhiệm không rõ ràng. Trong mô hình tổ chức mới của DNNN. tổ chức HĐQT có điểm rất mới và rất quan trọng. HĐQT thực hiện chức năng quản lý TCT bằng các nghị quyết, quyết định được hình thành theo cơ chế hội đồng chịu trách nhiệm về sự phát triển của TCT theo nhiệm vụ nhà nước giao. Cũng theo luật, thì TGĐ là thành viên HĐQT là đại diện pháp nhân của TCT, chịu trách nhiệm trước HĐQT và trước người bổ nhiệm mình. Như vậy, HĐQT và TGĐ là hai bộ phận có chức năng khác nhau. Cần phải xác định mối quan hệ giữa HĐQT và TGĐ rõ ràng để mỗi bên thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, hỗ trợ cho nhau nhưng không làm thay lấn lướt quyền của nhau hoặc dựa dẫm ỷ lại vào nhau. Cần khắc phục ngay những lệch lạc trong việc nhận thức và vận dụng của cán bộ các cấp đối với mô hình TCT gây ra sự thiếu phối hợp giữa TGĐ và HĐQT. Ngoài ra trong phần này còn nổi lên vấn đề đó là việc nhận vốn, theo luật DNNN thì chủ tịch HĐQT và TGĐ cùng ký biên bản nhận vốn do nhà nước giao, qua thực tế, cơ chế này gây trở ngại lớn cho các TCTNN trong quản lý và sử dụng tốt vốn được giao. Theo ý kiến của nhiều cán bộ quản lý và các cán bộ nghiên cứu thì nhà nước - mà đại diện là bộ tài chính chỉ nên giao vốn cho chủ tịch HĐQT, sau đó chủ tịch HĐQT sẽ giao lại cho TGĐ. Đồng thời phải đổi mới cách làm việc của cơ quan quản lý vốn và tài sản của TCTNN tại các doanh nghiệp thành viên, khắc phục tình trang quan hệ trực tiếp đối với doanh nghiệp thành viên, xem nhẹ vai trò của TCT. Thứ năm, vấn đề vốn và sử dụng vốn đối với các TCT hiện nay là rất quan trọng, cần thiết phải có chính sách nhằm tạo nguồn vốn và tăng cường các biện pháp quản lý vốn, để tăng tiềm lực tài chính cho các TCT. Ngoài việc tạo ra một quy chế tài chính rõ ràng có thể tiến hành một số biện pháp sau: - Cổ phần hoá một số doanh nghiệp thành viên trong TCT để huy động vốn, tăng cường vai trò xã hội hoá của các TCT. Biện pháp này có thể huy động được nguồn vốn đầu tư tiềm tàng mà vẫn duy trì được sự quản lý của nhà nước ở một mức độ cần thiết. Tuy nhiên cần nghiên cứu để hoàn thiện cơ chế quản lý của nhà nước đối với TCT sau khi diễn ra quá trình cổ phần hoá ở một số doanh nghiệp thành viên. Một số TCT đã thu được kết quả bước đầu từ việc thí điểm cổ phần hoá một số đơn vị trực thuộc cần tiếp tục phát huy và rút kinh nghiệm để tiến hành rộng hơn. Trong vấn đề này nhà nước cần tháo gỡ những khó khăn về cơ chế, chính sách và thủ tục để quá trình được tiến hành được tốt hơn. - Đa dạng hoá các kênh tài chính và giải phóng nguồn vốn bên trong TCT. Vấn đề vốn đang thu hút sự chú ý của công luận vì nó ảnh hưởng quyết định đến khả năng hoạt động của TCT. Cần làm cho các nguồn vốn tín dụng ngân hàng được khai thông và linh hoạt hơn, đơn giản hoá các thủ tục và các quy định gây ách tắc các nguồn vốn tín dụng. Ngay trong lĩnh vực này, các ngân hàng nước ngoài cũng thể hiện ưu thế trong cạnh tranh, thủ tục thuận lợi hơn so với các bên Việt Nam. - Thực hiện đầu tư có trọng điểm một số TCT để có đủ khả năng cạnh tranh quốc tế. Các TCT muốn có đủ sức mạnh cạnh tranh với các công ty nước ngoài thì trước hết phải đảm bảo khả năng tài chính với quy mô vốn đủ lớn. Thực tế sau khi thành lập lại 74 TCT có thể nhận thấy quy mô vốn của TCT Việt Nam còn quá nhỏ bé so với các công ty trung bình của các nước trong khu vực. Với quy mô vốn nhỏ sẽ mất khả năng cạnh tranh không thể trang trải các chi phí nghiên cứu phát triển, chi phí Marketing như các đối thủ đang làm. Ngoài ra, thúc đẩy nhanh quá trình liên kết nội bộ cũng là một khả năng để huy động vốn trong nội bộ TCT. Cùng với điều đó thì việc đào tạo vầ bồi dưỡng cán bộ quản lý nhất là các cán bộ quản lý về tài chính là rất cần thiết. Quy mô TCT càng lớn thì càng cần các cán bộ quản lý tài chính giỏi có năng lực và phẩm chất đạo đức tốt. Kết luận Chủ trương thành lập các TCT của Đảng và nhà nước là một hướng đi đúng và cần thiết để củng cố khu vực kinh tế quốc doanh hiện nay. Sự ra đời của các TCTNN mới trong thời gian ngắn hay nói đúng hơn là trong giai đoạn thử nghiệm theo mô hình mới. Từ những kết quả đã đạt được trên các mặt có thể khẳng định các TCTNN về cơ bản đã thực hiện được các mục tiêu đề ra của Đảng và nhà nước, góp phần rất lớn vào việc phát huy vai trò chủ đạo của khu vực DNNN tạo đà phát triển cho toàn bộ nền kinh tế, góp phần làm ổn định kinh tế, xã hội, an ninh, chính trị, trật tự quốc phòng được giữ vững, đóng góp lớn vào việc duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế liên tục trong nhiều năm của thập kỷ 90, đưa nền kinh tế nước ta dần dần thu hẹp khoảng cách tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, do mới thành lập và tồn tại trong thời gian ngắn do đó không thể tránh khỏi những hạn chế, tồn tại, vướng mắc đòi hỏi phải giải quyết để hoàn thiện hơn nữa loại hình doanh nghiệp này. Những tồn tại và vướng mắc đó một phần do đặc điểm nội tại khi thành lập các TCT mà chúng ta không thấy được, đó là những quy định về cơ cấu tổ chức, các bộ phận trong TCT không phù hợp với thực tế. Những tồn tại về cơ chếa chính sách luật pháp cũng cần phải khắc phục bởi vì một môi trường kinh doanh lành mạnh phải được tạo ra cho các TCT. Việc khắc phục những tồn tại cần phải được tiến hành ngay, nhưng phải có bước đi thích hợp tránh nóng vội và đòi hỏi phải có sự phối hợp của các cơ quan khác nhau cùng thực hiện. Phải tham khảo ý kiến của các chuyên gia các nhà quản lý có kinh nghiệm và nắm bắt những kinh nghệm của nước ngoài để thực hiện những điều chỉnh cần thiết nhằm nâng cao sức cạnh tranh của các TCTNN ở nước ta. Danh mục các tài liệu tham khảo 1. Thành lập và quản lý các tập đoàn kinh doanh ở Việt Nam Chủ biên: PGS, PTS Nguyễn Đình Phan, NXB Chính trị Quốc gia - 1996. 2. Các quy định mới về doanh nghiệp Nhà nước NXB Thống kê - 1996 Phần Tạp chí: 1. Kinh tế và phát triển số 8/1995, số 27/1998 2. Tài chính doanh nghiệp số 5/1999, 4/1999 3. Công nghiệp số 19/1999, 18/1999, 6/1999, 5/1999, số 2+3/1999, 18/1998, 9/1998. 4. Hoạt động ngân hàng số 8/1997 5. Tạp chí quản lý Nhà nước số 7/2000. 6. Công báo số 29/2000 7. Công nghiệp hoá chất số 8/2000.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0274.doc
Tài liệu liên quan