Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ: cần khuyến khích sử dụng rộng rãi hơn nữa các dịch vụ tư vấn trong hoạt động của mình, từ khi khởi sự kinh doanh cũng như trong toàn bộ quá trình kinh doanh của mình, coi đây là một dịch vụ chất xám cung cấp một cách khách quan và độc lập cho khách hàng nhằm trợ giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ xác định hoặc phân tích các vấn đề liên quan đến quản lý, khuyến nghị các giải pháp và trợ giúp thực hiện khi có yêu cầu. Mục đích cuối cùng của tư vấn là nâng cao hiệu quả và hiệu suất hoạt động của doanh nghiệp vừa và nhỏ, qua đó góp phần nâng cao năng suất lao động xã hội.
Đối với Nhà nước: thì càng có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy mở mang nhanh chóng ngành dịch vụ tư vấn, cụ thể là 5 điểm sau đây:
- Hình thành khung pháp lý cho các hoạt động dịch vụ tư vấn, khẳng định tư vấn là một nghề và có những chính sách ưu đãi thích hợp, tạo sân chơi bình đẳng giữa các tổ chức tư vấn thuộc cơ quan nước, các đoàn thể và tư vấn dân doanh. Nghiên cứu định chế về hoạt động uỷ quyền, tạo điều kiện cho các công ty tư vấn có thể tiến hành các công việc như một đại diện uỷ quyền có tư cách pháp nhân cho thân chủ.
83 trang |
Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 869 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số ý kiến về thực trạng và giải pháp phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệp vừa và nhỏ đã “góp phần to lớn” vào việc làm ô nhiễm đó (do công nghệ của các doanh nghiệp này quá lạc hậu, các sơ quan chức năng chưa có biện pháp hữu hiệu để kiểm soát nhằm hạn chế việc gây ô nhiễm). Nhà nước đã chi rất nhiều công sức, tiền của để khắc phục nhưng kết quả đạt được không đáng kể.
- Hỗ trợ theo phương thức hiệu quả nhất: xu hướng hỗ trợ ở nhiều nước là giảm những tác động trực tiếp, tăng những giải pháp gián tiếp; tác động ít nhưng hiệu quả cao và hiệu ứng rộng. Hiện nay ở các nước có rất nhiều cách thức có hiệu quả chẳng hạn, thay vì cấp vốn với lãi suất ưu đãi hoặc bắt buộc các ngân hàng cho các doanh nghiệp vay thì chỉ cần trợ cấp lãi suất (nhà nước bù chênh lệch lãi suất giữa lãi suất thị trường và lãi suất cho vay ưu đãi đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ).
-Kết hợp hỗ trợ của nhà nước với hỗ trợ của cộng đồng, thông qua các hiệp hội nghề nghiệp, sự hỗ trợ của các doanh nghiệp lớn, sự hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức trong và ngoài nước.
1.3 Thực sự đối xử bình đẳng với mọi thành phần kinh tế
Mặc dù đã được chính thức thừa nhận là một thành phần cấu thành trong nền kinh tế, nhưng khu vực kinh tế ngoài quốc dân vẫn bị đối xử bất bình đẳng trong nhiều lĩnh vực. Có người ví doanh nghiệp ngoài quốc doanh chỉ là "đứa con nuôi" còn doanh nghiệp nhà nước là "con đẻ" nên được cưng chiều hơn. Chính vì sự đối xử bất công giữa doanh nghiệp nhà nước với doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã dẫn tới sự kém phát triển, khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh, thậm chí còn lâm vào cảnh bế tắc, dẫn tới sự phá sản. Việc đối xử thực sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế sẽ là nguồn động viên, khuyến khích, giải toả tâm lý vô cùng lớn với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và chắc chắn sẽ góp phần không nhỏ cho sự phát triển kinh tế, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực.
1.4 Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trong mối liên kết chặt chẽ với các doanh nghiệp lớn.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ với doanh nghiệp lớn có mối liên kết chặt chẽ với nhau trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của một đất nước, nó hỗ trợ đắc lực cho nhau trong sản xuất kinh doanh cũng như trong phân phối sản phẩm.
Quan điểm về mối liên kết này có thể biểu hiện như sau:
Phân công chuyên môn hoá giữa doanh nghiệp vừa và nhỏ với doanh nghiệp lớn sao cho có hiệu quả, doanh nghiệp vừa và nhỏ vừa tạo đầu vào vừa góp phần tiêu thụ đầu ra cho các doanh nghiệp lớn.
Doanh nghiệp lớn hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ về đào tạo tay nghề, trao đổi thông tin, chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý.
Doanh nghiệp lớn giao thầu lại cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ những phần việc trong hợp đồng lớn mà họ ký kết.
1.5 Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm làm cho các doanh nghiệp này phát triển theo hướng công nghiệp hoá, kinh doanh ngày càng văn minh, hiện đại.
Để thực hiện mục đích công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cần đặc biệt chú trọng hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ trong các khâu quan trọng như công nghệ, đào tạo chủ doanh nghiệp, cung cấp thông tin thị trường và dự báo xu hướng phát triển trong nước và quốc tế,Đồng thời, cần có những giải pháp để khuyến khích đầu tư công nghệ sạch, công nghệ mới, tìm kiếm các giải pháp cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất,Để thúc đẩy các doanh nghiệp vừa và nhỏ kinh doanh ngày càng văn minh, cần khuyến khích các doanh nghiệp này kinh doanh đúng luật, làm ăn công khai,Cùng với việc hỗ trợ, cần thiết phải có biện pháp tốt để kiểm soát việc sử dụng các công nghệ, đặc biệt là công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường.
2. Một số nguyên tắc trong việc khuyến khích, hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta hiện nay đang còn yếu kém, việc trợ giúp là hết sức cần thiết. Nhưng chúng ta cần phải xác định rõ mục tiêu, chính sách và phương thức trợ giúp phù hợp.
a) Về mục tiêu trợ giúp: cần xác định rõ là nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ khởi sự kinh doanh và phát triển trong một môi trường thuận lơị (kể cả môi trường kinh tế, xã hội, pháp luật), để doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất kinh doanh có hiệu quả bảo đảm và nâng cao khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường, phát huy được vai trò và tác dụng đối với nền kinh tế.
b) Về phương thức trợ giúp: cần thiết vận dụng cả hai phương thức trực tiếp và gián tiếp:
- Trực tiếp, đó là Nhà nước đơn giản hoá các thủ tục đăng ký kinh doanh, xoá bỏ các loại giấy phép không cần thiết, cung cấp thông tin, cung cấp mặt bằng kinh doanh, xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng, mở rộng tín dụng, đào tạo nhân lực (kể cả người lao động và chủ doanh nghiệp)...
- Gián tiếp, tức là thông qua các giải pháp, các chính sách có hiệu quả cao và hiệu ứng rộng mà tác động đến môi trường kinh doanh của doanh nghiệp, ví dụ như tạo lập đồng bộ các yếu tố của thị trường, giữ ổn định tài chính, tiền tệ, thực hiện các chính sách miễn giảm thuế, hỗ trợ các tổ chức tư vấn để các tổ chứcnày có thêm thuận lợi hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ,...
c) Việc trợ giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần được thông qua các chương trình, các dự án: đó là những chương trình do Nhà nước chủ trì về phát triển về phát triển công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản, khuyến khích tiểu thủ công nghiệp, phát triển ngành nghề truyền thống, chương trình khuyến khích làm hàng xuất khẩu, nâng cao chất lượng hàng hoá,... Đó cũng là các chương trình do các tổ chức đoàn thể, hiệp hội ngành nghề đề ra. Qua các chương trình, doanh nghiệp vừa và nhỏ được trợ giúp về các mặt vốn liếng, công nghệ, kỹ năng quản lý,... để phát huy khả năng kinh doanh của mình.
Về phía Nhà nước, cũng đã có những chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào sản xuất kinh doanh, quy định rõ những điều kiện để được ưu đãi như: lĩnh vực đầu tư, mức sử dụng lao động, ngành nghề đầu tư. Nếu dự án đầu tư đáp ứng các điều kiện đó thì được xét thực hiện các ưu đãi về: miễn giảm tiền sử dụng đất, miễn giảm thuế suất thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất nhập khẩu,...
d) Trợ giúp cho mọi người, ưu đãi theo mục tiêu: Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, việc áp dụng các chính sách ưu đãi như trong luật pháp hiện hành và sẽ được bổ sung là cần thiết. Tuy nhiên, không thể thực hiện các chính sách ưu đãi cho tất cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ, vì số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ quá đông, sẽ gây ra tình trạng không bình đẳng giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ với các doanh nghiệp khác và ngay giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ; trong khi nguồn lực của nhf nước thì có hạn, việc ưu đãi sẽ thành "xin- cho", tiêu cực là không tránh khỏi. Do đó, việc thực hiện các chính sách ưu đãi phải được tập trung cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ thực hiện các chương trình ưu tiên của Nhà nước trong từng thời kỳ.
Điều quan trọng và có tính chất cơ bản hơn, đó là chú trọng các biện pháp trợ giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngay từ khi khởi sự kinh doanh và trong suốt quá trình kinh doanh, cũng tức là tạo sự bình đẳng về cơ hội kinh doanh cho mỗi doanh nghiệp, trợ giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ khắc phục những nhựơc điểm, đủ sức vươn lên tham gia cuộc cạnh tranh bình đẳng trên thị trường. Đó là những sự trợ giúp về thông tin, về thị trường, về quản lý, về đào tạo nhân công kỹ thuật,... mà nhà nước và các tổ chức xã hội đều có thể thực hiện rộng rãi.
e) Trợ giúp xây dựng các dự án kinh doanh: Khó khăn lớn nhất mà những người kinh doanh muốn lập doanh nghiệp là thiếu vốn. Nhưng nếu có vốn mà không có phương án làm ăn hiệu quả thì sẽ mất dần hết vốn và dẫn đến phá sản. Hơn nữa, nếu không có dự án kinh doanh có hiệu quả, bảo đảm sự tín nhiệm của ngân hàng thì cũng khó đi vay. Do vậy, có thể nói yêu cầu đầu tiên của các doanh nghiệp vừa và nhỏ là làm sao có bản dự án (hoặc kế hoạch) kinh doanh khả thi, bảo đảm được hiệu quả của số vốn bỏ ra, cũng tức là có các phương án giải quyết các vấn đề về thị trường, công nghệ, lao động kỹ thuật, kỹ năng quản ký của người chủ doanh nghiệp,... Đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ vốn liếng tuy ít nhưng rủi ro trong kinh doanh không phải là ít thì dự án kinh doanh có hiệu quả lại càng có ý nghĩa quyết định đối với tuổi thọ của mỗi doanh nghiệp.
f) Có thể nghiên cứu việc xây dựng các "vườn ươm" (incubator): đó là kinh nghiệm đã áp dụng hiệu quả ở một số nước như Đài Loan, Trung Quốc, kể cả nước Mỹ. Theo tài liệu nước ngoài, đây là một tổ chức cung cấp các dịch vụ giúp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong giai đoạn đầu hình thành, giảm thiểu những rủi ro trong khi đi vào sản xuất kinh doanh, chúng ta có thể thử nghiệm ở một số điểm, từ nhỏ đến lớn ở nước ta.
3. Định hướng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở việt nam trong thời gian tới.
Giai đoạn 2002-2010 là giai đoạn vô cùng quan trọng trên còn đường đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp vào năm 2002. Sau hai năm tốc độ tăng trưởng kinh tế thụt lùi do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực 1998- 1999 đến đầu năm 2000 nền kinh tế Việt Nam đã có những bước tiến vững chắc làm tiền đề cho các giai đoạn sau tiếp tục phát triển. Trong kế hoạch 5 năm 2001- 2005 Chính phủ Việt Nam chủ trương thực hiên chiến lược công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu bởi nó là chiến lược duy nhất phù hợp cho sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam: giải quyết được sự bế tắc trong sản xuất nông nghiệp, tận dụng được lực lượng lao động dồi dào. Một nhân tố cực kỳ quan trọng để thành công trong chiến lược công nghiệp hoá định hướng xuất khẩu là sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam như là một hình thức chủ yếu (không phải là hình thức duy nhất) của tổ chức công nghiệp trong khu vực chế tác. Trong thế và lực đó, để các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày càng đóng góp vai trò to lớn vào quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước thì nhất thiết cần phải có một định hướng phát triển cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam phù hợp với tình hình thực tế của đất nước và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Các định hướng cơ bản để phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ cho giai đoạn tới là:
- Phát huy mọi tiềm lực sức mạnh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc mọi thành phần kinh tế, nhất là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tư nhân với phương châm: Cho các doanh nghiệp được tự do kinh doanh trong một khuôn khổ pháp luật đầy đủ, chặt chẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát huy hết tài năng và tính năng động sáng tạo của mình. Đẩy mạnh xuất khẩu các hàng hoá sản xuất ra theo các cách để các doanh nghiệp có thể phát triển một cách nhanh chóng. Khuyến khích các doanh nghiệp mở mang ra nước ngoài. đẩy mạnh phát triển các ngành công nghiệp chế biến xuất khẩu, công nghệ cao, dịch vụ, thu hút nhiều lao động. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ được xuất khẩu các hàng hoá mà pháp luật không cấm, không phụ thuộc vào ngành nghề mà doanh nghiệp đã đăng ký kinh doanh.
-Tiếp tục khẳng định rõ vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế Việt Nam. Củng cố phát triển các doanh nghiệp nhà nước ở những ngành then chốt để bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa cho toàn bộ nền kinh tế Việt Nam. Dần chuyển các doanh nghiệp nhà nước sang hoạt động theo loại hình công ty TNHH một thành viên và công ty cổ phần. Đối với các doanh nghiệp nhà nước loại vừa nếu sản xuất kinh doanh có hiệu quả thì tiếp tục đầu tư cho phát triển. Còn đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thua kém và các doanh nghiệp nhà nước loại nhỏ nên đẩy mạnh chủ trương giao, bán, khoán, cho thuê các doanh nghiệp nhà nước mà Nhà nước không cần nắm giữ hoặc không thể cổ phần hoá được. Hoặc tổ chức sát nhập các doanh nghiệp nhà nước loại nhỏ và vừa thành một doanh nghiệp nhà nước có đủ năng lực sản xuất kinh doanh.
-Khuyến khích hình thành và phát triển doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao, mang lại nhiều lợi ích cho xã hội, cộng đồng dân cư địa phương. Từng bước mở rộng mô hình hợp tác xã cổ phần kinh doanh trong các lĩnh vực: công nghiệp, giao thông, xây dựng, thương mại dịch vụ. Phát triển các làng nghề tiểu thủ công nghiệp, sản xuất các mặt hàng truyền thống của từng địa phương có giá trị xuất khẩu.
-Khuyến khích phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong các ngành có tính cạnh tranh. Tập trung vào các lĩnh vực như vật liệu xây dựng, chế biến nông sản xuất khẩu, tiểu thủ công nghiệp, dệt may, da giày, cao su, nhựa, giấy, đồ gỗ, cơ khí phục vụ nông nghiệp. Hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất các sản phẩm mang tính truyền thống dân tộc phục vụ du lịch và xuất khẩu ra nước ngoài.
-Tăng cường khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên cơ sở tạo môi trường kinh doanh lành mạnh cải cách hành chính, cho phép các doanh nghiệp vừa và nhỏ tư nhân tham gia liên kết kinh doanh với các doanh nghiệp nước ngoài. Mở rộng sự hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ra các vùng nông thôn.
-Tạo mối liên kết giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ với các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân nhằm phát huy hết các lợi thế của từng loại hình doanh nghiệp theo hướng chuyên môn hoá và hợp tác hoá. Doanh nghiệp lớn phát triển nhờ các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn các doanh nghiệp vừa và nhỏ tồn tại nhờ các doanh nghiệp lớn qua đó giữ được vai trò chủ đạo của các doanh nghiệp lớn. Tạo lập mối liên kết giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ với nhau như: liên kết làm ăn, cạnh tranh lành mạnh.
-Và cuối cùng là phải hoàn thiên hệ thống các chính sách kinh tế vĩ mô như:
Chính sách thưong mại, chính sách tài chính tiền tệ, chính sách đất đai, chính sách công nghệ, chính sách hành chính,... Tạo ra môi trường thông thoáng cho sự phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, trên cơ sở giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ có nhiều cơ hội hơn cho việc bỏ vốn ra để kinh doanh.
Sau khi có những định hướng cơ bản cho sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta thời kỳ tới thì các nhà phân tích đã đưa ra một số chỉ tiêu phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ mang tính chất ước lượng cho thời gian tới.
Bảng 21: Tỷ trọng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong GDP.
Chỉ tiêu
Năm
1995
2000
2005
2010
1. Tỷ trọng GDP (%)
24
25
27
28
2. Tỷ trọng lao động (%)
25
25.5
26.5
29
3. Tỷ trọng trong GT. TSL (%)
31
32
33
34
Nguồn: Tạp chí Kinh tế và dự báo
Các chỉ tiêu trên tính theo giả thiết là tốc độ tăng trưởng cho khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ ở mức trung bình với tốc độ tăng trưởng chung của toàn bộ nền kinh tế. Trong những năm qua và những năm sắp tới tốc độ tăng trưởng kinh tế chủ yếu sẽ do các doanh nghiệp lớn quyết định. Do đó giả thiết cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng ở mức trưởng trung bình là có thể chấp nhận được.
III/ một số giải pháp nhằm phát triển Doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Không còn nghi ngờ gì nữa, tiềm năng và lợi thế của doanh nghiệp vừa và nhỏ là hết sức lớn. Tuy vậy, nó cần được sự hỗ trợ bằng một số chủ trương, chính sách phát triển phù hợp của nhà nước. Thế giới và khu vực đã có những bài học quý mà chúng ta có thể lựa chọn. Đó là nhà nước phải có chiến lược và có chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ; Chính phủ sẽ không làm thay nhưng tạo điều kiện và môi trường để phát huy sức mạnh nội sinh của doanh nghiệp. Sự kết hợp nỗ lực từ ba phía: chính phủ, cộng đồng và doanh nghiệp sẽ làm bật dậy tiềm năng mới để phát triển kinh tế- xã hội. Chủ trương phát huy nội lực chính là đánh giá vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ, tạo điều kiện cho sự phát triển, đóng góp ngày càng nhiều cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiên đại hoá đất nước. Vì vậy ban hành các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ là thiết yếu và cần thiết, dưới đây là những giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của nước ta.
1. Phải có các chính sách tạo lập một môi trường thuận lợi cho sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.1. Tạo lập và hình thành khung pháp lý khuyến khích phát triển khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ .
Việc tạo lập khuôn khổ pháp lý rõ ràng và chuẩn xác là điều kiện quan trọng đầu tiên làm cơ sở pháp lý cho việc hoạch định chính sách và tổ chức thực hiện chính sách hỗ trợ. Khuôn khổ pháp lý bao gồm những quy định có liên quan tới doanh nghiệp vừa và nhỏ và những quy định riêng cho các doanh nghiệp này. Trên tinh thần đó, cần tập trung thực hiện một số biện pháp sau đây:
a) Ban hành, bổ sung và sửa đổi các chính sách, quy định hiện hành liên quan đến doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Đây là giải pháp nhằm để loại bỏ sự mâu thuẫn trong hệ thống các văn bản, quy phạm pháp luật, gây khó khăn, cản trở cho các doanh nghiệp. Hệ thống chính sách này định kỳ cần được xem xét, nghiên cứu và sửa đổi, bổ sung những điểm không còn phù hợp với hoàn cảnh kinh tế hiện tại và không thích hợp với môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp. Đồng thời, cần thay đổi quy trình xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật. Hiện nay, các văn bản luật, pháp lệnh được ban hành trước, sau đó các cơ quan chức năng ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành. Do vậy, trên thực tế, thời điểm thực hiện văn bản thường bị chậm so với thời hiệu được quy định tại văn bản. Bên cạnh đó việc áp dụng văn bản cũng không thống nhất về thời gian và không gian, gây nên tình trạng bất bình đẳng trong cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên thị trường. Vì vậy, trong quá trình xây dựng luật, phải đồng thời tiến hành việc xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành để sau khi văn bản có hiệu lực thì lập tức được áp dụng ngay vào cuộc sống mà không cần phải đợi các văn bản hướng dẫn thi hành.
Các văn bản phải bảo đảm tính ổn định lâu dài và tính đồng bộ, thống nhất để các doanh nghiệp yên tâm đầu tư vào sản xuất- kinh doanh. Tính ổn định lâu dài trước hết thể hiện ở quan điểm nhất quán của Nhà nước đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc mọi thành phần kinh tế, không phân biệt đối xử trong các văn bản quy phạm pháp luật cũng như tổ chức thực hiện. Khi ban hành hoặc sửa đổi mỗi văn bản, không chỉ tính đến đòi hỏi hiện tại mà phải tính đến cả những đòi hỏi của sự phát triển trong tương lai.
b) Ban hành các luật riêng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Việc ban hành các luật riêng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm:
- Xác định rõ đối tượng điều chỉnh (doanh nghiệp cần hỗ trợ): tiêu chí phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như khuôn khổ các trị số của các tiêu chí, địa vị pháp lý của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong mối quan hệ với cơ quan quản lý của Nhà nước.
- Có giải pháp khung cho việc hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Các giải pháp khung để bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức và toàn xã hội trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp này.
Các luật riêng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể là: Luật cơ bản về doanh nghiệp vừa và nhỏ, luật về các hiệp hội doanh nghiệp vừa và nhỏ, luật về bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.2. Cải cách hành chính, nâng cao năng lực bộ máy quản lý nhà nước.
Pháp luật Việt Nam đã quy định rõ mọi công dân đều có quyền tự do kinh doanh. Việc đảm bảo quyền tự do kinh doanh của công dân sẽ góp phần gia tăng số lượng doanh nghiệp, làm cho mọi người yên tâm bỏ tiền ra đầu tư vụ sản xuất kinh doanh. Việc nới lỏng các quy định thành lập doanh nghiệp không những "cởi trói" cho nhiều nhà đầu tư mà còn hỗ trợ đắc lực cho quá trình cải cách hành chính, cải thiện môi trường kinh doanh ở Việt Nam. Ví dụ như việc thi hành Luật doanh nghiệp vào đầu năm 2000 đã thổi một luồng sinh khí mới vào nền kinh tế Việt Nam, hàng loạt các doanh nghiệp vừa và nhỏ được thành lập. Tuy có rất nhiều văn bản, quy định trái với Luật được xoá bỏ nhưng việc thực hiện điều đó trên thực tế vẫn còn nhiều điều phải bàn cãi. Vì vậy cần phải bộ máy làm thủ tục đăng ký kinh doanh có đủ năng lực, xác định rõ các lĩnh vực kinh doanh có điều kiện, kiên quyết huỷ bỏ các quy định trái với Luật giúp cho việc đăng ký kinh doanh thực sự được thông thoáng. Cần khẳng định rõ hệ thống đăng ký kinh doanh là cơ quan quản lý Nhà nước chủ yếu nhất đối với doanh nghiệp, tránh hiện tượng có quá nhiều cơ quan xem xét, kiểm tra; nhằm tránh lãng phí thời gian của các cơ quan cũng như là phiền hà đối với các doanh nghiệp.
1.3. Cung cấp thông tin.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang rất thiếu thông tin về thị trường, công nghệ, luật pháp, kinh tế, khách hàng, đối tác kinh doanh Do đó cần thiết hỗ trợ thông tin cho doanh nghiệp.
Các giải pháp hỗ trợ thông tin có thể là:
-Thành lập các ngân hàng dữ liệu về các doanh nghiệp vừa và nhỏ, về thị trường, công nghệ, thể chế để cung cấp hoặc bán cho doanh nghiệp với giá hợp lý.
-Phổ biến các thông tin về pháp luật, chính sách,thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.
-Phổ biến kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh bằng nhiều hình thức.
-Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia các hội chợ triển lãm trong và ngoài nước, kí kết hợp đồng kinh tế với các đối tác trong và ngoài nước.
-Tổ chức các câu lạc bộ để doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể trao đổi học tập kinh nghiệm của nhau.
-Khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ xây dựng cơ sở dữ liệu và sử dụng các quản lý thông tin hiện đại như máy vi tính, mạng thông tin, để các doanh nghiệp có điều kiện tiếp xúc các cơ sở dữ liệu hiện đại trong và ngoài nước.
2. Hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách hỗ trợ.
Hoàn thiện hệ thống chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ là vấn đề cấp thiết hiện nay, Vì:
Với số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ khá lớn như hiện nay, các giải pháp hỗ trợ trực tiếp đến tận các doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất khó mà chỉ có thông qua chính sách hỗ trợ vĩ mô mới có thể tác động diện rộng. Thực tế trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam cho thấy việc tháo gỡ trong chính sách có tác động rất nhanh chóng tới toàn bộ nền kinh tế. Nhờ đó mà chỉ trong thời gian ngắn đã làm cho Việt Nam từ một nước phải nhập khẩu gạo (trên 40 vạn tấn/ năm) thành một nước xuất khẩu gạo đứng thứ ba trên thế giới (gần 2 triệu tấn/ năm)
Mặc dù các chính sách của Nhà nước hiện nay có vai trò to lớn trong việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhưng trong chính sách còn nhiều trở ngại cho phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt là trong chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Dưới đây là một số đề xuất về đổi mới chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam.
2.1. Chính sách tín dụng.
Bao gồm việc tạo lập, huy động và sử dụng vốn. Các giải pháp về tháo gỡ vốn có vai trò rất lớn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Cần thiết phải có hai nhóm giải pháp tác động đến tình hình vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ: chính sách vốn chung (tác động tới toàn bộ nền kinh tế, trong đó có doanh nghiệp vừa và nhỏ) và chính sách vốn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ .
* Chính sách vốn chung: Chính sách vốn có tác động mạnh đến việc cải thiện tình hình vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp huy động vốn an toàn, thuận lợi và có hiệu quả, cần thiết phải đổi mới theo hướng:
-Đổi mới chính sách tài chính tiền tệ: có chính sách chống độc quyền kinh doanh ngân hàng, giảm mức dự trữ bắt buộc, Nhà nước chỉ nên điều tiết lãi suất bằng phương pháp thị trường mở và dự trữ bắt buộc, điều chỉnh lãi suất trần một cách linh hoạt sát với cung cầu vốn trên thị trường. Việc khống chế mức lãi suất trần cứng nhắc như hiện nay sẽ làm hoạt động cho vay của các ngân hàng bị hạn chế đáng kể.
-Mở rộng cạnh tranh trong kinh doanh ngân hàng: giải pháp này nhằm thiết lập lãi suất thị trường thực sự, ổn định lãi suất, giảm bớt phiền hà cho khách hàng trong việc vay vốn.
-Giảm bớt các thủ tục vay vốn: mở rộng mạng lưới cho vay và các hình thức huy động, khuyến khích cạnh tranh hợp pháp.
-Phát triển quỹ tín dụng nhân dân.
-Phát triển các định chế tài chính cung cấp vốn trung và dài hạn như thị trường chứng khoán, thị trường vốn trung - dài hạn.
-Khuyến khích các doanh nghiệp huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu
* Chính sách và các giải pháp về vốn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ như trên đã phân tích, do yếu thế nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất khó tiếp cận với các nguồn vốn. Vì vậy, ngoài chính sách vốn chung cho các doanh nghiệp, cần thiết phải có ưu đãi vốn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ để hỗ trợ cho các doanh nghiệp này phát triển bình thường. Để hỗ trợ vốn có hiệu quả cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, cần thiết phải đổi mới chính sách vốn đối với các doanh nghiệp này theo hướng ưu đãi lãi suất và khuyến khích thành lập các trung tâm hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ :
-Ưu đãi lãi suất: như trên đã phân tích, lãi suất tiền vay là khá cao đối với các doanh nghiệp và càng cao đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy nhiên, do số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế khá lớn, mà nguồn tài chính lại có hạn nên không thể ưu đãi tất cả các doanh nghiệp này. Do vậy, trong chính sách ưu đãi vốn (khác với ưu đãi thuế) cần chọn đúng đối tượng thì với nguồn lực ít mới có thể hỗ trợ hiệu quả. Chỉ nên ưu đãi lãi suất cho các doanh nghiệp có triển vọng kinh doanh hiệu quả, các doanh nghiệp gắn với nhiệm vụ chiến lược và hỗ trợ cho các hoạt động đầu tư vào công nghệ mới, sản xuất thử, nghiên cứu khoa học, đào tạo nghề, các hoạt động dịch vụ tư vấn, Tuy nhiên, để có thể hỗ trợ được nhiều doanh nghiệp trong điều kiện nguồn tài chính có hạn, cần phải có các giải pháp đặc biệt. Một trong những giải pháp đó là trợ cấp lãi suất cho đối tượng được hỗ trợ, tức là bù chênh lệch giữa lãi suất thị trường và lãi suất ưu đãi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay.
- Thành lập các quỹ hỗ trợ: huy động các nguồn vốn để thành lập quỹ hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các nguồn đó có thể là: từ ngân sách Nhà nước trung ương, địa phương, từ các doanh nghiệp lớn, từ các tổ chức trong và ngoài nước. Quỹ này có thể do Nhà nước quản lý và cũng có thể thuê một trung tâm chuyên trách quản lý. Việc sử dụng quỹ này do Nhà nước quản lý với sự nhất trí của nhà tài trợ thông qua trung gian là người chuyên trách về vốn (thường là ngân hàng). Quỹ này hỗ trợ cho các hoạt động như: đào tạo chủ doanh nghiệp, đào tạo nghề, chuyển giao công nghệ, trung tâm tư vấn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hoạt động về cung cấp thông tin kinh tế, khoa học, công nghệ cần thiết cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
-Thành lập trung tâm bảo lãnh: đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, một trong những khó khăn lớn nhất là không có tài sản thế chấp để vay vốn ngân hàng. Do đó cần tổ chức trung gian làm cầu nối giữa doanh nghiệp và ngân hàng để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn. Một trong các hình thức đó là quỹ bảo lãnh tín dụng vừa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn, vừa là hình thức ràng buộc chặt chẽ giữa người vay (doanh nghiệp) và người cho vay (ngân hàng), tổ chức trung gian (các công ty bảo lãnh) và Nhà nước, nhờ đó mà giảm bớt mức độ rủi ro khi vay vốn.
2.2. Chính sách đất đai
Đất đai là một yếu tố đầu vào cơ bản của quá trình sản xuất, có vai trò đặc biệt quan trọng đối với các doanh nghiệp. Hiện nay, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt là khu vực ngoài quốc doanh phổ biến là nhỏ bé, phân tán, diện tích mặt bằng chật hẹp, phải tận dụng nhà ở để sản xuất. Các cơ sở này gặp nhiều khó khăn trong việc mở rộng mặt bằng sản xuất. Nguyên nhân một phần do các doanh nghiệp vừa và nhỏ thiếu vốn, giá đất cao, phần khác do còn nhiều vướng mắc trong những qui định hiện hành như: quyền sở hữu sử dụng đất không rõ ràng, dứt khoát Để góp phần tháo gỡ những khó khăn về đất đai, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển, cần thiết phải có những giải pháp tháo gỡ như:
-Nghiên cứu sửa đổi các qui định hiện hành chưa phù hợp, đặc biệt là vấn đề thời hạn giao đất, việc quyền sử dụng đất.
-Mở rộng quyền cho chính quyền địa phương trong việc cấp đất sử dụng vào mục đích sản xuất và cho thuê đất.
-Cho thuê, đấu thầu những cơ sở sản xuất bị giải thể.
-Tăng thời hạn sử dụng và miễn, giảm thuế đối với phần vốn bỏ vào việc mở mang đất đai, tận dụng đất thừa, ao hồ, đầm lầy, để đưa vào sản xuất.
-Đơn giản hóa thủ tục thuê đất và chuyển nhượng quyền sử dụng đất hợp pháp, khuyến khích sử dụng đất có hiệu quả kinh tế – xã hội cao hơn.
-Tiến tới cho phép các doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực ngoài quốc doanh được hưởng những quyền lợi về sử dụng đất như với các doanh nghiệp Nhà nước: được Nhà nước giao quyền sử dụng đất, được thuê đất theo giá như doanh nghiệp Nhà nước phải trả, được hưởng đầy đủ 5 quyền lợi với người có quyền sử dụng đất như Luật Đất đai (1993) đã qui định.
-Hình thành các khu công nghiệp tập trung để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Khuyến khích các doanh nghiệp liên kết xây dựng hạ tầng để cho thuê mặt bằng, nhà xưởng với giá ưu đãi, đó là cách thức xây dựng “khu công nghiệp nội địa” mà thành phố Hà Nội đang làm.
2.3. Chính sách thuế
Thời gian qua, Việt Nam đă xây dựng được một hệ thống thuế khoá toàn diện cho nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, còn nhiều vấn đề nảy sinh cần phải giải quyết là các mức thuế còn quá cao so với các nước trong khu vực, có quá nhiều loại thuế và các mức thuế khác nhau, đễ khuyến khích đầu tư hoặc các hoạt động ưu đãi khác mà nhiều trường hợp giảm thuế và lúc đó lại có quá nhiều mức thuế suất để áp dụng. Những đặc điểm này đã làm cho hệ thống thuế trở nên phức tạp và dẫn tới sự phân biệt đối xử đối với những người nộp thuế. Kinh nghiệm đã cho thấy, thuế suất hợp lý thì thu được thuế cho ngân sách nhà nước, ngược lại thuế suất quá cao thì người dân sẽ tìm mọi cách để tránh thuế. Cùng với mức thu nhập tương đối thấp của các nhân viên thu thuế, các vấn đề này cũng tạo ra những động cơ mạnh mẽ và những cơ hội cho việc thương lượng giữa các người nộp thuế và nhân viên thu thuế về mức thuế phải nộp. Khi thuế suất quá cao, nhũng người nộp thuế sẽ cố gắng trốn thuế một cách hợp pháp thông qua các khe hở của pháp luật (được tạo bởi những trường hợp miễn giảm thuế và nhiều loại thuế suất) hoặc trốn lậu thuế bất hợp pháp bằng cách che dấu thu nhập, làm sai sổ sách kế toán hoặc hối lộ nhân viên thu thuế. Kết quả nói chung là thu hẹp ngân sách nhà nước.
Khi đã ý thức được các vấn đề này, thì chúng ta cần đổi mới chính sách thuế theo hai nội dung:
* Hệ thống thuế chung đổi mới theo các hướng:
-Đơn giản hóa hệ thống thuế suất, hạ mức thuế suất.
-Tránh đánh thuế chồng chéo (sớm chuyển hết sang thuế GTGT).
-Cải cách cơ chế định– thu (nộp)- kiểm tra thuế theo hướng có sự độc lập giữa các bộ phận này và có thể kiểm tra lẫn nhau.
-Thực hiện cơ chế tự khai báo mức thuế, Nhà nước kiểm định và doanh nghiệp tự nộp thuế
-Bảo đảm công bằng, bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, đồng thời ưu tiên các doanh nghiệp trong nước hơn các doanh nghiệp nước ngoài. Hiện nay có tình trạng trái ngược: các doanh nghiệp có vốn đầu tư ngoài có nhiều ưu thế hơn, mạnh hơn thì chỉ nộp thuế lợi tức10-15% trong khi đó các doanh nghiệp trong nước phải nộp thuế lợi tức tới 35-50%.
* Chính sách thuế đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ: cần đổi mới theo hướng mở rộng đối tượng được ưu đãi thuế, tăng mức độ ưu đãi thuế, tăng mức độ ưu đãi,
-Mở rộng đối tượng được ưu đãi: đến nay các chính sách thuế của Nhà nước, loại đối tượng được ưu đãi về thuế không nhiều, chỉ các doanh nghiệp mới thành lập sau 1993 (mà phần lớn đã quá hạn 2 năm được ưu đãi như luật định), các doanh nghiệp ở vùng núi, hải đảo một số doanh nghiệp trong ngành chế biến nông sản. Như vậy là trong chính sách ưu đãi thuế chưa quan tâm đến sự yếu ớt của các doanh nghiệp vừa và nhỏ để hỗ trợ các doanh nghiệp này đứng vững và kinh doanh có hiệu quả. Do đo trong chính sách thuế cần mở rộng đối tượng hơn nữa, như vậy mới nuôi dưỡng được nguồn thu, đồng thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp tích lũy để phát triển sản xuất, mở rộng qui mô.
-Tăng mức độ ưu đãi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ: thời gian qua, mức ưu đãi đã tăng lên nhưng vẫn còn rất dè dặt, chỉ miễn, giảm thuế cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ 1-2 năm, trong khi mức ưu đãi thuế ở nhiều nước là từ 4-5 năm. Hơn nữa mức giảm thuế còn thấp, số đối tượng được miễn giảm thuế còn ít. Do đó, để các doanh nghiệp có tích lũy ban đầu cho phát triển sản xuất thì cần thiết phải tăng mức ưu đãi thuế từ 3 đến 5 năm. Miễn thuế cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tư công nghệ hiện đại, công nghệ sạch. Miễn thuế cho các khâu như chi phí đào tạo công nhân và chủ doanh nghiệp cũng như đầu tư vào sản xuất sản phẩm mới.
-Có hình thức và mức độ ưu đãi thuế cho các doanh nghiệp thu hút nhiều lao động, huy động nhiều vốn. Hiện nay đang có tình trạng doanh nghiệp càng huy động nhiều lao động (chi phí biên tăng lên) thì mức thuế càng cao. Như vậy sẽ không khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng qui mô. Các nước phát triển đều có chính sách để mở rộng qui mô doanh nghiệp, vì qui mô quá nhỏ sẽ không có hiệu quả.
2.4. Đổi mới chính sách thương mại, hỗ trợ xuất khẩu.
- Tiếp tục thu hẹp các mặt hàng cấm xuất khẩu, đặc biệt là các mặt hàng xuất khẩu có điều kiện. Điều kiện để xuất khẩu những mặt hàng hạn chế xuất khẩu cần có quy định rõ ràng để tránh hiện tượng phân biệt đối xử trong cấp giấy phép, nhất là giữa các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp nhà nước.
- Thành lập Quỹ tín dụng xuất khẩu để hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia xuất khẩu bao gồm: (1) Hình thức tín dụng và hạn mức tín dụng; (2) Mức lãi suất và thế chấp; (3) Nguồn tài chính của Quỹ; (4) Quan hệ với Quỹ hỗ trợ xuất khẩu thành lập theo Luật Khuyến khích đầu tư trong nước; (5) Quan hệ với các ngân hàng thương mại.
- Xoá bỏ cơ chế “đầu mối xuất khẩu” đối với một số mặt hàng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ động hơn trong việc tìm đối tác xuất nhập khẩu. Nếu có cũng chỉ nên thông qua một hiệp hội xuất nhập khẩu do các thành viên tham gia hoàn toàn với tư cách tự nguyện.
- Thành lập Hệ thống bảo hiểm xuất khẩu nhằm mục tiêu hạn chế những rủi ro đi liền với hoạt động xuất khẩu. Bao gồm một số hình thức bảo hiểm như bảo hiểm xuất khẩu toàn bộ, bảo hiểm hoá đơn xuất khẩu, bảo hiểm rủi ro ngoại hối, bảo hiểm hợp động công nghệ, bảo hiểm bảo đảm xuất khẩu,...
- Cải cách thủ tục hải quan: Đơn giản hoá các thủ tục trong việc mở tờ khai hải quan, nghiên cứu việc sử phạt một cách hợp lý khi chủ hàng tính thuế sai, rút ngắn quy trình khai. ..
Hiên nay thương mại điện tử đang trở thành một phương thức thương mại hiện đại phá vỡ dần những quan niệm về không gian cũng như thời gian trong thương mại. Chính phủ cần hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc tìm hiểu và khai thác hình thức thương mại điện tử này. Với thương mại điện tử, các doanh nghiệp vừa và nhỏ dù ở miền núi xa xôi cũng có thể tiếp cận được với thị trường thế giới, thông qua đó những khó khăn về địa cư, quy mô đã được khắc phục một phần. Trong thời gian tới, Chính phủ cần hỗ trợ các doanh nghiệp, các hiệp hội ngành nghề tiếp cận với thương mại điện tử, mở các trang Web để quảng bá sản phẩm, dịch vụ của mình.
2.5. Chính sách phát triển nguồn nhân lực.
Các nhà doanh nghiệp có vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh. Họ là người trực tiếp sử dụng các nguồn lực để tạo ra của cải vật chất, trực tiếp quản lý người lao động. Do đó nhiều nước rất chú trọng phát triển đội ngũ này. Tại Việt Nam, đội ngũ các nhà kinh doanh hiện nay còn nhiều vấn đề bất cập. Do đó cần thiết phải đào tạo các nhà kinh doanh: cung cấp kiến thức về luật pháp, kinh tế, công nghệ quản lý Các hình thức đào tạo có thể là:
-Mở các lớp ngắn hạn đào tạo về kinh doanh và pháp luật
-Thành lập các trung tâm đào tạo, bồi dưỡng về quản lý doanh nghiệp.
-Khuyến khích và hỗ trợ các hoạt động đào tạo nghề cho các doanh nghiệp như: miễn, giảm thuế, cho vay ưu đãi, cấp vốn
-Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tìm hiểu thị trường ngoài nước.
-Đầu tư cho các trung tâm dạy nghề hiện có ở các địa phương, xây dựng các trung tâm mới đáp ứng với nhu cầu đào tạo nghề hiện nay.
-Sử dụng quỹ đào tạo lại cho cả việc đào tạo nghề ở các doanh nghiệp.
-Khuyến khích các doanh nghiệp tự đào tạo, trích một phần trong thuế nghĩa vụ của doanh nghiệp giữ lại làm thuế đào tạo, giảm phần chi phí đào tạo trong tổng thu nhập chịu thuế cho các doanh nghiệp (như dự thảo Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp).
2.6. Chính sách hỗ trợ phát triển công nghệ.
Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, do giới hạn chế về quy mô va nguồn tài chính, nên khả năng tiếp cận thị thường công nghệ không phải là công nghệ hiện đại và tiên tiến nhất trên thế giới mà là sự lựa chọn công nghệ phù hợp và tối ưu đối với mình. Vì vậy, các biện pháp để hoàn thiện việc tiếp cận công nghệ của doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ như sau:
* Cho phép khấu hao nhanh máy móc và thiết bị với một khoản thuế khấu trừ khi xác định thuế lợi tức. Đễ khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tư cho máy móc và thiết bị mới, thuế thu nhập doanh nghiệp cần cho phép khấu trừ nhanh máy móc và thiết bị mới. So với giá trị khấu hao theo "đường thẳng", khấu hao nhanh cho phép khấu trừ giá trị máy móc và thiết bị ở mức độ cao hơn. Điều này có ý nghĩa rất lớn với các doanh nghiệp vừa và nhỏ vì họ đã có thể bớt ra một phần để có thể đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
* khuyến khích các hợp đồng thuê tài chính, thuê mua và bán trả góp để các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể tiếp cận hoặc nâng cấp máy móc thiết bị mới một cách tốt hơn. Nhièu doanh nghiệp vừa và nhỏ không có khả năng mua máy móc mới, đồng thời các doanh nghiệp này rất khó vay các khoản tín dụng từ ngân hàng. Hình thức thuê mua là một giải pháp cho vấn đề này bởi vì các doanh nghiệp có thể mua máy móc, thiết bị mới nâng cấp sử dụng cho hoạt động kinh doanh của mình mà họ không phải thanh toán toàn bộ số tiền khi mua hàng. Thay vào đó, họ phải trả số tiền thuê máy móc nhỏ hơn nhiều. Mua trả góp có một hiệu quả tương tự, cho phép doanh nghiệp thanh toán tiền mua máy móc trong một khoảng thời gianthay vì phải thanh toán ngay khi mua hàng. Do đó các văn bản pháp luật cần tạo điều kiện thuận lợi để các thoả thuận thuê tài chính, thuê mua và các hợp đồng trả góp đượcthực hiện dể dàng nhằm giúp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể tiếp cận được với máy móc thiết bị công nghệ mới.
* Tiếp tục loại bỏ những quy định về luật pháp và chính sách đối với việc chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam. Tuy nhiên, hiện nay vốn còn những trở ngại ngăn cản các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận với công nghệ mới, việc loại bỏ những trở ngại này và việc hoàn thiện khả năng tiếp cận công nghệ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể thực hiện theo các biện pháp sau đây:
- Chính sách, cơ chế kinh tế của nhà nước phải tạo được nhu cầu đổi mới công nghệ, khuyến khích đổi mới công nghệ ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Nhà nước hỗ trợ tập trung cho các nghiên cứu cơ bản có định hướng ứng dụng để chuẩn bị cho sự hình thành các ngành sản xuất mới.
- Chỉ nên quy định khung giá cho các hợp đồng chuyển giao công nghệ có liên quan đến ngân sách nhà nước, không nên áp đặt giá hợp đồng chuyển giao của các doanh nghiệp, đơn giản hoá việc phê chuẩn hợp đồng chuyển giao công nghệ.
- Nhà nước chấp nhận cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhập khẩu một số thiết bị đã qua sử dụng trong một số lĩnh vực phù hợp với khả năng vốn và kỹ thật của doanh nghiệp. Điều này cho phép các doanh nghiệp vừa và nhỏ nâng cao năng lực sản xuất của mình một cách tiết kiệm hơn mà vẫn không biến đất nước thành một “bãi rác” của những máy móc hư hỏng.
- Thành lập “Trung tâm hỗ trợ kỹ thuật”, trung tâm sẽ cung cấp các dịch vụ về các vấn đề mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang gặp phải.
- Giảm chi phí sử dụng Internet xuống ngang với mức đang được áp dụng ở các nước Đông Nam á khác. Internet đã trở thành một nguồn thông tin chủ yếu mà ở đó các công nghệ và bí quyết kỹ thuật có thể dược chuyển tới những công dân bình thường. Việc truy cập Internet là một yếu tố cần thiết để các công dân Việt Nam có thể học hỏi những công nghệ mới.
3. Phát triển mạng lưới các tổ chức tư vấn trợ giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Hiện nay, đã có nhiều tổ chức phi chính phủ thực hiện các dịch vụ tư vấn, xúc tiến, trợ giúp được hình thành và hoạt động, hình thành một mạng lưới đa dạng và phong phú phục vụ doanh nghiệp. Đại thể có thể chia ra ba lĩnh vực như: (1) tư vấn phát triển kinh doanh: tư vấn về thị trường, tìm kiếm nguồn lực tài chính, tư vấn đầu tư, ứng dụng công nghệ mới, lập kế hoạch/dự án kinh doanh,...; (2) tư vấn về quản trị doanh nghiệp: tư vấn về kỹ năng quản lý sản xuất, quản lý nhân sự, tiền lương, về pháp luật,...; và (3) là mở các lớp đào tạo ngắn ngày về từng chuyên đề, tổ chức tham quan trong nước và ra nước ngoài, giúp đỡ triển lãm hàng hoá có chất lượng cao,... Hoạt động của các tổ chức tư vấn đó đã đóng góp nhất định trong việc trợ giúp các doanh nghiệp từ lúc khởi nghiệp kinh doanh cho đến trong suốt quá trình kinh doanh.
Như vậy trên thực tế, thị trường tư vấn đã hình thành và phát triển dưới nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên, thị trường tư vấn được hình thành một cách tự phát, thiếu một chiến lược phát triển dài hạn và một cơ chế thích hợp. Trong tình hình đó, bản thân bản thân các tổ chức tư vấn cũng đang tự mình mày mò để hoạt động; đồng thời cũng còn nhiều doanh nghiệp chưa có thói quen sử dụng các loại hình dịch vụ tư vấn một cách bài bản như một loại dịch vụ cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, vì vậy:
Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ: cần khuyến khích sử dụng rộng rãi hơn nữa các dịch vụ tư vấn trong hoạt động của mình, từ khi khởi sự kinh doanh cũng như trong toàn bộ quá trình kinh doanh của mình, coi đây là một dịch vụ chất xám cung cấp một cách khách quan và độc lập cho khách hàng nhằm trợ giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ xác định hoặc phân tích các vấn đề liên quan đến quản lý, khuyến nghị các giải pháp và trợ giúp thực hiện khi có yêu cầu. Mục đích cuối cùng của tư vấn là nâng cao hiệu quả và hiệu suất hoạt động của doanh nghiệp vừa và nhỏ, qua đó góp phần nâng cao năng suất lao động xã hội.
Đối với Nhà nước: thì càng có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy mở mang nhanh chóng ngành dịch vụ tư vấn, cụ thể là 5 điểm sau đây:
- Hình thành khung pháp lý cho các hoạt động dịch vụ tư vấn, khẳng định tư vấn là một nghề và có những chính sách ưu đãi thích hợp, tạo sân chơi bình đẳng giữa các tổ chức tư vấn thuộc cơ quan nước, các đoàn thể và tư vấn dân doanh. Nghiên cứu định chế về hoạt động uỷ quyền, tạo điều kiện cho các công ty tư vấn có thể tiến hành các công việc như một đại diện uỷ quyền có tư cách pháp nhân cho thân chủ.
- Xây dựng một hệ thống quy chế về bảo hiểm tư vấn cho hoạt động của tổ chức tư vấn để tăng sự tín nhiệm của khách hàng; Mức độ bảo hiểm và bảo lãnh đối với từng loại hợp đồng tư vấn phải thật phù hợp, tránh gây khó khăn cho các nhà tư vấn.
- Về thuế, nên coi đây là một loại hình dịch vụ chất xám cần được khuyến khích, không nên xếp ngang hàng với các dịch vụ kinh doanh thương mại khác: cần phải xem lại thuế VAT đối với các dịch vụ tư vấn không nên đánh thuế với thuế suất là 10% hay 5% mà phải giảm bớt thuế suất; bãi bỏ quy định về giá trần đối với các chi phí tư vấn hoặc những khoản không hợp lý khác liên quan đến hoạt động tư vấn như khống chế chi phí viết điều lệ cho các doanh nghiệp cổ phần hoá nhỏ hơn 2 triệu đồng.
- Mở rộng việc giới thiệu trên các phương tiện thông tin đại chúng những loại hình cũng như những tổ chức tư vấn đang hoạt động để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp dễ dàng lựa chọn và tiếp cận với các tổ chức tư vấn phù hợp, thuận tiện nhất đối với mỗi doanh nghiệp.
- Có chính sách khuyến khích việc đào tạo nhũng người hành nghề tư vấn, nhằm chuyên môn hoá ngành, nghề tư vấn, nâng cao trình độ cũng như kiến thức nghề nghiệp cho chuyên gia tư vấn. Có chính sách giữ lại các chuyên gia giỏi, khắc phục tình trạng các chuyên gia giỏi chuyển sang làm việc cho các tổ chức nước ngoài sau khi đã được đào tạo, tích luỹ kinh nghiệm từ các tổ chức tư vấn trong nước.
4. Hỗ trợ kỹ thuật và cơ sở hạ tầng.
Cơ sở hạ tầng kinh tế là điều kiện cơ bản, là tiền đề rất quan trọng thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp. ở nhiều vùng trong cả nước, cơ sở hạ tầng như giao thông, điện, nước kém phát triển. Đó là trở ngại lớn đối với các doanh nghiệp. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng rất tốn kém, chậm thu hồi vốn và ít sinh lãi nên các doanh nghiệp không muốn đầu tư. Hơn nữa, các doanh nghiệp vừa và nhỏ không đủ sức đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Do đó rất cần sự hỗ trợ của Nhà nước. Theo kinh nghiệm của các nước thì đây là một trong những lĩnh vực hỗ trợ chủ yếu của Nhà nước. Tuy nhiên do ngân sách Nhà nước trung ương và địa phương còn hạn chế nên cần:
-Đầu tư theo trọng điểm, tập trung vào các công trình mang lại hiệu quả kinh tế– xã hội cao.
-Kết hợp Nhà nước, địa phương và nhân dân cùng làm. Tại một số địa phương đã có một số mô hình có hiệu quả: kết hợp giữa vốn của nhà nước, một phần vốn và quản lý của địa phương với một phần vốn và lao động của dân, của các doanh nghiệp .
Trước hết, cần nhanh chóng ban hành Nghị định về cơ chế, chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ để làm cơ sở pháp lý cho việc hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển.
Kết luận
Như một tác động của quá trình đổi mới nền kinh tế ở Việt Nam, các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam đã phát triển nhanh chóng, đồng thời có những đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng và phát triển nền kinh tế quốc dân. Mặc dù vậy sự phát triển của các doanh nghiệp này trong những năm qua còn rất nhiều hạn chế, điều đó phần nào chứng tỏ tiềm năng của chúng ta còn chưa được khai thác triệt để.
Vì thế thông qua Chuyên đề tốt nghiệp này bằng phương pháp nghiên cứu khoa học, trên cơ sở phân tích, tổng hợp, đánh giá và rút ra những vấn đề cấp thiết cho công tác nghiên cứu, phần nào đã làm sáng tỏ được tình hình thực trạng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay, và cũng phần nào thấy rõ được những khó khăn tồn động của doanh nghiệp vừa và nhỏ, từ đó đưa ra một số giải pháp hữu hiệu nhất nhằm khuyến khích sự phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, góp phần vào tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Do điều kiện và khả năng nghiên cứu có hạn, Luận văn này khó tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Tác giả hy vọng sẽ nhận được nhiều ý kiến đóng góp chân thành từ các Thầy cô giáo và bạn bè, cùng những người quan tâm đến sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay.
Tài liệu tham khảo
- Vũ Quốc Tuấn- Hoàng Thu Hoà: “Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, kinh nghiệm nước ngoài và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam”. NXB bản thống kê, 2001.
- Goro Ono: “Chính sách công nghiệp cho công cuộc đổi mới, một số kinh nghiệm của Nhật Bản” NXB chính trị quốc gia. Hà Nội, 1998.
- Đảng cộng sản Việt Nam: “Văn kiện Đại Hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX”, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội năm 2001.
- UNDP và MPI/DSI “Việt Nam hướng tới 2010”, nhà xuất bản chính trị quốc gia, T11/ 2001.
- Niên giám thống kê 1999, 2000.
- “Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội Trung Quốc 1996-2050”.
- Vụ hợp tác kinh tế đa phương- Bộ Ngoại giao: “Những cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế”, 2001
- “Luật Doanh nghiệp”: NXB chính trị quốc gia. Hà Nội, 1999.
- “Kinh tế Việt Nam”, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, 2002.
- Chuyên đề nghiên cứu kinh tế tư nhân số 1..10 do chương trình phát triển dự án Mê Kông MPDP thực hiên, năm 2000
- Tạp chí phát triển kinh tế các số:114; 118; 121 năm 2000.
- Tạp chí cộng sản các số 4, 18/2001; số 1, 9/2002.
- Ngoài ra còn có một số tạp chí khác như: Nghiên cứu lý luận, Thông tin lý luận, Luật kinh tế, Thời báo kinh tế sài gòn, Báo Đầu tư,...
Phụ lục bảng biểu và đồ thị
* Các bảng biểu sử dụng trong Luận văn:
Bảng 1 : Tiêu chí phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ ở một số nước................5
Bảng 2 : Định nghĩa doanh nghiệp vừa và nhỏ của một số nước.......................7
Bảng 3 : Tiêu chí xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam...................10
Bảng 4 : Cơ cấu trong GDP theo thành phần kinh tế từ năm 1999-200.........15
Bảng 5 : Tốc độ tăng việc làm phân theo khu vực thể chế...............................18
Bảng 6 : Thống kê các doanh nghiệp vừa và nhỏ theo hai tiêu
Chí lao động và vốn...........................................................................30
Bảng 7 : Số lượng các doanh nghiệp mới thành lập.....................................30
Bảng 8 : Số lượng và số vốn Đăng ký của các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh giai đoạn 1991-2002.............................................31
Bảng 9 : Tỷ trọng các doanh nghiệp vừa và nhỏ theo tiêu chí
vốn trong các loại hình doanh nghiệp................................................32
Bảng 10: Số lượng và vốn của các loại hình doanh nghiệp mới thành lập.......33
Bảng 11: Quy mô của các loại hình doanh nghiệp..........................................34
Bảng 12: Mức vốn trung bình của từng loại hình doanh nghiệp..................35
Bảng 13: Cơ cấu doanh nghiệp vừa và nhỏ theo ngành và số lao động...........36
Bảng 14: Các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân phân
theo ngành kinh tế năm 1999.......................................................... 38
Bảng 15: Tỷ trọng lao động trong các loại hình doanh nghiệ......................... 39
Bảng 16: Cơ cấu lao độngphân theo thành phần kinh tế năm 2001(%)...........40
Bảng 17: Cơ cấu lao động trong doanh nghiệp theo khả năng
chuyên môn.......................................................................................41
Bảng 18: Phân bố doanh nghiệp khu vực tư nhân theo vùng lãnh thổ..............42
Bảng 19: Tỷ lệ đóng góp vào tăng trưỏng xuất khẩu của các doanh nghiệp....43
Bảng 20: Tỷ trọng xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp............................... 44
Bảng 21: Dự báo tỷ trọng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong GDP.........64
* Các Đồ thị sử dụng trong Luận văn
Đồ thị 1:Cơ cấu nguồn vốn doanh nghiệp vừa và nhỏ.....................................10
Đồ thị 2:Sự tăng trưởng của các doanh nghiệp tư nhân...................................31
Đồ thị 3: Xuất khẩu năm 2001 của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
qua các châu lục..............................................................................45
mục lục
Trang
Lời nói đầu
Phụ lục bảng Biểu và đồ thị.................................................................80
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V0058.doc