MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
I. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ CON NGƯỜI, ĐẤT NƯỚC HÀN QUỐC SAU 2
II. QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ 3
1. Xây dựng nền tảng cho cuộc công nghiệp hoá 3
2. Cách tiếp cận công nghiệp hoá của nhà nước 5
3. Các doanh nhân 10
III. MỘT VÀI ĐẶC ĐIỂM SO SÁNH VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM 14
1. Về huy động các thành phần kinh tế 14
2. Mở cửa nền kinh tế 15
3. Về vấn đề phát triển nguồn nhân lực 15
4. Về công nghiệp hoá, hiện đại hóa 15
KẾT LUẬN 17
27 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2296 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một vài đặc điểm so sánh kinh tế Hàn Quốc với sự phát triển kinh tế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay có rất nhiều nước đã thành công trong việc phát triển kinh tế của mình. Trong chuyên đề này chúng tôi đề cập đến Hàn Quốc là một trong những nước đi đầu trong trào lưu công nghiệp hoá ở Đông Á. Hàn Quốc đã tập trung cao độ những công ty lớn và những mục tiêu đầy tham vọng nhất.
Để nâng cao hiệu quả hoạt động của nền kinh tế sau thời kỳ mở cửa Việt Nam đang triển khai kinh nghiệm và vận dụng sáng tạo chúng phù hợp với hoàn cảnh chúng ta hiện nay.
Tôi hy vọng chuyên đề này có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo, phục vụ tốt công tác nghiên cứu góp phần vào quá trình hoạch định chính sách, xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng phồn thịnh.
I. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ CON NGƯỜI, ĐẤT NƯỚC HÀN QUỐC SAU CHIẾN TRANH
Cuộc chiến tranh Triều Tiên, có lẽ được xem là cuộc chiến mang tính huỷ diệt nhất trong lịch sử thế giới, đã tàn phá Nam Triều Tiên cũng như Bắc Triều Tiên. Seoul đã đổi chủ đến bốn lần, mỗi lần là một cuộc chiến khốc liệt. Chỉ có một phần nhỏ của xứ sở, ở miền đông nam, là không bị phương Bắc xâm phạm. Trong số hai mươi triệu người Nam Triều Tiên khi chiến tranh chấm dứt vào năm 1953, khoảng 1/4 là những người phiêu tán không cửa không nhà, hầu như không có của cải. Trên 1 triệu thường dân và 320.000 binh sĩ ở miền Nam đã hy sinh. Một đại đa số những người tử vong là những người trai tráng mà nếu còn sống họ sẽ đóng góp cho lực lượng lao động và cho thu nhập của gia đình họ.
Vào năm 1953, Nam Triều Tiên có một cơ sở công nghiệp thậm chí còn èo oặt hơn của Đài Loan năm 1949. Nam Triều Tiên đã không đạt được mức tổng sản lượng quốc dân GDP là 100 USD một năm cho đến năm 1963. Tại Triều Tiên, người Nhật đã thuần hoá sông Yalu vào thập niên 1930 bằng cách xây dựng những nhà máy thuỷ điện cực lớn, cung cấp 90% điện năng của cả nước Triều Tiên. Nhưng khi đất nước bị phân đôi tất cả những phương tiện này đã thuộc về Bắc Triều Tiên.
Tại Nam Triều Tiên, đường biên giới mới tại vĩ tuyến thứ 38 đã phân cách giả tạo đất nước thành hai nửa mà dưới thời cai trị của người Nhật đã phát triển như một nền kinh tế bổ túc nhau. Các nhà lãnh đạo chính trị đã bắt đầu phát triển các mối liên kết đất nước vào cuối thập niên 1940, giờ đây lại phải xây dựng một căn bản chỉ trong miền Nam. Các công ty đã phải định hướng lại những tuyến cung cấp và thị trường của mình.
II. QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ
1. Xây dựng nền tảng cho cuộc công nghiệp hoá
Sự đoàn kết.
Các nhà lãnh đạo thực dân Nhật Bản không hề dành cho người Triều Tiên có dịp để ngoi lên những vị trí lãnh đạo đích thực. Syngman Rhee người đã nắm nền chính trị của Nam Triều Tiên từ cuối thế chiến thứ hai cho tới năm 1960, là một nhà nhà ái quốc đã qua thử thách. Ông đã bị tù đày từ năm 1898 đến 1904 vì hoạt động yêu nước, và từ lâu đã bảo vệ chính nghĩa của Triều Tiên các cơ quan quốc tế như Hội Quốc Liên.
Kể từ hậu bán thế kỷ 19, Triều Tiên đã bị xâu xé vì những cuộc nổi dậy ở một mức độ to lớn. Các phong trào phản kháng thường đề xuất chuyện công bằng xã hội và chính quyền nhân đạo nhưng lại chẳng hề kêu gọi các nhà đầu tư xét đến chuyện xây dựng hay khuếch trương các nhà máy. Vào mùa xuân 1919, người Nhật đã thẳng tay đàn áp phong trào đòi quyền độc lập.
Vào cuối thập niên 1950, những cuộc dấy động của công chúng chống lại Syngman Rhee đã tăng cho đến khi họ lật đổ được chính quyền của ông ta vào tháng 4 năm 1960. Phác Chính Hy đã nắm được quyền lực vào năm 1961 thông qua một cuộc đảo chính quân sự và đã củng cố quyền hành của mình bằng sự đàn áp đối lập mạnh mẽ. Nhiều người đã lo sợ rằng sự mất đoàn kết sẽ khiến cho miền Nam dễ làm mồi cho cuộc tiến công của miền Bắc.
Sau khi đất nước bị phân đôi, miền Bắc đã bắt đầu bằng một cơ sở công nghiệp khá đồ sộ, có được nguồn viện trợ của Liên Xô. Quyết định giảm bớt viện trợ kinh tế của Mỹ trong thập niên 1960, tiếp đó là sự ra đời của học thuyết Nixon trong thập niên 1970 nhằm làm giảm sự hiện diện về quân sự của Mỹ tại Châu Á và việc Caacter tỏ ý muốn rút quân đội Mỹ ra khỏi Triều Tiên đã kích thích mạnh mẽ cho Nam Triều Tiên tìm kiếm một căn bản kỹ nghệ độc lập thích đáng hỗ trợ cho những nỗ lực phòng thủ đất nước của riêng mình.
1.2. Nguồn nhân lực có động cơ và có kỷ luật.
Trong những nỗ lực để công nghiệp hoá, Nam Triều Tiên ngoài diện tích rộng lớn còn có lợi thế dân chúng rất có kỷ luật, một ý thức dân tộc rất sắc nét, và một sức sống dân tộc rất mạnh mẽ.
Quyết tâm và sức sống của người Triều Tiên có thể là khó đo lường chính xác, nhưng dẫu sao những điều đó cũng là có thực. Quyết tâm của xứ sở này rõ ràng là đã được tôi luyện do chế độ thực dân áp bức của Nhật Bản trước kia và cuộc chiến tranh Triều Tiên khốc liệt, và nó lại càng kiên cố hơn khi người Nam Triều Tiên đạt được niềm tin từ sự thành công kinh tế của họ. Ở thời điểm đỉnh cao của tốc độ phát triển của tốc độ phát triển của Nhật Bản, người Nhật Bản trung bình chưa bao giờ làm việc đến 50 giờ một tuần. Trong suốt thời phát triển nhanh chóng của Nam Triều Tiên, tuần làm việc đã lên tới mức 60 giờ một tuần, và vào cuối thập niên 1980 tuần làm việc vẫn tiếp diễn ở mức bình quân 55 giờ, nhiều hơn 10 giờ một tuần so với bất kỳ một nước công nghiệp hoặc đang công nghiệp hoá nào khác. Hàn Quốc đã bắt đầu xúc tiến công nghiệp hoá trong năm 1965 với trình độ công nghệ và đồng lương khá thấp hơn nhiều so với Nhật Bản năm 1955 và thế là đã đạt được sức cạnh traanh kỹ nghệ bằng các nỗ lực cá nhân rất lớn. Trong các đề án xây dựng ở Trung Đông, các công nhân Triều Tiên là vô địch về mức sẵn sàng làm việc nhiều giờ dưới một khí hậu nóng như thiêu đốt. Trong những năm gần đây, nhiều người Nhật tiếc cho sự suy tàn về đạo đức lao động của người Mỹ, nhưng những lời bình của họ về Triều Tiên thì lại giống y như các than phiền của người Mỹ về người Nhật " Người Triều Tiên, một số người Nhật nói, làm việc dai đến độ không ngờ nổi, như là người máy vậy. Họ có một " tinh thần khao khát " và không ngớt cuỗm mất những bí mật công nghiệp của ta ".
Người Hàn Quốc tiếp cận với học vấn cũng với lòng sốt sắng tương tự. Vào thời điểm độc lập, gần nửa dân số Triều Tiên là mù chữ, nhưng không có xứ nào lại có bước tiến nhanh về học vấn hơn họ, đặc biệt là trong học vấn đại học. Và cũng không có thanh niên nước nào sốt sắng bằng họ trong việc theo đuổi tri thức và thông tin, chủ yếu là từ Mỹ và từ Nhật Bản lẫn từ Châu Âu. Các sinh viên không hề thua kém bất kỳ ai trong chuyện chuẩn bị các kỳ thi vào đại học. Số lượng các sinh viên trong các trường đại học tại Mỹ và Nhật Bản gộp lại nhiều hơn bất kỳ nước nào khác, và một phần lớn đã quay trở về đất mẹ của họ, đặc biệt trong những năm gần đây khi kỹ năng của họ đang có nhu cầu lớn. Người Hàn Quốc đã thu thập thông tin không chỉ trong khoa học kỹ thuật, mà cả trong kinh tế học và các khoa học xã hội khác, lẫn trong các khoa nhân văn. Thế là họ đã thu được, không chỉ thông tin chuyên biệt, mà cả một cảm thức rộng rãi về sự phát triển của lịch sử.
1. 3. Kiến thức về Nhật Bản.
Không có nước nào bằng Hàn Quốc hiểu cặn kẽ về chính quyền doanh nghiệp, kỹ thuật học và thậm chí ngôn ngữ của người Nhật. Dưới thời cai trị của người Nhật, người Triều Tiên đã không nắm được các chức vụ hàng đầu trong chính quyền hay trong những công ty lớn, nhưng một số đã học được về tổ chức lớn trong khi đang giữ những chức vụ thấp hơn, và một số khác đã đứng đầu các công ty nhỏ làm ăn với các công ty của Nhật. Trong năm 1990, 250. 000 học sinh trung học là đang học tiếng Nhật, chiếm xấp xỉ 70% tổng số học sinh trung học không phải là người Nhật trên toàn thế giới đang học tiếng Nhật. Pắc Chung Hy người đã cai trị Nam Triều Tiên từ 1961 đến 1979, từng theo học một học viện quân sự của người Nhật và đã phục vụ 2 năm trong quân đội Mãn Châu trong thế chiến thứ 2 với cấp bậc trung uý. Ông ta và nhiều người đồng thế hệ với ông không chỉ có mối thiện cảm với sự tổ chức của người Nhật, mà còn duy trì cả những quan hệ mật thiết tại nước Nhật. Sau cuộc phát triển kinh tế bắt đầu vào giữa thập niên 1960 cộng với chuyện miền Pusan của Hàn Quốc gần sát với Shimonoseki của Nhật Bản, và phát thanh truyền hình, ấn phẩm của Nhật Bản đã đầy rẫy, thì sự giao tiếp với khoảng 600. 000 đến 700. 000 người Triều Tiên vẫn đang sống ở nước Nhật đãgiúp cho người Triều Tiên tiếp cận tốt với thông tin của người Nhật Bản.
Bởi cả độ sâu thấm nhuyễn của người Nhật Bản lẫn chất áp bức của chủ nghĩa thực dân Nhật, mà Hàn Quốc đã có một tình cảm vừa yêu vừa ghét sâu đậm. Trong bất cứ tình huống nào, trong từng lĩnh vực một không có nước nào hưởng lợi từ việc hiểu được sự thành công của Nhật Bản cho bằng Hàn Quốc
1. 4. Nông nghiệp có hiệu năng.
Sau khi thoát khỏi sự cai trị của người Nhật Bản, Nam Triều Tiên đã thực thi cuộc cải cách ruộng đất, và với sự hỗ trợ của người Mỹ, đã tiến hành một chương trình năng động để canh tân nông nghiệp. Năm 1961 khi cuộc công nghiệp hoá bắt đầu, gần 2/5 tổng sản lượng quốc gia của Hàn Quốc là xuất phát từ nông nghiệp và nông nghiệp vẫn xoay quanh chuyện trồng lúa vào những năm sau chiến tranh Triều Tiên, sản xuất nông nghiệp đã gia tăng cực nhanh hơn cả thời kỳ trước thế chiến thứ 2. Vào thập niên 1970, Hàn Quốc đã đạt được năng suất lúa trên mỗi hecta cao nhất, so với bất kỳ nước nào trên thế giới. Năng suất nông nghiệp không chỉ giúp họ không phải nhập khẩu lương thực mà còn cho phép một số nông gia mở các xưởng công nghiệp nữa.
2. Cách tiếp cận công nghiệp hoá của nhà nước
Cuộc gấp rút hướng đến công nghiệp hoá của Hàn Quốc đã khởi đầu nghiêm chỉnh từ năm 1961. Nỗ lực của Hàn Quốc để công nghiệp hoá đã dựa vào một số nhà lãnh đạo quân sự mạnh muốn dồn sức cho việc phát triển kinh tế, một số sĩ quan quân đội trẻ có đầu óc kinh doanh, một giới thư lại thiếu kinh nghiệm nhưng lại có tài, một cơ sở rộng rãi gồm những thương nhân có kỷ luật sẵn sàng làm việc để xây dựng một căn bản kinh tế cho cuộc phòng vệ chống miền Bắc và một quyết tâm của đất nước muốn bắt kịp các thành công của người Nhật.
Khi Phác Chung Hy nắm quyền vào tháng 5 năm 1961, ông đã quyết định rằng sau khi không còn viện trợ của Mỹ nữa thì Hàn Quốc cần phải có năng suất hàng hoá cần thiết cho cuộc phòng thủ đất nước. Ông muốn cải thiện đời sống của dân chúng đang chịu cảnh nghèo đói, và ông đã nhận thức rằng mình cần đến sự tiến bộ kinh tế để bảo vệ vị trí chính trị của mình chống lại những ai xem việc nắm quyền của ông là bất hợp pháp. Ông đã xem sự tiến bộ kinh tế là một sứ mệnh. Trong 100 ngày đầu tiên của mình ông đã thành lập một Uỷ ban hoạch định kinh tế để điều phối việc triển khai nhanh chóng và công bố kế hoạch 5 năm lần thứ nhất sẽ bắt đầu vào tháng 1 năm 1962.
Hăm hở phát triển kỹ nghệ và biết rằng khi người Mỹ bắt đầu rút khỏi, Hàn Quốc sẽ phải xuất khẩu để mua trang thiết bị nhằm sản xuất ra hàng hoá của riêng mình. Phác vào năm 1961 đã tức thời bắt đầu khuyến khích sản xuất công nghiệp cho xuất khẩu. Hàn Quốc trong sự gấp rút của mình đã tức thời lao ngay vào việc phát triển công nghiệp định hướng cho việc xuất khẩu trong khi việc thay thế nhập khẩu vẫn còn ở những bước ban đầu. Chính phủ bắt đầu đề ra các chỉ tiêu xuất khẩu cho các công ty và cung ứng tài nguyên cần thiết để giúp họ thực hiện những chỉ tiêu đó và các công ty đã làm việc theo đó. Năm 1962, Hàn Quốc đã xuất khẩu tổng giá trị hàng hoá là 42 triệu USD và chỉ có 9 triệu USD là hàng chế biến. Vào năm 1970, Hàn Quốc đã xuất khẩu 1 tỷ USD giá trị hàng hoá, và vào những năm 1981 là 21 tỷ USD gần như hoàn toàn là hàng chế tạo.
Đỉnh quyền lực Phác đã tuyển một nhóm gồm các nhà điều hành doanh nghiệp có khả năng và các kỹ trị gia kinh tế họp đều đặn với ông. Ông cũng bắt đầu gặp gỡ với một nhóm khoảng 50 cố vấn học giả, nhưng khi thấy rằng một số lời khuyên của họ thiếu thực tiễn, chẳng lâu sau ông đã giải tán nhóm này và thuê một ít người trong số họ làm phụ tá trong Hội đồng tối cao của ông. Ông nổi tiếng là người biết nghe lời khuyên của những người hiểu biết, mau chóng học hỏi và làm những gì cần phải làm cho nền kinh tế. Chính quyền thì nhỏ nên các quyết định vẫn được tập quyền cao độ. Nếu Tưởng Giới Thạch giống như một vị chủ tịch hội đồng cho phép các siêu kỹ trị gia của mình quyền tự trị đáng kể trong việc phát triển kinh tế, thì Phác Chung Hy lại giống như một viên tướng đang ở tại trận tiền, tự mình đưa ra những quyết định quan trọng.
Một số những người ủng hộ sớm nhất của Phác Chung Hy là những viên tướng quân sự, gốc từ Bắc Triều Tiên đã từng phục vụ chung với ông trong quân đội Mãn Châu. Nhưng ông ta và những người thuộc số đang trở thành những cộng sự những doanh gia lẫn những viên chức quân sự thân cận nhất của ông ta đều có gốc từ Kyongsang-do, miền đông nam của bán đảo Triều Tiên. Phác đã lớn lên gần Taegu, trạm dừng chính đầu tiên ở phía Bắc cảng Pusan trên tuyến đường sắt quan trọng đi Seoul, do người Nhật xây dựng và về sau đã mở rộng sang Mãn Châu. Và vào lúc Phác trưởng thành, miền này đã được thương mại hoá hoàn toàn, chịu ảnh hưởng sâu đậm của người Nhật, thế là ông ta và bè bạn mình đã lớn lên với một sự hiểu biết rành về phát triển kinh tế hơn so với hầu hết lớp trẻ ở những miền khác. Phác thường thông qua các bạn bè để lựa chọn những cố vấn mà ông có thể tin được, nhưng không như Syngman Rhee, ông ta đủ mạnh để kháng lại những bạn bè kém khả năng vốn chỉ muốn được khen thưởng thôi, và tuyển những ai có thể làm được việc.
Các cố vấn kinh tế ngoại quốc chính yếu cho Hàn Quốc từ cuối chiến tranh Triều Tiên cho đến 1965 là người Mỹ. Người Mỹ góp một vai trò trong việc canh tân nông nghiệp và trong việc xây dựng lại đường xá cầu cống, trong việc củng cố các bờ sông làm tăng điện năng và nhập khẩu công nghệ mới. Vào giữa thập niên 1960 khi Hoa Kỳ dần kết thúc chương trình viện trợ và khi Phác bắt đầu bình thường hoá quan hệ với Nhật Bản, vai trò của Nhật nhanh chóng trở nên quan trọng. Nhật Bản bắt đầu mở rộng các khoản cho vay và Phác cùng với cộng sự của mình đã quay sang Nhật Bản để tìm kiếm công nghệ, thiết bị sản xuất và một mô hình toàn cục cho sự phát triển. Tuy nhiên chuyện các tình cảm bài Nhật nổi lên năm 1965, khi các sinh viên biểu tình chống Phác vì quay lại bang giao với Nhật, đã khiến cho các viên chức chính quyền không tiện nói hết về mức gần gũi đích thực của các quan hệ kinh tế của Nam Triều Tiên với Nhật.
Hàn Quốc bắt đầu công nghiệp hoá với một căn bản kỹ thuật và một mức sống cực kỳ thấp kém. Bởi có ít kỹ nghệ ngoại trừ ngành dệt ở miền Nam trước chiến tranh Triều Tiên, nên Hàn Quốc đã thiếu những kỹ sư và những nhà quản trị có kinh nghiệm để giúp cho việc tái thiết. Quyết tâm tiến bước với tốc độ nhanh nhất có thể được, chính phủ Hàn Quốc đã vay của nước ngoài rất nhiều. Người Hàn Quốc lao vào các dự án ngay khi các kế hoạch hoặc kỹ thuật học cần thiết đều chưa sẵn sàng hẳn đâu vào đó và rồi ứng biến, làm việc đến hết sức chịu đựng để giải quyết bất kỳ vấn nạn nào phát sinh. Đôi khi sự hành động mau chóng là cần thiết và trong những tình huống như thế Hàn Quốc đã được lợi từ đẳng cấp tập quyền của mình và một vị tổng thống tích cực, một con người hành động dứt khoát và đã thi hành các kế hoạch mà không hề trì hoãn.
Đường lối tiếp cận của Hàn Quốc bắt đầu bằng cuộc hiện đại hoá bằng cách củng cố nông nghiệp và cơ sở hạ tầng rồi chuyển sang sản xuất nông nghiệp. Vào đầu thập niên 1960 Hàn Quốc đã nhanh chóng chuyển sang sản xuất phân bón nhằm thay thế nguồn cung cấp mà trước kia lấy từ miền Bắc hay từ nước ngoài. Họ cũng bắt đầu sản xuất ra máy móc nông nghiệp và tăng cường các cơ sở hạ tầng bằng cách canh tân các xa lộ, các cảng và phương tiện giao thông. Với công cuộc đô thị hoá, đất nước đã bắt đầu phát triển một cơ sở hạ tầng đô thị, và khi sản lượng công nghiệp đã vượt qua sản lượng nông nghiệp, họ đã hướng đến trong các thập niên 60 và 70, việc tổ chức các cộng đồng nông thôn để khuyến khích phát triển nông thôn mà không đè nặng lên ngân sách quốc gia. Trong lĩnh vực hàng tiêu dùng Hàn Quốc đã cố gắng nhanh chóng sản xuất hàng hóa của chính mình cho tiêu dùng thường nhật hơn là dựa vào nhập khẩu, và trước năm 1961 họ đã đạt được sự tiến bộ lớn trong việc giảm bớt tỷ lệ hàng tiêu dùng nhập khẩu và tăng tỷ lệ những hàng được dùng để mở rộng năng suất công nghiệp. Họ đã khuyến khích sản xuất vải vóc, quần áo, giày thể thao và về sau là hàng điện tử để xuất khẩu. Với một nền kinh tế nhỏ bé hơn của Nhật Bản, Hàn Quốc không thể dựa vào thị trường quốc nội, và đã trở nên phụ thuộc khá nhiều vào xuất khẩu so với Nhật. Họ đã cố gắng nâng cấp công nghệ để vừa mở rộng quy mô xuất khẩu lẫn để cải tiến năng suất, nhằm kiếm cách giữ được sức cạnh tranh quốc tế đồng thời tăng được mức lương lên.
Lúc đầu, do Hàn Quốc không thể tự làm ra được thiết bị sản xuất, và tự mình chế biến các nguyên liệu thô nên đã nhập khẩu thiết bị công nghệ từ Nhật Bản. Trong ngành dệt, chẳng hạn sợi hoá học hoặc phẩm dầu hoả để chế sợi lúc đầu là phải nhập. Hăm hở vươn tới trước nhưng thiếu công nghệ riêng của mình, các ngành máy móc và điện tử của Hàn Quốc thường bắt đầu bằng việc lắp ráp các bộ phận được sản xuất từ Nhật Bản. Khi người Triều Tiên bắt đầu đóng tàu, không chỉ các thanh truyền mà còn nguyên cả khối máy là đều nhập từ Nhật. Nhưng người Triều Tiên đã học càng học càng tốt, càng làm ra nhiều bộ phận cho những sản phẩm mà họ đã lắp ráp và rồi tiến đến lắp ráp những sản phẩm phức tạp hơn. Với việc có quá ít những kỹ thuật gia so với ở Nhật Bản, người Triều Tiên không thể sản xuất được nhiều sản phẩm rộng rãi và đương nhiên là họ đã tập trung vào một nhóm nhỏ những lĩnh vực đang đầy hứa hẹn. Khi người Hàn Quốc thu được kinh nghiệm trong việc sản xuất một sản phẩm nhất định nào đó, họ đã tiếp tục dấn tới để thu hẹp hoặc xoá bỏ khoảng cách biệt về chất lượng so với Nhật Bản.
Thế nhưng nhu cầu nhập các bộ phận và trang thiết bị từ Nhật của Hàn Quốc đã tạo ra một sự mất cân đối rất lớn về mậu dịch giữa hai nước. Các nhà thư lại Nhật Bản, nôn nóng thôi thúc đất nước chuyển sang công nghệ cao, đã khuyến khích các công ty Nhật nhượng lại những sản phẩm thuộc cấp thấp trong bậc thang công nghệ cho những nước như Hàn Quốc. Trong thực tế các công ty Nhật đang dõi theo việc thâm nhập vào kỹ nghệ Mỹ, đã cố gắng hết mức để tiếp tục sản xuất thật nhiều trong nước có thể được. Cho đến cuối thập niên 1980, Nhật Bản hầu như không mua hàng chế tạo nào từ Hàn Quốc cán cân mậu dịch của Nhật Bản với Hàn Quốc vẫn còn ở mức nhập siêu, nhưng bởi vì Hàn Quốc đã xuất khẩu được hàng hoá sang Mỹ, nên hầu như suốt thập niên 1980, họ đã đạt gần tới mức cân bằng các kết toán mậu dịch của mình.
Từ buổi đầu của nỗ lực công nghiệp hoá, người Triều Tiên đã e ngại về sức chi phối của người Nhật lên nền kinh tế của mình, và với sự miễn cưỡng của các công ty Nhật trong việc chia sẻ các kỹ thuật học của họ. Hàn Quốc cũng giống như Nhật vào thập niên 1960 khi âu lo về sức chi phối của người Mỹ, đã duy trì kiểm soát khắt khe đối với đầu tư trực tiếp của người Nhật, vốn của ngưòi Nhật, và các sản phẩm của người Nhật, Hàn Quốc cũng đã bảo hộ các kỹ nghệ non trẻ của mình cho đến khi chúng đã có một tầm cỡ cực vững và thậm chí lúc đó vẫn chống chuyện mở cửa thị trường của mình cho các sản phẩm nước ngoài. Hàn Quốc vẫn là một trong vài nước hoàn toàn không nhập xe hơi của Nhật, một chính sách mà Nhật đã trả đũa lại khi Hàn Quốc bắt đầu sản xuất ra xe hơi có sức cạnh tranh trong các thị trường quốc tế thông qua sự cảnh giác thường xuyên ở mọi cấp độ, các quan chức và các nhà lãnh đạo doanh nghiệp Triều Tiên đã thành công trong việc kìm hãm mức độ đầu tư trực tiếp của người Nhật và ngăn chặn được sự chi phối về tài chính của Nhật Bản. Kinh nghiệm của Triều Tiên, dĩ nhiên trái ngược hẳn với hoàn cảnh tại Hoa Kỳ và Đông Nam Á, những nơi mà sự đầu tư trực tiếp của người Nhật tăng lên nhanh chóng vào hậu thập niên 1980. Người Triều Tiên hăm hở tìm kiếm kỹ thuật học nơi người Nhật, nhưng họ đã chiến đấu, như người Nhật đã từng chiến đấu trước kia, để giữ quyền kiểm soát trong đôi tay của mình.
Các công ty Nhật thấy được kinh nghiệm của công nghiệp Mỹ, đã hết sức cẩn trọng chuyện chia sẻ công nghệ với những nước khác vì sợ rằng điều đó có thể dẫn đến điều mà họ gọi là cái "boomerang" tức là sự xâm nhập trở lại của những sản phẩm dùng đến công nghệ đó vào chính những thị trường riêng của họ. Thế nhưng có một người Nhật thì lại sẵn sàng muốn chia sẻ kỹ thuật học của họ theo những hoàn cảnh nhất định nào đó, như khi người Triều Tiên có chọn lựa nhận công nghệ từ các đối thủ cạnh tranh với họ, người Nhật hay nước ngoài. Ngay cả khi người Nhật phải miễn cưỡng chia sẻ, họ cũng không thể ngăn hoàn toàn dòng chảy của kỹ thuật học được. Nhiều người phương Tây đã từ bỏ việc thâu thập kỹ thuật học từ người Nhật, nhưng người Triều Tiên thì vẫn một mực thâu thập thật nhiều kỹ thuật học từ Nhật hơn là từ Mỹ, và nhiều hơn mức mà phần lớn người phương Tây có thể nghĩ ra.
Trong một số trường hợp, người Triều Tiên đơn thuần là xin cấp giấy phép công nghệ hoặc mua quyền sử dụng bằng sách chế. Họ cũng cần mẫn trong chuyện nghiên cứu thông tin đã phổ biến sẵn. Trong thập niên 1980, mỗi năm có hàng trăm người Triều Tiên được nhận vào các học viện kỹ thuật và các chương trình đào tạo kỹ thuật của các trường đại học Nhật Bản. Đối với học vấn trên đại học, người Triều Tiên thường là đến học ở Hoa Kỳ. Có lúc, xấp xỉ phân nửa số 30 sinh viên chuyên ngành đóng tàu tại viện MIT là người Triều Tiên.
Còn trong trường hợp sắt thép, một nhóm những nhà lãnh đạo kinh doanh sáng suốt người Nhật, đứng đầu là Shigeo Nagano, đã quyết định rằng việc có quan hệ quốc tế hoà bình tại Đông Á đòi hỏi phải có sự khang kiện kinh tế tại những nước khác. Thế nên New Japan Steel đã giúp đỡ bằng cách bán công nghệ của mình để lập ra nhà máy thép lớn của Triều Tiên tại Pohang, nhà máy này bắt đầu sản xuất ra thép vào năm 1973. Vào năm 1983, Pohang đã sản xuất được 9 triệu tấn thép thô một năm, nhiều hơn mức sản xuất của Đài Loan. Ở Pohang, cách bố trí nhà máy, sự tổ chức và phong cách quản trị, máy móc, và thậm chí cả bộ đồng phục của các viên kỹ sư thép hầu như đã chẳng khác gì hết với những nhà máy thép lớn của Nhật Bản. Vào cuối thập niên 1980, khi kỹ nghệ thép của Hàn Quốc đã tiến bộ nhanh chóng hơn mức dự định của người Nhật, những người thừa kế Shigeo Nagano đã ngần ngại trong việc chia sẻ thêm kỹ thuật học của họ. Đối với những đợt hiện đại hoá mới về thép của họ vào cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990, đương nhiên, người Triều Tiên đã quay sang người Châu Âu.
Khi người Hàn Quốc mua máy móc từ người Nhật, họ đã mặc cả để học càng nhiều càng tốt về các bộ phận kỹ thuật sửa chữa. Họ đã làm việc như những người đối tác và những nhà cung cấp cho các công ty của Nhật. Họ đã mời các những nhà tư vấn Nhật, những người nghỉ hưu, và những người khác nữa mà vì lý do nào đó sẵn sàng chia sẻ kỹ thuật học, người Triều Tiên chuyên làm chuyện “thiết kế ngược”, thận trọng tháo rời những sản phẩm thành công của nước ngoài để nghiên cứu chúng và tạo ra những sản phẩm giống bản gốc. Hàn Quốc quả không có đối thủ, thậm chí cả với Nhật Bản, trong chuyện tốc độ mà họ đã đi từ chỗ hầu như không có kỹ thuật học công nghiệp nào vươn lên hàng những quốc gia kỹ nghệ của thế giới.
Ngay sau khi có thể vay mượn được vốn cần thiết vào cuối thập niên 1960, Hàn Quốc đã quyết định khuyếch trương kỹ nghệ nặng và ngành hoá chất. Họ theo đuổi chương trình trong suốt thập niên 1970, mặc dù các dự án đã phải dẫn đến những món nợ cực lớn với các cơ quan nước ngoài và lạm phát. Những sản phẩm công nghiệp nặng đầu tiên của Hàn Quốc đã tham gia vào thị trường ngay sau cú sốc đầu tiên, khi thế giới đang đi vào một cơn suy thoái. Vào cuối thập niên 1970, do không thể bán đủ sản phẩm của mình để trả những khoản nợ, Hàn Quốc đã gặp phải những khó khăn kinh tế nghiêm trọng. Lúc đầu khi Triều Tiên khuyếch trương công nghiệp nặng vào đầu thập niên 1970, một số nhà lãnh đạo Đài Loan đã lo sợ mình bị tụt lại xa phía sau. Về sau, khi những mất cân đối về mậu dịch và các khoản nợ của Hàn Quốc thì cứ phình to lên, người Đài Loan mới an tâm rằng mình thận trọng hơn và họ đã nhanh chóng lo trả các món nợ nước ngoài của mình. Nhưng mặc dù có những vấn nạn, chương trình công nghiệp nặng của Triều Tiên vẫn cứ tiến bước vào đầu thập niên 1980. Hàn Quốc đã tiếp tục theo đuổi một nỗ lực công nghiệp nặng trong sắt thép, đóng tàu và xe hơi. Mặc dù họ đã cho vay mượn rất nhiều để tài trợ cho cuộc khuyếch trương này, nhưng một thoáng cơ may đã kéo dài từ năm 1985, lúc đồng yên của Nhật tăng lên đáng kể so với đồng đô la, cho đến năm 1988, lúc đồng won của Triều Tiên cao giá hơn so với đồng đô la, đã cho phép người Triều Tiên đạt được bước tiến đáng kể trong cuộc chi trả những khoản nợ nần của họ.
3. Các doanh nhân
Uỷ ban kế hoạch kinh tế và Bộ thương mại và công nghiệp của Triều Tiên đã đưa ra cho các công ty Triều Tiên những chỉ thị tỷ mỉ. Thông qua việc kiểm soát chặt chẽ hoạt động ngân hàng, chính phủ Hàn Quốc có thể quyết định chuyện những công ty nào được nhận những khoản vay nào đó ở mức lãi suất nào đó. Nhưng tự bản thân công ty phải chịu trách nhiệm về những lời và lỗ của mình.
Các nhà lập kế hoạch của Hàn Quốc hiểu cách Nhật Bản đã chuẩn bị ra sao vào thập niên 1960 cho chuyện mở cửa tất yếu các thị trường của mình do kết quả của những áp lực bên ngoài. Nhật Bản đã chuyển sang gia tăng quy mô của các công ty của mình, nhằm cho phép họ làm ra những sản phẩm có sức cạnh tranh trên một quy mô lớn và thế là tránh được các nhập khẩu thông qua các áp lực của thương trường. Người Hàn Quốc trở nên tin rằng để cạnh tranh trên các thị trường quốc tế và trụ vững được trước sự đe doạ của hàng nhập khẩu của nước ngoài, họ cũng sẽ cần đến những công ty đồ sộ. Chính phủ Hàn Quốc tích cực thúc đẩy những công ty của mình gấp rút mở rộng quy mô.
Vào sau chiến tranh Triều Tiên, công nghiệp phần lớn tập trung ở các thành phố đông nam là Taegu và Pusan, bởi những nơi này đã từng được Nhật phát triển, và chúng cũng là những miền đô thị lớn duy nhất không từng bị miền Bắc chiếm. Phác Chung Hy và các đồng sự của ông đã tuyển kỹ những công ty thành công, có những doanh nhân nổi tiếng là giỏi và giành cho những công ty đó các khoản vay của nhà nước với lãi suất thấp, những khích lệ về thuế, và bất kỳ tài nguyên nào cần thiết nhằm củng cố họ trở thành chaebol đa dạng hoá hùng mạnh, dưới quyền kiểm soát chặt chẽ của một công ty chủ vì rằng các công ty chaebol hầu như mới mẻ hoàn toàn, được thành lập trong thời hậu chiến, nên chúng khác hẳn với zaibatsu già đời của người Nhật. Ở Nhật Bản, Mitsubishi đã từng làm ăn cả thế kỷ nay, Sumitomo và Mitsu thì đã từng nhiều thế kỷ nay. Ngay cả trước thế chiến thứ 2, khi các zaibatsu vẫn còn dưới quyền kiểm soát của những công ty chủ, quyền sở hữu cũng đã được tách khỏi quyền điều khiển. Nhưng còn tại Hàn Quốc, ngay cả trong cuối thập niên 1980, trên 40 thuộc 50 chaebol hàng đầu vẫn còn dưới quyền kiểm soát chặt chẽ của những nhà sáng lập đầu tiên.
Nhà sáng lập, nói chung, đã khởi nghiệp trong một doanh vụ sinh lợi ở một lĩnh vực duy nhất nào đó như xay gạo, chế biến thực phẩm, xây dựng, buôn bán, dệt, hay bất động sản. Khi cuộc kinh doanh cho thấy là thành công, doanh nhân đó đa dạng hoá sang những lĩnh vực mới và đầy hứa hẹn, thường là vay mượn để khuyếch trương nhằm tận dụng những cơ may phát triển. Các nhà sáng lập là những nhà lãnh đạo vững vàng, hoàn cảnh của họ đòi hỏi nhiều sáng kiến, cái nhìn táo bạo, những phản ứng đầy thuyết phục và mau lẹ. Như với những nhà sáng lập lớn tại nhiều nước, sự thành công và kinh nghiệm đã làm tăng thêm lòng tự tin của họ và cũng khiến họ có khuynh hướng tự mình đưa ra tất cả các quyết định cuối cùng hay quan trọng. Có lẽ các nhà sáng lập chaebol có khuynh hướng liều lĩnh hơn so những người ở địa vị tương tự ở hầu hết các nước khác là bởi vì có chính quyền đứng đằng sau lưng họ, sẵn sàng giúp đỡ họ.
Gợi ý để các công ty mở rộng sang những lĩnh vực mới đôi khi xuất phát từ chính quyền, vốn đã nắm chặt trong tay những cơ sở tài chính. Các nhà lập kế hoạch của nhà nước khi tin rằng có thể mở thêm một lĩnh vực quan trọng mới, họ đã khuyến khích các công ty có những khả năng về quản trị và kỹ thuật thích đáng. Trong một lãnh vực mới hoặc một mặt hàng quan trọng mới, họ cố gắng khuyến khích phát triển ít nhất hai công ty chính sao cho sự cạnh tranh giữa họ sẽ làm giảm hiểm hoạ độc quyền và cung cấp cùng dạng cạnh tranh có trọng điểm giữa các công ty vốn đã từng có. Khi các công ty thất bại, các viên chức chính quyền tạo ra những khích lệ để động viên những công ty khác nhập cuộc nhằm tránh những vấn nạn về thất nghiệp. Thế là chaebol đa dạng hoá thuộc tầm cỡ lớn đã mở rộng cực kỳ nhanh chóng hơn là khi chỉ dựa vào động lực thị trường không thôi.
Một lãnh vực đã đóng một vai trò quan trọng độc đáo vào sự phát triển của các chaebol là ngành xây dựng. Sau cuộc chiến tranh Triều Tiên, việc tái thiết đường sá, thiết lộ, đê sông, cơ sở cảng, và công trình công cộng đã là một ưu tiên khẩn thiết. Người Mỹ đã cung cấp trang thiết bị xây dựng hiện đại, mà người Triều Tiên đã nhanh chóng thủ đắc được. Trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam, khi người Mỹ muốn tìm những nhà thầu cho công trình xây dựng tại Việt Nam, các công ty Triều Tiên, vốn lúc ấy đã có kinh nghiệm trong cách làm việc với quân đội Mỹ, đã thường là những người bỏ thầu thấp nhất. Sau cú sốc dầu hoả năm 1973, các nước sản xuất dầu, giàu sụ với số của cải mới có được nhưng lại thiếu kỹ sư tài giỏi và những công nhân thiện chí, đã hợp đồng các dự án với những công ty xây dựng ngoại quốc. Các chaebol của Triều Tiên đã hoàn thành tốt và đã giành được một phần suất khá lớn những hợp đồng thầu xây dựng dân dụng. Năm 1979, riêng ở ả Rập Saudi không thôi, đã có 68 công ty và 93. 000 công nhân Triều Tiên. Hai phần ba công nhân xây dựng Triều Tiên là những cựu chiến binh, có kỷ luật cao, thông thạo với máy móc hiện đại, và quen với nếp sống nơi doanh trại. Họ sẵn sàng làm việc dài giờ để kiếm được thật nhiều hơn mức có thể kiếm được nơi miền quê hương nghèo khổ của mình. Các chaebol của Triều Tiên như Huyndae, Dealim và DongAh đã từng có thời phát triển ồ ạt và nhanh chóng bởi sự thành công của họ trong nghề xây dựng ở Trung Đông và một số công ty nhỏ đã dần lớn lên để trở thành chaebol. Qua gần một thập niên, những công ty này gộp lại thế là đã tạo ra nhiều tỷ đô la ngoại tệ hàng năm, nhờ đó họ mở rộng cơ sở kỹ nghệ ở trong nước.
Một số sở hữu chủ gia đình của chaebol Triều Tiên thì thu được nhiều tài sản đáng kể, mặc dù nhiều người đã tái đầu tư đáng kể số thu nhập vào những kinh doanh của họ. Cho đến cuối thập niên 1980, khoảng cách biệt giữa thang lương của công nhân áo xanh và công nhân áo trắng vẫn còn lớn. Trong một số chaebol, các chủ nhân đã bị chỉ trích là thuộc phe nhóm xuất thân từ miền Taegu, vốn cũng gồm cả những cả những nhân vật chính trị hàng đầu. Thông tin bên trong có liên quan đến việc những những chaebol này thu được một số tiền quỹ của họ ra sao đã không được công bố đầy đủ, và các doanh nhân có liên quan bị công kích là hưởng được sự thiên vị và chính quyền thì nhận hối lộ. Cùng lúc đó, tuy nhiên, không một ai nghi ngờ gì chuyện các nhà sáng lập chaebol là những doanh nhân rất có hiệu quả và làm ăn chăm chỉ.
Chaebol của Hàn Quốc nói chung bao gồm một nhóm công ty đa dạng thuộc những lĩnh vực khác nhau, do một công ty chủ độc nhất điều khiển. Nhà sáng lập của một chaebol thường là đặt bà con của mình vào coi sóc những công ty gia nhập hoặc những công ty nhánh quan trọng nhằm duy trì quyền kiểm soát cá nhân đáng tin cậy. Thu nhập của công nhân áo xanh, qua suốt 3 thập niên phát triển, thì cao hơn so với các công ty Nhật. Lòng trung thành chưa phát triển cao lắm, và công nhân đã nhanh chóng bỏ đi khi những công ty đang khuyếch trương, thiếu những nhà quản trị và kỹ thuật gia tài giỏi, đưa ra những điều kiện tốt đẹp đáng kể để câu nhử công nhân bỏ sang. Mặc dù thu nhập của công nhân áo trắng cũng cao theo tiêu chuẩn của người Nhật, nhưng vào thập niên 1980 thì các chaebol cực lớn đã bắt đầu triển khai như tại Nhật Bản, một ban nhân viên áo trắng chuyên nghiệp, có tính chuyện thâm niên, triển vọng thuê mướn dài hạn và một tập hợp phúc lợi khá hậu hĩ hơn so với những xí nghiệp nhỏ. Hơn nữa, bởi liên quan đến chuyện trung thành, các chủ nhân thường là một nhóm nòng cốt nhỏ gồm những nhân viên được tín cẩn đặc biệt và các thành viên gia đình, vốn có thăng tiến nhanh hơn những nhân viên áo trắng bình thường. Chỉ vào cuối thập niên 1980, với sự bành trướng nhanh chóng và đã qua cái thời của thế hệ sáng lập, hầu hết các chaebol mới bắt đầu trải qua một cuộc cách mạng về quản trị. Tuy nhiên, thế hệ thứ hai của các gia đình chaebol thường là vẫn tiếp tục chiếm giữ những chức vụ chủ chốt, vốn vẫn chưa mở ra những nhà quản trị ăn lương, chưa được tín cẩn mấy.
Hàn Quốc cũng đã phát triển một lĩnh vực doanh nghiệp nhỏ, rất thành công, đa dạng và năng động, vốn đã tận dụng được những cơ may mới. Nhiều nhà sản xuất nhỏ của Triều Tiên để giành được những khách hàng chắc chắn và nâng cấp công nghệ của mình đã bắt đầu liên kết với những nhà sản xuất lớn.
III. MỘT VÀI ĐẶC ĐIỂM SO SÁNH VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM
Đầu những năm 1980, tình trạng khủng hoảng sâu sắc của nền kinh tế Việt Nam buộc chính phủ phải tiến hành cải cách triệt để, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường mở. Sau khoảng một thập niên thực hiện cải cách nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng. Tổng sản phẩm quốc dân tăng trung bình hàng năm 7, 5%, lạm phát đã được đẩy lùi từ 500 - 700%/năm xuống còn khoảng 10%/năm.
Liên hệ với những điểm đã phân tích ở trên về kinh nghiệm phát triển kinh tế của Hàn Quốc có thể thấy rõ những nét tương đồng và không tương đồng trong quá trình thực hiện đổi mới nền kinh tế ở Việt Nam với quá trình phát triển ở Hàn Quốc như sau :
1. Về huy động các thành phần kinh tế
Trong phát triển kinh tế thị trường, ngay từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới, chính phủ Việt Nam đã định rõ phương hướng phát triển kinh tế trong giai đoạn mới là chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, trong đó nhấn mạnh phát triển kinh tế với nhiều thành phần với vai trò tích cực của kinh tế nhà nước. Chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần đã thay đổi một cách cơ bản nhận thức trước đây về phương hướng phát triển nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nó đã giải phóng khu vực kinh tế tư nhân, lực lượng lớn nhất của nền kinh tế quốc dân, mở cho họ nhiều cơ hội mới, kinh doanh năng động và tăng trưởng nhanh chóng. Đây là một trong những vấn đề mấu chốt để nhà nước thực thi cơ chế kinh tế mới : cơ chế thị trường. Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước hiện nay cũng được hiểu theo một cách khác trước. nếu như trước đây khu vực kinh tế nhà nước giữ vị trí thống trị trong nền kinh tế thì qua việc thực hiện cải cách đã làm thay đổi mối tương quan đó. Với sự phát triển khá mạnh của nền kinh tế tư nhân thuộc các thành phần kinh tế khác nhau và những biến đổi theo xu hướng thị trường trong các xí nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, trong nền kinh tế đã hình thành hai khu vực chính là kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân với những hoạt động kinh doanh vừa cạnh tranh vừa hợp tác. Tuy nhiên hiện nay vẫn còn những tồn tại đáng lưu ý: tình trạng không rạch ròi về chức năng đã làm giảm đi tính hiệu quả trong hoạt động kinh tế của từng khu vực. Xu hướng thị trường hoá trong khu vực kinh tế nhà nước chưa được đẩy mạnh. Vai trò điều tiết nền kinh tế của khu vực kinh tế nhà nước chưa được thực hiện tốt như ở Hàn Quốc. ở Việt Nam, quá trình đổi mới kinh tế quốc doanh có phần chậm chạp, giữ được ổn định, nhưng hoạt động kém hiệu quả. Lời giải đáp tốt nhất cho vấn đề này vẫn chưa tìm ra.
2. Mở cửa nền kinh tế
Nếu như "mở cửa" đã đóng vai trò to lớn trong nền kinh tế Hàn Quốc thì mở cửa cũng đã trở thành một đầu tàu trong công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam trong hơn một thập kỷ qua. Chính sách mở cửa có ý nghĩa quyết định cho sự phát triển của nền kinh tế. Chính phủ Việt Nam đã thực hiện những bước đi đầu tiên của nền kinh tế mở khởi đầu bằng việc coi chương trình xuất khẩu là chương trình quyết định các chương trình kinh tế khác (1986), rồi đến việc công bố luật đầu tư nước ngoài năm 1987 và chương trình tiếp nhận ODA những năm gần đây. Tuy vậy so với Hàn Quốc về điểm này, trong quá trình thực hiện chính sách về mở cửa, Việt Nam vẫn đang gặp phải nhiều vấn đề khó khăn chưa giải quyết được: một chính sách thương mại quốc tế thích hợp vẫn còn đang là vấn đề chưa được xác định rõ ràng. Mặc dù nguyên tắc của một nền kinh tế mở đã được khẳng định, nhưng những đường nét cụ thể cho một chiến lược kết hợp hay thay thế nhập khẩu với hướng vào xuất khẩu chưa được định ra, việc tiếp nhận các chương trình đầu tư và viện trợ nước ngoài còn gặp nhiều khó khăn do còn thiếu luật pháp, bộ máy quản lý quan liêu, các chính sách về thuế, tỷ giá hối đoái trong thương mại chưa đủ sức thuyết phục.
Đối với Việt Nam, để khắc phục nguy cơ tụt hậu xa hơn và rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, qua nghiên cứu kinh nghiệm các nước, chúng tôi thấy nước ta cần và có thể thực hiện chiến lược bổ sung giữa hướng vào xuất khẩu và thay thế nhập khẩu, không cần tuần tự đi qua chiến lược thay thế nhập khẩu mất một vài chục năm rồi mới chuyển sang hướng vào xuất khẩu như nhiều nước đã làm, như thế sẽ chậm, mà có thể bắt đầu thực hiện ngay chiến lược hướng vào xuất khẩu đồng thời với việc thực hiện có chọn lọc và có điều chỉnh một số chính sách biện pháp cần thiết để bảo vệ và nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả của các ngành công nghiệp non trẻ đã có.
3. Về vấn đề phát triển nguồn nhân lực
Ở Việt Nam, giáo dục phổ thông khá phát triển. Đó là một vốn quý, một lợi thế. Như vậy đối với lao động phổ thông ở Việt Nam, nhìn chung trình độ học vấn không thấp, tuy nhiên chất lượng đào tạo nghề nghiệp còn thấp, xu hướng chung của công nghệ mới hiện nay đòi hỏi lao động kỹ thuật nhiều hơn lao động thông thường, do đó vấn đề đào tạo đội ngũ người lao động có chất lượng cao đáp ứng những yêu cầu mới của thị trường, của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vừa là vấn đề cấp bách trước mắt, vừa lâu dài trong phát triển kinh tế của Việt Nam.
4. Về công nghiệp hoá, hiện đại hóa
Việc chuyển sang quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong nền kinh tế thị trường mới là bước khởi đầu. Mô hình công nghiệp hoá, hiện đại hóa nền kinh tế lấy công nghiệp nặng làm nền tảng trước đây có lẽ thích hợp với Nga nhiều hơn là Việt Nam, ít nhất là trong 2 - 3 thập kỷ tới. Song một mô hình công nghiệp hoá theo hướng mới vẫn chưa được xác định thực một cách rõ ràng. Việt Nam mới chỉ đi những bước chập chững trong những chặng đường đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy quá trình này đã được triển khai thực hiện một cách tích cực ở nhiều hướng khác nhau, có một số mặt thuận lợi do công cuộc đổi mới và tình hình quốc tế và khu vực đem lại, song so với nhiều nước đang phát triển khác thì Việt Nam vẫn còn rất hạn chế như việc huy động và sử dụng các nguồn vốn còn kém, khu vực kinh tế nhà nước chưa mang lại hiệu quả cao, kinh doanh tư nhân chưa lớn mạnh, luật pháp còn thiếu, bộ máy quản lý quan liêu, cồng kềnh, tham nhũng cao, hiệu quả thấp, cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội còn yếu kém, nói chung chưa có một cơ chế quản lý năng động đủ đáp ứng nhu cầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và tăng trưởng nhanh.
Phải chăng Việt Nam cần thực hiện một chiến lược công nghiệp hoá mới không phải theo một nguyên tắc tĩnh và cứng nhắc lấy công nghiệp nặng làm then chốt như trước đây, mà dựa trên nguyên lý động, linh hoạt của sự thay đổi về lợi thế so sánh ? Để trả lời câu hỏi này, không những cần nghiên cứu lợi thế so sánh của Việt Nam, mà còn cần nghiên cứu kinh nghiệm của nhiều nước nhất là những bài học kinh nghiệm thành công của Hàn Quốc.
KẾT LUẬN
Trong số tất cả những con rồng nhỏ, Hàn Quốc đã có mức tập trung cao độ những công ty lớn và những mục tiêu đầy tham vọng nhất. Không có quốc gia nào cố gắng cật lực và đã vươn xa nhanh cực kỳ đến thế, từ thủ công lên công nghiệp nặng, từ nghèo đói lên phú thịnh, từ những nhà lãnh đạo thiếu kinh nghiệm lên những nhà hoạch định, những nhà quản trị và những kỹ sư hiện đại.
Bằng chứng Hàn Quốc đã tương phản mạnh mẽ với nhận thức về bất kỳ một nguyên nhân đơn lẻ có tính chất quyết định nào của thành công kinh tế. Thay vào đó, bằng chứng Hàn Quốc đã cho thấy sự kết hợp những yếu tố luôn gắn liền với quá trình phát triển. Không có nền kinh tế nào có thể thành công được nếu thiếu 3 yếu tố : hướng ngoại, ổn định kinh tế vĩ mô và đầu tư vào con người. Kinh nghiệm phong phú gợi ra rằng những công thức có tính chất phổ biến và rộng khắp là không thể và có những hoàn cảnh cụ thể của từng nước sẽ đóng vai trò quyết định. Tuy vậy phần lớn kinh nghiệm cho thấy sự đóng góp quan trọng của các chính sách kinh tế ổn định và có tính cạnh tranh, nới lỏng kinh doanh. Điều thú vị là, điểm mấu chốt của quá trình hoạch định chính sách là vai trò tích cực của chính phủ trong việc theo dõi tiến hành phát triển, vạch ra những kế hoạch dài hạn, thay đổi cho phù hợp cơ cấu thể chế nhằm thực hiện có hiệu quả các chính sách.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Kinh nghiệm phát triển của các nền kinh tế Đông - Đông Nam Á và ý nghĩa đối với Việt Nam - PTS Đỗ Đức Định
Tổng quan về kinh nghiệm Đông Á - Danny M. Leipziger và Vinod Thomas.
Những bài học của Đông Á - Những nền tảng chung về thành công của Đông Á - Peter A. Petri.
Sự thần kỳ của Đông Á - Xây dựng cơ sở cho tăng trưởng - John Page.
Những bài học gần đây của sự phát triển - Lawrence H. Summer and Vinod Thmas.
Đông Á và Đông Nam Á năm 2020 - Jean Raphel Chaponniere.
Phát triển kinh tế ASEAN - Phân tích về vai trò của nhà nước - Hal Hill.
Nhật Bản và công nghiệp hoá ở châu Á - Yutaka Kosai và Trần Văn Thọ.
Kinh tế chính trị học của chính sách công nghiệp ở Hàn Quốc - Ha Joon Chang.
Bốn con rồng nhỏ - Trào lưu công nghiệp hoá ở Đông Á - Ezra F. Vogel.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- DPhuong (10).doc