Những năm đầu của thế kỷ mới được chờ đón với bao điều mong đợi về một đất nước sẽ sánh vai với các “cường quốc năm châu”, để làm được điều đó nhất thiết phải có một nền kinh tế vững mạnh, một môi trường kinh tế thuận lợi và ổn định.
Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm, lắng nghe những ý kiến của các doanh nghiệp, tạo ra những điều kiện tốt nhất để các doanh nghiệp phát huy hết khả năng của mình. Vấn đề là các doanh nghiệp đã tận dụng được hết ưu thế và thời cơ hay chưa? Trong hoàn cảnh nền kinh tế nước ta hiện nay, xây dựng là một ngành đem lại nhiều hứa hẹn. Tuy nhiên, để quản lý tốt hơn ngành kinh tế này, kế toán đặc biệt là kế toán chi phí cần được coi là một công cụ kiểm soát chặt chẽ hơn nữa để tăng cường vị trí của ngành cũng như đóng góp hơn nữa vào sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Kế toán chi phí không phải là phần kế toán phức tạp nhất nhưng lại trực tiếp ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm xây lắp, ảnh hưởng thu nhập của doanh nghiệp từ đó ảnh hưởng đến nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với nhà nước, do vậy hoàn thiện chi phí trong các doanh nghiệp xây lắp là một vấn đề cần thiết và là thực tế đặt ra ngày hôm nay. Đất nước ta phải chăng đang lớn lên theo các công trình ngày càng hiện đại, bề thế. Điều đó chỉ được khẳng định khi mà các công trình chất lượng cao nhất mà chi phí ở mức tối ưu nhất, khi các doanh nghiệp xây lắp không lãng phí nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất nước và phải sử dụng một cách hiệu quả nguồn vốn đầu tư của nhà nước hay nguồn vốn tự huy động được.
Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chi phí sản xuất trong các doanh nghiệp xây lắp được nêu trên đây chỉ là những phần rất nhỏ trong bộn bề các công việc mà kế toán cần nghiên cứu, hoàn thiện. Để công tác kế toán chi phí trong xây dựng được tốt, hơn hết là bản thân kế toán phải tự xác định được những thiếu sót những điểm mạnh của mình để hoàn thiện theo xu hướng chung của các nghành trong tổng thể nền kinh tế, theo xu hướng của đất nước và theo xu hướng toàn cầu.
41 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1559 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số ý kiến nhằm hoàn thiện chi phí sản xuất trong các doanh nghiệp xây lắp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
K142 “Chi phí trả trước”) hoặc có những khoản được tính vào chi phí kỳ này nhưng thực tế lại chưa chi tiêu( TK335 “ Chi phí phải trả”).
Từ đó rút ra kết luận chi phí sản xuất của doanh nghiệp xây lắp là biểu hiện bằng tiền hao phí về lao động sống và lao động vật hoá phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh trong một kỳ nhất định của doanh nghiệp xây lắp bao gồm chi phí sản xuất xây lắp và chi phí ngoài xây lắp.
b. Phân loại chi phí sản xuất.
Phân loại chi phí sản xuất một cách khoa học, hợp lý có ý nghĩa rất quan trọng và là tiền đề của việc kiểm tra, phân tích chi phí, thúc đẩy việc quản lý chặt chẽ chi phí hướng tới tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm. Trong kế toán có các cách phân loại sau:
*Phân loại chi phí theo yếu tố chi phí:
Thực chất chỉ có ba yếu tố chi phí: chi phí về sức lao động, chi phí về đối tượng lao động và chi phí về tư liệu lao động. Tuy nhiên, để phân tích thông tin về chi phí cụ thể phục vụ cho việc xây dựng định mức vốn lưu động và phân tích các dự toán chi phí thì các yếu tố trên được chi tiết hoá thành các yếu tố sau:
-Yếu tố nguyên vật liệu: gồm toàn bộ giá trị vật liệu chính, vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, công cụ, dụng cụ sử dụng vào sản xuất thi công xây lắp( loại trừ giá trị vật liệu dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi).
-Yếu tố nhiên liệu, động lực: sử dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh trong kỳ( trừ số dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi).
-Yếu tố tiền lương và các khoản phụ cấp theo lương: gồm tổng số tiền lương và phụ cấp phải trả cho công nhân xây lắp.
-Yếu tố khấu hao tài sản cố định: gồm tổng số khấu hao tài sản cố định trong kỳ của tất cả tài sản cố định sử dụng trong kỳ.
-Yếu tố bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn: tính theo tỷ lệ quy định trên tổng số tiền lương và phụ cấp theo lương.
-Yếu tố chi phí dịch vụ mua ngoài: gồm toàn bộ chi phí dịch vụ mua ngoài dùng vào việc sản xuất kinh doanh.
-Yếu tố chi phí khác bằng tiền: là những chi phí khác bằng tiền chưa được phản ánh ở các yếu tố trên.
*Phân loại chi phí theo lĩnh vực hoạt động kinh doanh.
-Chi phí sản xuất kinh doanh: gồm các chi phí liên quan đến hoạt động sản xuất, tiêu thụ và quản lý.
-Chi phí hoạt động tài chính: là những chi phí liên quan đến hoạt động về vốn và đầu tư tài chính.
-Chi phí bất thường: gồm những chi phí ngoài dự kiến do chủ quan hay khách quan đưa tới.
*Phân loại chi phí theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm(theo công dụng kinh tế).
Cách phân loại này dựa vào công dụng của chi phí và mức phân bổ chi phí cho từng đối tượng, bao gồm:
-Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: phản ánh toàn bộ chi phí nguyên vật liệu chính, phụ, nhiên liệu...tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất thi công xây lắp, chế tạo sản phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ.
-Chi phí nhân công trực tiếp: bao gồm tiền lương, phụ cấp theo lương và các khoản trích theo lương(bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn ).
-Chi phí sản xuất chung: là những chi phí phát sinh trong phạm vi phân xưởng sản xuất(không kể chi phí vật liệu và nhân công trực tiếp). Ngoài ra, khi tính chỉ tiêu giá thành toàn bộ sẽ bao gồm chỉ tiêu giá thành sản xuất với khoản mục chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp.
*Phân loại chi phí theo chức năng trong sản xuất kinh doanh.
Dựa vào chức năng của các hoạt động trong quá trình sản xuất kinh doanh và chi phí liên quan đến việc thực hiện các chức năng mà chi phí sản xuất kinh doanh được chia làm ba loại:
-Chi phí sản xuất: Là những chi phí phát sinh trong phạm vi phân xưởng liên quan đến việc chế tạo sản phẩm.
-Chi phí tiêu thụ: Gồm tất cả các chi phí phát sinh trong quá trình tiêu thụ sản phẩm.
-Chi phí quản lý doanh nghiệp: Gồm những chi phí quản lý kinh doanh, hành chính, những chi phí chung phát sinh liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp.
*Phân loại chi phí theo cách ứng xử của chi phí:
Cách ứng xử của chi phí có nghĩa là những chi phí này sẽ thay đổi như thế nào khi mức độ hoạt động kinh doanh thay đổi. Cách phân loại này đáp ứng nhu cầu lập kế hoạch, kiểm soát chi phí và chủ động điều tiết chi phí của nhà quản lý. Theo cách phân loại này, toàn bộ chi phí của doanh nghiệp được phân thành:
-Biến phí: Là những khoản mục chi phí có quan hệ tỷ lệ thuận với mức độ hoạt động. Biến phí khi tính cho một đơn vị sản phẩm thì ổn định không thay đổi, tổng biến phí thay đổi khi sản lượng thay đổi và biến phí bằng không khi không có hoạt động.
-Định phí: Là những chi phí không thay đôỉ khi mức độ hoạt động thay đổi. Định phí chỉ giữ nguyên trong phạm vi phù hợp với mức độ hoạt động. Định phí một đơn vị sản phẩm thay đổi khi sản lượng thay đổi.
-Chi phí hỗn hợp: Là những chi phí bao gồm cả yếu tố biến phí lẫn định phí như chi phí về điện, nước, điện thoại…ở mức độ hoạt động căn bản. Chi phí hỗn hợp thể hiện đặc điểm của định phí, quá mức độ đó nó thể hiện đặc điểm của biến phí. Để phân tích người ta dùng phương pháp cực đại, cực tiểu, bình phương nhỏ nhất.
*Một số cách phân loại chi phí khác.
-Phân loại theo khả năng kiểm soát được chi phí hay không của các cấp quản lý.
-Phân loại theo cách thức kết chuyển chi phí : gồm chi phí sản phẩm, chi phí thời kỳ.
Do đặc điểm sản phẩm của nghành xây dựng là những công trình, hạng mục công trình, vật kiến trúc…mang tính đơn chiếc. Mỗi sản phẩm có dự toán thiết kế, dự toán thi công riêng nên mức hao phí về vật liệu, nhân công, máy thi công cũng không giống nhau(về mức chi phí và kết cấu chi phí …). Các công trình có dự toán thiết kế, dự toán thi công giống nhau nhưng khác địa điểm thi công(có thể cùng khu vực) thì chi phí cũng không giống nhau. Các yếu tố lao động, thiết bị, máy móc thi công không có tính chất cố định như đối với sản phẩm công nghiệp. Do đó ngoài các khoản mục chi phí vật liệu, nhân công, chi phí sản xuất chung trong giá thành ,sản phẩm xây lắp còn có khoản mục chi phí sử dụng máy thi công là khoản mục chi phí trực tiếp.
Ngoài ra các nhà quản lý kinh tế còn sử dụng một số thuật ngữ như: chi phí cơ hội, chi phí tới hạn, chi phí chìm, chi phí chênh lệch…Việc sử dụng cách phân loại này tuỳ thuộc vào từng góc độ nghiên cứu và yêu cầu quản lý đối với chi phí sản xuất kinh doanh ở từng doanh nghiệp.
3. Đối tượng và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất .
a.Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất .
Việc xác định đúng đắn đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có ý nghĩa quan trọng trong việc tổ chức tập hơp chi phí . Xuất phát từ đặc điểm sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp, có quy trình công nghệ sản xuất phức tạp, sản phẩm được sản xuất đơn chiếc, riêng lẻ, theo đơn đặt hàng và việc tổ chức sản xuất được phân chia thành nhiều công trường, nhiều khu vực thi công nên đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là: đơn đặt hàng, sản phẩm hay nhóm sản phẩm, giai đoạn công việc, khu vực thi công.
*Theo sản phẩm hay đơn đặt hàng:
Sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp là công trình, hạng mục công trình hoàn thành. Hàng tháng, chi phí sản xuất phát sinh có liên quan đến công trình, hạng mục công trình nào thì được tập hợp vào đối tượng đó một cách thích hợp. Khi hoàn thành, tổng chi phí theo đối tượng hạch toán cũng chính là giá thành sản phẩm xây lắp .
*Theo bộ phận sản phẩm :
Bộ phận sản phẩm xây dựng cơ bản là các giai đoạn xây lắp của các công trình, hạng mục công trình có dự toán riêng. Hàng tháng, chi phí sản xuất phát sinh được tập hợp cho từng giai đoạn xây lắp có liên quan. Khi hoàn thành, tổng công chi phí theo các giai đoạn chính là giá thành sản phẩm xây lắp .
*Theo nhóm sản phẩm :
Được áp dụng trong trường hợp doanh nghiệp xây lắp cùng lúc thi công một số công trình, hạng mục công trình theo cùng một thiết kế(hoặc thiết kế gần giống nhau) theo một phương thức thi công nhất định và trên cùng một địa điểm. Hàng tháng, chi phí sản xuất phát sinh được tập hợp theo nhóm sản phẩm . Khi hoàn thành toàn bộ, kế toán phải xác định giá thành đơn vị sản phẩm hoàn thành.
*Theo giai đoạn công nghệ:
áp dụng đối với các xí nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, sản xuất cấu kiện lắp sẵn. Trong các xí nghiệp đó, toàn bộ quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm được chia ra thành nhiều giai đoạn công nghệ, vật liệu được chế biến liên tục từ khâu đầu cho đến khâu cuối theo một trình tự nhất định.
b.Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất .
*Trong doanh nghiệp xây lắp chỉ áp dụng phương pháp kê khai thường xuyên để hạch toán hàng tồn kho.
*Do những đặc điểm đặc thù của sản xuất xây dựng cơ bản như:sản xuất xây dựng thường diễn ra ngoài trời chịu tác động trực tiếp của các yếu tố thuộc điều kiện tự nhiên, đối tượng sản xuất thường có khối lượng lớn, giá trị lớn, thời gian thi công tương đối dài…nên phương pháp kê khai thường xuyên đáp ứng được yêu cầu theo dõi và phản ánh thường xuyên, liên tục tình hình nhập, xuất, tồn kho vật tư, hàng hoá trên sổ kế toán. Phương pháp kiểm kê định kỳ là phương pháp căn cứ vào kết quả kiểm kê thực tế để phản ánh giá trị tồn kho cuôí kỳ của vật tư, hàng hoá trên sổ kế toán tổng hợp từ đó tính ra giá trị của hàng hoá, vật tư đã xuất dùng trong kỳ. Vậy theo phương pháp kiểm kê định kỳ, mọi biến động của vật tư, hàng hoá( nhập kho, xuất kho) không được theo dõi, phản ánh trên các tài khoản kế toán hàng tồn kho. Chính đặc điểm này làm cho phương pháp kiểm kê định kỳ không phù hợp với công tác quản lý thường xuyên một khối lượng vật liệu lớn đòi hỏi phải chặt chẽ, chính xác.
*Để hạch toán chi phí sản xuất, kế toán sử dụng các tài khoản
TK621 “Chi phí nguyên liệu, vật liệu trực tiếp”
TK622 “Chi phí nhân công trực tiếp”
TK623 “Chi phí sử dụng máy thi công”
TK627 “Chi phí sản xuất chung”
TK154 “Chi phí sản xuất ,kinh doanh dở dang”
II.Hạch toán chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp .
1.Nội dung và phương pháp hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp .
a.Nội dung và kết cấu của tài khoản 621: “Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp”
-Tài khoản 621 “Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp”: Tài khoản này để tập hợp toàn bộ chi phí nguyên vật liệu trực tiếp dùng cho sản xuất, thi công xây lắp, chế tạo sản phẩm phát sinh trong kỳ.
Cụ thể:
+Vật liệu xây dựng(vật liệu chính): gạch, gỗ, cát, đá, ciment…
+Vật liệu phụ và vật liệu khác:
Vật liệu phụ: đinh, kẽm, dây buộc…
Nhiên liệu: củi nấu nhựa đường…
Vật kết cấu:beton đúc sẵn…
Giá trị thiết bị đi kèm với vật kiến trúc như thiết bị vệ sinh, thiết bị thông hơi, thông gió, chiếu sáng,truyền dẫn hơi nóng, hơi lạnh( kể cả chi phí sơn mạ, bảo quản các thiết bị này)
Tài khoản 621 cuối kỳ kết chuyển sang tài khoản 154
Kết cấu TK 621:
+Bên Nợ:
Giá thực tế nguyên vật liệu xuất dùng trực tiếp cho sản xuất thi công, xây lắp, chế tạo sản phẩm hoặc thực hiện lao vụ, dịch vụ.
+Bên Có:
Kết chuyển vào TK 154 “Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang”
Giá thực tế nguyên vật liệu sử dụng không hết nhập lại kho.
Tài khoản 621 cuối kỳ không có số dư, tài khoản này có thể mở chi tiết cho từng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất để phục vụ cho việc tính giá thành cho từng đối tượng tính giá thành.
b.Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp .
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp bao gồm chi phí về các loại nguyên vật lỉệu chính( gạch, đá, vôi, cát, sỏi, ciment, sắt, thép), nửa thành phẩm(vật kết cấu, thiết bị gắn liền với vật kiến trúc), vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, công cụ lao động thuộc tài sản lưu động.
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp được căn cứ vào các chứng từ xuất kho để tính giá trị thực tế vật liệu trực tiếp xuất dùng.
Ngoài ra cũng có một số nguyên vật liệu xuất kho theo giá hạch toán như sắt, thép:
Giá thực tế vật liệu xuất kho trong kỳ
=
Giá hạch toán của vật liệu xuất dùng
x
Hệ số chênh lệch giữa giá thực tế và giá hạch toán của vật liệu
Giá thành thực tế của vật liệu xuất kho trong kỳ được xác định bằng công thức:
Hệ số chênh lệch
giữa giá thực tế =
với giá hạch toán
vật liệu
Gía thực tế vật liệu + Giá thực tế vật
tồn đầu kỳ liệu nhập trong kỳ
Giá hạch toán + Giá thực tế vật
vật liệu tồn đầu kỳ liệu nhập trong kỳ
Do đặc điểm của sản phẩm xây dựng nên việc tập hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp , tức là nguyên vật liệu chỉ liên quan đến một công trình, một hạng mục công trình, từng hợp đồng hoặc từng đơn đặt hàng. Trong quá trình thi công xây lắp, một số nguyên vật liệu luân chuyển như đà giáo, ván khuôn…giá trị của nguyên vật liệu sử dụng được phân bổ dần theo số lần luân chuyển hoặc theo khối lượng đã hoàn thành.
Sơ đồ hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
TK152
TK621
TK152
TK331,111,112
(4)
(2)
(1a)
TK1331
TK154
(5)
(1b)
TK411,154
(3)
+
Chú giải:
(1a) Mua vật liệu
(1b) Mua vật liệu chuyển tới chân công trình, không qua kho, sử dụng trực tiếp cho hoạt động xây lắp
Xuất kho vật liệu sử dụng trực tiếp cho hoạt động xây lắp
Xuất vật liệu để chế biến
Vật liệu dùng không hết nhập lại kho
Cuối kỳ kết chuyển hoặc phân bổ giá trị nguyên vật liệu trực tiếp theo từng công trình, hạng mục công trình.
2.Nội dung và phương pháp hạch toán chi phí nhân công trực tiếp.
a.Nội dung và kết cấu của tài khoản 622 “Chi phí nhân công trực tiếp”.
-Tài khoản 622: “Chi phí nhân công trực tiếp”: Tài khoản này dùng để tập hợp và kết chuyển số chi phí tiền công của công nhân sản xuất xây lắp trực tiếp( bao gồm tiền công, tiền thưởng, tiền lương và các khoản phải trả khác có tính chất tiền lương của công nhân sản xuất xây lắp . Cuối kỳ kết chuyển sang TK 154, tài khoản 622 “Chi phí nhân công trực tiếp” không phản ánh chi phí trích 19%(Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn ).
-Kết cấu TK622:
+Bên Nợ:Chi phí nhân công trực tiếp trong kỳ.
+Bên Có: Kết chuyển, phân bổ vào TK154.
Tài khoản 622 không có số dư.
b.Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp:
Chi phí nhân công được tính trong giá thành công tác xây lắp bao gồm:
*Tiền lương.
-Tiền lương chính của công nhân trực tiếp tham gia xây dựng công trình và lắp đặt máy móc, thiết bị.
-Tiền lương chính của công nhân vận chuyển vật liệu trong thi công, của công nhân làm nhiệm vụ bảo dưỡng bê tông, công nhân dọn dẹp vật liệu trên công trường, công nhân ghép cốp pha, lau máy trước khi lắp.
-Tiền lương chính của công nhân khuân vác từ kho đến chỗ lắp, tiền lương phụ của công nhân sản xuất, tiền thưởng của công nhân xây lắp trực tiếp.
Toàn bộ chi phí trên được hạch toán vào tài khoản 622.Chứng từ ban đầu để hạch toán khoản mục nhân công là các bảng chấm công được lập hàng tháng cho từng đội sản xuất, từng bộ phận sản xuất công tác. Nó cho ta biết rõ lao động nào làm việc ngày nào hưởng lương ngày đó theo mức quy định đối với từng loại công việc.
Hàng tháng căn cứ vào bảng chấm công, các chứng từ có liên quan, kế toán làm bảng thanh toán lương theo từng tổ, đội sản xuất , các phòng ban và kiểm tra việc trả lương cho cán bộ công nhân viên. Sau đó kế toán lập bảng thanh toán tiền lương cho toàn xí nghiệp và làm thủ tục rút tiền gửi về quỹ tiền mặt để trả lương. Việc thanh toán được thực hiện mỗi tháng hai kỳ: kỳ 1 tạm ứng, kỳ 2 nhận phần còn lại sau khi đã trừ đi các khoản nợ phải khấu trừ như tiền điện nước, tiền nhà, tạm ứng…Tiền lương phải phát tận tay người lao động hoặc đại diện tập thể lĩnh lương. Đối với tiền lương trả cho cán bộ công nhân viên nghỉ phép năm theo chế độ, nếu việc nghỉ phép không đều đặn giữa các tháng trong năm thì phải trích trước lương nghỉ phép cho cán bộ công nhân viên tính vào giá thành sản phẩm , như vậy sẽ làm cho giá thành sản phẩm không vì những chi phí này mà biến đổi đột ngột.
Mức trích trước tiền lương nghỉ phép kế hoạch
=
Lương thực tế phải trả cho cán bộ công nhân viên trong tháng
x
Tỷ lệ trích trước
Tỷlệ trích trước
=
Tổng số tiền lương phép kế hoạch của công nhân viên
Tổng số tiền lương chính kế hoạch của cán bộ công nhân viên
x100%
Trường hợp doanh nghiệp bố trí được việc nghỉ phép cho cán bộ công nhân viên một cách đều đặn thì không cần trích trước lương nghỉ phép.
*Trong chi phí trực tiếp của công nhân xây lắp không bao gồm các khoản bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn .
Sơ đồ hạch toán chi phí nhân công xây lắp
TK154
TK622
TK334,335,338
(2)
(1)
Chú giải:
Tiền lương phải trả công nhân xây lắp
Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp
3.Nội dung và phương pháp hạch toán chi phí sử dụng máy thi công
a.Nội dung và kết cấu của tài khoản 623: “Chi phí sử dụng máy thi công”
-Tài khoản 623: “Chi phí sử dụng máy thi công”: Tài khoản này để tập hợp và phân bổ chi phí sử dụng máy phục vụ trực tiếp cho hoạt động xây lắp công trình. Tài khoản này chỉ sử dụng trong những doanh nghiệp xây lắp tổ chức thi công xây lắp hỗn hợp vừa thủ công vừa kết hợp bằng máy.Nếu doanh nghiệp thực hiện thi công hoàn toàn bằng máy(sản xuất chính bằng máy thi công) thì mọi chi phí sản xuất cho máy tập hợp vào TK621,622,627 cuối kỳ kết chuyển vào TK154.
Không hạch toán vào TK623 chi phí về trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn tính theo lương của công nhân điều khiển máy(hạch toán vào TK627).
-Kết cấu TK623:
+Bên Nợ:
Chi phí sử dụng máy thi công phát sinh trong kỳ(nhiên liệu, tiền lương,khấu hao, chi phí bảo dưỡng, sửa chữa máy thi công…).
+Bên Có:
Kết chuyển chi phí sử dụng máy thi công vào TK154.
TK 623 không có số dư
TK 623 có các TK cấp hai:
TK6321:Chi phí nhân công-phản ánh tiền lương chính và phụ của công nhân điều khiển máy(Tài khoản này không phản ánh 19% trích theo lương).
TK6322:Chi phí vật liệu- phản ánh chi phí nhiên liệu dầu,vật liệu khác
TK 6233:Chi phí dụng cụ sản xuất –phản ánh chi phí dụng cụ phục vụ máy thi công.
TK6234:Chi phí khấu hao máy thi công.
TK6327:Chi phí dịch vụ mua ngoài-thuê sửa chữa, bảo hiểm máy, chi phí điện, nước, chi phí trả cho nhà thầu phụ.
TK6328:Chi phí bằng tiền khác.
b.Hạch toán chi phí sử dụng máy thi công.
Chi phí sử dụng máy thi công chiếm một tỷ trọng khá lớn trong giá thành sản phẩm xây lắp và là một khoản mục chi phí có công dụng riêng biệt do vậy phải xuất phát từ đặc điểm tình hình sử dụng máy trong thi công, về nội dung chi phí và hình thức sử dụng máy để hạch toán cho phù hợp.
*Các hình thức sử dụng máy thi công:
-Doanh nghiệp xây lắp có máy và tự tổ chức sử dụng :
Máy thi công thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp xây lắp, doanh nghiệp có trách nhiệm sử dụng, bảo quản và thực hiện mọi chi phí trong quá trình sử dụng. Hạch toán phải phản ánh toàn bộ chi phí trực tiếp trong quá trình sử dụng máy thi công. Hoạt động của tổ, đội máy thi công chuyên trách có thể là đơn vị hạch toán nội bộ, nếu đơn vị này có tính lãi, lỗ riêng thì có thể tiến hành theo phương thức bán lao vụ cho các bộ phận thi công khác của doanh nghiệp .
-Doanh nghiệp xây lắp thuê một số ca máy hoạt động nhất định
Hai bên đi thuê và cho thuê sẽ tiến hành thanh toán trên cơ sở ca máy hoạt động thực tế và theo đơn giá đã thoả thuận. Bên cho thuê sẽ chịu mọi chi phí trong quá trình máy thi công hoạt động. Doanh nghiệp xây lắp chỉ chịu số tiền thuê số ca máy hoạt động thực tế mà thôi.
*Phân loại chi phí sử dụng máy thi công:
Chi phí sử dụng máy thi công bao gồm chi phí vật liệu, chi phí nhân công và các chi phí khác trực tiếp dùng cho quá trình sử dụng máy phục vụ cho các công trình xây lắp.
Đặc điểm của xây dựng cơ bản là máy thi công phải gắn liền với địa điểm xây dựng mà địa điểm xây dựng lại không cố định. Do vậy, máy thi công phải di chuyển theo các địa điểm thi công theo từng thời kỳ.
Chi phí sử dụng máy thi công được chia làm hai loại:
-Chi phí thường xuyên:Chi phí hàng ngày cần thiết cho việc sử dụng máy thi công. Các chi phí này khi phát sinh được tính hết một lần vào chi phí sử dụng máy, bao gồm:
+Chi phí nhiên liệu, động lực dùng cho máy thi công.
+Tiền lương chính của công nhân điều khiển máy và phục vụ máy.
+Khấu hao máy thi công(tính khấu hao theo số ca máy định mức, hay theo số ca máy thực tế nếu số ca máy thực tế > số ca máy định mức).
+Chi phí thuê máy thi công( nếu có ).
+Chi phí sửa chữa thường xuyên máy thi công.
+Các chi phí khác.
-Chi phí tạm thời:
Chi phí phát sinh một lần tương đối lớn, không định mức hay tính trước được. Các chi phí này khi phát sinh không tính hết một lần vào chi phí sử dụng máy mà được phân bổ theo thời gian sử dụng ở công trường.
+ Chi phí tháo lắp, chạy thử sau khi lắp để sử dụng, kể cả lần lắp sau khi giao trả đặt để máy.
+Chi phí vận chuyển máy thi công đến địa điểm xây dựng, chi phí trả máy về nơi đặt để máy, chi phí di chuyển máy trong phạm vi công trường.
+Chi phí xây dựng, tháo dỡ các công trình tạm phục vụ máy thi công:lều lán che máy, bệ để máy…
Trong chi phí sử dụng máy thi công không bao gồm các khoản mục sau: lương công nhân vận chuyển, phân phối vật liệu cho máy, chi phí trong thời gian máy ngừng hoạt động, chi phí lắp đặt lần đầu cho máy, chi phí sử dụng cho sản xuất phụ…
*Hạch toán chi phí sử dụng máy thi công:
Chi phí sử dụng máy được coi là một khoản mục trong chi phí sản xuất chung với chi phí tạm thời về sử dụng máy thi công có thể tập hợp vào bên Nợ TK142 để phân bổ dần vào chi phí sử dụng máy thi công.
Sơ đồ hạch toán chi phí sử dụng máy thi công.
(Trường hợp không tổ chức kế toán riêng cho đội máy thi công)
TK154
TK632
TK334
(6)
(1)
TK152
(2)
TK153,142
(3)
TK331,241
(4)
TK214
(5)
Chú giải:
Tiền lương, tiền công phải trả cho công nhân sử dụng máy.
Xuất kho nhiên liệu, vật liệu phục vụ máy thi công.
Chi phí công cụ, dụng cụ phục vụ máy thi công.
Chi phí dịch vụ mua ngoài.
Chi phí khấu hao thiết bị máy.
Kết chuyển chi phí sử dụng máy thi công.
-Hạch toán chi phí sửa chữa máy móc thiết bị:
Máy móc thiết bị được sử dụng lâu dài vì vậy để duy trì được thời hạn sử dụng của máy cần phải thường xuyên sửa chữa và bảo dưỡng máy móc, thay thế các bộ phận, chi tiết bị hao mòn, hư hỏng trong quá trình sử dụng. Dựa vào hiệu quả kinh tế, doanh nghiệp có thể tự sửa chữa hoặc thuê ngoài sửa chữa. Trường hợp tự sửa chữa, nếu chi phí sửa chữa nhỏ có thể tính hết vào chi phí sửa chữa trong kỳ, nếu chi phí sửa chữa lớn các chi phí được tập hợp vào bên Nợ TK241 rồi kết chuyển vào tài khoản có liên quan.Nếu doanh nghiệp không áp dụng trích trước chi phí sửa chữa thì ghi Nợ TK335,Có TK241.
Trường hợp thuê ngoài sửa chữa phải phản ánh tổng số tiền phải trả cho người nhận thầu: Nợ TK241, Nợ TK133 (nếu doanh nghiệp áp dụng phương pháp khấu trừ thuế), Có TK331. Tuỳ thuộc vào việc doanh nghiệp có tiến hành trích trước hay không để kết chuyển chi phí thực tế về sửa chữa lớn vào TK142 hoặc TK335, Có TK241.
Đối với chi phí sử dụng máy có liên quan tới nhiều công trình, trước hết cũng được tập hợp vào bên Nợ TK 623 sau đó mới phân bổ cho từng công trình căn cứ vào tổng số ca máy làm việc hoặc khối lượng công việc hoàn thành của máy cho từng công trình.
Nợ TK154
Có TK623
4.Nội dung và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất chung.
a.Nội dung và kết cấu của tài khoản 627: “Chi phí sản xuất chung”.
-Tài khoản 627: “Chi phí sản xuất chung”: Tài khoản này để tập hợp tất cả các chi phí có liên quan trực tiếp đến việc phục vụ sản xuất thi công, quản lý sản xuất, chế tạo sản phẩm phát sinh trong kỳ trong các phân xưởng, các bộ phận, đội sản xuất thi công xây lắp (đây là khoản chi phí chung cho cấp công trường).Tài khoản 627 còn phản ánh 19% các khoản phải nộp theo lương của công nhân xây lắp, công nhân điều khiển máy thi công.
-Kết cấu của tài khoản 627:
+Bên Nợ: Tập hợp các chi phí sản xuất chung phát sinh thuộc phạm vi công trường, đội xây lắp, phân xưởng sản xuất công nghiệp.
+Bên Có: Kết chuyển chi phí sản xuất chung đã tập hợp được cho các đối tượng tính giá thành.
TK627 không có số dư.
TK627 có các TK cấp hai sau:
TK6271: Chi phí nhân viên phân xưởng, đội xây lắp, công trường xây dựng.
TK6272:Chi phí vật liệu phục vụ thi công.
TK6273: Chi phí công cụ, dụng cụ phục vụ sản xuất thi công thuộc phạm vi công trường, phân xưởng.
TK6274: Chi phí khấu hao tài sản cố định thuộc phạm vi công trường, phân xưởng.
TK6277: Chi phí dịch vụ mua ngoài.
TK6278: Chi phí bằng tiền khác.
b.Hạch toán chi phí sản xuất chung.
Chi phí sản xuất chung là các chi phí liên quan đến việc quản lý công trình trong phạm vi tổ, đội sản xuất thi công xây lắp bao gồm chi phí về tiền công và các khoản chi phí khác cho nhân viên quản lý các công trường.Các khoản chi phí chung thường được hạch toán riêng theo từng địa điểm phát sinh chi phí tổ, đội công trình. Sau đó tiến hành phân bổ cho từng đối tượng chịu chi phí liên quan. Các khoản chi phí chỉ liên quan đến một công trình, hạng mục công trình sẽ được tập hợp trực tiếp cho từng công trình, hạng mục công trình đó.
Theo chế độ hiện hành Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn hàng tháng trích cho công nhân xây lắp, công nhân máy thi công tính vào chi phí sản xuất chung .Bảo hiểm xã hội là các khoản trợ cấp cho cán bộ công nhân viên trong những trường hợp bệnh nghề nghiệp, tử tuất…
+Quỹ BHXH hình thành bằng cách tính vào chi phí sản xuất kinh doanh một số tiền theo tỷ lệ quy định trên tổng số lương thực tế phát sinh trong tháng để chi trợ cấp cho các khoản nói trên. Khoản trích bảo hiểm bằng 15% trên tiền lương thực tế phải trả cho cán bộ công nhân viên.
+Quỹ BHYT hình thành bằng cách tính vào chi phí sản xuất kinh doanh một số tiền theo tỷ lệ quy định(2% tiền lương của công nhân viên).
+Nhà nước quy định doanh nghiệp được trích 2% tiền lương phải trả cho cán bộ công nhân viên lập nguồn kinh phí công đoàn để có nguồn chi tiêu về các hoạt động quản lý công đoàn.
Đối với các khoản chi trả BHXH phải trả trực tiếp cho cán bộ công nhân viên, kế toán BHXH phải dựa vào chế độ trợ cấp BHXH quy định các chứng từ. Sau khi kế toán BHXH lập chứng từ trình lên kế toán trưởng và giám đốc duyệt sẽ được dùng làm căn cứ chi trả trợ cấp cho cán bộ công nhân viên. Để có số liệu ghi sổ cuối tháng, phòng kế toán phải căn cứ vào chứng từ tính lương và BHXH cho các đối tượng sử dụng.Để theo dõi các khoản được trích BHXH và chi tiêu quỹ BHXH,BHYT, kế toán sử dụng TK338 “Phải trả, phải nộp khác”.
Sơ đồ hạch toán chi phí sản xuất chung
TK627
TK154
TK334
(1) (8)
TK111,152
TK338
(2) (9)
TK152
TK152
(3)
TK153,142
(4)
TK214
TK214
(5)
TK111,112
(6)
TK331,111
(7)
Chú giải:
Tiền lương nhân viên quản lý đội, công trường.
19% tiền lương của công nhân xây lắp, công nhân điều khiển máy thi công và quản lý đội.
Xuất vật liệu phục vụ.
Công cụ, dụng cụ.
Khấu hao tài sản cố định của đội, công trình.
Chi phí khác bằng tiền.
Chi phí dịch vụ mua ngoài.
Kết chuyển chi phí sản xuất chung.
Giá trị thu hồi.
5.Tổng hợp chi phí sản xuất .
a.Trình tự tổng hợp chi phí sản xuất .
Căn cứ vào đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và phương pháp hạch toán chi phí đã được xác định tương ứng, kế toán tiến hành tổng hợp chi phí sản xuất theo trình tự sau:
-Căn cứ vào đối tượng hạch toán đã xác định mở sổ hoặc thẻ hạch toán chi tiết chi phí sản xuất, mỗi thẻ mở cho một đối tượng hạch toán .
-Các chi phí phát sinh trong tháng có liên quan tới đối tượng hạch toán nào thì ghi vào thẻ(sổ) của đối tượng đó.
-Đối với các chi phí cần phân bổ phải được tập hợp riêng và tính phân bổ cho từng đối tượng có liên quan.
-Cuối tháng, quý tiến hành tổng hợp toàn bộ chi phí phát sinh cho từng đối tượng và toàn xí nghiệp.
Thẻ hạch toán chi tiết chi phí sản xuất là cơ sở để tổng hợp chi phí sản xuất thực tế hàng tháng, quý, năm cho từng đối tượng hạch toán chi phí và đối tượng tính giá thành sản phẩm .
b.Sơ đồ tổng hợp chi phí sản xuất trong các doanh nghiệp xây lắp .
TK154
TK621
TK152,141,111
(4)
(1)
TK152
(8)
TK622
TK334,338
(5)
(2)
TK152,153,334,338
331,111,112
TK155,632
TK627
(9)
(6)
(3)
TK623
(7)
Chú giải:
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp xây lắp
Chi phí nhân công trực tiếp xây lắp
Tập hợp chi phí sản xuất chung
Kết chuyển chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp
Kết chuyển phân bổ chi phí sản xuất chung
Phân bổ chi phí sử dụng máy cho các đối tượng xây lắp
Phế liệu thu hồi
Giá thành sản phẩm xây lắp
III.Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện.
1.Về từng nội dung hạch toán các khoản mục chi phí .
Qua một quá trình nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung, hệ thống tài khoản áp dụng thống nhất trong cả nước đã thể hiện sự phù hợp với cơ chế thị trường nói chung và với từng các loại doanh nghiệp nói riêng. Các tài khoản phần nào thể hiện được sự phân loại và hệ thống hoá các nghiệp vụ theo nội dung theo nội dung kinh tế đảm bảo thông tin phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Các con số được thể hiện qua các tài khoản đã trở thành các con số “biết nói”, đem lại những thông tin hữu ích cho tất cả các đối tượng quan tâm tới hoạt động của doanh nghiệp : ban giám đốc, hội đồng quản trị doanh nghiệp, các nhà đầu tư, các cổ đông, chủ nợ, công nhân viên, thuế quan…Hệ thống tài khoản hạch toán kế toán chi phí sản xuất kinh doanh bao gồm các tài khoản loại 6 với đặc điểm ghi tăng bên Nợ, không có số dư, cuối kỳ kết chuyển ghi ở bên Có tạo thuận lợi cho việc ghi chép, phản ánh và kiểm tra công tác kế toán. Tuy nhiên, khi vận dụng hệ thống tài khoản kế toán chi phí sản xuất kinh doanh thì còn có nhiều điều vướng mắc. Cụ thể là hệ thống tài khoản kế toán chi phí sản xuất chưa có tính thống nhất cao, chưa bao quát toàn diện được các loại hình doanh nghiệp, các lĩnh vực hoạt động trong nền kinh tế quốc dân, nội dung và kết cấu chưa thực sự hợp lý trong cơ chế thị trường. Những thiếu sót này đòi hỏi nhanh chóng có sự thay đổi phù hợp tạo điều kiện thúc đẩy đi đến một hệ thống tài khoản hoàn thiện. Để nâng cao vai trò của mình trong công tác kế toán, hệ thống tài khoản kế toán chi phí sản xuất cần hoàn thiện theo một số hướng sau:
-Hệ thống tài khoản hạch toán chi phí sản xuất cần nhất quán.
-Thay đổi nội dung phản ánh của tài khoản 621.
Theo quy định hiện hành, TK 621 tập hợp toàn bộ chi phí nguyên vật liệu(vật liệu chính, vật liệu phụ, vật liệu khác) dùng cho sản xuất, thi công xây lắp, chế tạo sản phẩm phát sinh trong kỳ, cuối kỳ kết chuyển sang TK154. Điều này sẽgây khó khăn cho việc tính giá sản phẩm dở dang vào cuối kỳ vì vật liệu chính là đối tượng chế biến còn vật liệu khác lại là chi phí chế biến. Để phân biệt chi phí vật liệu chính với các chi phí về nguyên vật liệu khác, kế toán đã làm tăng khối lượng công việc , thời gian làm việc của mình một cách không cần thiết. Đặc biệt trong xây dựng, vật liệu chính chính là cơ sở cho sự hoạt động và chiếm một tỷ trọng rất lớn.
Trong các doanh nghiệp sản xuất (sản xuất xây lắp và sản xuất công nghiệp) thường có 4 loại hình doanh nghiệp chủ yếu :
1-Doanh nghiệp sản xuất giản đơn.
Tổng giá thành sản phẩm =Tổng chi phí sản xuất đã tập hợp theo đối tượng
2-Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh áp dụng định mức
3-Doanh nghiệp sản xuất theo đơn đặt hàng
Tổng chi phí sản xuất đã tập hợp cho đơn đặt hàng=Tổng giá thành của đơn đặt hàng
4-Doanh nghiệp sản xuất phức tạp.
-Tính giá thành sản phẩm theo những phân bước có kết chuyển bán thành phẩm.
-Tính giá thành sản phẩm theo những phân bước không kết chuyển bán thành phẩm.
Chi phí bước n
Chi phí bứơc n-1
Chi phí bước 1
Chi phí nguyên vật liệu chính
Tổng giá thành sản phẩm
Như vậy việc tách chi phí nguyên vật liệu chính ra khỏi chi phí nguyên vật liệu trực tiêp sẽ không thuận tiện. Tài khoản 621 nên thay đổi nội dung phản ánh như sau: Tài khoản 621 chỉ phản ánh giá trị nguyên vật liệu chính trực tiếp mà không bao gồm giá trị vật liệu khác. Giá trị các loại vật liệu khác sẽ được tập hợp vào chi phí sản xuất chung, cuối kỳ sẽ phân bổ cho các đối tượng tính giá có liên quan.
2-Về tài khoản sử dụng.
*Để tập chi phí sản xuất, các doanh nghiệp xây lắp với đặc điểm tổ chức sản xuất theo các hợp đồng nhận thầu, sản phẩm xây lắp mang tính đơn chiếc, chu kỳ sản xuất dài nên các TK được mở chi tiết theo từng công trình, hạng mục công trình. Trường hợp các đội sản xuất xây lắp đồng thời thực hiện nhiều công trình, hạng mục công trình thì các tài khoản phải được mở đến từng tổ, đội sản xuất và chi tiết cho từng công trình. Cụ thể, TK621,622 được mở như sau:
TK6211,6221-Tổ đội xây lắp 1
TK62111,62211-Tổ đội xây lắp 1-công trình A
TK62112,62212-Tổ đội xây lắp 1-công trình B
*Để đáp ứng nhu cầu phân biệt chi phí nguyên vật liệu chính với các vật liệu khác trong xây lắp theo một cách khác ngoài phương pháp thay đổi nội dung phản ánh của TK621 đã trình bày ở trên thì theo một cách khác, TK 621 có thể được mở chi tiết theo hướng sau:
TK6211-Chi phí nguyên vật liệu chính
TK6212-Chi phí vật liệu khác
Phương pháp này giúp cho kế toán không mất thời gian vào việc tách đối tượng chế biến(nguyên vật liệu chính) và chi phí chế biến(vật liệu khác) ra khỏi chi phí nguyên vật liệu trực tiếp mà vẫn tuân thủ chế độ tài khoản kế toán hiện hành. Việc này làm cho việc xác định giá thành sản phẩm được thuận tiện, nhanh chóng, kịp thời.
*Tài khoản 154 “Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang”: dùng để tập hợp và xác định giá thành của công trình, hạng mục công trình hoàn thành
1541-Xây lắp
1542-Sản phẩm khác
1543-Dịch vụ
1544-Chi phí bảo hành xây lắp
Do đặc điểm của hoạt động xây lắp, kế toán chỉ áp dụng phương pháp kê khai thường xuyên để hạch toán hàng tồn kho. TK154 “Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang” vừa là TK vốn phản ánh vốn sản phẩm làm dở vừa là TK phản ánh quá trình sản xuất. Một TK kế toán phản ánh hai đối tượng kế toán có nội dung kinh tế hoàn toàn khác nhau là không đảm bảo tính khoa học. Mặt khác, đối với phương pháp kê khai thường xuyên thì mọi sự biến động tăng, giảm chi phí đều phải được hạch toán thường xuyên, cập nhật nhưng TK154 chỉ cho phép tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm vào cuối kỳ. Điều này mâu thuẫn với chính ý nghĩa của phương pháp kê khai thường xuyên. Để khắc phục cả hai nhược điểm nêu trên, TK154 nên dùng để tập hợp và phân bổ chi phí còn để tổng hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm nên dùng TK631. Với ý nghĩa đó, TK154 sẽ lấy tên là “Sản phẩm làm dở” và việc này cho phép thể hiện đúng bản chất của phương pháp kê khai thường xuyên .TK631 trong trường hợp này có tên là “Giá thành sản xuất”.
3.Quản lý chi phí nhằm tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Một công trình có thể rất bề thế, tiêu hao một lượng ngân sách khổng lồ,tuy nhiên để công trình đó được coi là thành công theo đúng nghĩa cả về chất lượng và hình thức thì phải đặt nó trong mối tương quan với chi phí . Một sản phẩm xây dựng có chất lượng cao chính là thành quả của cả một quá trình từ khảo sát, thiết kế, thi công, khai thác-sử dụng nguyên vật liệu…hợp lý. Trong hoàn cảnh nước ta đang trên đường hội nhập, hàng rào thuế quan giữa các nước ASEAN sẽ được xoá bỏ, thị trường Việt Nam sẽ hoà nhập với thị trường quốc tế thì việc đảm bảo chất lượng sản phẩm lại càng có ý nghĩa.
Chất lượng sản phẩm cao sẽ là một công cụ cạnh tranh hiệu quả, đem lại cho doanh nghiệp một chỗ đứng vững chắc. Nhưng nếu chất lượng cao mà chi phí cũng cao thì liệu doanh nghiệp có giữ vững được vị trí của mình hay không? Công cụ cạnh tranh là chất lượng sản phẩm sẽ bị giảm hiệu quả do giá thành sản phẩm tăng lên theo chi phí. Như vậy, để có sức cạnh tranh tốt, sản phẩm xây dựng phải thoả mãn được mong muốn của chủ đầu tư là tối đa hoá chất lượng(có nghĩa là mức độ phù hợp với nhu cầu của họ càng cao càng tốt) và tối thiểu hoá chi phí. Tức là doanh nghiệp phải nghiên cứu làm sao để giá thành càng thấp càng tốt trong một cấp sản phẩm nhất định. Thực tế thì chất lượng cao có thể có gía thành hạ hay không? Điều này có thể xảy ra. Tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh đều cần có chi phí nhất định. Nhưng trong nhiều doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp xây lắp nói riêng, một phần khá lớn các chi phí là cho các công việc sửa chữa, phá đi làm lại, xử lý sự cố, bảo hành, và các loại lãng phí khác. Các chi phí này còn được gọi là các chi phí không chất lượng. Chất lượng cao, xét trên một khía cạnh, chính là sự giảm những lãng phí, giảm chê trách, phàn nàn của chủ đầu tư…Điều đó dẫn đến việc giảm những chi phí liên quan, hay giảm bớt các chi phí đánh giá, đo lường chất lượng nhờ sự tin tưởng của chủ đầu tư, do đó, về nguyên tắc, giá thành có thể hạ xuống mà chất lượng vẫn cao. Tuy nhiên, có một câu hỏi đặt ra là: Việc cắt giảm những chi phí không chất lượng có đáng kể để hạ giá thành không? Đa số nhà quản lý chỉ quan tâm một phần rất nhỏ của các lãng phí xảy ra trong hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt động xây lắp nói riêng. Có thể ví các lãng phí xảy ra trong xây lắp như một tảng băng trôi nên người ta chỉ nhìn thấy phần nôỉ của nó. Theo kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới, chi phí cho việc nâng cao chất lượng bằng cách tăng chi phí đào tạo và chi phí phòng ngừa chiếm khoảng 2% giá trị hợp đồng xây lắp, phần lãng phí còn lại chiếm khoảng 2%, giảm một lượng lãng phí khoảng 6%. Dù doanh nghiệp sử dụng phương pháp quản lý chất lượng tiên tiến thế nào, các doanh nghiệp xây dựng cũng cần phải nhận dạng, phân tích, đo lường các chi phí không chất lượng trong doanh nghiệp mình. Từ đó doanh nghiệp mới có cơ sở để tiến hành các biện pháp thích hợp nhằm hạn chế hoặc loại bỏ hoàn toàn chúng và xác định được mức khống chế các chi phí bỏ ra cho các hoạt động hạn chế hoặc loại bỏ lãng phí đảm bảo thu được lợi ích thực sự từ việc nâng cao chất lượng sản phẩm xây dựng. Các doanh nghiệp cũng phải thấy được tầm quan trọng của việc xử lý các số liệu thống kê về tình hình chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh để sử dụng chúng như là một công cụ hiệu quả nhất giúp mình đi đến thành công.
4.Về vấn đề khoán tiền lương cho công nhân xây lắp.
Phương thức khoán sản phẩm xây lắp cho các đơn vị cơ sở, các tổ đội thi công là phương thức quản lý thích hợp với cơ chế thị trường. Phương thức này gắn liền lợi ích vật chất của người lao động, tổ đội thi công với khối lượng, chất lượng sản phẩm cũng như tiến độ thi công công trình. Phương thức này cũng cho phép các doanh nghiệp xây lắp mở rộng quyền tự chủ về hạch toán kinh doanh, lựa chọn cách tổ chức lao động, tổ chức thi công từ đó phát huy khả năng tiềm tàng của từng tổ đội. Từ đó cho thấy đối với các doanh nghiệp xây lắp thì thực hiện khoán tiền lương cho công nhân xây lắp cũng có tác dụng tương tự như vậy. Việc khoán tiền lương cho công nhân có thể tính theo số công việc, mức độ hoàn thành hay số m2…Điều này làm cho người công nhân có ý thức tự giác hơn trong công việc, tránh lãng phí, mất mát và bảo quản tốt nguyên vật liệu, bảo đảm tiến độ thi công. Tuy nhiên, để là một động lực thực sự khuyến khích người lao động ,doanh nghiệp xây lắp cần phải tính toán số tiền lương một cách hợp lý và có những hình thức thi đua tay nghề cũng như biểu dương, thưởng bằng vật chất hay cảnh cáo thích hợp.
5.Phương pháp kê khai thường xuyên và kiểm kê định kỳ .
Tuy đối với các doanh nghiệp xây lắp, phương pháp kiểm kê định kỳ tỏ ra có một số hạn chế nhất định dẫn đến việc nó không được sử dụng nhưng phương pháp này có thể ở một mặt nào đó sẽ trở lên thuận tiện cho công tác kế toán ở các doanh nghiệp xây lắp chỉ tiến hành một loại sản phẩm xây lắp mà giá trị sản phẩm không lớn.
Sự khác nhau cơ bản giữa kế toán tập hợp chi phí sản xuất theo phương pháp này so với phương pháp kê khai thường xuyên là:
*TK631 “Giá thành sản xuất” được dùng để tập hợp chi phí sản xuất, TK 154 chỉ phản ánh giá trị sản phẩm làm dở đầu kỳ và cuối kỳ căn cứ vào kết quả kiểm kê, đánh giá sản phẩm làm dở.
*Chi phí nguyên vật liệu xuất dùng trong kỳ căn cứ vào giá trị nguyên vật liệu tồn đầu kỳ, giá thực tế của vật liệu nhập trong kỳ, kết quả kiểm kê cuối kỳ.
Giá thực tế của nguyên vật liệu xuất dùng trong kỳ
=
Giá thực tế của nguyên vật liệu tồn đầu kỳ
+
Giá thực tế của nguyên vật liệu nhập trong kỳ
-
Giá thực tế nguyên vật liệu tồn cuối kỳ
*Cuối kỳ, căn cứ vào kết quả kiểm kê mơi tính ra giá thực tế vật liệu xuất dùng cho nhu cầu sản xuất chế tạo sản phẩm, phục vụ cho quản lý, bán hàng…
-TK631 “Giá thành sản xuất” có kết cấu như sau:
+Bên Nợ:
Phản ánh giá trị sản phẩm làm dở đầu kỳ
Chi phí sản xuất thực tế phát sinh trong kỳ
+Bên Có:
Kêt chuyển giá trị sản phẩm làm dở cuối kỳ
Giá thành thực tế của sản phẩm hoàn thành
TK631 cuối kỳ không có số dư, cuối kỳ giá trị sản phẩm làm dở được kết chuyển vào TK154
TK631 được hạch toán theo từng nơi phát sinh chi phí(tổ, đội, công trình)
Sơ đồ hạch toán chi phí sản xuất theo phương pháp kiểm kê định kỳ
TK154
TK631
TK154
(6)
(1)
TK632
TK621
(2)
(7)
TK622
(3)
TK623
(4)
TK627
(5)
Chú giải:
Kết chuyển giá trị dở dang đầu kỳ
Kết chuyển chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Kết chuyển chi phí nhân công
Kết chuyển chi phí sử dụng máy thi công
Kết chuyển chi phí sản xuất chung
Kết chuyển giá trị dở dang cuối kỳ
Giá thành thực tế
6.Một số ý kiến về kế toán các khoản thiệt hại trong xây dựng.
Trong các nghành sản xuất thì các khoản thiệt hại do không đáp ứng yêu cầu, tiêu chuẩn kỹ thuật quy định, đặc điểm kỹ thuật của sản xuất ví dụ không đúng màu, không đúng kích cỡ, trọng lượng, lắp ráp sai, do không thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng, do các lý do xảy ra ngoài dự kiến của doanh nghiệp như cúp điện, hỏng hóc máy móc…là không thể tránh khỏi. Chi phí sản phẩm hỏng và chi phí ngừng sản xuất đột xuất xảy ra tại doanh nghiệp là khách quan, có ảnh hưởng biến động đến giá thành sản phẩm, doanh nghiệp cần phải nắm rõ thông tin chi phí này để quản lý giá thành sản phẩm tốt hơn, đưa ra phương án sản xuất tối ưu với chi phí thấp nhất. Đối với nghành xây dựng thì khoản thiệt hại này bao gồm: thiệt hại phá đi làm lại và thiệt hại về ngừng sản xuất. Đối với nghành xây dựng, chi phí để hoàn thành một sản phẩm là rất lớn, do đó thiệt hại trong xây dựng cũng có nghĩa là thiệt hại về tất cả các loại chi phí: chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công, chi phí sử dụng máy thi công, chi phí sản xuất chung…Các khoản thiệt hại này là nguyên nhân gây nên một khoản chi phí lớn không chất lượng và tất yếu dẫn đến tăng giá thành, giảm sút lợi nhuận thậm chí cả uy tín của doanh nghiệp xây lắp. Chính vì thế, kế toán phải phản ánh đầy đủ, chính xác cho từng trường hợp thiệt hại, xác định rõ nguyên nhân, người chịu trách nhiệm và rút ra những kinh nghiệm, bài học cần thiết.
Sơ đồ hạch toán tổng hợp thiệt hại ngừng sản xuất ngoài kế hoạch
TK821
TK142
TK334,338,152
(3)
(1)
TK331,111
TK138,152
(4)
(2)
Chú giải:
Chi phí tiền lương, vật liệu trong thời gian ngừng xây lắp
Chi phí dịch vụ mua ngoài phải trả
Thực thiệt hại
Khoản thu hồi, bồi thường
Sơ đồ hạch toán thiệt hại về công trình phá đi làm lại
(sản phẩm hỏng ngoài định mức)
TK154,155,632
TK821
TK1381
(4)
(1)
TK138,152
TK152,334
(5)
(2)
(3)
TK331,111,112
TK1331
Chú giải:
(1)Giá trị sản phẩm, công trình hỏng không sửa chữa được
(2)Chi phí sửa chữa, làm lại (tự làm)
(3)Chi phí sửa chữa, làm lại (thuê ngoài)
(4)Thiệt hại thực
(5)Khoản bồi thường, thu hồi
Về mặt kế toán, việc hạch toán chi phí về các khoản thiệt hại như trên là khá hợp lý, tuy nhiên việc hạch toán chưa cho phép theo dõi xem các sự cố thường xảy ra ở các bộ phận nào của doanh nghiệp để cho phép xử lý thiệt hại tốt hơn. Trong trường hợp doanh nghiệp xây lắp có kế hoạch ngừng sản xuất để đại tu, bổ dưỡng máy móc, thiết bị thì chi phí phát sinh do ngừng sản xuất được coi là chi phí hợp lý.
Để hạn chế việc xây lên rồi phá đi làm lại trong các doanh nghiệp xây lắp tức là hạn chế được một khoản chi phí khá lớn và tiết kiệm được thời gian, các doanh nghiệp cần tăng cường hơn nữa công tác quản lý nhân công, vật tư và kế toán chặt chẽ các khoản thiệt hại này. Nếu doanh nghiệp làm tốt việc này thì cũng có nghĩa doanh nghiệp đã nâng cao sức cạnh tranh cũng như uy tín của mình.
7.Xu hướng áp dụng kế toán quản trị trong doanh nghiệp xây lắp
Trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp xây lắp phải tự tìm kiếm thị trường tiêu thụ, tự chịu trách nhiệm về chi phí bỏ ra để hoạt động kinh doanh một cách hiệu quả. Nhà nước không can thiệp vào quản trị kinh doanh của doanh nghiệp một cách trực tiếp. Để quản trị doanh nghiệp được tốt, kế toán quản trị được coi là công cụ cần thiết để cung cấp thông tin cho nhà quản lý. Về vấn đề chi phí, kế toán quản trị ở doanh nghiệp xây lắp cần phải làm tốt các nội dung:
-Xác định trung tâm chi phí
-Phân loại chi phí : chi phí được phân thành biến phí và định phí. Chênh lệch giữa doanh thu và biến phí gọi là số dư đảm phí(lãi trên biến phí). Muốn tối đa hoá lợi nhuận cần tối đa hoá lãi trên biến phí, đây là cơ sở quan trọng cho các quyết định liên quan tới chi phí –khối lượng-lợi nhuận-giá cả. Đồng thời, cách phân loại chi phí như vậy cũng cho phép xác định được độ lớn đòn bẩy kinh doanh, doanh nghiệp nào có kết cấu chi phí với định phí cao sẽ có nhiều cơ hội đem lại lợi nhuận cao nhưng rủi ro cũng lớn.
-Tổ chức thu thập thông tin: ngoài thu thập các thông tin quá khứ cần thu thập thông tin cần thiết cho việc dự báo, phân tích xu hướng…
-Lập báo cáo quản trị chi phí –giá thành và phân tích chi phí –giá thành
Các bộ phận kế toán quản trị hoạt động hữu hiệu sẽ là một nền tảng cơ bản cho việc ra các quyết định đúng đắn, có lợi cho doanh nghiệp. Trong các doanh nghiệp xây lắp hiện nay, xu hướng áp dụng kế toán quản trị là rất phù hợp với nhu cầu của các nhà quản lý, nhà đầu tư và chính bản thân doanh nghiệp. Kế toán cần nhận thức được ý nghĩa của việc này để nghiên cứu và tổ chức tốt kế toán quản trị.
8.So sánh với các doanh nghiệp sản xuất khác
Do doanh nghiệp xây lắp có những đặc thù riêng so với các nghành sản xuất khác nên kế toán trong doanh nghiệp xây lắp có một số khác biệt.
Những khác biệt cơ bản nhất là:
-Về đối tượng tập hợp chi phí và tính giá thành(công trình, hạng mục công trình chứ không phải là sản phẩm, bộ phận sản phẩm …)
-Về tài khoản sử dụng :có thêm TK623 “Chi phí sử dụng máy thi công”
-Về phương pháp hạch toán hàng tồn kho chỉ có một phương pháp là kê khai thường xuyên (các doanh nghiệp khác cho phép hạch toán hàng tồn kho theo hai phương pháp kê khai thường xuyên và kiểm kê định kỳ )
-Các khoản trích theo lương của công nhân xây lắp, của công nhân điều khiển máy không được tính vào 622,623 mà lại tập hợp vào TK627…
Từng doanh nghiệp được xem như một cá thể trong nền kinh tế, toàn bộ các doanh nghiệp tạo nên tổng thể vĩ mô của nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế nước ta, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Tuy nhiên để tồn tại trong sự cạnh tranh mạnh mẽ ngày nay thì các doanh nghiệp phải tự tìm ra con đường đi cho mình, phải tự thân vận động là chính nếu không sẽ bị loại ta khỏi ra khỏi “cuộc đo tài” một cách tất yếu.Vì vậy trong kế toán doanh nghiệp xây lắp có những sự khác biệt như trên là tất yếu. Đó cũng chính là sự thể hiện tính linh hoạt và hiệu quả của công tác kế toán.
Phần kết luận
Những năm đầu của thế kỷ mới được chờ đón với bao điều mong đợi về một đất nước sẽ sánh vai với các “cường quốc năm châu”, để làm được điều đó nhất thiết phải có một nền kinh tế vững mạnh, một môi trường kinh tế thuận lợi và ổn định.
Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm, lắng nghe những ý kiến của các doanh nghiệp, tạo ra những điều kiện tốt nhất để các doanh nghiệp phát huy hết khả năng của mình. Vấn đề là các doanh nghiệp đã tận dụng được hết ưu thế và thời cơ hay chưa? Trong hoàn cảnh nền kinh tế nước ta hiện nay, xây dựng là một ngành đem lại nhiều hứa hẹn. Tuy nhiên, để quản lý tốt hơn ngành kinh tế này, kế toán đặc biệt là kế toán chi phí cần được coi là một công cụ kiểm soát chặt chẽ hơn nữa để tăng cường vị trí của ngành cũng như đóng góp hơn nữa vào sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Kế toán chi phí không phải là phần kế toán phức tạp nhất nhưng lại trực tiếp ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm xây lắp, ảnh hưởng thu nhập của doanh nghiệp từ đó ảnh hưởng đến nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với nhà nước, do vậy hoàn thiện chi phí trong các doanh nghiệp xây lắp là một vấn đề cần thiết và là thực tế đặt ra ngày hôm nay. Đất nước ta phải chăng đang lớn lên theo các công trình ngày càng hiện đại, bề thế. Điều đó chỉ được khẳng định khi mà các công trình chất lượng cao nhất mà chi phí ở mức tối ưu nhất, khi các doanh nghiệp xây lắp không lãng phí nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất nước và phải sử dụng một cách hiệu quả nguồn vốn đầu tư của nhà nước hay nguồn vốn tự huy động được.
Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chi phí sản xuất trong các doanh nghiệp xây lắp được nêu trên đây chỉ là những phần rất nhỏ trong bộn bề các công việc mà kế toán cần nghiên cứu, hoàn thiện. Để công tác kế toán chi phí trong xây dựng được tốt, hơn hết là bản thân kế toán phải tự xác định được những thiếu sót những điểm mạnh của mình để hoàn thiện theo xu hướng chung của các nghành trong tổng thể nền kinh tế, theo xu hướng của đất nước và theo xu hướng toàn cầu.
Tài liệu tham khảo
Hạch toán kế toán trong xây dựng
Nhà xuất bản Xây Dựng 2001
Lý thuyết và thực hành kế toán tài chính
Nhà xuất bản Tài Chính 2001
Tạp chí Kế Toán
Số 26/2000+32/2001
Tạp chí Thông Tin Tài Chính
Số 16 Tháng 8 năm 1999
Tạp chí Phát Triển Kinh Tế
Số 120/2000+98/98+96/98
Tạp chí Xây Dựng
Số 409 tháng 3 năm 2002
Tạp chí Nghiên Cứu Tài Chính Kế Toán
Số 57
Tạp chí Kiểm Toán
Số 2 năm 1998
Mục lục
Lời nói đầu 3
Phần nội dung 5
I.Lý luận chung về chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây
lắp 5
1.Đặc điểm của sản xuất xây lắp 5
2.Đặc điểm của hạch toán chi phí sản xuất 6
3.Đối tượng và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất 11
II.Hạch toán chi phí sản xuất 13
1.Nội dung và phương pháp hạch toán chi phí nguyên vật
liệu trực tiếp 13
2.Nội dung và phương pháp hạch toán chi phí nhân công
trực tiếp 15
3.Nội dung và phương pháp hạch toán chi phí sử dụng máy
thi công 17
4.Nội dung và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất
chung 22
5.Tổng hợp chi phí sản xuất 26
III.Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện 28
1.Về từng nội dung hạch toán các khoản mục chi phí 28
2.Về tài khoản sử dụng 30
3.Về quản lý chi phí nhằm tiết kiệm chi phí nâng cao
hiệu quả kinh doanh 31
4.Về vấn đề khoán tiền lương cho công nhân xây lắp 33
5.Phương pháp kê khai thường xuyên và kiểm kê định kỳ 34
6.Một số ý kiến về các khoản thiệt hại trong xây dựng 36
7.Xu hướng áp dụng kế toán quản trị trong doanh nghiệp
xây lắp 38
8.So sánh với các doanh nghiệp khác 39
Phần kết luận 41
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29634.doc