Đề tài Một vài tìm hiểu về tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của dân tộc Mường ở Phú Thọ hiện nay

MỤC LỤC Mở đầu Chương I : Nguồn gốc lịch sử của người Mường ở Phú Thọ I. Nguồn gốc lịch sử của người Mường ở Phú Thọ Chương II : Tín ngưỡng và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Mường ở Phú Thọ 2.1. Khái niệm tín ngưỡng 2.2. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Mường ở Phú Thọ hiện nay Chương III : Hoạt động thờ cúng tổ tiên của người Mường ở Phú Thọ hiện nay - Thực trạng và giải pháp 3.1. Thực trạng của xu hướng hoạt động thờ cúng tổ tiên của người Mường ở Phú Thọ hiện nay 3.2. Phương hướng, giải pháp nhằm định hướng đúng đắn hoạt động thờ cúng tổ tiên của người Mường ở Phú Thọ hiện nay Kết luận Danh mục tài liệu tham khảo MỞ ĐẦU 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI : Thờ cúng tổ tiên là một loại hình tín ngưỡng khá phổ biến của người Mường ở Phú Thọ. Nó có mặt tốt là luôn luôn nhắc con cháu rằng phải nhớ lấy nguồn khi uống nước, nhớ công người trồng cây khi ăn quả. Phải biết kính trọng và phụng dưỡng ông bà, bố mẹ lúc sinh thời và thờ phụng khi mất. Nó sẽ thành cao, tinh khiết khi coi đó là một cái nét văn hoá truyền thống của người Mường. Song nó sẽ trở thành phiền toái khi mang mầu sắc mê tín dị đoan, ảnh hưởng của nó rất lớn đối với đời sống kinh tế của con người nói chung và người Mường nói riêng. Trong giai đoạn hiện nay, nước ta đang phát triển theo nền kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập quốc tế, từng bước dân chủ hoá đời sống xã hội. Mặt khác còn có sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội, môi trường bị ô nhiễm, xuất hiện các mặt trái của khoa học công nghệ, trình độ dân trí thấp v.v đó là những nguyên nhân xã hội, tâm lý và nhận thức dẫn đến việc tín ngưỡng, tôn giáo ngày một gia tăng. Hoạt động thờ cúng tổ tiên được diễn ra một cách rất phổ biến trong các gia đình người Mường. Điều đó đã góp phần gìn giữ giá trị tốt đẹp của Văn hoá truyền thống, nhưng mặt khác nó cũng có tác động tiêu cực là thúc đẩy kích thích mê tín dị đoan phát triển. cản trở sự nghiệp xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Những nguyên nhân đó là do họ có những quan niệm về bản thổ và mê tín, nhân sinh của con người. Mặt khác, dưới góc độ dùng lý luận của triết học để xét về vấn đề thờ cúng tổ tiên của dân tộc Mường đểthấy được thực trạng, tích cực, tiêu cực, quá trình vận động phát triển, để giúp chúng ta có định hướng đúng trong việc thờ cúng tổ tiên và thực hiện thắng lợi cuộc vận động “toàn dân xây dựng đời sống văn hoá” do nhà nước phát động. 2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI : Xung quanh vấn đề tín ngưỡng của dân tộc Mường cũng được nhiều nhà khoa học nghiên cứu, “Các hình thức tôn giáo ớ khai và sự phát triển của nó” của Tô-ca-Rép; Nxb Chính trị quốc gia 1994”; Việt Nam phong tục của Phan Kế Bính, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh 1999 ; “Tín ngưỡng dân gian Việt Nam” Lê Như Hoa, Nxb Văn hoá thông tin 2000 ; “Văn hoá tâm linh” Nguyễn Đăng Duy, Nxb Hà Nội, 1996 ; “Về tôn giáo tín ngưỡng Việt Nam hiện nay” Đặng Nghiên Vạn, Nxb KHXH, Hà Nội, 1996 Ngoài ra còn nhiều bài viết công bố trên các tạp chí : Cộng sản, Tư tưởng văn hoá, Thông tin lý luận, Văn hoá nghệ thuật, dân tộc học Nói chung là các công trình nghiên cứu của các tác giả nói trên nó rất đa dạng có thể tóm lại thành 3 loại cơ bản sau : Loại thứ nhất : Xem thờ cúng tổ tiên như một tập tục văn hoá và truyền thống đạo đức. Loại thứ hai : Xem tín ngưỡng vừa là tập tục văn hoá vừa là truyền thống đạo đức. Loại thứ ba : Xem tín ngưỡng như là một loại hình tín ngưỡng, tôn giáo. 3. MỤC ĐÍCH - NHIỆM VỤ : *Mục đích : Bước đầu trình bày một cách tương đối có hệ thống về nguồn gốc, bản chất và tín ngưỡng biểu hiện về mặt triết học trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Mường ở Phú Thọ. Mặt khác, Phú Thọ còn là cái nôi của dân tộc Mường nói chung (nếu xét về thời gian hình thanh). Từ việc đi khảo cứu đó để đề ra những phương hướng, giải pháp nhằm phát huy các yếu tố tích cực, khắc phục và làm giảm dần các yếu tố tiêu cực của tín ngưỡng thờ tổ tiên trong nhân dân và xây dựng thành công nền văn hoá hiện đại. *Nhiệm vụ : - Làm rõ nguồn gốc, bản chất, kết cấu - chức năng, cơ sở (điều kiện) hình thành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Mường ở Phú Thọ. - Những biểu hiện về mặt triết học thông qua nội dung nghi lễ thờ cúng tổ tiên của người Mường ở Phú Thọ. - Từ thực tế tình hình tín ngưỡng của dân tộc Mường hiện nay, rút ra một cách tổng quát về tích cực và tiêu cực ; từ đó đề ra những giải pháp nhằm định hướng đúng đắn hoạt động này trong đời sống của nhân dân nói chung - riêng dân tộc Mường trong giai đoạn hiện nay. 4. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU, PHẠM VI NGHIÊN CỨU : * Đối tượng nghiên cứu : Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở người Mường Phú Thọ. * Phạm vi nghiên cứu : Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Mường ở Phú Thọ trong lịch sử và thực trạng từ sau cải cách (1986) đến nay. 5. CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIẾN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU : * Cơ sở lý luận của việc khảo cứu thự hiện đề tài nay dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về Tôn giáo - Tín ngưỡng. * Báo cáo được trình bày trên cơ sở số liệu thu thập được qua các sách, báo, tạp chí, và các cuộc thâm nhập thực tế ở một số huyện của tỉnh Phú Thọ và Hoà Bình như : Thanh Sơn, Yên Lập, Hạ Hoà, Kim Bôi, Kỳ Sơn * Báo cáo vận dụng phương pháp luận chung và phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, cấu trúc chức năng, thống nhất giữa triết học và xã hội học, phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp, lôgic, só sánh, mô tả v.v 6. NHỮNG ĐÓNG GÓP VỀ MẶT KHOA HỌC CỦA LUẬN ÁN : * Báo cáo góp phần làm rõ tín ngưỡng của người Mường - đặc biệt là phong tục thờ cúng tổ tiên có rất nhiều đặc sắc . * Góp phần làm rõ thực trạng xu hướng vận động của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Mường ở Phú Thọ trong giai đoạn hiện nay. * Đề xuất một số giải pháp nhằm từng bước phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cức của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên cho phù hợp với yêu cầu sự nghiệp xây dựng nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc. 7. Ý NGHĨA THỰC TIỄN : * Kết quả của báo cáo góp phần vào việc giữ gìn và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống của nước ta hiện nay. Hơn thế nó còn dùng làm tài liệu tham khảo cho những môn học có liên quan tới văn hoá truyền thống và tín ngưỡng tôn giáo. 8. KẾT CẤU CỦA BÁO CÁO : Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, báo cáo gồm 3 chương , 5 tiết.

doc52 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 3679 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một vài tìm hiểu về tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của dân tộc Mường ở Phú Thọ hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bản chất niềm tin tôn giáo là khẳng định sự tồn tại và khả năng cứu giúp con người của thần thánh. Như vậy, niềm tin vào cái siêu thực, đấng thiêng liêng là hạt nhân của tín ngưỡng, tôn giáo. Tín ngưỡng, tôn giáo đều có chức năng đền bù hư ảo nỗi khổ đau hiện thực của con người. 3- Tín ngưỡng, tôn giáo đều có hệ thống nghi lễ, bao gồm những biểu tượng mang tính thần thánh, những điều răn dạy, kiêng kỵ, hệ thống nghi lễ, hình thức, phương tiện để chuyển tải ý thức. Niềm tin tôn giáo, nó giữ vai trò quan trọng cho sự hoà nhập cộng đồng, nâng sức mạnh của con người lên trên bản thân mình và giúp họ cảm nhận về thế giới của thần linh. Bên cạnh những cái giống nhau thì tín ngưỡng, tôn giáo cũng có những điểm khác nhau cơ bản sau : 1- Tín ngưỡng xét về mặt lôgic hình thức thì là khái niệm có nội hàm hẹp hơn tôn giáo. Bởi vậy tôn giáo thì lúc nào cũng là tín ngưỡng, con mọi hình thức tín ngưỡng chưa chắc đã phải là tôn giáo. 2- Tín ngưỡng được hình thành ngay từ trong cuộc sống rất phong phú và đa dạng, chủ yếu là do xúc cảm và kinh nghiệm mang lại. Nó phản ánh thiếu sự tính chất sàng lọc, khái quát, thiếu cơ sở lý luận chặt chẽ. Thường mang tính dân gian đời thường. Còn tôn giáo được hình thành trên cơ sở lý luận chặt chẽ, có cơ sở thế giới quan là chủ nghĩa duy tâm. Mặt khác tôn giáo đi giải thích thế giới từ những thực tế tinh thần khách quan có trước, sáng tạo và chi phối thế giới hiện thực và hàng loạt các kinh, sách ra đời để chứng minh cho sự đúng đắn của đức tin tôn giáo. Nó được diễn ra như : linh hồn, thượng đế, thiên đàng, địa ngục, niết bàn… 3- Tín ngưỡng có kết cấu rất đơn giản, nó được hình thành và tồn tại dựa vào cơ sở của các phép lạ, đấng siêu nhiên, vào thế giới vô hình như : thần linh, tổ tiên, thần sông, núi, âm ty, địa ngục, ma, quỉ… niềm tin ấy nó mang tính huyền bí hoặc mờ ảo, không rõ ràng, chưa đạt đến chính xác và khái quát cao, mang tính giản đơn và dựa vào cảm tính là chính. Còn tôn giáo thì có cấu trúc khá phức tạp có mối quan hệ qua lại với thế giới quan, nhân sinh quan, ý thức, tâm lý, tình cảm, niềm tin, đức tin… Ở Tôn giáo, thì đức tin được đề cao, song cũng đòi hỏi sự lý giải mang tính hệ thống, lôgic xây dựng và củng cố trên cơ sở của thế giới quan tôn giáo các chức sắc trong tổ chức tôn giáo thường tuyên truyền, củng cố và khẳng định, niềm tin tôn giáo thông qua các hoạt động tôn giáo được tiến hành định kỳ. Trong tín ngưỡng, tôn giáo thì nghi lễ và các giáo chủ, kinh sách đóng vai trò hết sức quan trọng vì thế mà tín ngưỡng, tôn giáo có tác động to lớn đối với đời sống xã hội. Khi đã đề cập đến sự giống và khác nhau giữa tín ngưỡng và tôn giáo thì cũng cần phải nhắc đến hiện tượng “mê tín dị đoan”. Bản thân tín ngưỡng, tôn giáo cũng chứa đựng những yếu tố mê tín dị đoan, là mảnh đất để mê tín phát triển. Tín ngưỡng là sự mộ, tin vào chủ thể siêu nhiên, thần thánh nào đó, còn mê tín dị đoan chỉ là niềm tin mù quáng, mê muội vào những cái thần bí như thần, thánh, ma, quỉ, số mệnh… không dựa trên cơ sở thế giới quan hay phương pháp tu hành của các tổ chức tôn giáo nào. Mê tín dị đoan đến mức độ cuồng tín, mê muội, mất lí trí, suy đoán tuỳ tiện, tin vào những điều quái dị, không có trong thực tế thì trở thành mê tín dị đoan. Mê tín dị đoan là những hiện tượng phản khoa học, phản văn hoá. Trong lịch sử các giai cấp, dân tộc thường vì lợi ích giai cấp cho dân tộc mình thì thương gán cho tín ngưỡng dân tộc cái mũ “dị giáo”. Và lấy cớ đó để thôn tính đàn áp. Trong xã hội hiện đại thì mê tín dị đoan được chỉ rõ rằng, chủ nghĩa tín ngưỡng hiện đại không phủ nhận hoàn toàn khoa học, nó chỉ phủ nhận sự “kỳ vọng quá đáng” của khoa học, chính xác là “sự kỳ vọng về chân lý khách quan” (18. Trong thự tế thì mê tín dị đoan, tín ngưỡng, tôn giáo thường nó tồn tại và đan xen lẫn nhau, chúng đều có bản chất là tin vào lực lượng siêu nhiên, là sự phản ánh hư ảo hiện thực, sự phân biệt ranh giới giữa chúng chỉ là tương đối và khó phân biệt. Từ những đặc trưng trên,có thể quan niệm rằng : tín ngưỡng là một bộ phận của ý thức xã hội, là một yếu tố thuộc lĩnh vực tinh thần, là hệ quả của các quan hệ xã hội, được hình thành trong quá trình lịch sử văn hoá, là sự biểu hiện niềm tin dưới sạng tâm lý xã hội vào cái thiêng liêng thông qua hệ thống lễ nghi thờ cúng của con người và cộng đồng người trong xã hội. Trên những cơ sở đó thì, tác giả đi sâu vào nghiên cứu tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Mường ở Phú Thọ. 2.2. TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN CỦA NGƯỜI MƯỜNG Ở PHÚ THỌ. 2.2.1. Nguồn gốc và bản chất của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Mường ở Phú Thọ. Trước hết nên hiểu như thế nào là tổ tiên. Khái niệm tổ tiên là khái niệm dùng để chỉ những người cùng huyết thống đã mất như kỵ, cụ, ông, bà, cha, mẹ… là những người đã có công sinh thành và nuôi dưỡng và có ảnh hưởng đến đời sống vật chất tinh thần của con cháu thế hệ sau. Tổ tiên trong xã hội nguyên thuỷ có nguồn gốc từ Tô tem giáo thị tộc. Từ tổ tiên tô - tem chuyển sang tổ tiên người thực là quá trình chuyển từ chế độ thị tộc mẫu hệ, sang chế độ thị tộc phụ hệ. Tổ tiên tô-tem giáo trong thời kỳ thị tộc mẫu hệ là những vật trong tự nhiên được thần thánh hoá, được coi là vật tổ của tại tộc và nó che chở cho các gia đình trong thị tộc để cầu mưa thuận gió hoà, mùa màng tốt tươi, bội thu. Thời kỳ thị phụ hệ thì thường tổ tiên được tôn thờ là những người đứng đầu thị tộc và nắm quyền uy trong tay. Khi họ mất, thì mọi người trong bộ tộc đó sẽ lập miếu thờ và cầu mong người đó che chở cho gia đình - Thị tộc. Đó chính là những yếu tố tạo nên biểu tượng về thờ cúng tổ tiên của người Mường nói riêng và các dân tộc khác trong cả nước ta nói chung. Tổ tiên trong xã hội có giai cấp được thể hiện đầy đủ hơn, họ thường là những người đàn ông giữ vị trí chủ chốt trong gia đình, gia tộc, đã mất có quyền thừa kế và di chúc tài sản theo quan niệm của chế độ phụ quyền. C.Mác khi nghiên cứu “quyền thừa kế” trong gia đình cổ đại la mã và cho rằng : “Người chủ gia đình có quyền lực tuyệt đối với toàn bộ những cái thuộc phạm vi kinh tế gia đình”… (19). Trong quá trình phát triển của lịch sử khái niệm tổ tiên cũng có sự biến đổi, phát triển. Tổ tiên không chỉ được bó hẹp với phạm vi huyết thống nữa mà nó mở rộng ra trong cả một cộng đồng xã hội. Trong cuộc sống hiện nay thì họ thường tôn kính, tưởng nhớ những người có công lớn trong các phong trào quần chúng, xây dựng và bảo vệ cuộc sống cộng đồng, được xã hội thừa nhận cấp sắc phong hầu, được nhân dân ghi công ơn và được tôn thờ trong các đình, miếu, … Khi nhắc đến tổ tiên của người Mường là thờ quốc mẫu vua bà, đây là một vị thần được đặt ở vị trí tôn kính nhất trong Đình miếu ở nhiều vùng Mường thuộc huyện Yên Lập - Phú Thọ. Những người am hiểu sự tích này thì thường còn gọi là Đức quốc Mẫu, nhưng ở trong dân tộc Mường gọi bà là chúa thượng ngàn - Bà mẹ của núi rừng. Theo ngọc phả ghi bằng chữ Hán còn lưu ở đền thì vua Bà là mẹ của thần núi Tản Viên. Truyền rằng bà đã chia tay chồng và mang một số con thứ đi mở mang đất nước ở vùng thượng sông Đà. Chồng bà ở lại với con trưởng là Tản Viên cai quản vùng núi Ba Vì và theo nước sông Đà mở mang cõi ngược ra phía Biển. Thời đó, khi khai phá đất đai đến đâu bà cũng dậy dân bắt trâu rừng về thuần dưỡng thành trâu nhà, dạy dân biết làm nỏ bắn chim, chuột, sóc… và dậy dân làm vợt bắt cá dưới sông… Truyền thuyết này rất gần gũi với thần thoại Lạc long quân và Âu Cơ đẻ trăm trứng và chia con ra và đi khai khẩn. Phải chăng Đức Quốc Mẫu là Âu Cơ, theo “Đại Nam nhất thống chí” do sử quan nhà Nguyễn biên sạn có ghi : “Có thuyết nói : Thgần (Tản Viên) là Hương Lang con lạc long quân. đời đường nghiêu nước lớn ngập lụt núi gò, Hương lang có phép tiên, trừ được nạn lụt, sau lại đánh tan quân nhà Tần, bèn đi khắp nơi xem xét danh thắng, đến núi Tản Viên dựng cung điện để ở. Sau người ta lập thành đền thờ” (tr.221). Ngươic Mường thực hiện nghi lễ với Đức Quốc Mẫu thường vào mùng Một, hôm rằm, do cá nhân hoặc từng hộ gia đình hoặc tôn họ tiến hành. Các hình thức sinh hoạt thường là cả cộng đồng và huy động cả làng Mường tham gia như tổ chức lễ hội : Đức Quốc Mẫu được hiện thân là Phật Bà và người Mường cầu xin bà nhiều thứ. Cũng như người kinh thì tĩn ngưỡng thờ cúng tổ tiên nó in rất sâu đậm trong tâm thức của người Mường. Họ quan niệm rằng người chết thể xác hoá thân vào vũ trụ nhưng linh hồn vẫn tồn tại nhớ về nơi ở cũ. Bổn phận của người sống là phải phụng sự linh hồn no đủ để linh hồn phù trợ cho người sống yên ổn, khoẻ mạnh và làm ăn phát đạt. Trong ngôi nhà sàn của người Mường thì bàn thờ tổ tiên được đặt ở cửa vóng gian giữa nhà, người con trưởng phải thờ cúng tổ tiên 5 đời (ngũ đại). Mỗi đời được thể hiện bằng một bát hương xếp theo hàng ngang. Người con thứ thì chỉ lập một bát hương thờ trực tiếp người sinh ra mình. Khác với người kinh (con gái về nhà chống không được lập bàn thờ cha mẹ đẻ), người phụ nữ về nhà chồng nếu cha mẹ qua đời mà không có con trai thờ cúng thì được nhà chồng cho phép lập một bát nhang thờ cha mẹ để ở gian của vóng khách, nhưng bàn thờ nhỏ hơn bàn thờ của bố mẹ chống. Nếu người kinh lấy ngày chết của tổ tiên làm ngày giỗ tổ thì người Mường lại rất khác. Họ lấy ngày người chết rời khỏi nhà đưa đi chôn cất làm ngày giỗ. Họ cho rằng khi người chết còn ở nhà thì sợi dây tình cảm giữa người sống và người chế chưa lìa nhau. Mà chỉ khi người chết đã được chôn chặt dưới mộ thì sợi dây tình cảm đó mới cắt đứt. (Người Mường không có tục cải táng mộ). Vì có lẽ trước năm 1945 gia chủ của gia đình có người mất do điều kiện kinh tế còn hạn hẹp, nên người chết thường được để vào quan tài và đợi đến ngày khi chuẩn bị đầy đủ về điều kiện vật chất thì mời cả dân làng đến làm lễ đưa người chết ra đồng, lúc đó người chết mới thật sự chết trong mắt của người sống. Trong xã hội có giai cấp, thì tổ tiên tô tem vẫn còn dấu ấn khá đậm nét. Đó là tổ tiên siêu nhiên, vì nhân vật huyền thoại phản ánh tư tưởng, nguyện vọng và tình cảm của nhân dân lao động trong cuộc sống đấu tranh với thiên tai, dịch hoạ bảo vệ cuộc sống cộng đồng. Họ vẫn được tôn thờ, kính trọng như các tổ tiên nhân thần trong các không gian tôn giáo, các thành hoàng làng của người Mường thường có nguồn gốc siêu nhiên và cũng được coi như là ông tổ của cộng đồng làng. Để hiểu sâu hơn nữa về tín ngưỡng và tôn giáo cỷa dân tộc Mường ở đây thì chúng ta cần đi phân tích các hoạt động của một lễ hội và lý luận của nó. Thờ cúng là hoạt động có ý thức của con người, là tổng thể phức hợp các yếu tố : ý thức về tôn giáo, biểu tượng về tổ tiên và lễ nghi thờ cúng trong không gian thờ cúng. Thờ là yếu tố thuộc ý thức về tổ tiên, là tâm linh tình cảm hướng về cội nguồn của con cháu. Thờ tổ tiên là thể hiện lòng thành kính, biết ơn và tưởng nhớ tổ tiên. Đồng thời cũng là sự thể hiện niềm tin vào sự che chở và bảo vệ, trợ giúp của tổ tiên đối với cuộc sống ở hiện tại. Cơ sở để hình thành nên ý thức về tổ tiên là niềm tin và linh hồn bất tử, tổ tiên tuy đã chết, song linh hồn vẫn sống thường lui tới và ngự trên bàn thờ của mỗi gia đình. Người Việt Nam ta có câu : “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “uống nước nhớ nguồn”, đó chính là ý thức về tổ tiên được thông qua đạo hiếu. Còn đối với người Mường nói chung và người Mường ở Phú Thọ nói riêng thì họ thể hiện đầu tiên là trong Mo “đẻ đất đẻ nước” và họ mong muốn tổ tiên “phù hộ độ trì” cho con cháu ăn nên, làm ra và không bị làm hại. Họ còn cho rằng biểu tượng tổ tiên là những hình ảnh đẹp về cuộc sống. Tổ tiên luôn là những hình ảnh đẹp, những người tài giỏi có công, có đức. Nơi thờ tổ tiên thường có bài vị, tượng ảnh… được bày trí rất cầu kỳ. Đi song song với thờ thì hoạt động cúng cũng là yếu tố mang tính lễ nghi, là sự thực hành một loạt các động tác của người được quyền thờ cúng. Đó là hoạt động dưới dạng hành lễ, được quy định do quan niệm, phong tục, tập quán của mỗi cộng đồng dân tộc. Nghi lễ thờ cúng được thực hiện bởi người trưởng gia đình, dòng họ với các động tác dâng lễ vật, khấn, lễ trong không gian thờ cúng : bàn thờ tại gia, đền, miếu, đình… Thờ, cúng là hai yếu tố tác động qua lại với nhau, thống nhất với nhau trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Sự “thờ”, “tôn thờ” chính là nội dung, còn hoạt động “cúng” là hình thức biểu đạt của nội dung thờ cúng, ý thức tôn thờ, thành kính, biết ơn tưởng nhớ, hy vọng sự trợ giúp, tránh sự trừng phạt của tổ tiên là nội dung cốt lõi của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Nếu không có “thờ” mà chỉ có cúng thì tự bản thân thờ cúng tổ tiên không có “hồn thiêng” không có sức hấp dẫn nội tại và dễ thành nhạt nhẽo, vô vị. Sự “cúng” tuy chỉ là hình thức biểu đạt, song nó tôn vinh sự thiêng liêng, huyền bí, mờ ảo, tạo nên sức hấp dẫn, nó chính là hương vị mầu ắc, keo dính thoẫmn niềm tin, đáp ứng nhu cầu chủ thể thờ cúng. Hình thức thờ cúng lúc đầu thể hiện ý thức tổ tiên, về sau trở thành tạp tục, truyền thống mang bản sắc văn hoá, được truyền lối từ thế hệ này sang thế hệ khác. Yếu tố ý thức, tư tưởng, tình cảm tổ tiên được kết lắng trong nghi lễ thờ cùng nhiều khi không thể tách bạch rõ ràng. Yếu tố lễ nghi thờ cúng là phương tiện chuyển tải ý thức, tư tưởng, tình cảm đối với tổ tiên. Vì thế, nói đến tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên thì cần phải đề cập tới hai yếu tố ý thức và lễ nghi, phải đi sâu tìm hiểu nguồn gốc, bản chất của nó. Do thời gian có hạn, vì vậy mà nguồn gốc và bản chất của tín ngưỡng sẽ không được trình bày ở đây mà chỉ lấy một câu tổng kết của các nhà khoa học từ bản chất và nguồn gốc của tín ngưỡng. “Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một bộ phận ý thức xã hội, là một loại hình tín ngưỡng dân gian, được hình thành từ thời nguyên thuỷ, với niềm tin thiêng liêng rằng, tổ tiên đá chết sẽ che chở, phù giúp cho con cháu, được thể hiện qua các lễ nghi thờ cúng. Nó phản ánh một cách chưa đúng đắn quyền hành của người đứng đầy thị tộc phụ hệ, gia đình phụ hệ được duy trì và phát triển trong xã hội có giai cấp sau này”. 2.2.2. Cơ sở để hình thành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Mường ở Phú Thọ. Sự ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế, xã hội, lịch sử văn hoá đối với quá trình hình thành và tồn tại của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Mường ở Phú Thọ. Điểm khác biệt cơ bản giữa con người và động vật là ở chỗ, nó không chỉ thích nghi, vượt qua thiên nhiên xung quanh mình mà còn thông qua các hoạt động thực tiễn để cải tạo thực tiễn và duy trì cuộc sống của mình. Hoạt động thực tiễn góp phần làm hạn chế tính bản năng trong con người. Chính quá trình sống và hoạt động xã hội, con người đã tạo ra văn hoá, tín ngưỡng, tôn giáo… Hai phần trong cùng của một nền văn hoá là cách thức con người tác động vào giới tự nhiên để sản xuất của cải vật chất. - Điều kiện tự nhiên : Đó chính là môi trường sinh thái, trong đó con người sinh sống và tồn tại, là nơi cung cấp tư liệu sống và tư liệu lao động cần thiết cho con người. Con người tồn tại trong môi trường thực tế (tự nhiên) thì luôn có các mối quan hệ xã hội giữa con người với con người đó là một yếu tố rất quan trọng của tồn tại xã hội. Mặt khác, trong xã hội nếu muốn thích nghi một cách nhanh chóng thì phương pháp thích nghi tối ưu nhất là biện pháp khoa học kỹ thuật để từng bước khai thác tự nhiên. Môi trường tự nhiên khó khăn hay thuận lợi thì lại ảnh hưởng mạnh đến lối sống, thê ứng xử, phong tục tập quán - tín ngưỡng, tôn giáo. Việt Nam là một nước nằm trong khu vực Đông Nam Á, có địa hình rừng, núi, đồng bằng, ven biển, hải đảo. Việt Nam có khí hậu nhiệt đới, nóng, ẩm, cường độ ánh sáng lớn, lượng mưa nhiều, độ ẩm lớn… Trong đó Trung du miền núi phía Bắc hay cụ thể là Phú Thọ nằm ở phía Bắc của đất nước là một tỉnh Trung du, được kiến tạo nên bằng hệ thống sông Hồng, Đà, Thao, và gồm các huyện như : Thanh Sơn, Hạ Hoà, Yên Lập, Sông Thao, Thanh Thuỷ, Thanh Ba, Thị xã Phú Thọ, Thành phố Việt Trì. Theo tài liệu nghiên cứu của các nhà khảo cổ học thì khẳng định rằng cách đây trên dưới một vạn năm thì ở đây đã đánh dấu thời kỳ sơ khai một nên nông nghiệp trồng lúa nước. Cội nguồn của các nền văn minh cổ đại cho khu vực và cả nước. Trong giai đoạn văn hoá phùng nguyên vào năm 3800 trhì ở đây đã xuất hiện các hoạt động, phong tục và trong các lễ hội đã xuất hiện trống đồng và các hình thức chàm thau. Ngoài ra cùng với việc chế tác đồ đá đạt tới đỉnh cao lúc đó người Việt đã phát hiện ra đồ đồng mở ra một thời kỳ phát triển mới cho tất cả các dân tộc. Mặt khác còn có các cuộc cải cách khoa học kỹ thuật, và trong nền văn hoá Đông Sơn… từ những bản làng còn lẻ tẻ đã có mối liên kết với nhau để chống thú rằng, chống ngoại xâm… Mặt khác, địa hình Việt Nam còn có sự chênh lệch khá lớn về địa hình mà điển hình ở Phú Thọ là một huyện miền núi mà huyện Thanh Ba, thị xã Phú Thọ lại là đồng bằng nhưng rất đẹp. - Điều kiện về kinh tế - xã hội, văn hoá : Người Mường ở đây là cư dân sống bản địa và họ thường sống trong các thung lũng ở chân núi. Họ chủ yêú làm ruộng nước và săn bắn, hái lượn ác sản phẩm của núi rừng sông suối. Hàng nghìn năm lao động thì họ đã hình thành các giá rị văn hoá phản ánh bản sắc của dân tộc Mường, thói quen trong sinh hoạt cũng được đúc kết, phản ánh những đặc trưng tiêu biểu của văn hoá Mường : cơm đồ, nhà gác, lợn thui, nước vác, ngày lui, tháng tới. Nhà sàn của người Mường bám theo dòng chảy của các con suối. Nước thì họ thướng lấy ở rừng có những mỏ nước ở trong rừng chảy ra và họ hứng và dẫn bằng các ống nứa đưa về nhà. Trong năm thì các hoạt động kinh tế được diễn ra liên tục, thường thi người Mường dệt vải và đem ra chợ bán và các rau, củ, quả, … họ kiếm được ở trên rừng họ đem ra trao đổi để đảm bảo cho cuộc sống. Một điều khác giữa người Mường ở đây (Phú Thọ) với người Mường (Hoà Bình, thanh Hoá) là khi dựng vợ, gà chồng cho con, xin cưới, ma chay giỗ chạp… thì họ thường lấy ngày Hội (theo lịch dương). “Ngày thì lùi 1 ngày, tháng thì tiến hơn ba tháng (Mường B), còn tiến hơn một tháng so với lịch âm của người kinh” (20). Họ còn có quan niệm rất rõ ràng rằng, tuy là con ông Bác, tuy là ngành trên nhưng không vì thế nhất thiết con ông chú phải gọi là anh, mà ở đây hễ con ông Bác hay ông chú hễ ai ra đời trước - nhìn thấy mặt trời trước thi được gọi là anh. Người con gái Mường khi về làm dâu thì được gia đình đằng chồng rất quí mến và không có tình trạng mâu thuẫn mẹ chồng con dâu như người Kinh. Trước khi về nhà chồng các cô gái Mường phải thức đêm hôm vài tháng để kéo bông, dệt vải, thêu thùa thành chăn đệm và vài chục chiếc gối để biếu, từ đường khâu mũi chỉ thì cũng phần nào đánh giá được nàng dâu. Chọn dâu, rể là một điều quan trọng và người Mường có câu : “Đừng tham nón rẻ mà đội trời mưa, đừng tham người đẹp mà thưa việc làm” (21). Đặc biệt rằng trong xã hội người Mường trước (1986) thì vẫn còn tình trạng chế độ đa thê (nhiều vợ), nhưng không chấp nhận cuộc lạn luân, ngoại tình và họ nghiêm cấm người trong cùng 1 gia phả 5 đời được lấy nhau, người Mường có quy định rất nghiêm ngặt trong sinh hoạt gia đình. Chàng rể không được ngồi ăn cơm cùng cô, gì, chú, bác, chị em bên vợ và người dâu cũng vậy, coi đó là cách để bảo hiểm để không nảy sinh các thói xấu trong quan hệ khác giới. Quan hệ huyết thống họ hàng chi phối sâu nặng trong các hộ gia đình Mường. Mọi công việc to lớn của một gia đình Mường đều có sự giúp dỡ của họ hàng nhất cưới xin, tang ma, làm nhà. Khi gia chủ thông báo với trưởng họ con trai của gia đình đã tìm được bạn gái ưng ý xin gia đình cho tiến hành các bước đi tới hôn nhân, thì trưởng họ đứng ra tập hợp những người trong họ đến để bàn bạ về việc cưới xin cho cháu. Ngày xưa khi kinh tế của mỗi gia đình còn hạn chế vì vậy mà trưởng họ phải phân công việc là nhà này đóng góp gà, vịt, nhà kia đóng góp rượu… và tục đó gọi đó là góp họ. Sinh hoạt văn hoá của người Mường cho phép trai gái giao lưu tình cảm với nhau và bày tỏ lời thương tiếng nhớ, sau đó hai bên thưa lại với gia đình. Chợ và ruộng, nương là những nơi mà trai gái Mường ra sức giao lưu tình cảm bằng mọi hình thức ; ở chợ thì trò chuyện, ở ruộng thì ví để tỏ tình với nhau. Những câu ví của người Mường rất lánh lót và vần và đi sâu vào lòng người, thể hiện tình yêu quyết liệt của trai gái Mường. “Chim kia ai đuổi mà bay Người kia ai đuổi mà ngày một xa”. Sự phản kháng của trai, gái Mường về tục ép duyên : “Chắp tay bái ngược ông trời Những nơi tôi định mà người chẳng se. *** Những nơi chết dập bờ tre Ông tơ bà Nguỵet lại xe tôi vào” Sự phản kháng ấy được phản ánh trong nhiều truyện thơ Mường : Vườn hoa, núi đồi, măng thơm… và kết cục là một trong hai người yêu nhau phải rời xa nhau, mà thường là người phụ nữ và tìm đến cái chết để tôn trọng tình yêu của mình và đấu tranh chống lại tục ép duyên. Tang lễ là việc lớn của cả xóm Mường, ai cũng phải có trách nhiệm đóng góp. Khi có một ai tắt thở thì các (Mế) mẹ và các (ún) em xóm giềng thường cử ra 5 - 6 người gồm 1 đầu nhóm và những người còn lại gánh thúng đi đến từng nhà trong xóm Mường, trong nhà có gì thì góp cái đó (tuỳ tâm). Sau đó, láng giềng kéo đến mỗi người một việc giúp cho nhà đám. Đặc biệt, khi gia chủ phát tang thì bất cứ ai dù là anh em hay không anh em thì họ đều đội khăn tang. Họ quan niệm rằng (một con ngựa đau thì cả tàu bỏ cỏ). Nguyên tắc ứng xử của người Mường được thể hiện rõ nhất mỗi khi có khách đến nhà. Bất luận là khách quen hoặc khách lạ đều tiếp khách một cách chu đáo. Khác với người Kinh đến nhà phải chào chủ nhà trước, còn người Mường hễ thấy khách dù thân hay sơ thì khi đến cầu thang thì cả nhà đon đả ra đón chào. Trước là ruống nước, sau là ở lại dùng bữa cùng gia đình (đây là một phong tục bắt buộc của người Mường). Họ có câu tục ngữ Mường nói về vấn đề này : “trâu ra đồng ăn cỏ, người đến nhà ăn cơm”. Tôn trọng thầy mo và người gia là truyền thống ăn sâu vào nếp sống của người Mường, với những kinh nghiệm từng trải, thì ông bà, cha mẹ thường truyền cho con cháu mình các bí truyền nên người Mường đã có câu rằng “sống phải đi tết, chết phải theo giỗ”. Để hiểu được thực chất của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên cần xuất phát từ luận điểm khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin về tín ngưỡng. Tín ngưỡng là một bộ phận của ý thức xã hội và chịu sự quy định của tồn tại xã hội. Bản chất của nó là niềm tin của con người vào sự tồn tại và cứu giúp của một thự thể siêu nhiên nào đó qua hệ thống nghi lễ. Tổ tiên, thoạt đầu là tổ tiên Tô tem giáo của thị tộc, sau là tổ tiên theo huyết thống trong chế độ phụ quyền cũng là lực lượng siêu nhiên được con người thờ phụng, trên cơ sở niềm tin rằng, tổ tiên tuy đã mất, song linh hồn vẫn tồn tại có thể cứu giúp con cháu trong cuộc sống hiện tại. Chương III HOẠT ĐỘNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN CỦA NGƯỜI MƯỜNG PHÚ THỌ HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ GIÀI PHÁP Để phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên thì cần có nhận định chính xác về thực trạng tín ngưỡng hiện nay. Thực trạng thờ cúng tổ tiên của người Mường Phú Thọ, nó phản ánh cuộc sống đang biến đổi hết sức sâu sắc, đặc biệt từ khi Đảng có chủ trương đổi mới. Quá trình đổi mới trên mọi lĩnh vực kinh tế, xã hộ, văn hoá… Từ đó thấy sự biến đổi trong nếp sống, phong tục, tín ngưỡng, tôn giáo. Trên cơ sở đó đưa ra kiến nghị một số giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực. 3.1. THỰC TRẠNG VÀ XU HƯỚNG HOẠT ĐỘNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN CỦA NGƯỜI MƯỜNG Ở PHÚ THỌ HIỆN NAY. 3.1.1. Thực trạng thờ cúng tổ tiên của người Mường ở Phú Thọ hiện nay. Từ sau thắng lợi của cách mạng tháng Tám cho đến năm 1986, đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của người Mường ở Phú Thọ có nhiều biến đổi lớn lao. Cơ cấu xã hội truyền thống ở nông thôn có sự thay đổi căn bản, cuộc cách mạng văn hoá của các dân tộc thiểu số cũng có tác động mạnh đến nhận thức và làm thay đổi những chuẩn mực về các giá trị truyền thống. Trong lúc này hoạt động thờ cúng tổ tiên cũng bị phai nhạt, do tính chất lịch sử của thời đại phải chiến tranh chống Pháp, Mỹ và chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn quốc. Tuy nhiên, tuỳ từng nơi, từng lúc hoạt động thờ cúng tổ tiên cũng được duy trì và được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, đặc biệt chú ý là phần ý thức tâm linh tôn giáo. Trong những năm gần đây, công cuộc đổi mới và thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Điều đó đã góp phần củng cố niềm tin trong nhân dân. Mặt khác chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh càng được thể hiện tính đúng đắn hơn trong xã hội, đời sống vật chất của người Mường được nâng lên, đặc biệt là qua các chính sách ưu tiên và hỗ trợ của chính phủ, cụ thể gần nhất là kế hoạch 135 của Chính phủ (tăng cường cơ sở vật chất cho các xã vùng cao). Song, bên cạnh những thành tự về kinh tế - xã hội và văn hoá mà nước ta đã đạt được. Trong xã hội cũng phát sinh những mặt tiêu cực, yếu kém. Mặt trái của nền kinh tế thị trường, đã tác động xấu đến nền kinh tế thị trường và đời sống xã hội. Tệ tham nhũng, cửa quyền, quan liêu, tham ô, hối lộ… Những tệ nạn đó “cùng với những yếu kém khó khăn một số mặt kinh tế - xã hội đã ảnh hưởng tới lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của quản lý của nhà nước”. (22). Hoạt động thờ cúng tổ tiên trong mỗi gia đình người Mường là một hoạt động phổ biến. Cứ mỗi khi năm hết tết đến, mọi người đều làm lễ cúng ông công, ông táo, đi tảo mộ mời tổ tiên về ăn tết cùng với con cháu. Sau một năm làm lụng vất vả, thì đêm giao thừa nhà nhà làm lễ gia tiên, dâng cúng tổ tiên những phẩm vật ngon nhất, tưởng nhớ công ơn tổ tiên. Trong nhịp chảy của lịch sử xã hội thì hoạt động thờ cúng tổ tiên không chỉ bó hẹp trong phạm vi gia đình và dòng họ. Khắp nơi trong các bản (xóm) người Mường người ta mở hội làng để tưởng nhớ đến thành Hoàng làng, các vị tổ nghề… cùng với hoạt động thờ cúng tổ tiên này thì người Việt (Kinh) thì không thể không đề cập đến sự hồn dung của tín ngưỡng, tôn giáo dân gian (vật linh, đa thần) với các loại tôn giáo khác, còn khi nói đến tín ngưỡng, tôn giáo của người Mường thì lại có đặc điểm rất đặc biệt là trên 90% là họ theo tín ngưỡng, tôn giáo dân gian (Tô tem, vật linh, đa thần…) Trong các gia đình người Mường hiện nay, ngoài bàn thờ tổ tiên là bàn thờ to, cao, đẹp… thì họ còn nhiều bàn thờ khác trong nhà hoặc ở trước nhà cùng với tín ngưỡng thờ thánh thần và các thành Hoàng như ở xã Xuân Đài - huyện Thanh Sơn - tỉnh Phú Thọ thì ngoài bát hương thờ tổ tiên trong nhà thì ở một khu vực nào đó xung quanh cái nhà họ ở (họ cảm thấy thuận tiện) họ sẽ làm một cái miếu nhỏ để thờ thổ công, thần núi, thần sông, thành Hoàng, tổ nghề… mà đã phần nhà nào cũng có làm việc này. Hiện nay theo khảo sát sơ bộ của sách “Người Mường trên đất Tổ Hùng Vương” thì cho rằng : Vấn đề bức xúc của mảng văn hoá của tỉnh hiện nay là tín ngưỡng của các dân tộc. Trong đó đặc biệt là dân tộc Mường với dân số đông và sống rộng khắp, thì cần phải có các chính sách đúng đắn để cho các dân tộc Mường nói riêng và các dân tộc khác trong tỉnh phát triển mạnh mẽ về đời sống tinh thần, đặc biệt là đời sống tâm linh của mỗi dân tộc. Xung quanh vấn đề thờ cúng tổ tiên của dân tộc Mường ở Phú Thọ, thì có nhiều phức tạp bao hàm cả về mặt tích cực và tiêu cực, nó bắt nguồn từ nguồn gốc nhận thức mang tính xã hội, tâm lý của mỗi cá nhân và mỗi cộng đồng. Về mặt xã hội, Khi đời sống vật chất được nâng cao con người có điều kiện chăm lo cho việc “lễ nghĩa”. Hơn nữa, khi đời sống vật chất dư dật thì nhu cầu thoả mãn tinh thần càng cao, thì nhu cầu đền ơn đáp nghĩa nó là điều lợp quy luật. Mặt khác, còn do điều kiện sau chiến tranh thì con người có những điều kiện để ôn lại lịch sử và cần phải báo đáp công ơn mà do hoàn cảnh xã hội chưa làm được. Sau chiến trânh đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết (hậu quả sau chiến tranh). Với nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước được ban hành nhằm cụ thể hoá nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII). Đó là chỉ thị 27/CT-TW của Bộ Chính trị - Ban chấp hành Trung ương Đảng về việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, tang lễ, lễ hội. Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ số 14/1998/CT-TTg ngày 28.3.1998 về việc cưới, hỏi, tang ma, lễ hội… Về mặt nhận thức : Có những điều mà khoa học hiện tại chưa thể giải thích được. Hiện tượng một số người có khả năng “thấu thị”, “ngoại cảm” tìm được hài cốt liệt sĩ, mổ mả bị thất lạc lâu năm… có rất nhiều ý kiến trong vấn đề này, thậm chí còn trái ngược nhau. Thái độ của chúng ta là cẩn trọng, không nên kết luận vội vàng khi dữ kiệm mà khoa học chưa cho phép. Thực tiễn vẫn là tiêu chuẩn cho sự nhận thức đúng, sai của mọi vấn đề đặc biệt là vấn đề tâm linh. Về mặt tâm lý : Xuất phát từ quan niệm : “có thờ có thiêng, có kiêng có lành” nên khi các việc quan trọng trong nhà người ta thường làm lễ cúng tổ tiên mới có thể yên tâm. Chủ thể thờ cúng tổ tiên sau khi tiến hành các hoạt động cúng lễ, thì mặt tinh thần được thoải mái thanh thản, đó chính là cái “tinh thần” được chuyển hoá thành cái “vật chất”, cái “mất” thành cái “được” trong thâm tâm. Thờ cúng tổ tiên là sự thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với bậc đi trước, nó cũng thể hiện tình cảm và bản chất tự nhiên của con người. Có thể nói rằng, hoạt động thờ cúng tổ tiên trong xã hội thì nó bắt nguồn từ con người, nguồn gốc xã hội, nhận thức, tâm lý của xã hội đương thời. Nó luôn luôn trong tình trạng vận động và biến đổi không ngừng, cái hiện đại, truyền thống, cũ, mới, vừa thống nhất,vừa đấu tranh với nhau. Trạng thái vận động đó nó thể hiện rõ nét thành xu hướng vận động. 3.1.2. Xu hướng vận động của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Mường ở Phú Thọ hiện nay. Trong hoạt động thờ cúng tổ tiên hiện nay, chúng ta thấy rõ cái mới, cái tích cực đang được hình thành, cái xu hướng phủ nhận cái cũ, cái lạc hậu trên cơ sở kế thừa các yếu tố tích cực truyền thống, được biểu hiện như hoạt động văn hoá mang tính xã hội và giáo dục là nét đẹp trong sinh hoạt văn hoá cộng đồng. Mặt khác, hoạt động thờ cúng tổ tiên cũng có xu hướng tiếp tục phát hiện các hủ tục cũ và duy trì các nghi thức truyền thống trong giỗ chạp, tang ma, cưới xin theo hướng mê tín. Một xu hướng nứa, trong hoạt động thờ cúng tổ tiên là việc thực hiện các nghi lễ mang tính hình thức phô trương, lãng phí, thương mại hoá, chưa giảm đáng kể mà còn bộc lộ nhiều biểu hiện mới. Trong xác xu hướng trên, có thể nói rằng sự vận động và biến đổi của tín ngưỡng của các dân tộc được biểu hiện như một hoạt động văn hoá mang tính xã hội và giáo dục. Đối với bất kì ai, dân tộc nào, vái lạy, cầu khấn tổ tiên là người duy tâm hay mê tín. Bởi con người muốn tồn tại thì phải lo ăn, mặc, ở, đi lại… thời gian và trí lực của con người là giành cho công việc chứ việc mồ mả thờ cúng chì là vấn đề hình thức, cái cớ đó con người đi đến ý nghĩa cao cả hơn là vì cuộc sống hôm nay và cho mai sau. Việc thờ cúng xưa nay không cốt là ở lễ vật mà cốt là ở lòng thành. Trong hoạt động thờ cúng thì hình thức biểu hiện đối tượng thờ cúng là trừu tượng và vô hình chỉ tồn tại ở ý thức tâm linh. Sự kết hợp ở cái thực, ảo, hiện tại và quá khứ đã tạo cho tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên có sức sống nội tại khá lâu. Hướng về lợi ích thế tục, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên chứa đựng những “hạt nhân hợp lý”. Nếu hoạt động thờ cúng tổ tiên ở các địa phương, chính quyền xã có các chính sách hợp lý, chỉ đạo xát sao và nhận thức đúng và tự giác loại bỏ các biểu hiện tiêu cực thì xu hướng tích cực sẽ chiếm vị trí chủ đạo. Bên cạnh mặt văn hoá, mặt tiến bộ là xu hướng chủ đạo, hoạt động thờ cúng tổ tiên cũng đang vận động theo chiều hướng tiêu cực đáng phê phán. Đó là xu hướng phục hồi những hủ tục cũ và duy trì các nghi thức truyền thống thiên về hướng mê tín. Xu hướng thiên về mê tín biểu hiện ở chỗ nhiều người tin vào sự tồn tại của tổ tiên, nên bắt cứ làm việc gì cũng phải khấn vái tổ tiên, mong tổ tiên phù hộ độ trì , vạn sự như ý - Cúng lễ ở nhà chưa đủ họ đi đến đình chùa để cầu cúng. Họ quan niệm rằng “Trần sao âm vậy”, “đa lễ thì đa lộc”. Do đó thường xuyên đi cầu tài cầu lộc rất tốn tiền và thời gian. Trong những năm gần đây ệc đi lễ không còn là việc của các bà nữa, mà nó đi sâu vào cả các cán bộ, công chức, học sinh, sinh viên… Song thực tế những năm gần đây hoạt động mê tín dị đoan thường lấn át và ảnh hưởng xấu đến đời sống xã hội. Những biểu hiện đó là do còn nhận thức hạn chế, do ảnh hưởng của thói quen, tâm lý truyền thống lạc hậu, thói quen buông lỏng quản lý và xem nhẹ việc giáo dục nếp sống và lối sống thiếu sự hướng dẫn kịp thời về phong tục, thiếu sự quy định chặt chẽ của nhà nước đối với việc cưới, việc tang, lễ hội. Xu hướng thiên về hình thức : Phô trương gây lãng phí của cải và thời gian trong giỗ chạp, tang ma, xâyẩ mồ mả phục hồi các hủ tục cũ. Hiện nay, ở hầu hết các tộc người Mường đã có kinh tế khá giả hơn trước, xuất hiện nhiều người chi phí cho việc tang ma quá nhiều tiền, hơn thế việc chia buồn giữa các gia đình không còn như ngày xưa nẵ mà bây giờ đã được “tiền tệ hoá”, phong bì, các đồ lễ vật đắt tiền… đó là vấn đề nhức nhối, làm xói mòn giá trị đạo đức của con người nói chung và đặc biệt là người Mường. Với một nền tảng văn hoá vững chắc đã tồn tại nhiều thế kỷ. Để giải quyết vấn đề dó, thì thủ tướng Chính phủ đã kịp thời đưa ra chỉ thị về việc thực hiện nếp sống văn minh, trong tang lễ, cưới hỏi và lễ hội, ở nhiều nơi Đảng uỷ đã tổ chức thực hiện, nhân dân hưởng ứng tích cực. Song ở một số nơi lại có tâm lý “ngại” sợ bị chê cười, tục “trả nợ miệng” vẫn được phổ biến ở nhiều nơi. Với những đặc điểm ở trên, thì nó đã cho chúng ta thấy hoạt động thờ cúng tổ tiên tỏng thời gian gần đây diễn ra khá phức tạp. Vì vậy nuốn phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực thì phải cần có các phương hướng và giải pháp khoa học và đồng bộ. 3.2. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM ĐỊNH HƯỚNG ĐÚNG ĐẮN HOẠT ĐỘNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN CỦA NGƯỜI MƯỜNG Ở PHÚ THỌ HIỆN NAY. 3.2.1. Phương hướng chung nhằm định hướng đúng đăn hoạt động thờ cúng tổ tiên của người Mường ở Phú Thọ hiện nay. Căn cứ vào yêu cầu cấp bách của sự nghiệp xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng nếp sống mới ở các thôn bản của các dân tộc ít người, trên cơ sở những vấn đề mang tính quy luật của sự hình thành và vận động của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, báo cáo do thời gian hạn chế, kiến thức còn ở mức độ nhất định cũng nêu lên một số vấn đề chung nhằm định hướng đúng đắn hoạt động thờ cúng tổ tiên ở Phú Thọ hiện nay. Thứ nhất : tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là sự phản ánh nhu cầu tinh thần của người Mông đang tồn tại khách quan cần phải được tôn trọng. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên phải phù hợp với tâm lý truyền thống “uống nước nhớ nguồn” đã trở thành triết lý nhân sinh, là một trong những giá trị văn hoá truyền thống. Đảngvà nhà nước ta đã thông qua hiến pháp, pháp luật, chỉ thị, nghị quyết… đã khẳng định rằng tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của các dân tộc thiểu số, trong đó có tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Thứ hai : định hướng đúng đắn hoạt động thờ cúng tổ tiên của người Mường ở Phú Thọ hiện nay cần xuất phát lịch sử cụ thể của vấn đề. Quá trình hình thành, vận động và biến đổi của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Mường ở Phú Thọ, bao giờ cũng diễn ra trong một hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Trung du miền núi phía Bắc tuy là còn nhiều khó khăn, nhưng xét về mặt khoảng cách thì nó rất gần thủ đô và gần các trung tâm kinh tế lớn như : Quảng Ninh, Hải Phòng… Mặt khác, hiện nay quá trình du nhập Phật giáo, Thiên chú giáo… rất nhanh vào nước ta. Do vậy, cần phải có những định hướng đúng đắn trong hoạt động thờ cúng tổ tiên ở đây. Hơn nữa, cũng cần thấy tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên có nguồn gốc từ cuộc sống hiện thực, phản ánh và chịu sự quy định của chính hiện thực cuộc sống. Do đó, giải pháp cũng cần gắn với thực tiễn. Thứ ba : Định hướng đúng đắn hoạt động thờ cúng tổ tiên cơ sở kế thừa có chọn lọc mà phát triển. Tín ngưỡng và mê tín thường song hành trong hoạt động thờ cúng tổ tiên. Do đó cần làm sáng tỏ “hạt nhân hợp lý” để kế thừa và phát huy và đồng thời chỉ ra và loại bỏ những mặt tiêu cực. Nếu có các chính sách khuyến khích, động viên những nhà khoa học có những công trình nghiên cứu về những vấn đề tín ngưỡng, mê tín là những vấn đề khó. Thứ tư : định hướng đúng đắn hoạt động thờ cúng tổ tiên phải dựa trên cơ sở hoạt động tự giác của mỗi người. Sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng trước hết là sự “tự vận động”, “tự phát triển”. Do vậy, để định hướng hoạt động thờ cúng tổ tiên của dân tộc phải khơi dậy ý thức tự giác của mỗi người để làm chủ được hoạt động của mình. Thứ năm : định hướng đúng đắn hoạt động thờ cúng tổ tiên phải dựa trên cơ sở tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Sự lãnh đạo của Đảng là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự thành công bước đầu trong sự nghiệp đổi mới hiện nay. Trước những thời cơ mới thử thách mới, thì sự lãnh đạo của Đảng càng làm vị trí quan trong trong tiến trình tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hoạt động tín ngưỡng là một hoạt động tinh thần, tư tưởng vì thế không thể không có sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của nhà nước. Hơn nữa trong tình hình xã hội hiện nay, hoạt động tín ngưỡng rất dễ bị kẻ xấu lợi dụng, tuyên truyền, lôi kéo. 3.2.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm định hướng đúng đắn hoạt động thờ cúng tổ tiên của người Mường ở Phú thọ hiện nay. Một là, Từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của các dân tộc thiểu số đặc biệt là của dân tộc Mường. Con người là một thực thể xã hội và nó luôn luôn biến đổi và phát triển không ngừng, nhưng không bao giờ thoả mãn được. Do vậy để khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của tín ngưỡng, tôn giáo nói chung và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên nói riêng và phải từng bước không nừng nâng cao đời sống vật chất của nhân dân, trước hết phải lo đảm bảo các nhu cầu, ăn, mặc, ở, đi lại, việc làm cho nhân dân rrên để khai thác các thế mạnh như ; phát triển các nghề truyền thống, tận dụng và áp dụng khoa học kĩ thuật vào quá trình sản xuất các sản phẩm nông phẩm áp dụng các chính sách kích thích sản xuất, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, khuyến khích làm giàu chính đáng. Nâng cao đời sống vật chất là giải pháp cơ bản lâu dài đòi hỏi sự cố gắng của toàn Đảng, toàn dân, chỉ có nâng cao đời sống vật chất thì mới khắc phục được nguồn gốc xã hội nảy sinh mê tín, dị đoan. Việc nâng cao đời sống vật chất cũng đồng thời phải không ngừng nâng cao đời sông tình thần cho dân tộc Mường. Đảng ta xác định : “Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hoá, xã hội và công bằng, văn minh, con người phát triển toàn diện và “thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh, không quan tâm giải quyết mối quan hệ phát triển kinh tế với sự công bằng và tiến bộ xã hội, thì không thể có sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững”. (22). Thứ hai , xây dựng một môi trường văn hoá xã hội lành mạnh cho dân tộc Mường. Môi trường xã hội - chính là nơi mà con người sinh sống và hoạt động, vì thế nó có vai trò hết sức quan trọng và ảnh hưởng tới tư tưởng, tình cảm, nếp nghĩ lối sống và các hoạt động xã hội của con người xã hội. Môi trường văn hoã - xã hội là cách thể hiện bên ngoài của tâm linh, tín ngưỡng, tôn giáo của con người xã hội. Môi trường văn hoá - xã hội trước hết là môi trường của gia đình và xã hội Mường ở Phú Thọ. Gia đình là tế bào của xã hội, được xem như một đơn vị xã hội, ở đó diễn ra các quá trình kinh tế và xã hội, song lại mang sắc thái huyết thống. Nơi đó con người được sinh ra, được nuôi dưỡng và trưởng thành chịu sự giáo dục của gia đình, hình thành đạo đức, tình cảm, nếp sống… của mỗi người. Từ đó mà phong trào đẩy mạnh xây dựng nếp sống văn minh trong các cộng đồng làng, xã là các muốn của các nhà lãnh đạo tỉnh và để giảm bớt sự phân hoá giàu nghèo và khoảng cách giữa miền núi và đồng bằng. Xây dựng môi trường văn hoá - xã hội cũng cần phải không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động củấcc thiết chế văn hoá mới như : nhà văn hoá, thư viện, bưu điện xã, đài phát thanh, truyền hình… bảo tồn và giữ gìn các di sản văn hoá dân tộc. Coi trọng bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống, xây dựng và phát triển những giá trị mới về văn hoá, văn học nghệ thuật. Đặc biệt cần thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước về nguồn tự do tín ngưỡng, không xâm phạm vào quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của công dân, loại bỏ mê tín dị đoan. Ba là, kết hợp giữa tuyên truyền giáo dục với việc tăng cường các biện pháp tổ chức, quản lý hành chính. Tuyên truyền giáo dục nhằm làm cho quần chúng nhân dân nhận thức được hai mặt trong hoạt động tín ngưỡng. Bản thân tín ngưỡng là sản phẩm của con người. Nó “tiêu cực” hay “tích cực” không phải ở chính bản thân nó mà là chỗ con người sử dụng, và đối xử với nó như thế nào. Thực tế trong lịch sử nhân loại và lợi ích dân tộc nhiều khi tín ngưỡng bị lợi dung vào các mục đích xấu, từ đó con người có “ảo giác” và “ác cảm” đối với nó, gán cho nó cái xấu, cái mê tín, dị đoan và vùi dập nó. Ở nhiều địa phương đặc biệt là các dân tộc thiểu số do điều kiện khách quan, lịch sử còn chưa tốt, mặt khác còn do hạn chế về mặt nhận thức, non yếu về lập trường, đã có những việc làm không đúng, thậm chí đi ngược với chính sách của Đảng và Nhà nước về việc tôn trọng tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Do vậy cần phải tuyên truyền giáo dục để mọi người thấy được vai trò xã hội của tín ngưỡng, bản chất của nó, rằng đâu chỉ tín ngưỡng chỉ là việc “đạo” mà còn là việc “đời” gắn liền với đời sống sinh hoạt cộng đồng. Tôn trọng tín tín ngưỡng là tôn trọng tồn rại khách quan, cần phải quán triệt tinh thần chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta và tự do tín ngưỡng. Trong “cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ nên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, nó được thể hiện bằng nghị định 69/HĐBT ngày 21.3.1991 : “nhà nước đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng và quyền tự do không tín ngưỡng, của công nhân, nghiêm cấm sự phân biệt và đối xử vì lý do tôn giáo hoặc tín ngưỡng”. Để tuyên truyền, giáo dục có kết quả cần phải tăng cường công tác quản lý hành chính bằng cách tăng cường hơn nữa chất lượng công tác của cán bộ văn hoá các cấp. Người làm công tác văn hoá vừa phải kiểm tra và giám sát, để đề nghị khen thưởng và sử phạt kịp thời, vừa là người định hướng dư luận khen chê. Đảng, nhà nước đã có những chính sách và bồi dướng nghiệp vụ, ưu đãi đối với người làm công tác văn hoá ở cơ sở, đặc biệt là ở các dân tộc thiểu số. Cán bộ văn hoá, phải kết hợp với các tổ chức Đảng, chính phủ xã, đoàn thể, gia đình… thậm chí còn phải đi sâu tới mọi gia đình, dòng họ để định hướng hoạt động thờ cúng, và tháo gỡ những vấn đề vướng mắc, đặc biệt là những vấn đề nhận thức, tâm lý, thói quen, truyền thống. Tóm lại, trong nhiều giải pháp ở trên, thì nó đã có tính khả thi nhất định, nhưng để hoạt động thờ cúng tổ tiên vận động theo chiều hướng tiến bộ, thì cần thực hiện đồng bộ các giải pháp ấy. Song nhằm thực hiện những giải pháp đó, thì cũng cần phải có những biện pháp cụ thể, thiết thực. Thờ cúng tổ tiên của dân tộc Mường, không chỉ là cách ứng xử của người sống đối với người đã khuất mà còn là cách ứng xử giữa người đang sống. Đây là nét độc đáo thể hiện thuần phong mỹ tục dân tộc ta. Trên cơ sở những định hướng chung và các giải pháp thì báo cáo đưa ra một số phương pháp cụ thể thuộc về phương pháp tổ chức đặng góp phần đóng góp phần định hướng đúng đắn, hoạt động thờ cúng tổ tiên vừa thể hiện đạo hiếu với tổ tiên, ông bà và vừa phù hợp với lòng người đang sống hôm nay. Hoạt động thờ cúng tổ tiên, trước hết phải là những hoạt động thể hiện lòng thành kính của mình với tổ tiên; nó được hiểu qua thái độ, hành vi cư xử của con cháu đối với ông bà, bố mẹ đang sống. Do đó cần phải tăng cường giáo dục, khích lệ lòng hiếu thảo của con cháu. Con cháu trong gia đình phải chăm sóc, phụng dưỡng ông bà, cha mẹ là tự nguyện phải thấy đó vừa là nghĩa vụ, vừa là tình cảm thành kính của con cháu đối với bậc đã sinh thành ra mình. Bên cạnh đó, thì cũng có những biện pháp khen thưởng bằng hiện vật, tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, những tấm gương điển hình về tuyên truyền để con cháu noi theo và học hỏi. Mặt khác, đối với những người ngược đãi và gây dư luận xấu có ảnh hưởng tới ông bà, cha mẹ. Về phía các bậc làm ông, bà, cha, mẹ, cũng phải thấy rằng, để con cháu tôn trọng mình thì không nên ỷ lại mình là bề trên mà áp đặt, thiếu tôn trọng lớp trẻ. Thương yêu trẻ không phải bằng : “thương cho roi cho vọt” hay “ghét cho ngọt cho bùi” mà trước hết bằng sự cảm hoá, cảm phục của con trẻ, bằng chính những hành vi của mình. Mỗi gia đình là một đơn vị tham gia tích cực và chấp hành tốt chỉ thị 27/CT-TW của Bộ Chính trị về việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang lễ, lễ hội. Nên tổ chức cải tiến các hình thức thờ cúng trong các tang ma, lễ hội đình, miếu… làm sao cho phù hợp với thời đại và phù hợp với bản sắc văn hoá riêng của mỗi dân tộc. Đối với mỗi người, việc thờ cúng tổ tiên nha là một quy luật khách quan. Do đó muốn có một gia đình biết dầm ấm và biết nhìn trước, sau… thì việc tuyên truyền các chính sách về tín ngưỡng, tôn giáo đến từng gia đình và mỗi gia đình phải có trách nhiệm phổ biến đến từng người trong gia đình của mình với những hình thức thích hợp nhất. Các biện pháp trên tuy cụ thể song vẫn mang tính chung, do đó chỉ là những biện pháp mang tính định hướng, mang tính phương pháp. Mỗi người, mỗi gia đình, mỗi dòng họ đều có hoàn cảnh khác nhau và có những nhận thức khác nhau, thói quen tâm lý do đó có thể có những biện pháp hữu hiệu, phù hợp với mình trong việc điều chỉnh thái độ và hành vi thờ cúng tổ tiên. KẾT LUẬN Tín ngưỡng là một bộ phận của ý thức xã hội ở dạng tâm lý xã hội phản ánh hư ảo, tồn tại xã hội và chịu sự quy định của tồn tại xã hội, là niềm tin của con người vào sự tồn tại và cứu giúp của một thực thể siêu nhiên nào đõ, biểu hiện thông qua nghi lễ thờ cúng của con người và cộng đồng người. Ở Việt Nam tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên có nguồn gốc bản chất chung như các loại hình tín ngưỡng khác, song nó có sắc thái riêng, mang đậm dấu ấn văn hoá của các dân nông nghiệp trồng lúa. Như đã nói ở trên Phú Thọ là cái nôi sinh ra con người, đây được coi là địa bàn cư trú sớm nhất của người Mường. Nơi đây thờ cúng tổ tiên được thể hiện đậm nét, mang những đặc trưng tiêu biểu. Nó không chỉ là một cách lý giải về vũ trụ, thế giới về các hiện tượng tự nhiên và trong cuộc sống của con người. Thờ cúng tổ tiên được hình thành từ xa xưa, trong quá trình tồn tại thì nó đã đan xen, dung hợp với các tín ngưỡng, tôn giáo khác. Nhưng nó vẫn còn giữ gnuyên được cái gọi là tinh hoa văn hoá, cái truyền thống, đặc trưng riêng… Hình thức thờ cúng lễ nghi thờ cúng của người Mường khá phong phú nhưng chủ yếu thể hiện ở các cấp độ sau : gia đình, họ tộc, làng (xã). Ngày nay, trong bối cảnh xã hội đang có những biến đổi sâu sắc về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá hoạt động thờ cúng tổ tiên của người Mường vẫn được duy trì nhưng nó đã thể hiện ra là khá phức tạp. Nó có xu hướng hình thức, phô trương lãng phí, trục lợi, phục hồi các hủ tục gần tiến đến tình trạng mê tín dị đoan, song xu hướng chủ đạo, là trở thành những hoạt động mang tính văn hoá và đạo đức xã hội, trở thành nét đẹp trong sinh hoạt cộng đồng. Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác-lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta về tín ngưỡng, tôn giáo, từ thực trạng của tình hình thờ cúng tổ tiên hiện nay, tác giả báo cáo đã mạnh dạn kiến nghị một số giải pháp chủ yếu để phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực trong hoạt động thờ cúng tổ tiên và góp phần làm thắng lợi chỉ thị 27/CT/TW của Bộ Chính trị vềviệc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang lễ, lễ hội trong giai đoạn hiện nay. Giải pháp nhằm định hướng hoạt động thờ cúng tổ tiên của người Mông ở Phú Thọ hiện nay nói riêng và trên phạm vi cả nước nói chung, đó là một việc không chỉ là việc “đạo” mà là việc “đời”. Trong mỗi chúng ta dù nhiều hay ít, dù trực tiếp hay gián tiếp đều có liên quan đến hoạt động thờ cúng tổ tiên. Bởi vậy, thái độ và trách nhiệm của mỗi con người chúng ta trước sự nghiệp phát huy giá trị văn hoá và đưa nước ta tiến lên cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2010 và sánh vai với các cường quốc năm châu./. TÀI LIỆU THAM KHẢO Sách : Người Mường đất tổ HùngVương - Nxb Giáo dục - 2000 Một thể hát đối đáp giữa người con trai Mường và người con gái mường. (Văn hoá nghệ thuật) - hoặc (Tìm hiểu cung bậc xướng) - Cao Viết Hải - Tạp chí : Di sản Văn hoá các dân tộc số 7 (2002) Thông tin KHXH chuyên đề (1998) “Tôn giáo và đời sống hiện đại” Tập 3 Hà Nội - Tr 312 Viện nghiên cứu tôn giáo (1994) về tôn giáo tập I - Nxb KHXH, Hà Nội, trang 46, 166. Thông tin KHXH chuyên đề (1997) Tôn giáo và đời sống nhân dân Tập I, Hà Nội, trang 24-25; 26 ; 30; 36 ; 165; 170; 174. C.Mác Luận cương (PPloi-ơ-Bắc, Các Mác - P.Ănghen tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 37-38. C.Mác Luận cương (PPloi-ơ-Bắc, Các Mác - P.Ănghen tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 41. Nguyễn Văn Đạm (1999) từ điển tiếng Việt - Nxb VH thông tin, Hà Nội, tra 823. Đặng Nghiêm Vạn (1998) “Bản chất của biểu hiện tôn giáo”, Triết hoạc (101), Hà Nội Tr 17-20. Nguyễn Chính (1998) “Đảng viên với tín ngưỡng tôn giao”. Tạp chí Cộng sản (6) Hà Nội, tr.38-42 Nguyễn Thí Bền (1997) “Tín ngưỡng và mê tín trong lễ hội truyền thống” - Tư tưởng văn hoá, 97 (3), tr 30-32. C.Mác (1995) - Luận cương về Phoi- ơ - Bắc, C.Mác - Ph.Ănghen toàn tập , tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội, tr12. C.Mác-Ph.Ănghen (1995) Hệ tư tưởng Đức , Toàn tập, Tập 3 Nxb Chính trị Quốc gia - Hà Nội, tr 37-38. C.Mác (1995) phê phán cương lĩnh Gôta, C.Mác - Ph.Ănghen Toàn tập, tập 19, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr 51. C.Mác (1995) Vấn đề do Thái, C.Mác - Ph.Ănghen Toàn tập, Tập I, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr 50. Ph.Ănghen (1995) chống “Duy Rinh”, C.Mác - Ph.Ănghen, Toàn tập, Tập 20 - Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, trang 47, 437. Ph.Ănghen (1995) chống “Duy Rinh”, C.Mác - Ph.Ănghen, Toàn tập, Tập 20 - Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, trang 438. U.T. Phơ rô-Lốp-Va (1987) Từ điển Triết học - Nxb Văn hoá chính trị (Bản dịch tiếng Nga), Mat-X.Cơ-va, tr 507. C.Mác (1994), Bài ghi lời phát biẻu của C.Mác về quyền thừa kế. - C.Mác-Ph.Ănghen, Toàn tập, tập 16, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tra 767 - 768. Văn hoá ứng xử các dân tộc - Nxb VHTT 2000, tr 270 Văn hoá ứng xử các dân tộc - Nxb VHTT 2000, tr 273 Đảng cộng sản Việt Nam (1996) Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr 14, 55.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docvh10.doc