Đề tài Một số ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện công tác quản lý và tổ chức hạch toán VAT trong các doanh nghiệp ở Việt Nam

Một sắc lệnh thuế khi mới đưa vào vận hành sẽ không tránh khỏi những hạn chế. Đặc biệt, trong điều kiện nền kinh tế đang trong giai đoạn chuyến đổi, công nghệ kỹ thuật còn lạc hậu, hoạt động sản xuất, kinh doanh của nhiều doanh nghiệp chưa có hiệu quả, cơ chế chính sách về quản lý kinh tế tuy được ban hành song còn thiếu đồng bộ, chưa cụ thể và chưa thật ổn định. Chính vì vậy, Nhà nước đã chú ý thăm dò, lấy ý kiến tham gia rộng rãi của các nhà khoa học, các nhà kinh tế, các doanh nghiệp và người tiêu dùng để xây dựng một hệ thống các văn bản pháp quy nhằm tạo ra môi trưòng pháp lý cho việc triển khai thuế GTGT tại VN.

doc34 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1790 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện công tác quản lý và tổ chức hạch toán VAT trong các doanh nghiệp ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh phải đăng ký nộp thuế với cơ quan thuế nơi đóng trụ sở, các cơ sở hạch toán phụ thuộc phải đăng ký nộp thuế GTGT với cơ quan thuế địa phương nơi cơ sở phụ thuộc đóng trụ sở. Riêng các tổ chức, cá nhân thực hiện dịch vụ tư vấn, khảo sát, thiêt kế hoặc các hợp đồng tư vấn, dịch vụ đăng ký, kê khai, nộp thuế với cơ quan thuế địa phương nơi đóng trụ sở. 1.3.3. Cơ sở xây dựng, lắp đặt phải đăng ký nộp thuế với cơ quan thuế địa phương nơi đóng trụ sở. Trường hợp xây dựng, lắp đặt các công trình ở địa phương khác do các cơ sở phụ thuộc không có tư cách pháp nhân thì cơ sở xây dựng đồng thời phải đăng ký, kê khai và nộp thuế với cơ quan thuế địa phương nơi xây dựng công trình. 1.3.4. Cơ sở thực hiện cơ chế khoán cho tập thể, cá nhân kinh doanh theo phương thức tụe chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh thì tập thể, cá nhân nhận khoán phải trực tiếp đăng ký, kê khai, nộp thuế GTGT với cơ quan thuế nơi kinh doanh. 1.3.5. Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng áp dụng phương pháp tính thuế trực tiếp trên giá trị gia tăng, nếu thực hiện được đúng đủ các điều kiện mua và bán hàng hoá dich vụ có đầy đủ hoá đơn, chứng từ, ghi chép hạch toán sổ kế toán đúng chế độ, kê khai nộp thuế GTGT theo đúng chế độ và tự động đăng ký thực hiện nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế thì được áp dụng tính thuế theo phương pháp khấu trừ. Cơ sở phải lập và gửi bản đăng ký nộp thuế cho cơ quan thuế nơi cơ sở đăng ký nộp thuế. Cơ quan thuế khi nhận được đăng ký của cơ sở có trách nhiệm kiểm tra, thông báo kịp thời cho cơ sở về việc được áp dụng hay không được áp dụng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế GTGT ( nêu rõ lý do ) trng thời hạn chậm nhất là 30 ngày, kể từ ngày nhận được giấy đề nghị của cơ sở. Cơ sở chỉ được áp dụng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ khi được cơ quan thuế cho áp dụng. Những cá nhân kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp tính trực tiếp trên GTGT đã được áp dụng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế, nếu trong quá trình thực hiện, cơ sở không thực hiện đúng các quy định thì cơ quan thuế áp dụng quyền ấn định thuế phải nộp và ra thông báo đình chỉ việc nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế. 1.3.6. Về việc cấp mã số thuế cho đối tượng nộp thuế: Các cơ sở kinh doanh đã đăng ký nộp thuế với cơ quan thuế, cơ quan thuế có trách nhiệm cấp mã số thuế và giấy chứng nhận đăng ký thuế cho cơ sở kinh doanh. Đối với chủ dự án hoặc đại diện được uỷ quyền như ban quản lý công trình, nhà thầu chính nước ngoài là đối tượng được hoàn thuế GTGT chưa có mã số thuế phải làm thủ tục với cục thuế nơi đóng trụ sở để được cấp mã số thuế. 1.4. Kê khai thuế GTGT phải nộp ngân sách : 1.4.1. Các cơ sở kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT phải lập và gửi cho cơ quan thuế tờ khai tính thuế GTGT từng tháng kèm theo bảng kê hàng hoá, dịch vụ mua vào, bán ra. Thời gian gửi tờ khai của tháng cho cơ quan thuế chậm nhất là 10 ngày đầu tháng tiếp theo. 1.4.2. Cơ sở kinh doanh, người nhập khẩu hàng hoá phải kê khai và nộp tờ khai thuế GTGT theo từng lần nhập khẩu cùng với việc kê khai thuế nhập khẩu với cơ quan thu thuế nơi có của nhập khẩu hàng hoá. 1.4.3. Cơ sở kinh doanh buôn chuyến phải kê khai và nộp thuế theo từng chuyến hàng với cơ quan thuế nơi mua hàng trước khi vận chuyển hàng đi. 1.4.4. Cơ sở kinh doanh nhiều loại hàng hoá, dịch vụ có mức thuế suất thuế GTGT khác nhau phải kê khai thuế GTGT theo từng mức thuế suất quy định đối với từng loại hàng hoá, dịch vụ; nếu cơ sở kinh doanh không xác định được theo từng mức thuế suất thì phải tính và nộp thuế theo mức thuế suất cao nhất của hàng hoá, dịch vụ mà cơ sở đó sản xuất, kinh doanh. Bộ tài chính quy định mẫu tờ khai thuế và hướng dẫn việc kê khai. 1.5. Nộp thuế: 1.5.1. Cơ sở kinh doanh nộp thuế GTGT đầy đủ, đúng hạn vào ngân sách Nhà Nước theo thông báo nộp thuế của cơ quan thuế. Thời hạn nộp thuế của tháng được ghi trong thông báo chậm nhất không quá 25 ngày của tháng tiếp theo. 1.5.2. Cơ sở kinh doanh, người nhập khẩu hàng hoá phải nộp thuế GTGT theo từng lần nhập khẩu. Thời hạn thông báo và thời hạn nộp thuế GTGT đối với hàng hoá nhập khẩu thực hiện theo thời hạn thông báo và thời hạn nộp thuế nhập khẩu. 1.5.3. Trong kỳ tính thuế, cơ sở kinh doanh nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế, nếu có số thuế đầu vào lớn hơn số thuế đầu ra thì được khấu trừ vào kỳ tính thuế tiếp theo. 1.5.4. Thuế GTGT nộp vào ngân sách Nhà nước bằng đồng VN. 1.6. Quyết toán thuế: Cơ sở kinh doanh phải thực hiện quyết toán thuế hàng năm với cơ quan thuế, năm quyết toán thuế được tính theo năm dương lịch. Trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày kết thúc năm, cơ sở kinh doanh phải nộp báo cáo quyết toán thuế cho cơ quan thuế và phải nộp đủ sơ thuế còn thiếu cho vào ngân sách Nhà nước trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nộp báo cáo quyết toán, nếu nộp thừa thì được trừ vào số thuế phải nộp kỳ tiếp theo. Trong trường hợp sáp nhập, hợp nhất...cơ sở kinh doanh phải thực hiện quyết toán thuế với cơ quan thuế và gửi báo cáo quyết toán thuế cho cơ quan thuế trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày có quyết định sáp nhập, hợp nhất... 1.7. Nhiệm vụ quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan thuế : - Hướng dẫn các cơ sở đã đăng ký kinh doanh thực hiện chế độ đăng ký kê khai, nộp thuế theo đúng quy định . - Thông báo cho cơ sở kinh doanh số thuế phải nộp và thời hạn nộp thuế theo đúng quy định; nếu quá thời hạn ghi trong thông báo mà cơ sở kinh doanh vẫn chưa nộp thì tiếp tục ra thông báo về số thuế phải nộp và số tiền phạt chậm nộp; nếu cơ sở kinh doanh vẫn không nộp đủ số thuế, số tiền phạt theo quy định thì sử dụng các biện pháp xử lý theo quy định mà vẫn không nộp thì chuyển hồ sơ sang cơ quan nhà nước có thẩm quyền; - Kiểm tra, thanh tra việc kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế của cơ sở kinh doanh đảm bảo thực hiện đúng quy định của pháp luật; - Xử lý vi phạm về thuế và giải quyết khiếu nại về thuế; - Yêu cầu đối tượng nộp thuế cung cấp sổ kế toán, hoá đơn, chứng từ và hồ sơ tài liệu khác có liên quan đến việc tính thuế, nộp thuế; yêu cầu các tổ chức tín dụng, ngân hàng và tổ chức, cá nhân có liên quan khác cung cấp tài liệu có liên quan đến việc tính thuế và nộp thuế; - Lưu giữ và sử dụng số liệu, tài liệu mà cơ sở kinh doanh và đối tượng khác cung cấp theo quy định; 2. Phương pháp hạch toán thuế GTGT theo chế độ hiện hành : 2.1. Theo phương pháp khấu trừ thuế: 2.1.1. Hạch toán thuế GTGT đầu vào : a. Tài khoản sử dụng: TK 133: " Thuế GTGT được khấu trừ " Bên Nợ: Số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ. Bên Có: - Số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ; - Kết chuyển số thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ. - Thuế GTGT của hàng mua đã trả lại, được giảm giá. - Số thuế GTGT đầu vào đã hoàn lại. Số dư bên Nợ: Số thuế GTGT đầu vào còn được khấu trừ, số thuế GTGT đầu vào được hoàn lại nhưng ngân sáh Nhà nước chưa hoàn trả. TK 133 có 2 tài khoản cấp 2: TK 1331: Thuế GTGT đầu vào được khấu từ của hàng hoá, dịch vụ: Dùng để phản ánh thuế GTGT đầu vào được khấu trừ của vật tư, hàng hoá, dịch vụ mua ngoài dùng vào sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế. TK 1332: Thuế GTGT được khấu trừ của TSCĐ: Dùng để phản ánh thuế GTGT đầu vào của quá trình đầu tư, mua sắm TSCĐ dùng vào hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá dịch vụ chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế. b. Phương pháp hạch toán một số nghiệp vụ kinh tế chủ yếu: - Khi mua vật tư, hàng hoá, TSCĐ dùng vào hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế: Nợ TK 152- Nguyên vật liệu. Nợ TK 156- Hàng hoá. Nợ TK 211- TSCĐ hữu hình. Nợ TK213- TSCĐ vô hình. Nợ TK 611- Mua hàng. Nợ TK 133- Thuế GTGT được khấu trừ. Có TK 111, 112, 331... Tổng giá thanh toán. Khi mua vật tư, dịch vụ dùng ngay vào sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế: Nợ TK 621, 627, 641, 642, 241... Nợ TK 133 Có TK 111, 112... Khi mua hàng hoá bán ngay ( Thuộc đối tượng chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế ) cho khách hàng không qua nhập kho: Nợ TK 632- Giá vốn hàng bán. Nợ TK 133 Có TK 111, 112... Khi trả lại hàng cho người bán, kế toán phải ghi giảm thuế GTGT đầu vào nếu có: Nợ TK 111, 112... Có TK 133 Có TK 152, 153... 2.1.2. Hạch toán thuế GTGT đầu ra: a. Tài khoản sử dụng: TK 3331: " Thuế GTGT phải nộp " Bên Nợ: - Số thuế GTGT đầu vào đã khấu trừ. Số thuế GTGT được giảm. Số thuế GTGT đã nộp vào ngân sách Nhà nước. Số thuế GTGT của hàng bán bị trả lại, bị giảm giá. Bên có : - Số thuế GTGT đầu vào phải nộp của hàng hoá, dịch vụ dùng để trao đổi, biếu tặng, sử dụng nội bộ. Số thuế GTGT phải nộp của thu nhập hoạt động tài chính, thu nhập khác. Số thuế GTGT phải nộp của hàng nhập khẩu. Số dư bên Có: Số thuế GTGT còn phải nộp cuối kỳ. Số dư bên Nợ: Số thuế GTGT đã nộp thừa vào ngân sách Nhà nước. TK 3331 có 2 TK cấp 3: TK 33311 - Thuế GTGT đầu ra: Dùng để phản ánh số thuế GTGT đầu ra, số thuế GTGT phải nộp, đã nộp, còn phải nộp của hàng hoá sản phẩm, dịch vụ tiêu thụ. TK 33312 - Thuế GTGT hàng nhập khẩu: Dùng để phản ánh thuế GTGT phải nộp, đã nộp, còn phải nộp của hàng nhập khẩu. b. Phương pháp hạch toán một số nghiệp vụ chủ yếu: - Khi bán hàng hoá dịch vụ: Nợ TK 111, 112...Tổng giá thanh toán. Có TK 511, 512: Giá chưa có thuế GTGT Có TK 3331 Đối với trường hợp hàng bán bị trả lại thuộc đối tượng chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế: Nợ TK 531- Hàng bán bị trả lại ( giá bán chưa có thuế GTGT ) Nợ TK 3331- Giảm thuế GTGT phải nộp. Có TK 111, 112... Giá thanh toán của hàng bán bị trả lại. Khi phát sinh các khoản thu nhập từ hoạt động tài chính, hoạt động khác thuộc đói tượng chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ: Nợ TK 111, 112, 131... Tổng giá thanh toán. Có TK 515 - Thu nhập hoạt động tài chính ( Giá chưa có thuế ) Có TK 711 - Thu nhập khác ( Giá chưa có thuế ) Có TK 3331 Đơn vị nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế sử dụng hàng hoá để biếu tặng hoặc sử dụng nội bộ... + Phản ánh doanh thu bán hàng: Nợ TK 641, 642... Giá chưa có thuế GTGT Có TK 512 ( doanh thu bán hàng chưa có thuế GTGT ) + Thuế GTGT phải nộp được khấu trừ Nợ TK 133 Có TK 3331 Khi nhập khẩu vật tư, hàng hoá + Trường hợp nhập khẩu hàng hoá dùng vào hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGt theo phương pháp khấu trừ thuế: Nợ TK 133 Có TK 3331 + Trường hợp nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ dùng vào hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá dịch vụ không chịu thuế GTGT hoặc chịu thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp hoặc dùng vào hoạt động sự nghịêp... Nợ TK 152, 156, 211... Có TK 33312 + Khi nộp thuế GTGT hàng hoá nhập khẩu vào ngân sách Nhà nước: Nợ TK 33312 Có TK 111, 112... c. Quyết toán thuế GTGT: - Cuối kỳ kế toán xác định số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ và số thuế GTGT phải nộp: Nợ TK 3331 Có TK 133 Khi nộp thuế GTGT vào ngân sách Nhà nước: Nợ TK 3331 Có TK133 Nếu số thuế GTGT đầu vào lớn hơn ssó thuế GTGT đầu ra thì chỉ được khấu trừ đúng bằng số thuế GTGT đầu ra số còn lại được khấu trừ vào kỳ tiếp theo. Đối với cơ sở kinh doanh hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ mà thường xuyên có số thuế GTGT đầu vào lớn hơn số thuế GTGT đầu ra thì được hoàn thuế theo quy định của chế độ thuế. Khi nhận được tiền ngân sách Nhà nước thanh toán số tiền thuế GTGT đầu vào được hoàn lại: Nợ TK 111, 112... Có TK 133 Đối với vật tư, hàng hoá mua về dùng đồng thời cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế và không chịu thuế GTGT nhưng không tách riêng được thì cuối kỳ kế toán tính và xác định thuế GTGT đầu vào được khấu trừ và không được khấu trừ trên cơ sở phân bổ theo tỷ lệ doanh thu. Số thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ tính vào giá vốn hàng bán trong kỳ: Nợ TK 632- Giá vốn hàng bán Có TK 133 Số thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ trong kỳ tính vào giá vốn hàng bán của kỳ kế toán sau: Nợ TK 142- Chi phí trả trước Có TK 133 kỳ sau phân bổ Nợ TK 632 Có TK 142 Khi nộp thuế GTGT vào ngân sách Nhà nước kế toán ghi Nợ TK 3331 Có TK 111, 112... 2.2. Theo phương pháp trực tiếp: Khi áp dụng phương pháp trực tiếp để tính thuế GTGT thì kế toán phản ánh giá trị vật tư mua vào và doanh thu bán hàng theo giá thanh toán. Khi xác định được thuế GTGT phải nộp theo phương pháp trực tiếp: Nợ TK 6425: Thuế, phí và lệ phí. Có TK 3331 Khi nộp thuế GTGT hoặc được miễn, giảm thuế thì kế toán phản ánh tương tự như phương pháp khấu trừ. Sơ đồ hạch toán thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ Nợ TK 152, 153, 211... Có Nợ TK 111, 112... Có Nợ TK 511, 512... Có Mua NVL, CCDC... Nợ TK 111, 112... Có Bán hàng Nợ TK 3331 Có Nợ TK 133 Có Kết chuyển thuế GTGT đầu vào được khấu trừ Nộp thuế GTGT Phần 3: Một số ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện công tác quản lý và tổ chức hạch toán VAT trong các doanh nghiệp ở Việt Nam. I. Một số nhận xét và đánh giá chung: 1. Chính sách thuế và chính sách tài chính: 1.1. Đối tượng chịu thuế: Đối tượng không chịu thuế GTGT còn quá rộng, chưa phù hợp với quá trình luân chuyển hàng hoá, dịch vụ giữa các khâu, các cơ sở kinh doanh. Mặt khác, các đơn vị thực hiện kinh doanh trong lĩnh vực này không được hưởng khấu trừ đối với các nguyên liệu thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT được quy định tại điều 4 của luật này. 1.2. Về các mức thuế suất Luật thuế GTGT quy định 4 mức thuế suất GTGT thay thế cho 11 mức thuế suất thuế doanh thu trước đây. Bên cạnh ưu điểm là đơn giản về mức thuế suất nhưng do việc xây dựng các mức thuế suất chưa sát và chuyển từ 11 mức thuế suất thuế doanh thu sang 4 mức thuế suất thuế GTGT đã dẫn đến sự dồn ép về mức thuế suất. Điều này cũng mang đến các hệ quả khác nhau: Có doanh nghiệp được hưởng lợi hơn do việc thực hiện thuế GTGT với mức thuế suất thấp hơn thuế doanh thu; ngược lại có đơn vị phải nộp thuế GTGT với mức thuế suất cao hơn thuế doanh thu trước đây ảnh hưởng đến kết quả doanh thu của đơn vị. Đặc biệt là việc xây dựng thuế suất chưa đồng bộ giữa các mặt hàng cùng nhóm hàng và ngành hàng tương ứng, tạo ra sự bất bình đẳng trong thực hiện nghĩa vụ thuế GTGT của các đơn vị kinh doanh trong cùng một măt hàng. 1.3. Phương pháp tính: Luật quy định 2 phương pháp tính thuế GTGT: phương pháp khấu trừ thuế và phương trực tiếp. Liên quan đến 2 phương pháp tính thuế là việc xác định số thuế phải nộp và tỷ lệ được khấu trừ thuế theo tỷ lệ phần trăm (khấu trừ không của một số hàng hoá, dịch vụ). Qua thực tiễn cho thấy: Phương pháp tính thuế theo phương pháp trực tiếp và quản lý thuế ở VN còn phức tạp và chồng chéo, làm tăng thêm nhiều công sức và chi phí trong việc lập báo cáo, sổ sách, chứng từ của doanh nghiệp cũng như việc theo dõi, kiểm tra của cơ quan chức năng nhất là cơ quan thuế. 1.4. Khấu trừ thuế và hoàn thuế: Về nguyên tắc, các khoản không chịu thuế GTGT thì sẽ không được khấu trừ thuế GTGT khi đưa vào kinh doanh. Nông lâm thuỷ sản chưa qua chế biến của người sản xuất lá đối tượng không chịu thuế, tuy nhiên để hỗ trợ cho người sản xuất tiêu thụ sản phẩm của mình Nhà nước đã quy định loại này được khấu trừ theo tỷ lệ đầu vào từ 1% đến 5%. Trong quá trình thực hiện do có nhiều vướng mắc từ các địa phương và các ngành, chúng ta đã mở rộng diện khấu trừ theo tỷ lệ sang các mặt hàng lân cận và một số mặt hàng khác. Về diện cũng mở rộng từ người trực tiếp sản xuất sang cả người đi thu gom và từ hàng tiêu thụ trong nước sang cả hàng xuất khẩu. Việc mở rộng diện được khấu trừ theo tỷ lệ cũng có nhiều tác dụng tích cực trong việc tiêu thụ hàng nông- lâm- thuỷ- hải sản tuy nhiên việc lợi dụng lập bảng kê khống để được khấu trừ khống theo tỷ lệ trong thời gian qua đã làm thất thoát NSNN khá lớn. Bộ Tài chính đã hạ dần tỷ lệ khấu trừ từ 3%, 5% xuống 2%, 3% nay là 1% cũng là một bước giới hạn thất thoát. Nghị định 95/2000/NĐ-CP ngày 11/11/2002 đã bãi bỏ việc khấu trừ theo tỷ lệ của các cơ sở mua hàng nông- lâm- thuỷ- hải sản buôn bán lại hoặc xuất khẩu đã hạn chế một phần việc thất thoát trong hoàn thuế và khấu trừ thuế nhưng chúng ta vẫn cần có nhiều biện pháp hơn nữa để ngăn chặn sự lợi dụng của những kẻ xấu. Vấn đề gian lận trong hoàn thuế đã đặt ra nhiều thách thức để giải quyết một cách triệt để. Chúng ta có thể khái quát các hành vi gian lận hoàn thuế như sau: - Tăng thuế đầu vào được khấu trừ thông qua việc sử dụng các hoá đơn mua hàng không có thực. - Tăng thuế GTGT đầu vào được khấu trừ bằng cách biến các loại thuế đầu vào không được khấu trừ thành các loại thuế đầu vào được khấu trừ. Ví dụ, vật tư, hàng hoá mua vào sử dụng cho hoạt động không chịu thuế hoặc sử dụng cho mục đích không sản xuất thì không được khấu trừ còn sản xuất cho sản xuất thì được khấu trừ. - Tăng thuế đầu vào được khấu trừ bằng cách lập bảng kê khống để được khấu trừ. - Giảm thuế đầu ra bằng việc sử dụng các loại hoá đơn không thực. - Chuyển thủ tục tiêu thụ hàng hoá nội địa thành thủ tục hàng hoá xuất khẩu. Trên đây là về việc thực hiện của doanh nghiệp, còn về công tác hoàn thuế của Nhà nước thì thủ tục hoàn thuế rất phức tạp nên tiến độ hoàn thuế chậm, gây khó khăn cho nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp đầu tư, mua sắm tài sản cố định với khối lượng lớn. 1.5. Xác định tỷ lệ phân bổ thuế đầu vào: Luật thuế GTGT quy định trường hợp cơ sở sản xuất kinh cả hàng hoá dịch vụ chịu thuế GTGT và không chịu thuế GTGT nhưng không hạch toán riêng được thuế đầu vào, được khấu trừ theo tỷ lệ(%) của doanh số của hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT so với tổng doanh số của hàng hoá dịch vụ bán ra. Quy định này chưa chặt chẽ vì doanh thu do thị trường quyết định nên tỷ lệ khấu trừ thuế GTGT trong tháng có thể bất hợp lý, có thể không được khấu trừ nhiều, khấu trừ ít hoặc được khấu trừ tất cả. Thuế GTGT đầu vào là yếu tố gắn với sản xuất chứ không phải yếu tố tiêu thụ. Do đó, nên căn cứ vào yếu tố sản xuất, theo tiêu thức sản xuất. 2. Chế độ hoá đơn chứng từ và công tác quản lý, sử dụng hoá đơn chứng từ cũng như công tác quản lý thu thuê: 2.1. Chế độ hoá đơn chứng từ và công tác quản lý sử dụng hoá đơn chứng từ: Trong quản lý và sử dụng hoá đơn, chứng từ đã phát sinh những tồn tại, vướng mắc sau: In và sử dụng hoá đơn bất hợp pháp ( hoá đơn không theo quy định của luật thuế, hoá đơn thật nhưng ký hiệu, mã số trên hoá đơn là giả, hoá đơn ghi tổng giá trị hàng hoá không khớp giữa các liên...), buôn bán hoá đơn thật và hoá đơn giả; xuất hoá đơn khống tạo điều kiện cho các đơn vị khác trốn thuế; bán hàng xuất hoá đơn nhưng không kê khai nộp thuế; báo mất hoá đơn nhưng thực chất là bán hoặc sử dụng hoá đơn của đơn vị khác báo mất. Trong những năm gần đây, chế độ hoá đơn chứng từ đã được cải tiến đáng kể. Ngoài những biểu mẫu chung cho các doanh nghiệp được quy định trong chế độ hạch toán ban đầu, Nhà nước còn cho phép các doanh nghiệp đặc thù được phát hành hoá đơn thuế GTGT ( sau khi có ý kiến của bộ tài chính). Tuy nhiên, hệ thống chứng từ của ta còn thiếu cả về số lượng cũng như chỉ tiêu phản ánh trên chứng từ. Cụ thể : Còn có những quy định bất hợp lý về chế độ hoá đơn đối với hàng hoá lưu thông trên thị trường. Chẳng hạn đối với hàng hoá uỷ thác xuất nhập khẩu, theo quy định của Bộ Tài Chính và Tổng Cục Thuế, các đơn vị nhận uỷ thác xuất nhập khẩu ngoài việc lập hoá đơn GTGT thu phí uỷ thác còn phải lập hoá đơn GTGT khi giao hàng cho cơ sở uỷ thác ( đối với trường hợp nhận uỷ thác nhập khẩu ). Về mặt kế toán của đơn vị nhận uỷ thác phải phản ánh 2 loại doanh thu: Doanh thu hoa hồng uỷ thác và doanh thu hàng uỷ thác giao lại cho chủ hàng. Khi trả lại hàng cho chủ hàng nghiệp vụ này thực chất không phải là quan hệ mua bán do đó không phát sinh doanh thu cũng như thuế GTGT. Ngoài ra còn thiếu các chứng từ kế toán bắt buộc làm cơ sở pháp lý để hoạch toán các nghiệp vụ kinh tế phát sinh giữa các pháp nhân độc lập như hoá đơn chiết khấu, giảm giá. 2.2. Quản lý thu thuế: Qua các năm thực hiện quy trình 1368 còn bộc lộ một số hạn chế nhất định như sau: Quy trình quản lý thu thuế vẫn duy trì việc cơ quan thuế in và phát hành thông báo thuế khiến cho thu ngân sách chậm chưa nâng cao được ý thức tự giác về nghĩa vụ nộp thuế của các doanh nghiệp, việc phân định trách nhiệm giữa cơ quan thuế và doanh nghiệp chưa rõ ràng, cơ quan thuế phải tốn nhiều thời gian kinh phí. Hầu như các văn bản pháp luật về thuế hiện hành đều quy định các doanh nghiệp phải nộp thuế theo số thuế và thời gian ghi trong thông báo của cơ quan thuế mà không đưa ra yêu cầu các doanh nghiệp sau khu kê khai tự nộp đầy đủ số thuế đã kê khai vào kho bạc Nhà nước trong thời hạn quy định của luật thuế. Điều đó tạo cho doanh nghiệp có tư tưởng trông chờ vào thông báo nộp thuế, hoặc khi doanh nghiệp nộp thuế chậm lại cho là do cơ quan thuế chậm gửi thông báo thuế. Trên thực tế thời điểm gửi thông báo thuế nhiều khi còn chậm so với thời gian quy định của luật thuế nên có trường hợp doanh nghiệp phải đôn đốc cơ quan thuế gửi thông báo để nộp thuế làm giảm đi tính tích cực chủ động của doanh nghiệp trong việc nộp thuế. Bên cạnh đó việc in ấn, cập nhật và chỉnh sửa số liệu nhiều lần dẫn đến việc phát hành thông báo thuế tốn nhiều thời gian, công sức chi phí và kếm hiệu quả. - Thủ tục kê khai nộp thuế còn quá phức tạp, thiếu tính thống nhất giữa sắc thuế. Điều này gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc kê khai thuế, nộp thuế vừa làm cho việc quản lý cửa cơ quan thuế phức tạp hơn. Hầu hết các sắc thuế đều cho các doanh nghiệp được điều chỉnh, bổ sung số thuế kê khai sót vào lần kê khai sau đã tạo sơ hở để các doanh nghiệp lợi dụng kê khai thiếu thuế mà vẫn không bị xử lý hành vi trốn lậu thuế. - Các luật thuế và quy trình quản lý thu thuế đều có quy định tính phạt về thuế nhưng mức phạt không cao, việc áp dụng những hình thức xử lý vi phạt và phạt chưa thật nghiêm. - Cơ quan thuế không được giao quyền điều tra, khởi tố các đối tượng nộp thuế vi phạm nghiêm trọng nên quyền lực của cơ quan thuế trong việc thực thi luật thuế bị giảm. - Theo quy trình 1368 thì công tác thanh tra kiểm tra phải được tăng cường nhưng trên thực tế do đội ngũ cán bộ thanh kiểm tra còn bất cập cả về số lượng và chất lượng, hơn nữa vẫn chưa có quy trình phân loại kiểm tra một cách có hệ thống khoa học để phát hiện đối tượng có nhiều khả năng trốn lậu thuế nên nhìn chung công tác thanh tra kiểm tra chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu tự tính, tự khai, tự nộp thuế. - Một trong những yêu cầu để thực hiện tốt quy trình 1368 là sự kết nối hệ thống thông tin giữa cơ quan thuế và KBNN. Nhưng thời gian qua việc kết nối thông tin giữa hai cơ quan này chưa được thực hiện. 3. Tổ chức hạch toán kế toán thuế GTGT: 3.1. Tổ chức chứng từ kế toán: Thực tế cho thấy, còn tồn tại nhiều vấn đề trong công tác tổ chức chứng từ kế toán thuế GTGT trong các doanh nghiệp, thể hiện ở một số điểm: - Việc lập, xử lý và luân chuyển chứng từ chưa khoa học và hợp lý. - Doanh nghiệp còn chưa sử dụng đầy đủ các chứng từ cần thiết, chưa quán triệt việc đảm bảo chứng từ hợp pháp và hợp lý trong thanh toán. - Việc lập chứng từ giả mạo, hoá đơn khống, hoá đơn không đúng thực tế. Thực trạng này là một tồn tại trong kế toán, gây khó khăn cho cơ quan quản lý trong việc kiểm tra, giám sát. Nguyên nhân của tình trạng này xét về phía doanh nghiêp là do: - Chưa tổ chức tốt hệ thống chứng từ theo quy định, thậm chí còn cố tình vi phạm chế độ quản lý và sử dụng chứng từ vì lợi ích riêng. - ở nhiều doanh nghiệp, trình độ của cán bộ kế toán còn nhiều hạn chế, tổ chức hệ thống chứng từ kế toán không đầy đủ thiếu khoa học. - Hiện nay, kế toán thuế đang chi phối hoạt động kế toán của doanh nghiệp. Vì mục đích thuế nên nội dung của các chứng từ kế toán đã bị biến hoá để hợp lý hoá, tính chính xác của chứng từ bị vi phạm. - Công tác tổ chức chứng từ kế toán chưa được quan tâm, hiện tượng thất lạc chứng từ luân chuyển chậm, phân loại lưu trữ chưa khoa học còn phổ biến. - Việc sử dụng hoá đơn trong quan hệ mua bán hàng hoá và dịch vụ chưa được xã hội hoá, việc thực hiện chế độ chứng từ chưa đồng bộ giữa cơ quan sử dụng kinh phí và đơn vị sản xuất kinh doanh và cá nhân người tiêu dùng dẫn đến tình trạng hạch toán kế toán thiếu cơ sở pháp lý vững chắc, tạo điều kiện cho một số doanh nghiệp lợi dụng trong kinh doanh. - Các nguyên tắc cơ bản của kế toán bị bỏ qua, dẫn đến số liệu kế toán ở nhiều doanh nghiệp không đầy đủ thiếu chính xác và không trung thực. Việc nâng giá hàng mua, hạ giá hàng bán, thanh toán tiền ngoài hoá đơn... 3.2. Tài khoản: Theo thông tư số 122/2000/TT-BTC ngày 29/12 2000:'' Đối với hàng hoá, dịch vụ mua vào dùng đồng thời cho sản xuất, kinh doanh háng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT và không chịu thuế GTGT thì doanh nghiệp phải hoạch toán riêng thuế GTGT đầu vào được khấu trừ và không được khấu trừ''. Như vậy, phần thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ thì không hoạch toán vào bên Nợ TK 1331. Cũng theo thông tư này quy định:'' Trường hợp không thể hoạch toán riêng được thì toàn bộ số thuế GTGT đầu vào của hàng hoá, dịch vụ mua vào dùng chung cho hoạt động sản xuất, kinh doanh chịu thuế GTGT và không chịu thuế GTGT được hạch toán vào TK 1331. Cuối kỳ, kế toán phải xác định số thuế GTGT được khấu trừ theo tỷ lệ (%) giữa doanh thu chịu thuế so với tổng doanh thu bán ra. Số thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ được tính vào giá vốn của hàng bán ra. Như vậy, trong trường hợp này người kế toán phải hạch toán vào bên nợ TK 1331 cả phần thuế GTGT được khấu trừ và không được khấu trừ, việc hạch toán như vậy làm cho thông tin cung cấp sẽ khó chính xác và sẽ gây khó khăn cho quá trình lập báo cáo kết quả kinh doanh- phần 3( thuế GTGT được khấu trừ , thuế GTGT được hoàn lại, thuế GTGT được giảm, thuế GTGT hàng bán nội địa). Do vậy nên có một TK theo dõi riêng số thuế GTGT đầu vào này. 3.3. Kế toán thuế GTGT ở đơn vị tính thuế theo phương pháp trực tiếp: Theo thông tư 100 của bộ tài chính, các đơn vị tính thuế GTGT trực tiếp trên giá trị gia tăng thì cuối kỳ kế toán xác định số thuế GTGT phải nộp và được hạch toán vào chi phí quản lý doanh nghiệp ( TK 6425) là không phù hợp với bản chất nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Bởi thuế GTGT là một loại thuế gián thu, cho dù doanh nghiệp áp dụng phương pháp tính thuế nào thì khoản thuế này cũng được xem như một khoản thu hộ Nhà nước thông qua người mua. 3.4. Kế toán thuế GTGT đối với trường hợp: Bán hàng theo phương thức hàng đổi hàng; thu nhập hoạt động tài chính; thu nhập hoạt động khác. Theo thông tư 100 quy định nếu bán hàng( thuộc đối tượng chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế) đổi lấy hàng hoá sử dụng cho hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ, theo phương pháp trực tiếp hoặc không chịu thuế GTGT đều phải nộp thuế GTGT đầu ra. Do vậy trong cả hai trường hợp đều phải xác định doanh thu bán hàng( giá bán chưa có thuế GTGT) cũng nhu số thuế GTGT phải nộp. Vấn đề đặt ra là việc đổi hàng lấy hàng khi nào được ghi nhận là doanh thu? Theo chuẩn mực kế toán quốc tế số 16'' Doanh thu" thì việc trao đổi hàng hoá bao gồm 2 trường hợp: Trao đổi hàng hoá tương tự về bản chất Trao đổi hàng hoá không tương tự về bản chất. Cũng như theo quy định của chuân mực kế toán này thì đối với trường hợp 1 việc trao đổi đó không được coi là một giao dịch tạo ra doanh thu.Việc trao đổi được coi như một giao dịch tạo ra doanh thu chỉ khi hàng hoá được bán hoặc dịch vụ không tương tự về bản chất tức là trường hợp 2. Chính vì vậy mà trên thực tế khi doanh nghiệp bán hàng theo phương thức hàng đổi hàng việc tính thuế GTGT với trường hợp 1 còn gặp nhiều khó khăn. Trong thông tư 100 có quy định phải tính toán xác định số thuế GTGT phải nộp về khoản thu nhập hoạt động tài chính và thu nhập khác là hoàn toàn đúng. Song điều quan trọng là ở chỗ xác định sao cho đúng nội dung, bản chất kinh tế của khoản thu nhập hoạt động tài chính làm cơ sở cho việc tính thuế GTGT. Cũng theo chuẩn mực kế toán quốc tế số 16" Doanh thu" thì thu nhập của doanh nghiệp bao gồm cả doanh thu và thu nhập khác. Thu nhập hoạt động khác được hiểu là khoản doanh thu có được từ hoạt động khác của doanh nghiệp( hoạt động tài chính, cho thuê tài sản, góp vốn liên doanh...). Tuy vậy theo chế độ kế toán hiện hành thì TK 515" Thu nhập hoạt động tài chính" chỉ mới phản ánh phần lãi về hoạt động tài chính, còn phần lỗ thì hạch toán vào TK 635" Chi phí tài chính". Trong khi đó, trên TK 711" Thu nhập khác" lại quy định nội dung ghi chép không đảm bảo tính thống nhất với TK 515, thí dụ như khoản thu về thanh lý, nhượng bán TSCĐ thì toàn bộ số tiền thu về thanh lý, nhượng bán TSCĐ lại phản ánh bên có TK 711 chứ không phải chỉ có phần lãi. Chính vì quy định nội dung phản ánh trên TK515, 711 và các TK 511, 512 không đúng với nội dung bản chất của khoản thu nhập (Doanh thu và thu nhập khác) trong doanh nghiệp lại làm cho việc tính toán, xác định số thuế GTGT phải nộp về khoản thu nhập hoạt động tài chính và thu nhập khác gặp khó khăn. Ngoài ra, nếu quy định nội dung ghi chép phản ánh trên TK 515 như hiện nay thì hoạt động tài chính( góp vốn liên doanh, đầu tư chứng khoán ngắn hạn...) bị lỗ thì căn cứ vào số liệu trên TK nào mà xác định số thuế GTGT phải nộp hay là không phải nộp. 3.5. Kế toán thuế GTGT trong trường hợp chiết khấu thanh toán khi bán hàng. Nợ TK 635 - Tổng số tiền chiết khấu bao gồm cả thuế Có TK 131, 111, 112 Do không có chứng từ báo có nên số tiền chiết khấu rơi vào những người đi mua hàng. Vì vậy, cần phải bổ sung thêm chứng từ đầy đủ hơn. Trong trường hợp này cần phải ghi bút toán như sau: Nợ TK 635 - Số tiền chiết khấu thanh toán chưa thuế Nợ TK 3331 - Thuế GTGT của số tiền chiết khấu Có TK 111, 112, 131 - Tổng số tiền chiết khấu thanh toán II. Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý và tổ chức thực hiện hạch toán VAT trong các doanh nghiệp ở VN. Từ thực tế tồn tại vướng mắc ở trên chúng ta có thể đưa ra một số giải pháp như sau. Nhưng trước hết chúng ta bàn về điều kiện để cải cách cơ chế quản lý thuế thành công ở VN. 1. Điều kiện để cải cách cơ chế quản lý thuế thành công ở VN: Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII(1996) đã đề ra phương hướng cho công tác thuế là:" Tiếp tục đổi mới chính sách thuế theo phương hướng vừa đảm bảo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, vừa khuyến khích sản xuất phát triển, thúc đẩy thực hành tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng để tăng tích luỹ. Đơn giản hoá hệ thống thuế và biểu thuế suất, nâng tính ổn định của thuế...". Từ phương hướng nhiệm vụ chung đó, các nhà hoặch định chính sách kinh tế đã đưa ra mục tiêu, yêu cầu chủ yếu của cải cách thuế như: Bao quát hết mọi nguồn thu, đảm bảo mức động viên từ 20- 21% GDP, phát huy vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế của thuế, vừa khuyến khích phát triển sản xuất nội địa, vừa thực hiện tốt chính sách đối ngoại của VN với khu vực và thế giới; động viên bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và tiến tới xây dựng một hệ thống thuế đơn giản, rõ ràng, dễ kiểm tra và hiệu quả. Để đạt được những mục tiêu trên, cải cách thuê phải được thực hiện trên cả hai lĩnh vực là cải cách chính sách thuế và cả cách cơ chế quản lý thu thuế. Những cải cách trên cả hai lĩnh vực này có mối quan hệ hết sức chặt chẽ gắn bó với nhau, trong đó cải cách chính sách thuế là việc thể hiện đường lối và phương hướng động viên thu nhập dưói hình thức thuế của Nhà nước trong nền kinh tế quốc dân. Cải cách chính sách thuế là việc sử dụng các biện pháp, cách thức tiên tiến nhất định tác động lên quá trình các chủ thể trong xã hội thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cho ngân sách Nhà nước nhằm đạt được những mục tiêu mà chính sách thuế đặt ra. Bên cạnh cải cách chính sách thuế, đổi mới cơ chế quản lý thuế hết sức quan trọng. Tuy nhiên, để có chính sách thuế tốt và cơ chế quản lý hoàn hảo thì đều phải có những điều kiện nhất định, trong đó môi trường quản lý là một điều kiện quyết định đến sự thành công hay thất bại của cải cách quản lý thuế. 1.1. Môi trường văn hoá chính trị- Một điều kiện tiền đề cho việc tiến hành cải cách quản lý thuế: Môi trường văn hoá ở đây thể hiện thông qua cách nhìn của người dân đối với nhũng chính sách của chính phủ, thái đọ tuân thủ trong việc thực hiện những quy định của luật thuế và thái độ của công chúng đối với những hành vi phạm pháp luật thuế. Nếu người dân có thái độ tích cực và nhận thức đúng đắn về hệ thống thuế, có thái độ phê phán đối với những hành vi vi phạm pháp luật thuế thì việc cải cách quản lý thuế mới đạt được kết quả tốt đẹp. Môi trường chính trị cũng là một điều kiện quan trọng, vừa có tác động đến cuộc cải cách vừa có tác động ngược trở lại đối với thái độ và nhận thức của công chúng. Nếu việc quản lý thuế bị chi phối bởi ý muốn hay yêu cầu của một nhóm đối tượng nào đó thì những biện pháp, cách thức quản lý sẽ bị sai lệch, không đạt được những mục tiêu của quán lý. Thêm vào đó tệ nạn tham nhũng, cửa quyền trong những người thi hành pháp luật cũng là một trong những nhân tố hết sức quan trọng gây giảm sút lòng tin trong công chúng và sự chấp nhận của công chúng đối với Chính phủ. Vì vậy điều kiện tiền đề cho việc cải cách quản lý thuế thành công là cần phải có một môi trường văn hoá, chính trị ổn định. 1.2. Điều kiện về môi trường kinh tế: Sự phát triển của hệ thống tài chính, đặc biệt là việc sử dụng phương thức thanh toán qua ngân hàng làm cho các giao dịch dễ kiểm soát hơn và việc quản lý một số loại thuế sẽ dễ dàng hơn rất nhiều. Bên cạnh đó, hệ thống kế toán hiện đại cũng chính là tiền đề cần thiết để áp dụng những sắc thuế tiên tiến như thuế GTGT. Trong một số trường hợp nhất định, khi hệ thống kế toán hiẹn dại chưa được áp dụng thì việc thực hiện những phương thức quản lý tiên tiến là khó có thể thực hiện được. 1.3. Môi trường luật pháp: Chúng ta vẫn luôn mong muốn có được những phương thức quản lý tiên tiến, hiện đại và hiệu quả nhưng nếu hệ thống pháp luật lạc hậu, chồng chéo và không phù hợp thì rõ ràng sẽ là một yếu tố cản trở cho công cuộc cải cách. việc bắt buộc thu một khoản thuế hiện đại trên nền tảng môi trường xung quanh và các thể chế lạc hậu hay việc thực hiện một loại thuế cũ, đơn giản, rõ ràng nhưng không theo kịp sự phát triẻn của thời đại đều không phải là giải pháp tốt. Bên cạnh đó, việc theo đuổi các khác nhau( cả về chính sách xã hội và mục tiêu kinh tế) sẽ dẫn đến những rắc rối không cần thiết, gây ra những chi phí không đáng có cho cả người nộp thuế và quản lý thuế, sẽ làm giảm tính hiệu quả của công tác quản lý thuế. Vì vậy, điều kiện cần đặt ra ở đây là phải có môi trường luật pháp rõ ràng theo kịp những thay đổi của thời đại. 2. Hoàn thiện hệ thống thuế: 2.1. Mức thuế suất: - Nên áp dụng hai mức thuế suất O% (áp dụng đối với hàng hoá xuất khẩu) và 10%; - Chuyển mức thuế suất 20% thành thuế TTĐB; Tuy nhiên, để giảm mức thuế suất còn hai mức thuế suất thì phải đảm bảo các yêu cầu sau: Một là: Xác định mức thuế suất phải đảm bảo không làm ảnh hưởng lớn đến nguồn thu của ngân sách Nhà nước, đồng thời phải nuôi dưỡng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Hai là: Mức thuế suất phải bảo hộ được sản xuất trong nước do phải giảm thuế nhập khẩu vào năm 2006 theo hiệp định AFTA. Ba là: Mức thuế suất đảm bảo công bằng quyền lợi và nghĩa vụ giữa các doanh nghiệp, đảm bảo ổn định môi trường trong nước, không có biến động lớn về giá cả và không ảnh hưởng đến đời sống nhân dân. 2.2. Việc ban hành hệ thống văn bản pháp lý: Trong quá trình thực hiện Bộ tài chính đã có hàng trăm văn bản hướng dẫn thi hành luật thuế, phần lớn các văn bản ban hành sau chỉ điều chỉnh bổ sung hoặc sửa đổi một số nội dung của văn bản trước. Do vậy, hàng trăm văn bản đều có hiệu lực thi hành. Việc làm này gây nhiều khó khăn, phức tạp trong điều hành, tổ chức và quản lý thu thuế, chưa nói đến các văn bản lại có mâu thuẫn, không nhất quán.Vì vậy Chính phủ cần rà soát lại các văn bản hướng dẫn thi hành luật thuế GTGT, nếu thay đổi nhiều nội dung thì ban hành văn bản mới thay thế để giảm thiểu số lượng văn bản hướng dẫn thi hành, giúp cho các đối tượng áp dụng dễ nhận biết, nhận biết đúng và thực hiện thuận lợi. 2.3. Một số ý kiến về hoàn thiện phương pháp tính thuế GTGT: Trong điều kiện hiện nay ở VN, phương pháp tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ được coi là ưu việt hơn bởi nó đáp ứng yêu cầu đơn giản, dễ thực hiện và khắc phục được tình trạng không công bằng hiện nay do tuỳ tiện áp dụng phương pháp tính thuế GTGT ( một số trường lợi dụng Nghị định 78/1999/NĐ-CP chuyển từ phương pháp trực tiếp sang phương pháp khấu trừ). Bởi vậy, chúng ta nên áp dụng thống nhất phương pháp tính thuế GTGT có khấu trừ. Trường hợp các cơ sở sản xuất kinh doanh chưa lập hoá đơn thuế GTGT nhưng có lập hoá đơn, chứng từ thông thường theo quy định thì có thể bóc tách thuế GTGT đầu ra từ doanh thu có thuế GTGT và thuế GTGT đầu vào từ chi phí mua hàng từ bên ngoài có thuế GTGT Thuế GTGT đầu ra = Doanh thu có thuế x Thuế suất 1 + Thuế suất Thuế GTGT đầu vào = Chi phí có thuế x Thuế suất 1 + Thuế suất Để áp dụng có hiệu quả phương pháp tính thuế GTGT có khấu trừ, hạn chế được những hiện tượng trốn thuế, gian lận thuế cần tiến tới thống nhất thuế suất thuế GTGT đầu ra và thuế GTGT đầu vào, thống nhất một loại hoá đơn thuế GTGT và việc lập chứng từ hoá đơn cần đặt thành yêu cầu bắt buộc đối với cơ sở sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó cần đầu tư phát triển công nghệ thông tin áp dụng trong ngành thuế, tăng cường trách nhiệm vai trò của các cấp, các ngành trong quản lý hoá đơn. Riêng đối với những hộ kinh doanh nhỏ, cần quy định rõ tiêu thức phân loại trên cơ sở điều tra khảo sát để áp dụng mức khoán thuế suất với thực tế hoạt động kinh doanh. Mức khoán thuế nên được rà soát lại sau một thời gian nhất định. 2.4. Hoàn thuế: Chúng ta có thể đưa ra một số giải pháp sau: Thứ nhất, về cơ chế quản lý, cơ quan thuế sẽ phối hợp với cơ quan công an hải quan để phát hiện, ngăn chặn các hành vi khai man, trốn lậu thuế, lập hồ sơ giả để moi tiền NSNN. Việc đăng ký kê khai mua hoá đơn GTGT của các doanh nghiệp cũng được kiểm tra chặt chẽ hơn. Đồng thời sẽ có sự phối hợp với các ngân hàng để ban hành quy định các hoạt động XNK qua biên giới phải bắt buộc thanh toán qua ngân hàng, nếu không có chứng từ thanh toán qua ngân hàng sẽ không được hoàn thuế. Thứ hai, về lâu dài, cơ chế chính sách về hoàn thuế, khấu trừ thuế sẽ phải tiến tới việc bỏ khấu trừ theo tỷ lệ. 2.5. Về xác định tỷ lệ phân bổ thuế đầu vào: Như phần thực trạng đã nêu, thuế GTGT đầu vào là thuế gắn liền với yếu tố sản xuất. Do đó, để đảm bảo sự tương xứng giữa số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ với hàng hoá dịch vụ mua vào dùng để sản xuất hàng hoá dịch vụ chịu thuế GTGT, thì cơ sở để tính tỷ lệ phân bổ thuế đầu vào phải căn cứ vào yếu tố sản xuất( có thể là giá thành sản phẩm hoàn thành trong kỳ hoặc nguyên vật liệu tham gia vào quá trình sản xuất...) 2.5. Công tác quản lý thu thuế: Để có thể thực hiện tốt quy trình tự tính, tự khai thuế cần thực hiện các biện pháp sau đây: Nghiên cứu kết hợp tờ khai thuế đồng thời với việc thanh toán thuế, tiến tới bỏ thông báo thuế, nâng cao ý thức tự giác thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của doanh nghiệp, giảm chi phí hành thu thuế. Hệ thống chính sách, thủ tục và các mẫu biểu quy định thuế cần được nghiên cứu cải tiến thống nhất, đơn giản, dễ hiểu để các doanh nghiệp thực hiện việc tự tính, tự khai thuế của mình một cách chính xác đầy đủ và dễ dàng hơn. Tổ chức sắp xếp lại bộ máy ngành thuế, bổ sung cán bộ cho đội ngũ thanh kiểm tra thuế, nâng cao chất lượng đội ngũ này. Bên cạnh đó cần tăng mức phạt và xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm kê khai nộp thuế. Cần giao quyền cho cơ quan thuế khởi tố vụ án các vi phạm nghiêm trọng của luật thuế. Thành lập bộ phận dịch vụ thuế cho các doanh nghiệp tại các cục thuế với chức năng giải thích, hướng dẫn, trả lời các vướng mắc về chính sách cũng như các thủ tục kê khai, tính thuế. Bên cạnh đó cần phát triển dịch vụ tư vấn thuế. Tư vấn thuế giúp người được tư vấn khai thuế sao cho số thuế phải nộp đúng pháp luật và có thể tiết kiệm chi phí về thuê. Trên thực tế có nhiều doanh nghiệp kinh doanh nhiều mặt hàng khac nhau trong khi hệ thống thuế chưa đảm bảo được yêu cầu đơn giản, dễ hiêu, dễ làm thì tư vấn thuế là hết sức cần thiết. Cần ban hành luật kế toán để các doanh nghiệp thực hiện chế độ sổ sách chứng từ kế toán theo luật, cơ quan thuế có căn cứ xác định nghĩa vụ thuế cũng như thuận lợi trong việc điều tra, xử lý vi phạm thuế. Cơ quan thuế cần trang bị phương tiện làm việc hiện đại như máy tính và tiến hành kết nối thông tin kho bạc Nhà nước. Mặc dù đây là một việc làm cần nhiều chi phí nhưng sẽ đem lại hiệu quả thiết thực cho công tác quản lý thuế. 2.7. Chế độ hoá đơn chứng từ: Đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất trong việc điều hành và quản lý nền kinh tế quốc dân, Bộ tài chính đã ban hành chế độ chứng từ kế toán cùng với các bộ phận cấu thành khác của hệ thống kế toán doanh nghiệp, nhưng cần giảm bớt chủng loại chứng từ kế toán bắt buộc và tăng cường hệ thống chứng từ kế toán hướng dẫn, theo đó cần đơn giản hoá hệ nội dung chứng từ, tiêu chuẩn hoá, thống nhất quy cách biểu mẫu chứng từ. Giảm bớt số lượng chứng từ theo hướng sử dụng những chứng từ liên hợp, chứng từ sử dụng nhiều lần. Chứng từ kế toán bắt buộc là các chứng từ phản ánh mối quan hệ kinh tế đã được Nhà nước tiêu chuẩn hoá quy cách, mẫu biểu, các chỉ tiêu phản ánh và phương pháp lập thống nhất cho mọi loại hình, thành phần kinh tế. Nhiệm vụ của doanh nghiệp là tổ chức thực hiện. Chứng từ kế toán hướng dẫn là các chứng tứ mà Nhà nước chỉ hướng dẫn các chỉ tiêu cơ bản, đặc trưng để trên cơ sở đó doanh nghiệp lựa chọn, vận dụng vào điều kiện cụ thể để sử dụng cho phù hợp với doanh nghiệp mình. Cụ thể hơn từ thực trạng hạch toán nghiệp vụ XNK, chiết khấu thương mại và chiết khấu thanh toán chúng ta cần bổ sung các loại hoá đơn sau: Đối với hàng nhận uỷ thác XNK: Để đảm bảo cơ sở pháp lý cho việc hạch toán giữa đơn vị nhân uỷ thác và đơn vị giao uỷ thác, cũng như phản ánh đúng nội dung kinh tế của các nghiệp vụ nên bổ sung thêm hoá đơn " Phiếu xuất kho hàng nhận uỷ thác". Hoá đơn này do đơn vị nhận uỷ thác nhập khẩu lập khi trả lại hàng cho bên giao uỷ thác. Đối với chiết khấu thương mại, đây là khoản chiết khấu được tiến hành ngay khi thực hiẹn các giao dịch mua, bán do đó phải thể hiện ngay trên hoá đơn bán hàng. Vì vậy trên hoá đơn GTGT cần bổ sung thêm dòng trừ chiết khấu dưới dòng cộng tiền hàng và trước dòng tính thuế GTGT. Việc bổ sung thêm dòng này trên hoá đơn GTGT sẽ giảm bớt số lượng chứng từ phải lập, tiết kiệm chi phí vật chất và giảm khối lượng ghi chép của kế toán. Đối với chiết khấu thanh toán, khoản giảm giá, bớt giá được thực hiện sau khi đã kết thúc giao dịch mua bán thì phải lập chứng từ để chứng minh Vì vây, nên bổ sung" Hoá đơn chiết khấu, giảm giá" vào hệ thống chứng từ hiện hành, được bổ sung để phản ánh nghiệp vụ chiết khấu, giảm giá ngoài hoá đơn bán hàng. Hoá đơn này phải được xếp vào hệ thống chứng từ bắt buộc bởi nó phản ánh mối quan hệ giữa các pháp nhân độc lập. 3. Tổ chức hạch toán kế toán: 3.1. Tổ chức luân chuyển chứng từ: Hợp lý hoá thủ tục lập và xử lý chứng từ: - Giảm bớt thủ tục xét duyệt chứng từ tới mức tối đa nhằm giảm thời gian luân chuyển của chứng từ. - Xây dựng chương trình luân chuyển một cách khoa học cho từng loại chứng từ nhằm rút ngắn thời gian luân chuyển, tăng đọ nhanh nhạy của thông tin kế toán. - Xây dựng phương pháp phân loại, tổng hợp chứng từ và cung cấp số liệu giữa các bộ phận một cách hợp lý, tạo điều kiện dễ dàng cho ghi sổ kế toán và cung cấp thông tin. - Trang bị phương tiện kỹ thuật hiện đại cho việc ghi chép chứng từ, sổ kế toán, giảm chi phí xử lý thông tin và hạch toán ban đầu 3.2. Tài khoản: Đối với TK 133" Thuế GTGT được khấu trừ" Để tên gọi của TK phù hợp với nội dung, kết cấu nên đổi tên thành "Thuế GTGT đầu vào" và được mở chi tiết thành các TK cấp hai như sau: TK1331- Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ: Phản ánh thuế GTGT đầu vào được khấu trừ của hàng hoá, dịch vụ và TSCĐ. Có thể chi tiết thành: TK 13311- Thuế GTGT đầu vào của hàng hoá dịch vụ TK 13312- Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ của TSCĐ TK 1332- Thuế GTGT đầu vào chờ phân bổ : Phản ánh số thuế GTGT đầu vào của hàng hoá, dịch vụ và TSCĐ dùng chung cho các hoạt động chịu thuế và không chịu thuế( cần phân bổ). Có thể chi tiết thành: TK 13321- Thuế GTGT đầu vào chờ phân bổ của hàng hoá dịch vụ TK 13322- Thuế GTGT đầu vào chờ phân bổ của TSCĐ. TK 1333- Thuế GTGT được hoàn lại: Và lúc đó ta có trình tự ghi chép số thuế GTGT đầu vào chờ phân bổ và thuế GTGT được hoàn lại như sau: - Khi mua hàng hoá dịch vụ, TSCĐ dùng chung cho các hoạt động chịu thuế và không chịu thuế GTGT: Nợ TK 211, 152, 15 6... : Giá mua chưa có thuế. Nợ TK 1332( chi tiết theo TK cấp hai): Số thuế GTGT. Có TK 111, 112... : Tổng giá thanh toán. - Cuối tháng, kế toán xác định số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ và không được khấu trừ: Nợ TK 1331( chi tiết theo TK cấp hai): Số thuế GTGT được khấu trừ. Nợ TK 632: Phần thuế GTGT không được khấu trừ. Có TK 1332 - Cuối tháng kết chuyển thuế GTGT được khấu trừ với số thuế GTGT đầu ra: Nợ TK 3331 Có TK 1331 Số thuế GTGT được khấu trừ nếu được cơ quan thuế thông báo hoàn lại: Nợ TK 1333: Số thuế được hoàn lại Có TK 1331 Khi được cơ quan thuế hoàn lại bằng tiền: Nợ TK 111, 112 Có TK1333 Theo cách ghi chép trên vừa đảm bảo phản ánh đúng số thuế GTGT được khấu trừ vừa cung cấp thông tin lập mục I, II của phần III " Thuế GTGT được khấu trừ được hoàn lại, được miễn giảm" trên báo cáo kết quả kinh doanh đặc biệt là mục hai " thuế GTGT được hoàn lại". 3.3. Về phương pháp kế toán: 3.3.1.Phương pháp kế toán thuế GTGT phải nộp theo phương pháp trực tiếp: Để phù hợp với bản chất của thuế GTGT, phù hợp với phương pháp ghi nhận chi phí theo nguyên tắc chung đã được thừa nhận thì khoản thuế GTGT phải nộp nên được ghi giảm trừ doanh thu. 3.3.2. Phưong pháp kế toán các khoản thu nhập: Thứ nhất, cần quy định thống nhất việc ghi nhận doanh thu và tính thuế GTGT trong trường hợp bán hàng theo phương thức trao đổi hàng hoá tương tự về bản chất. Thứ hai, quy định nội dung khoản thu nhập theo đúng bản chất. Thứ ba, quy định lại nội dung phản ánh trên TK kế toán liên quan đến chi phí và thu nhập hoạt động tài chính. 3.3.3. Một số phương pháp kế toán quản lý thuế GTGT khác: Thứ nhất, vận dụng phương pháp tính giá đòi hỏi kế toán phải xác định được giá tính thuế GTGT. ở đây, cần xem xét thêm việc tính giá thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp, bởi theo phương pháp này: GTGT của hàng hoá dịch vụ = Giá thanh toán của hàng hoá dịch vụ bán ra - Giá thanh toán của hàng hoá dịch vụ mua vào tương ứng Như vậy, giá tính thuế là giá bao gồm cả thuế GTGT( có hiện tượng đánh trùng lên thuế). Để khắc phục tình trạng này, cuối mỗi kỳ cần thiết phải tính ra trị giá hàng hoá, dịch vụ bán ra mua vào để tính GTGT từ giá thanh toán : Trị giá hàng hoá dịch vụ bán ra (mua vào)để tính thuế GTGT = Giá thanh toán hàng hoá dịch vụ bán ra ( mua vào ) 1+ thuế suất thuế GTGT GTGT của hàng hoá dịch vụ = Trị giá hàng hoá bán ra để tính thuế GTGT - Trị giá hàng hoá dịch vụ mua vào để tính thuế GTGT Thứ hai, vận dụng phương pháp tài khoản để hạch toán và quản lý thuế GTGT. Xét từ khía cạnh để quản lý, kiểm soát thuế GTGT cần phải có cách kê khai phù hợp, hơn nữa lại phục vụ cho cả việc tính giá tài sản hình thành và xác định giá tính thuế GTGT, cần thiết có một TK để phản ánh toàn bộ giá thanh toán của hàng mua vào tương tự hàng bán ra, nên chăng các doanh nghiệp sử dụng TK 611:" Mua hàng", bất kể hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp nào, hàng mua về có qua kho hay sử dụng ngay. Căn cứ vào TK 611 trước hết có thể tính giá vốn của tài sản để kết chuyển vào TK có liên quan, mặt khác kế toán theo dõi chi tiết mua hàng cho từng loại hàng hoá, dịch vụ chịu thuế suất khác nhau cũng như theo dõi chi tiết phần tính vào giá vốn hàng mua nhưng không chịu thuế GTGT. Theo cách này vừa đảm bảo chuẩn bị số liệu kê khai thuế GTGT của doanh nghiệp, vừa đảm bảo tính dễ kiểm tra, kiểm soát trong quản lý thu thuế GTGT. Kết luận Một sắc lệnh thuế khi mới đưa vào vận hành sẽ không tránh khỏi những hạn chế. Đặc biệt, trong điều kiện nền kinh tế đang trong giai đoạn chuyến đổi, công nghệ kỹ thuật còn lạc hậu, hoạt động sản xuất, kinh doanh của nhiều doanh nghiệp chưa có hiệu quả, cơ chế chính sách về quản lý kinh tế tuy được ban hành song còn thiếu đồng bộ, chưa cụ thể và chưa thật ổn định. Chính vì vậy, Nhà nước đã chú ý thăm dò, lấy ý kiến tham gia rộng rãi của các nhà khoa học, các nhà kinh tế, các doanh nghiệp và người tiêu dùng để xây dựng một hệ thống các văn bản pháp quy nhằm tạo ra môi trưòng pháp lý cho việc triển khai thuế GTGT tại VN. Từ những vấn đề được đề cập trong bài viết này, trong thời gian tới đòi hỏi cơ quan thuế và cơ quan chức năng khác của Nhà nước nghiên cứu hoàn thiện các chính sách chế độ liên quan đến thuế GTGT cho thích hợp hơn để kế toán thực sự là một công cụ phục vụ cung cấp thông tin làm căn cứ tính thuế GTGT hợp lý hơn, đồng thời là các căn cứ kiểm tra giám sát việc chấp hành luật thuế và các chính sách chế độ kế toán tài chính một cách hữu hiệu hơn. Mặc dù đã có nhiều cố gắng song do thời gian và trình độ có hạn nên đề án không tránh khỏi những thiếu sót rất mong ý kiến đóng góp của thầy cô và bạn bè để đề án được hoàn thiện hơn. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Giáo trình Kế toán tài chính trong các doanh nghiệp Trường Đại học KTQD 2. Giáo trình Kế toán quốc tế Trường Đại học KTQD 3. Tạp chí Kế toán 4. Tạp chí Kinh tế phát triển 5. Tạp chí Tài chính 6. Tạp chí Kinh tế Mục lục Trang Phụ lục 1: Sổ theo dõi thuế giá trị gia tăng Năm.... Chứng từ Diễn giải Số tiền thuế GTGT đã nộp Số tiền thuế GTGT phải nộp Số hiệu Ngày tháng 1 2 3 4 5 1. Số dư đầu kỳ 2. Số phát sinh trong kỳ Cộng số phát sinh 3. Số dư cuối kỳ Lập sổ ngày.... tháng.... năm..... Người ghi sổ (Ký, họ tên) Chủ hộ (Ký, họ tên) Phụ lục 2: Sổ chi tiết thuế GTGT được hoàn lại Năm.... Chứng từ Diễn giải Số tiền Số hiệu Ngày tháng Thuế GTGT được hoàn lại Thuế GTGT đã hoàn lại 1 2 3 4 5 1. Số dư đầu kỳ 2. Số phát sinh trong kỳ Cộng số phát sinh 3. Số dư cuối kỳ Lập sổ ngày.... tháng.... năm..... Người ghi sổ (Ký, họ tên) Chủ hộ (Ký, họ tên)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35449.doc
Tài liệu liên quan