Hợp nhất DN là khái niệm để chỉ hai hoặc một số DN cùng thỏa thuận chia sẻ tài sản, thị phần, thương hiệu với nhau để hình thành một DN hoàn toàn mới, với tên gọi mới (có thể gộp tên của hai DN cũ) trong khi đó chấm dứt sự tồn tại của các DN cũ. Điều 152, LDN năm 2005 đã định nghĩa hợp nhất DN là: “Hai hoặc một số công ty cùng loại (sau đây gọi là công ty bị hợp nhất) có thể hợp nhất thành một công ty mới (sau đây gọi là công ty hợp nhất) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty hợp nhất, đồng thời chấm dứt tồn tại của công ty bị hợp nhất”. Ví dụ: A + B = C, C là DN mới trên thị trường, A và B chấm dứt sự tồn tại kể từ khi hợp nhất.
95 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1061 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mua bán và sáp nhập doanh nghiệp nhìn từ khía cạnh quản trị doanh nghiệp: kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iện M&A không chỉ vì mục tiêu trước mắt là tăng lợi nhuận hoặc gia nhập nhanh chóng vào những lĩnh vực kinh doanh mới, mà hoạt động M&A đem lại hiệu quả tốt nhất cho cả một quy trình kinh doanh thường xuyên, lâu dài và ổn định. Những thỏa thuận tốt nhất thường là những thỏa thuận thúc đẩy những lĩnh vực kinh doanh đã có hoặc mở ra những lĩnh vực kinh doanh mới. Do vậy, các DN cần xác định mục tiêu chiến lược đúng mục tiêu mà DN mình đang nhắm tới, từ đó mới xác định được DN mục tiêu phù hợp và phương thức M&A đúng.
4.2.2. Lường trước những rủi ro khi thực hiện các thương vụ M&A
Khi thâm nhập thị trường các nước khác nhau, các DN thường gặp phải rất nhiều rủi ro từ những rào cản. Đó là những rào cản tự nhiên như sự khác biệt về văn hóa, sở thích thói quen của người tiêu dùng. Đó là rào cản về chính trị như chính sách thuế, hay quy định hành chính khác. Nhiều DN phải rút khỏi các thương vụ do gặp phải những rủi ro này.
4.2.3. Chính sách quản trị nhân sự ảnh hưởng đến sự thành công hay thất bại của các DN thời kỳ hậu M&A
Thiếu thông tin trong cộng đồng công ty
Theo khảo sát chung về vấn đề nhân sự trong quá trình M&A, dựa trên hồi đáp của 413 giám đốc nhân sự trong các công ty có trên 2.000 nhân viên, 70% ý kiến cho rằng, thiếu thông tin trong cộng đồng nhân viên là một trong những phần quan trọng nhất trong quá trình M&A. Thông tin không tốt trong cộng đồng nhân viên, giữa những nhân viên ở những cấp bậc khác nhau trong công ty, giữa hai công ty sáp nhập, là một trong những nhân tố chính dẫn đến M&A thất bại. Quản lý cấp trung và nhân viên ở cấp thấp hơn là những người chịu ảnh hưởng lớn từ quá trình sáp nhập. Có ít hơn 30% quản lý cấp trung và nhân viên được công ty thông báo về việc sáp nhập và mua lại. Vì thế, không có gì lạ khi nhiều nhân viên quản lý hiểu và biết rõ hơn về công ty của mình qua việc đọc báo hàng ngày hơn là nghe thông tin từ quản lý cấp cao của họ www.fpts.com.vn/vn/m-a/kien-thuc/2007/10/3b9b13ba/ - 57k -
.
Không phải chỉ riêng việc thiếu thông tin trong DN là vấn đề nghiêm trọng trong quá trình sáp nhập, sự giấu giếm thông tin có chọn lọc của một bộ phận quản lý cấp trung, những người bị ảnh hưởng bởi sáp nhập, sự mất lòng tin ở một bộ phận nhân viên cũng là vấn đề nghiêm trọng.
Thiếu sự đào tạo nhân viên
Thiếu sự đào tạo, không chỉ nhân viên trong DN sáp nhập, mà cả cấp quản lý và chuyên viên nhân sự, người theo dõi quá trình sáp nhập, là một trong yếu tố dẫn đến sự thất bại trong sáp nhập. Đào tạo là một thành phần thiết yếu trong quá trình trước và sau sáp nhập, cũng như trong quá trình đạt đến mục tiêu hợp nhất êm thấm. Tuy nhiên, trong các báo cáo gần đây của các giám đốc nhân sự những công ty lớn, chỉ 48% nói rằng được tham gia đào tạo và phát triển trong quá trình trước khi sáp nhập. Trong nhiều trường hợp, các chuyên gia nhân sự bị tách rời khỏi quá trình sáp nhập bởi vì họ bị nghĩ không đủ kiến thức khi đàm phán sáp nhập. Báo cáo nói rằng 81% giám đốc nhân sự tin rằng, “hầu hết các chuyên gia nhân sự không có những kiến thức kỹ thuật cần thiết về M&A” www.fpts.com.vn/vn/m-a/kien-thuc/2007/10/3b9b13ba/ - 57k -
. Do vậy, các nhà quản lý thường không thích có chuyên gia nhân sự trong quá trình sáp nhập bởi vì họ nghĩ phòng nhân sự không có những kỹ năng cần thiết cho quá trình đàm phán M&A. Nếu tình trạng này không thay đổi, các nhà quản lý sẽ không thể đạt hiệu quả trong quá trình sáp nhập và sẽ thiếu kiến thức cần thiết để có thể giải quyết những nhu cầu của công ty mới sáp nhập. Những nhà quản lý cần được đào tạo để có thể đáp ứng được nhu cầu của công ty lớn hơn. Nếu họ không được đào tạo kỹ, hiệu quả và lợi nhuận của công ty sẽ bị ảnh hưởng.
Thiếu sự hòa hợp văn hoá trong công ty
Ngay cả khi hai công ty dường như có tất cả những yếu tố thuận lợi cho vụ M&A thành công, thì sự khác biệt về văn hoá DN vẫn có thể làm hỏng thương vụ này. Nó không đủ nếu hai công ty xem như rất thích hợp với nhau trên giấy tờ, nếu nhân viên trong hai công ty không thể làm việc chung với nhau thì thương vụ này không thể thành công. Giới kinh doanh quốc tế đã chỉ ra rằng, thông tin kém và không có khả năng hoà hợp văn hoá là hai nguyên nhân chính của sự thất bại trong M&A. Khác biệt trong văn hoá không thể được giải quyết hiệu quả chỉ bằng các quyết định hành chính. Ngay cả những kế hoạch tốt nhất (bao gồm phân tích quy trình, chiến lược marketing, quy định pháp lý) cũng có thế thất bại nếu con người không thể làm việc chung với nhau. Nếu hai lực lượng lao động không thể cùng hợp tác dưới cùng mục tiêu định sẵn, thì ngay cả những kế hoạch tài chính tốt nhất cũng không thể thành công.
4.2.4. Chính sách quản trị tài chính sẽ ảnh hưởng tới sự thành công hay thất bại của hoạt động M&A
M&A được xem là một cách thức được các nhà QTDN sử dụng để làm tăng giá trị cổ phần cho các cổ đông, tăng giá trị và vị thế cho DN. Tuy nhiên, không phải thương vụ M&A nào cũng thu được các kết quả như vậy. Theo nghiên cứu của hãng kiểm toán Pricewaterhouse Cooper năm 2007 trên 1000 công ty, thì có hơn 2/3 công ty không đạt đến lợi nhuận mục tiêu của mình sau M&A, chỉ 46% thành công trong mục tiêu cắt giảm chi phí. Cũng theo báo cáo của hãng kiểm toán này thì có tới 60% - 80% các thương vụ M&A thất bại về tài chính khi đo lường năng lực của họ trên thị trường chứng khoán và sự gia tăng lợi nhuận.
Việc không chuẩn bị chi tiết kế hoach tài chính thời kỳ hậu M&A, mô hình quản trị tài chính ở công ty sau M&A không phát huy được hiệu quả, không tận dụng được hết các nguồn lực tài chính, quy mô của mình trong mục tiêu cắt giàm chi phí... là những nguyên nhân dẫn tới thất bại của thương vụ M&A. Chính vì vậy, dù cho thương vụ sáp nhập đó có giá trị hàng tỷ USD, các DN tham gia M&A đều có tiềm lực tài chính mạnh nhưng nếu không có một kế hoạch tài chính cho thời kỳ hậu M&A tốt cũng sẽ không phát huy được các lợi thế đó và dẫn đến thất bại.
Tóm lại, chương II đã giới thiệu khái quát quá trình hình thành và phát triển của hoạt động M&A trên thế giới, đánh giá tổng quan tình hình M&A thế giới trong một vài năm gần đây (2005 – 2007) đồng thời đưa ra những dự báo về xu hướng M&A thế giới trong năm 2008. Giới thiệu và rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ các mô hình kiểm soát M&A trên thế giới. Dựa trên cơ sở lý thuyết chương I, qua phân tích các thương vụ điển hình trên thế giới để tổng hợp nên những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Người viết nhận thấy M&A là một chiến lược phát triển mà các DN trên thế giới lựa chọn. Do hoạt động này có thể tạo ra giá trị cộng hưởng giúp các DN hoạt động hiệu quả hơn, thể hiện sự tăng doanh thu giảm chi phí và tăng năng lực cạnh tranh.
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG MUA BÁN VÀ SÁP NHẬP DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM
1. Thực trạng hoạt động M&A tại Việt Nam
1.1. Thực trạng hoạt động M&A ở Việt Nam
Trên thế giới, các hoạt động M&A được hình thành rất sớm và phổ biến ở các nước có nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh quyết liệt giữa các công ty với nhau, đồng thời cũng tạo ra xu thế tập trung lại để thống nhất nguồn lực tài chính, công nghệ, nhân lực, thương hiệu... Ngoài ra, hoạt động M&A còn thể hiện khía cạnh tôn trọng quyền tự do kinh doanh, tự do định đoạt DN của người chủ sở hữu. Ở nhiều nước, hoạt động M&A được pháp luật thừa nhận và quy định khá đầy đủ, chi tiết, nhất là các nước, khu vực có thị trường M&A phát triển cao như Châu Âu, Mỹ, Nhật Bản.
Tại Việt Nam, thị trường M&A cũng diễn ra sôi động với nhiều thương vụ có giá trị lớn. Theo số liệu tại hội thảo “Mua bán và sáp nhập doanh nghiệp” tại TPHCM ngày 10/7/2007, do Cục quản lý cạnh tranh, Bộ Công thương tổ chức, hoạt động M&A ở nước ta đã được khởi động từ năm 2000, đến năm 2005 cả nước có 18 vụ M&A với tổng giá trị là 61 triệu đô la. Năm 2006, số vụ M&A là 38 vụ với tổng giá trị là 299 triệu USD. Một số thương vụ M&A tiêu biểu năm 2006 như vụ ngân hàng Citigroup (Mỹ) kí bản ghi nhớ mua 10% cổ phần Ngân hàng Đông Á; Prudential mua 65% cổ phần công ty GreendFee (Việt Nam). Năm 2007, được đánh giá là một năm bùng nổ về M&A ở Việt Nam, ngay những tháng đầu năm 2007 Theo số liệu cục quản lý cạnh tranh
đã có 46 vụ M&A có tổng giá trị là 626 triệu USD, gấp đôi năm 2006 và gấp 15 lần so với năm 2005 (Bảng 3), 16 vụ trong nước và 30 vụ nước ngoài. Hết năm 2007, số thương vụ M&A là 113 vụ đạt tổng giá trị là 1.753 triệu USD, tăng 76% hay 1.350 tỷ USD so với năm 2006. Đặc biệt năm 2007, Việt Nam có một số vụ M&A điển hình có giá trị hàng triệu USD.
Bảng 8: Tổng giá trị & số lượng vụ M&A ở Việt Nam
Nguồn: Báo cáo của công ty kiểm toán Pricewaterhouse Cooper
Bảng 9: Các thương vụ M&A có giá trị cao ở Việt Nam năm 2007
STT
DN nhận M&A
DN mục tiêu
Số lượng cổ phần
Giá trị (triệu USD)
1
16 đối tác gồm: PVFC, ACBS, Kinh đô
Eximbank
17,8%
248
2
Indochina Capital
CTCP Địa ốc Hoàng Quân
20%
20
3
Indochina Capital
CTCP Tư vấn TM & dịch vụ đia ốc Hoàng Quân - Mekong
20%
12
4
Tập đoàn Soitz (Nhật)
Interflour
20%
50
5
Vina capital
Khách sạn Ommi Saigon
70%
21
Nguồn: Cục quản lý, Bộ Công thương Việt Nam
Thị trường M&A của Việt Nam năm qua cũng chứng kiến sự ra đời của nhiều công ty hoạt động liên quan đến lĩnh vực M&A và một số công ty hoạt động chuyên biệt trong lĩnh vực này. Hình thức của các công ty này cũng rất đa dạng. Một số công ty điển hình có thể kể đến như công ty Del Partners, liên doanh giữa Del Partners và Audon Partners, Tiger Invest... Đặc biệt, ở Việt Nam đã xuất hiện một số trang web chuyên về M&A giúp các DN tự do tìm hiểu và tiến hành M&A với nhau như: Muabancongty.com của Công ty cổ phần đầu tư tài chính Việt Nam (Tiger Invest); Muabandoanhnghiep.com của công ty IDJ
1.2. Đặc điểm hoạt động M&A tại Việt Nam
Có thể tóm tắt một số điểm cơ bản về hoạt động M&A ở Việt Nam qua một số điểm nổi bật như sau:
Thứ nhất, đa số các thương vụ M&A có giá trị lớn tại Việt Nam đều có yếu tố nước ngoài, chỉ một số nhỏ thương vụ M&A giữa DN trong nước như Ngân hàng ACB mua ngân hàng Đại Á, Kinh Đô mua Tribeco hay Gạch Đồng Tâm mua Sứ Thiên Thanh. Hầu hết những vụ còn lại đều có sự tham gia của ít nhất một bên là DN nước ngoài. Trong đó, có trường hợp DN nước ngoài mua lại toàn bộ cổ phần hoặc cổ phần chiến lược của DN trong nước như thương vụ công ty Daiichi Nhật Bản mua lại toàn bộ Công ty bảo hiểm nhân thọ Bảo Minh CMG, Ngân hàng AZN đầu tư vào Ngân hàng Sacombank và Công ty chứng khoán SSI; ngân hàng HSBC - ngân hàng Techcombank; Dragon Capital -Vinamilk, REE Corp... Ngược lại cũng có trường hợp DN trong nước mua lại DN nước ngoài như Kinh Đô mua kem Wall’s, Vinabico mua lại Kotobuki Vietnam; và trường hợp sáp nhập giữa hai DN đầu tư nước ngoài như Savills - Chesterton Vietnam.
Sự hiện diện của yếu tố nước ngoài trong hoạt động M&A tại Việt Nam có thể được giải mã qua ba lý do sau. Trước hết, DN nước ngoài có ưu thế về kinh nghiệm và trình độ quản lý trong việc tiến hành các hoạt động M&A, trong khi các DN Việt Nam còn bỡ ngỡ, nên không thể nắm thế chủ động trong hoạt động này. Thứ hai, DN nước ngoài mới tạo ra nguồn “hàng hóa” tốt cho cả cung và cầu trong hoạt động M&A. Với tiềm lực tài chính của mình, các DN này mới là khách hàng của những thương vụ hàng tỷ USD trong khi các DN trong nước không thể với tới. Mặt khác, các DN trong nước cũng chỉ muốn liên doanh, liên kết với DN nước ngoài nhằm khai thác những thương hiệu tên tuổi và bề dày kinh nghiệm quản lý. Thứ ba, M&A là một hình thức đầu tư hiệu quả và phổ biến giúp các DN nước ngoài thâm nhập thị trường nội địa mà không phải chịu phí tổn thành lập, xây dựng thương hiệu và thị phần ban đầu. Đặc biệt, trong bối cảnh thị trường dịch vụ được bảo hộ theo lộ trình cam kết WTO thì M&A là một trong những con đường ngắn nhất để các DN nước ngoài tiếp cận mạng lưới bán lẻ của Việt Nam.
Thứ hai, hình thức M&A của Việt Nam mang tính “thân thiện” nhiều hơn. Hầu như thị trường chưa ghi nhận vụ thôn tính mang tính thù địch nào. Các vụ sáp nhập thể hiện rõ sự hợp tác và ở một góc độ nào đó có thể nói, vẫn mang hơi hướng của hình thức liên doanh giữa nhà đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài trước đây.
Thứ ba, cách thức và tác nghiệp hoạt động M&A của DN Việt Nam còn sơ khai và chưa có quy định hướng dẫn cụ thể. Các vụ M&A chủ yếu là thâu tóm hay mua bán DN (toàn bộ hoặc một phần). Hầu như ở Việt Nam chưa có trường hợp hợp nhất DN. Hơn nữa, trình độ quản lý của các DN Việt Nam chưa thể đáp ứng được mức độ hợp tác cao mà các vụ hợp nhất đòi hỏi. Các DN trong nước vẫn chưa có nhiều thông tin, hiểu biết về các điều kiện, thủ tục M&A. Kết quả các thương vụ M&A thời gian qua chủ yếu là do sự tìm hiểu, đàm phán của các đối tác riêng rẽ với nhau, còn nhà đầu tư bên ngoài vẫn đứng ngoài cuộc chơi, chưa tìm được kênh đổ vốn vào hình thức kinh doanh mới này. Ngoài ra, rất nhiều vụ được xếp vào M&A nhưng thực chất thiên về đầu tư tài chính. Đó chỉ là những trường hợp nắm vốn của nhau, mua lại cổ phần lớn để trở thành đối tác chiến lược, ví dụ thương vụ công ty tài chính VinaCapital đầu tư vào hãng Phở 24; công ty tài chính Indochina Capital - tập đoàn Mai Linh; Jaccar Fund - Hoàng Anh Gia Lai mà không nhắm đến khống chế sở hữu và điều hành công ty. Mặc dù vậy, trong một số lĩnh vực tài chính ngân hàng DN nước ngoài cũng không có cách lựa chọn nào khác do những hạn chế mua cổ phần không quá 30% (ngân hàng), 49% (DN niêm yết), như trường hợp ngân hàng ANZ - công ty chứng khoán SSI, ngân hàng Sacombank; ngân hàng Standard Chatter - Ngân hàng ACB...
Thứ tư, cách thức xây dựng thị trường M&A của Việt Nam cũng thể hiện nhiều bất cập. Các DN Việt Nam thiếu một “nơi gặp gỡ” để cho các DN trao đổi và thực hiện M&A. Từ đó, một số trang web như Muabancongty.com của Công ty cổ phần đầu tư tài chính Việt Nam (Tiger Invest); Muabandoanhnghiep.com của công ty IDJ; Sanmuabandoanhnghiep.com của công ty ICE đã được lập và được coi là “sàn giao dịch” của thị trường M&A. Tuy nhiên, trên thực tế hoạt động M&A trên thế giới không diễn ra trên những trang web mang tính chất rao vặt như vậy. Ngược lại, chúng được thực hiện qua những tác nghiệp mang tính chuyên nghiệp cao, trong những phòng họp kín. Nội dung thương thảo M&A bao giờ cũng cần được giữ tuyệt mật cho đến phút chót bởi chúng có thể ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh và giá trị cổ phiếu của các công ty, thậm chí hủy hoại ngay cả dự định M&A đang được tiến hành. Do đó, những trao đổi thể hiện trên các trang web như cách một số DN Việt Nam đang làm chỉ phù hợp để tìm kiếm cơ hội mua bán các cơ sở sản xuất, cửa hàng, thương hiệu rất khiếm tốn. Tâm điểm của hoạt động M&A chính là các công ty tư vấn chuyên nghiệp về hoạt động này. Họ vừa đóng vai trò môi giới vừa làm tư vấn cho các bên trong thương vụ M&A. Các thể chế tài chính ngân hàng của Mỹ như Citigroup, Goldman Sachs, Morgan Stanley, Merill Lynch, JPMorgan Chase đều là những công ty tư vấn hàng đầu về M&A trên phạm vi toàn thế giới.
Như vậy, hoạt động M&A của Việt Nam đã phát triển với tốc độ nhanh chóng và các hình thức cũng đa dạng hơn. Tuy nhiên, việc kiểm soát các hoạt động M&A tại Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập cần sửa đổi bổ sung trong thời gian tới. Việc hoàn thiện khung pháp lý giúp cho các nhà đầu tư thuận lợi hơn khi đầu tư vào Việt Nam thông qua M&A. Các giao dịch về M&A cũng sẽ thuận lợi hơn khi Việt Nam thực hiện cam kết gia nhập WTO là mở cửa các lĩnh vực dịch vụ như viễn thông, ngân hàng, tài chính.
2. Thực trạng khung pháp lý về hoạt động M&A tại Việt Nam
Cơ sở pháp lý cho hoạt động M&A tại Việt Nam được thể hiện trong Luật doanh nghiệp năm 2005 (LDN), Bộ Luật dân sự, Luật đầu tư 2004 (LĐT), Luật Cạnh tranh năm 2004 (LCT) và các Thông tư, Nghi định hướng dẫn khác. Hoạt động M&A được quy định trong luật Việt Nam như sau:
Thứ nhất, về các hình thức giao dịch. Cách thông thường nhất của hoạt động M&A là mua (nhận chuyển nhượng) phần vốn góp trong một công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) hoặc công ty cổ phần (CP), hay đóng góp thêm vốn hoặc mua cổ phần phát hành thêm của công ty định đầu tư. Công ty TNHH và công ty CP là hai loại hình DN chính trong LDN năm 2005, áp dụng cho DN nước ngoài và cả các DN có vốn đầu tư nước ngoài (FIE). Các hình thức giao dịch khác được quy định trong LDN bao gồm sáp nhập, hợp nhất, chia và tách DN, nhưng các hình thức này thường được sử dụng trong việc tổ chức lại công ty. Hình thức bán tài sản cũng có thể được áp dụng, tuy nhiên hầu hết được điều chỉnh bởi các quy định pháp luật về hợp đồng, còn LDN gần như không đề cập gì đến vấn đề này.
Đối với hoạt động mua bán cổ phần trong DN FIE tại Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư lần đầu có thể xem xét việc mua cổ phần của công ty nước ngoài đang nắm giữ cổ phần trong DN FIE tại Việt Nam. Do đây sẽ là một giao dịch diễn ra ở nước ngoài nên nó sẽ không cần phải được phê duyệt hay đăng ký tại Việt Nam, ngoại trừ trường hợp DN FIE đang được xem xét đó thay đổi tên công ty do kết quả của hoạt động mua bán cổ phần.
Thứ hai, về việc đăng ký của các DN FIE. Theo quy định của LDN năm 2005, LĐT năm 2005 và các quy định hướng dẫn thi hành, các DN FIE đã thành lập theo luật cũ được quyền lựa chọn đăng ký lại theo quy định của luật mới cho đến ngày 01/07/2008. Nếu không, sẽ tiếp tục hoạt động theo giấy phép đầu tư đã cấp cho đến khi kết thúc thời hạn dự án. Các DN FIE sẽ đăng ký lại theo hình thức pháp lý tương ứng theo quy định của LDN năm 2005, bao gồm hình thức công ty TNHH một thành viên, công ty TNHH hai thành viên trở lên và công ty CP, trừ phi DN muốn thực hiện việc chuyển đổi hình thức pháp lý DN. Cùng với việc đăng ký lại, các DN FIE có thể thực hiện việc chuyển đổi hình thức giữa công ty TNHH và công ty CP, phụ thuộc vào số lượng các nhà đầu tư. Việc chuyển đổi về cơ bản sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức lại DN và tiến hành các hoạt động M&A sau này
Thứ ba, về việc nắm giữ cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong các công ty trong nước. Việc đầu tư vốn tư nhân bởi các nhà đầu tư nước ngoài vào các công ty trong nước đã được phép thành lập từ năm 2000. Các công ty trong nước ở đây bao gồm các công ty được thành lập bởi các nhà đầu tư trong nước và các DN nước ngoài cổ phần hoá. Tỷ lệ sở hữu vốn của các nhà đầu tư nước ngoài trong các công ty trong nước bị hạn chế bởi các giới hạn sau đây:
- Đối với các công ty chưa niêm yết, theo Quyết định số 36/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 11/03/2003, các nhà đầu tư nước ngoài có thể mua và nắm giữ cổ phần trong các công ty trong nước nhưng không được quá 30% vốn điều lệ, tuy nhiên điều này chỉ được phép đối với một số lĩnh vực và ngành nghề kinh doanh nhất định
- Đối với các công ty đã niêm yết, mức nắm giữ tối đa của các nhà đầu tư nước ngoài là 49% theo Quyết định số 238/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 29/09/2005, trừ lĩnh vực ngân hàng.
- Tổng mức sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài không vượt quá 30% vốn điều lệ của một ngân hàng Việt Nam (Nghị định 69/2007/NĐ-CP ngày 20/04/2007).
Quyết định số 36 được ban hành trên cơ sở các luật cũ mà hiện nay được thay thế bởi LDN và LĐT năm 2005 có hiệu lực từ ngày 01/07/2006. Quyết định này sẽ được thay thế bởi một nghị định của Chính phủ, phù hợp với các cam kết của Việt Nam với WTO. Theo đó, các nhà đầu tư nước ngoài được phép góp vốn hoặc mua cổ phần trong các DN Việt Nam với hạn mức chung không vượt quá 30% vốn điều lệ DN trong năm đầu tiên sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Tuy nhiên, nghị định này hiện vẫn được ban hành dù một vài dự thảo đã được soạn lập và lấy ý kiến. Do vậy, Quyết định số 36 trong thực tế vẫn được áp dụng bởi các cơ quan nhà nước trong nhiều trường hợp. Chính do sự thiếu hụt cơ sở pháp lý này, nhiều giao dịch M&A kể từ cuối năm 2006 liên quan đến nhà đầu tư nước ngoài đã bị ách tắc ở khâu đăng ký và thủ tục xin phê duyệt trong thời gian chờ nghị định mới hướng dẫn.
Thứ tư, về thủ tục cho phép và chấp nhận. Nhìn chung, các giao dịch M&A phải tiến hành đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền. Đối với các công ty TNHH, mọi giao dịch về vốn góp phải được đăng ký tại Cơ quan đăng ký kinh doanh để ghi nhận việc thay đổi nhà đầu tư hoặc thành viên công ty. Các giao dịch của công ty CP thì thuận lợi hơn, việc đăng ký chỉ yêu cầu trong một số trường hợp. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng nếu nhà đầu tư nắm giữ từ 5% tổng số cổ phần của công ty trở lên, thì phải báo cáo và đăng ký tại cơ quan đăng ký kinh doanh. Đối với các công ty đại chúng và các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán, phải công bố và thông báo theo yêu cầu của Luật Chứng khoán cho các giao dịch M&A. Các DN FIE không tiến hành việc đăng ký lại theo quy định mới thì việc chuyển nhượng vốn pháp định hơặc cổ phần phải được sự chấp thuận của Cơ quan đã cấp giấy phép đầu tư cho DN. Về hình thức pháp lý, các DN FIE này vẫn là công ty TNHH.
Thứ năm, về kiểm soát hoạt động M&A. LCT quy định M&A là một hoạt động tập trung kinh tế. Và kiểm soát hoạt động M&A thông qua kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế. Đặc biệt, Luật sử dụng ngưỡng thị phần để kiểm soát hoạt động M&A, theo đó những DN nào có mức tập trung kinh tế trên hơn 50% thị trường liên quan (trừ một số trường hợp được miễn trừ theo quy định của Luật này). Tuy nhiên, điểm bất cập của Luật này là không quy định rõ khái niệm về thị trường liên quan. Và trong trường hợp một DN kinh doanh nhiều mặt hàng trên thị trường khác nhau, thì tùy theo các cách tính khác nhau có thể dẫn tới kết quả là DN có thể bị coi là có “tập trung kinh tế” trên 50% hoặc có thể dưới.
3. Triển vọng phát triển của hoạt động M&A ở Việt Nam
3.1. Hoạt động M&A Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
Mặc dù hoạt động M&A ở Việt Nam trong thời gian gần đây phát triển mạnh và đã có thương vụ M&A có giá trị hàng triệu USD. Tuy nhiên, đứng trước bối cảnh Việt Nam đang dần hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới thì đi kèm với những cơ hội và thuận lợi là những rủi ro lớn.
Những thuận lợi đó là các nhà đầu tư nước ngoài có thể dễ dàng tiếp cận thị trường Việt Nam một cách nhanh nhất thông qua việc hoạt động M&A và đây sẽ là một nguồn thu hút FDI lớn cho Việt Nam. Bên cạnh đó, các DN nước ngoài sáp nhập, hợp nhất hay mua lại các DN trong nước, sẽ giúp làm tăng giá trị thương hiệu, uy tín, chất lượng và công nghệ, kỹ năng và kinh nghiệm quản trị.
Tuy nhiên, đi kèm với những thuận lợi là các rủi ro và khó khăn. Thứ nhất, hoạt động M&A còn khá mới ở Việt Nam nhưng trên thế giới hoạt động này đã có từ lâu và phát triển với quy mô lớn. Các nhà đầu tư nước ngoài đã quen thuộc với các hoạt động này nên họ sẽ có kinh nghiệm hơn đầu tư vào Việt Nam theo hình thức này. Đặc biệt trong bối cảnh hội nhập hiện nay, các DN Việt Nam phải đối mặt với hai vấn đề lớn hiện nay đó là:
Hội nhập WTO sẽ làm giảm đáng kể các yếu tố bảo hộ của Nhà nước đối với các DN trong nước. Họ sẽ phải đối phó với sự cạnh tranh trực tiếp của các đối thủ nước ngoài;
Đa số các DN Việt Nam có quy mô vốn nhỏ cho nên tính cạnh tranh thực sự hạn chế so với DN nước ngoài.
Một điểm đáng lưu ý nữa là theo nguyên tắc Đối xử quốc gia thì sau khi Việt Nam gia nhập WTO, các DN nước ngoài cũng sẽ được hưởng các ưu đãi giống như DN trong nước và yếu tố bảo vệ môi trường duy nhất cho DN Việt Nam là lộ trình “mở cửa” dần dần mà chính phủ Việt Nam cam kết. Lộ trình này dài nhất cũng chỉ là 12 năm (thời gian mà sau đó Việt Nam được công nhận nền kinh tế thị trường). Khi đó các DN nước ngoài sẽ có những quyền lợi như các DN trong nước. Với tiềm lực tài chính, kinh nghiệm của mình họ có thể thông qua các hoạt động M&A để thâu tóm các DN trong nước một cách dễ dàng. Chính vì vậy, việc cần thiết phải ban hành một khuôn khổ pháp lý cho hoạt động M&A cần phải được xây dựng sớm nhằm hạn chế những tác động xấu đồng thời cũng tạo điều kiện tốt của hoạt động M&A đem lại.
3.2. Triển vọng hoạt động M&A ở Việt Nam trong thời gian tới
Hoạt động M&A đang diễn ra hết sức sôi động ở hầu hết các châu lục trên thế giới. Theo kết quả điều tra của Công ty kiểm toán tài chính quốc tế PricewaterhouseCooper, trong thời gian tới hoạt động M&A của Châu Á – Thái Bình Dương sẽ vượt qua Tây Âu, Đông Âu và Mỹ Latinh và trở thành khu vực được các DN lựa chọn nhiều nhất để tiến hành các thương vụ M&A xuyên quốc gia do xu hướng cổ phần hoá, tư nhân hoá đang trở nên phổ biến hơn ở nhiều nước, đặc biệt là tại các nền kinh tế đang phát triển trong khu vực. Việt Nam cũng được các nhà đầu tư đánh giá là một thị trường M&A hấp dẫn và mở đầu cho sự gia tăng mạnh mẽ các hoạt động tập trung kinh tế dưới hình thức M&A trong những năm tới. Đặc biệt, trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập WTO, hàng năm sẽ có rất nhiều các nhà đầu tư nước ngoài đầu vào quốc gia này. Hơn nữa, việc Mỹ thông qua Quy chế Thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR), các hoạt động đầu tư, M&A và các dịch vụ kèm theo sẽ trở nên nhộn nhịp hơn bao giờ hết.
Ở Việt Nam, mỗi năm lại có thêm hàng nghìn DN mới thành lập, đa phần trong số đó là các DN có quy mô vừa và nhỏ. Đối với thị trường mới nổi như Việt Nam, việc các DN này có thể tồn tại và phát triển được không dễ nên thông thường sẽ có tới 50% tổng số DN sẽ gặp khó khăn ngay trong 2 năm đầu tiên, 80% tổng số DN sẽ khó tồn tại trong 5 năm tiếp theo Theo số liệu của Tổng cục thống kê
. Tuy nhiên, các DN không tồn tại được không có nghĩa là họ sẽ phá sản, giải thể mà có thể họ trở thành đối tượng của các nhà đầu tư trong hoặc ngoài nước mua lại để gia nhập vào hoạt động kinh doanh trên thị trường một cách nhanh nhất. Điều này là cơ sở minh chứng một thị trường tiềm năng cho hoạt động M&A tại Việt Nam trong những năm tới.
Đặc biệt, khi Việt Nam mở cửa hoàn toàn thị trường tài chính vào năm 2010. Khi đó, mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn, các dịch vụ truyền thống như tín dụng ngày càng có lợi nhuận thấp hơn sẽ đẩy các ngân hàng phải phát triển các dịch vụ tài chính khác mới đáp ứng được các nhu cầu của khách hàng và cho sự tích lũy lợi nhuận của mình. Nhiều ngân hàng Việt Nam hiện nay xét cả về quy mô, nguồn nhân lực, trình độ công nghệ và quản lý chưa đủ khả năng hoạt động trên các lĩnh vực dịch vụ tài chính mới. Từ đó sẽ xuất hiện nhu cầu liên minh hay sáp nhập các ngân hàng với nhau, hoặc sáp nhập với các ngân hàng lớn nhằm tăng cường năng lực chiếm lĩnh thị phần, tăng lợi nhuận. Còn các ngân hàng lớn, đặc biệt là các ngân hàng nước ngoài, muốn gia nhập thị trường hoặc mở rộng thị phần bằng cách nhanh nhất sẽ cần đến M&A. M&A là chiến lược kinh doanh ngắn nhất để đạt hiệu quả cao và cũng là phương thức đầu tư ít tốn kém nhất. Ngoài ra, M&A sẽ là mục tiêu của các công ty chứng khoán khi thị trường niêm yết hiện đang trong thời kỳ điều chỉnh và các công ty chứng khoán không còn thu được những khoản lợi nhuận lớn như những năm trước. Các công ty này sẽ chuyển hướng tập trung tài chính, nguồn nhân lực sang thực hiện hoạt động này.
Như vậy, với việc ra đời Nghị định về M&A có liên quan đến yếu tố nước ngoài, cũng như hoàn thiện khuôn khổ pháp lý của Việt Nam theo cam kết gia nhập WTO sẽ giúp cho các hoạt động M&A tại Việt Nam phát triển hơn nữa trong những năm tới đây. Việt Nam sẽ là điểm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài và M&A sẽ là phương thức nhanh nhất và tiết kiệm nhất cho các nhà đầu tư.
4. Một số giải pháp cho hoạt động M&A ở Việt Nam
4.1. Nhóm giảp pháp về phía Nhà nước và các bộ ban ngành liên quan
4.1.1. Đảm bảo môi trường kinh tế - chính trị - xã hội ổn định
Môi trường chính trị chi phối mạnh mẽ đến hoạt động kinh doanh của các DN. Sự thay đổi của môi trường chính trị có thể ảnh hưởng có lợi cho nhóm DN này nhưng lại kìm hãm sự phát triển của nhóm DN khác hoặc ngược lại. Sự ổn định chính trị được xác định là một trong những tiền đề quan trọng cho hoạt động kinh doanh của DN. Một môi trường pháp lý đồng bộ, lành mạnh vừa tạo điều kiện thuận lợi cho các DN tiến hành hoạt động kinh doanh vừa kiểm soát các hoạt động kinh tế theo hướng không phải chỉ chú ý đến kết quả và hiệu quả riêng, mà phải đảm bảo lợi ích kinh tế của mọi thành viên trong xã hội. Hệ thống pháp luật hoàn thiện, không thiên vị là một trong những tiền đề ngoài kinh tế của kinh doanh. Mức độ hoàn thiện, sự thay đổi và thực thi pháp luật trong nền kinh tế có ảnh hường lớn đến việc hoạch định, tổ chức thực hiện chiến lược kinh doanh của DN. Do đó, đòi hỏi các DN phải nắm vững pháp luật nước sở tại và thông lệ quốc tế để tiến hành hoạt động kinh doanh của mình trong khuôn khổ của hành lang pháp lý. Có như vậy mới đảm bảo hiệu quả kinh tế.
Trong thời gian qua, môi trường kinh tế vĩ mô của Việt Nam chưa thực sự ổn định, nền kinh tế thị trường phát triển ở trình độ thấp, khung thể chế đảm bảo cho hoạt động của các thành phần kinh tế chưa đồng bộ. Các chủ thể kinh tế còn manh mún, sự can thiệp hành chính vào hoạt động các DN còn lớn, quyền lợi của các DN Việt Nam chưa được đảm bảo bằng pháp luật, đặc biệt khi xảy ra tranh chấp. Nhiều quy định, chính sách chưa phù hợp với nguyên tắc kinh tế thị trường và các thông lệ chuẩn mực quốc tế, nhiều nghiệp vụ có tác dụng giảm thiểu và phân tán rủi ro chưa được đưa vào áp dụng rộng rãi. Tuy nhiên, nhu cầu cải cách, hội nhập đã và đang trở thành động lực cấp thiết để đẩy mạnh những thay đổi về môi trường kinh tế vĩ mô của Việt Nam. Để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của các DN hiệu quả và an toàn hệ thống pháp luật phải không ngừng cải thiện, tạo môi trường pháp lý rõ ràng, minh bạch, tiến tới phù hợp với các thông lệ quốc tế. Chính phủ xem xét chỉ đạo các cơ quan chính phủ, các bộ ban hành những văn bản để đảm bảo quyền và lợi ích của các DN Việt Nam.
4.1.2. Tăng kiểm soát thông tin cũng như tính minh bạch hoá của thông tin
Việt Nam cần phải xây dựng được kênh kiểm soát thông tin, tính minh bạch hoá trong hoạt động kinh doanh nói chung, hoạt động M&A nói riêng. Bởi vì, trong hoạt động M&A, thông tin về giá cả, thương hiệu, thị trường, thị phần, quản trị, con người... là vô cùng quan trọng cho cả bên mua, bên bán. Nếu thông tin không được kiểm soát, không minh bạch thì có thể gây nhiều thiệt hại cho cả bên mua, bên bán, đồng thời ảnh hưởng nhiều đến các thị trường khác như thị trường hàng hóa, chứng khoán, ngân hàng. Giống như các thị trường khác, thị trường M&A hoạt động có tính dây truyền, nếu một vụ M&A lớn diễn ra không thành công hoặc có yếu tố không minh bạch thì hậu quả cho nền kinh tế là rất lớn vì có thể cổ phiểu, trái phiếu, hoạt động kinh doanh, đầu tư... của DN đó nói riêng và các DN liên quan bị ảnh hưởng theo. Hơn nữa, M&A có thể dẫn đến độc quyền, do đó rất cần sự kiểm soát của nhà nước để không ảnh hưởng đến nền kinh tế, người tiêu dùng. Để có thể kiểm soát được thông tin, thị trường được minh bạch hóa hơn thì các cơ quan quản lý nhà nước nên có các biện pháp quản lý chặt chẽ như: Xây dựng các chế tài phạt nghiêm khắc (gấp hai hay ba lần lợi nhuận mà DN đạt được từ việc không minh bạch, đưa nguồn tin sai) đối với các DN không thực hiện đúng quy định; Xây dựng danh mục định mức tín nhiệm cho các DN ở Việt Nam, chính điều này sẽ tự kích thích các DN phải thay đổi cách thức kinh doanh
Đặc biệt, trong việc kiểm soát các thông tin về tài chính, bộ tài chính nên ban hành các văn bản pháp luật quy định chặt chẽ và thống nhất nhằm tránh tình trạng các DN sử dụng hai hệ thống sổ sách kế toán. Một được hạch toán dựa trên các hoá đơn chứng từ hợp pháp và đầy đủ, và là cơ sở để soạn lập báo cáo thuế và quyết toán cuối năm. Các số liệu này cũng được dùng để đưa lên là các thông tin chính thức khi công bố ra bên ngoài. Một hệ thống sổ sách khác được lập để theo dõi nội bộ trong đó có các khoản doanh thu và chi phí vì nhiều lý do mà không có hoá đơn chứng từ hợp lệ nên khi định giá DN trong hoạt động M&A sẽ không còn chính xác và đúng giá trị thực của DN đó.
4.1.3. Tổ chức nhiều hơn nữa các cuộc hội thảo, giới thiệu về hoạt động M&A tới các nhà quản trị doanh nghiệp
Hoạt động M&A đã có từ lâu trên thế giới và ích lợi mà hoạt động này mang lại cho các các bên tham gia M&A là điều mà mọi DN mong muốn có được. Tuy nhiên, hoạt động này lại rất mới mẻ ở Việt Nam. Không phải các nhà quản trị DN Việt Nam đều biết tới nó, đặc biệt với các công ty có quy mô vừa và nhỏ. Trong khi đó, theo số liệu của Tổng cục thống kê cho đến năm 2007, Việt Nam có khoảng 300.000 DN vừa và nhỏ. Và nhiều DN đang trong tình trạng làm ăn thua lỗ và có nguy cơ phá sản hoặc nhiều DN muốn chuyển hướng đầu tư kinh doanh sang lĩnh vực khác. Thông qua hoạt động M&A, các DN này đều có thể đạt được mục đích. Các DN làm ăn kém hiệu quả có cơ hội vực dậy thông qua sáp nhập, hợp nhất với một DN khác; các DN mạnh có thêm nguồn vốn, thâm nhập thị trường (trong nước hay quốc tế) mới nhanh với chi phí thấp nhất, tăng cường ảnh hưởng và vị thế. Hơn nữa, xét về tổng thể nguồn đầu tư trong toàn xã hội được sử dụng hiệu quả hơn. Nhưng hầu hết các DN đều không biết hay không hiểu rõ loại hình hoạt động này. Các DN không nắm rõ quy trình các bước thực hiện M&A; bên bán không biết bán cho ai, vào lúc nào; bên mua có tâm lý sai lầm trong quyết định mua; họ không biết nên chọn loại hình mua bán hay sáp nhập hay hợp nhất là phù hợp với điều kiện của cả bên mua và bên bán Dẫn tới nhiều các DN phá sản, giải thể một cách không đáng có, mà nếu tiến hành M&A thì tỉ lệ thành công các thương vụ đó thường không cao. Do vậy, cần tổ chức nhiều hơn nữa các cuộc hội thảo, giới thiệu về hoạt động M&A cho các nhà quản trị DN, nhất là các DN có quy mô vừa và nhỏ.
4.1.4. Hoàn thiện khung pháp lý và kiểm soát hoạt động M&A
Đây là biện pháp cần thiết và quan trọng nhất hiện nay của nhà nước. Khung pháp lý về hoạt động M&A cần chuyên biệt, không dựa quá nhiều trên các khung pháp lý dành cho cổ phần hóa, phát hành và niêm yết chứng khoán. Hiện nay, các quy định liên quan đến hoạt động M&A mới chỉ dừng lại ở việc xác lập về mặt hình thức của hoạt động M&A, trong khi đó, các vấn đề về mặt nội dung cần phải được quy định đầy đủ hơn nữa bởi vì hoạt động M&A còn có nhiều nội dung liên quan đến định giá DN, giải quyết các vấn đề tài chính, cổ phần, cổ phiếu, người lao động, thuế, phí... của DN trong và sau M&A. Khung pháp lý này sẽ tạo điều kiện để xác lập giao dịch, địa vị của bên mua, bên bán, hậu quả pháp lý sau khi kết thúc giao dịch. Do đó nếu muốn phát triển hoạt động M&A, Việt Nam phải hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động M&A.
Qua kinh nghiệm của các nước trên thế giới, trên cơ sở đối chiếu, so sánh với cơ chế và pháp luật về kiểm soát hoạt động M&A của Việt Nam có thể rút ra một số biện pháp cho kiểm soát hoạt động M&A tại Việt Nam:
Thứ nhất, về tổ chức, nên có một bộ phận riêng nằm trong Cục Quản lý cạnh tranh để thi hành các quy định về việc xem xét các vụ M&A và để phối hợp với các cơ quan khác trong kiểm soát hoạt động M&A. Theo LCT năm 2005 và LDN năm 2005, việc kiểm soát các hành vi sáp nhập, hợp nhất, mua lại giữa các DN có sự tham gia của các cơ quan là các cơ quan quản lý cạnh tranh và cơ quan đăng ký kinh doanh. Khi tiến hành hoạt động M&A sẽ có hai tình huống xảy ra về thủ tục. Nếu hoạt động M&A nằm ở diện được phép thì chỉ phải làm các thủ tục về việc đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh mà không phải thực hiện bất cứ thủ tục gì tại cơ quan cạnh tranh. Còn nếu hoạt động M&A thuộc diện cần thông báo cần kiểm soát thì trước khi tiến hành các thủ tục tại cơ quan đăng ký kinh doanh, các DN tham gia tập trung phải làm thủ tục thông báo tại cơ quan quản lý cạnh tranh. Chỉ khi nào có trả lời của cơ quan này khẳng định hoạt động M&A không thuộc trường hợp bị cấm thì các DN mới được tiến hành các thủ tục về sáp nhập, hợp nhất, mua lại theo LDN.
Để các cơ quan nói trên thực hiện tốt chức năng của mình, đòi hỏi phải giải quyết được những vấn đề sau:
Để xác định các trường hợp M&A cụ thể, cần kiểm soát và xử lý các hành vi vi phạm được thực hiện chủ yếu dựa vào việc xác định chính xác thị phần kết hợp của các DN tham gia. Muốn thực hiện hiệu quả, đòi hỏi khả năng dự báo của các cơ quan hữu trách về tình hình và mức độ tập trung của các thị trường cụ thể. Nói cách khác, các cơ quan có thẩm quyền cần có những số liệu thực tế về các thị trường có khả năng xảy ra những trường hợp M&A cần kiểm soát hoặc bị cấm đoán. Khi có hành vi xảy ra, các cơ quan có thẩm quyền luôn ở trong trạng thái chủ động thay vì chờ đợi các DN khác khiếu nại rồi mới điều tra.
Thẩm quyền của các cơ quan cạnh tranh, cơ quan đăng ký kinh doanh được thực hiện trong những công đoạn pháp lý khác nhau của quá trình tiến hành hoạt động M&A. Vì vậy, sự phối hợp trong hoạt động giữa các cơ quan này là hết sức cần thiết để đảm bảo hiệu quả của việc kiểm soát hoạt động M&A.
Những hành vi trong hoạt động M&A vi phạm pháp luật cạnh tranh, suy cho cùng là những trường hợp DN vi phạm đã hoàn tất việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại cả về phương diện thực tế lẫn pháp lý. Do đó, để phát hiện sự vi phạm đòi hỏi các cơ quan đăng ký kinh doanh kiểm soát được tình hình trong địa bàn mình quản lý bằng các số liệu thống kê và phải công khai các số liệu này.
Thứ hai, pháp luật về kiểm soát hoạt động M&A của Việt Nam đã quy định (đã có những quy định cụ thể trong LCT năm 2005 và trong Nghị định Quy định chi tiết thi hành một số điều trong LCT, trong LDN năm 2005, LĐT năm 2005) và theo mô hình châu Âu - hướng đến hạn chế những tác động tiêu cực của kiểm soát hoạt động M&A. Việc khống chế, kiểm soát hoạt động M&A có vai trò đặc biệt quan trọng trong hội nhập kinh tế quốc tế. Khi hội nhập, Việt Nam phải mở cửa cho các tập đoàn đa quốc gia vào. Với sức mạnh kinh tế vượt trội, các tập đoàn này có khả năng thôn tính các DN khác, nhất là các DN trong nước. Nếu hoạt động này không được kiểm soát sẽ gây lũng đoạn và khống chế thị trường ở mức độ cao. Tuy nhiên cần lưu ý là không nhất thiết phải thông qua tất cả các vụ M&A vì sẽ tạo gánh nặng không đáng có cho cơ quan quản lý.
Thứ ba, LCT năm 2004 đã sử dụng “ngưỡng thị phần” làm cơ sở phân loại hoạt động M&A và làm tiêu chí duy nhất để xác định khả năng gây hại của các trường hợp M&A. Câu hỏi đặt ra là thị phần DN (bao gồm cả thị phần hàng hoá, dịch vụ và thị phần kết hợp) sẽ được xác định như thế nào và thẩm định sự chính xác của chỉ tiêu này trên cơ sở khoa học nào? Kinh nghiệm của thế giới cho thấy có thể sử dụng một số tiêu chí khác để đánh giá hoạt động M&A như tổng doanh thu chưa tinh thuế trên phạm vi toàn cầu của toàn bộ các DN hoặc nhóm pháp nhân, thể nhân tham gia vụ M&A; tổng doanh thu chưa tính thuế được thực hiện trên lãnh thổ quốc gia bởi hai DN hoặc nhóm pháp nhân, thể nhân liên quan.
Thứ tư, LCT năm 2004 cũng đã cân nhắc đến các yếu tố về tính hiệu quả của các trường hợp tập M&A bằng cách đặt ra những trường hợp có thể được miễn trừ (Điều 19 LCT năm 2004). Cơ chế miễn trừ được đặt ra từ các luận điểm cơ bản của kinh tế học, theo đó, khi phân tích bản chất kinh tế của các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh hoặc các trường hợp M&A, các nhà kinh tế đã chứng minh rằng có nhiều trường hợp xét về hình thức, hành vi M&A của các DN đã cấu thành đủ các dấu hiệu để kết luận là vi phạm LCT, song chúng lại có nhiều tác dụng tích cực cho sự phát triển của kinh tế - xã hội. Khi xem xét vấn đề miễn trừ đối với hoạt động M&A, cần phải nhấn mạnh rằng: Thứ nhất, thủ tục miễn trừ được coi như điều kiện đủ để các DN tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh hoặc vụ M&A rơi vào trường hợp bị cấm nhưng thỏa mãn đủ điều kiện được miễn trừ được thực hiện các thỏa thuận, các hành vi tập trung kinh tế. Điều đó có nghĩa là các hành vi hạn chế cạnh tranh được miễn trừ không mặc nhiên được thực hiện khi thỏa mãn các điều kiện do luật định về mặt nội dung mà phải có được quyết định cho hưởng miễn trừ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; Thứ hai, thủ tục miễn trừ mang bản chất của thủ tục hành chính được thực hiện theo quy định của pháp luật cạnh tranh; Thứ ba, quyết định cho hưởng miễn trừ không có giá trị vĩnh viễn. Chúng luôn có giá trị trong một thời hạn nhất định hoặc có thể được xem xét lại và có thể bị bãi bỏ theo quy định của pháp luật.
4.2. Giải pháp từ phía các doanh nghiệp
4.2.1. Các doanh nghiệp cần coi M&A như công cụ chiến lược kinh doanh đúng đắn, giúp cho họ có thể bảo vệ, mở rộng thị phần, nâng cao khai thác thị trường
Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay, các DN Việt Nam cần có những nhìn nhận đúng đắn về vị thế cũng như khả năng của mình trên thương trường. Một khi các sản phẩm của công ty không còn mang lại nhiều lợi nhuận như trước nữa, thì các DN cần phải nghiên cứu nâng cao chất lượng sản phẩm hay mở rộng lĩnh vực sản xuất, cung ứng nhiều dịch vụ mới để đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng. Để làm được điều này các DN cần những khoản đầu tư lớn cho công nghệ, cho việc nâng cao trình độ quản lý. Đặc biệt là trong điều kiện phần lớn các DN Việt Nam hiện nay có trình độ và nguồn vốn còn rất hạn chế. Chính điều này làm hạn chế khả năng tiếp cận với những công nghệ hiện đại có tính năng vượt trội đem lại năng suất và chất lượng cao, khả năng mở rộng thị trường là vô cùng khó. Do vậy, bên cạnh những hỗ trọ tích cực từ phía các cơ quan ban ngành, bản thân các DN cần phải chủ động tìm hướng đi cho mình. Hoạt động M&A trở thành công cụ hữu ích giúp các DN tìm được đối tác trong và ngoài nước có khả năng hỗ trợ về vốn, công nghệ, mở rộng thị trường cần được coi là một trong những chiến lược kinh doanh quan trọng của các DN Việt Nam.
4.2.2. Xây dựng nguồn nhân lực cho hoạt động M&A
Nhân lực bao giờ cũng là yếu tố mấu chốt quyết định mọi hoạt động của DN và của thị trường trong đó có hoạt động M&A. Hoạt động M&A là hoạt động cần có sự tham gia của nhiều chuyên gia có kinh nghiệm chuyên sâu trong các lĩnh vực khác nhau. Họ có thể là các chuyên gia trong các lĩnh vực như pháp luật, tài chính, thương hiệu cùng tham gia vào các hiệp hội, DN môi giới tư vấn M&A. Các chuyên gia này làm cầu nối cho nhu cầu M&A của các bên gặp nhau, do đó họ phải chuyên nghiệp với việc cung ứng các dịch vụ và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động môi giới, tư vấn cho bất kỳ một thương vụ M&A trên thị trường. Hoạt động của họ được mua bảo hiểm phòng ngừa các trường hợp rủi ro xảy ra do tư vấn của họ. Do đó, cần có những chương trình, kế hoạch đào tạo để có được đội ngũ chuyên gia tư vấn, môi giới chuyên nghiệp cho cả bên mua lẫn bên bán đồng thời là người cung cấp thông tin tốt nhất về thị trường. Có như vậy, thị trường M&A ở Việt Nam mới hoạt động tốt và đi vào chuyên nghiệp, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các bên trong giao dịch M&A.
Bên cạnh việc xây dựng đội ngũ chuyên gia về M&A, các công ty hoạt động trong lĩnh vực này không chỉ dừng lại ở việc giới thiệu các DN chào mua, các DN chào bán như vẫn làm hiện nay trên các trang web của mình. Họ phải chủ động đến với các DN, đặc biệt là các DN nước ngoài, tìm hiểu các nhu cầu M&A và đáp ứng nhu cầu đó thông qua việc giới thiệu, tư vấn M&A với một DN khác. Thông qua cách này, các công ty mới có thể tiếp cận và thực hiện được các thương vụ M&A có giá trị hàng triệu USD. Đặc biệt, các tổ chức tài chính ngân hàng, chứng khoán là nơi tập trung nhiều lợi thế về tiếp cận các đối tác cả bên mua lẫn bên bán, cả các DN trong nước lẫn DN nước ngoài, lợi thế về uy tín kinh nghiệm tài chính sẽ trở thành cầu nối đáng tin cậy nhất cho các bên.
4.2.3. Thực hiện đồng bộ các bước trong xây dựng mô hình M&A nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động M&A
Hoạt động M&A chỉ có thể mang lại hiệu quả nếu được thực hiện dựa trên những kế hoạch cụ thể và có trình tự rõ ràng. Xét tình hình hiện tại của Việt Nam, hình thức M&A phổ biến vẫn là lựa chọn đối tác chiến lược, bán cổ phần cho các đối tác trong và ngoài nước. Tuy nhiên, trong tương lai, khi Việt Nam mở cửa hoàn toàn thị trường thì mức độ cạnh tranh sẽ gay gắt hơn nữa. Và khi đó, các DN sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn và sự cạnh tranh lớn hơn. Vậy để thực hiện hiệu quả họat động M&A, các DN Việt Nam cần phải làm gì? Họ có nên thụ động chờ đối tác đến, đề nghị bắt tay với mình hay chủ động tìm kiếm, lựa chọn đối tác thích hợp? Việc quảng bá cho hình ảnh của mình là vô cùng cần thiết với các DN. Bên cạnh đó, không ngững hoàn thiện bộ máy hoạt động của mình. Và để thực hiện những thương vụ M&A thành công, mang lại vị thế mới cho mình, các DN Việt Nam cần thực hiện tốt những bước cơ bản sau:
Thứ nhất, trong giai đoạn lập kế hoạch, các DN cần phải làm rõ các vấn đề cơ bản sau:
Chiến lược M&A này có đúng đắn không? M&A là một công cụ có tính chất chiến lược. Điều đó có nghĩa là, trước khi tiến hành M&A, các DN cần phải có một chiến lược rõ ràng hoạt động này sẽ tăng thêm giá trị của mình.
Loại bỏ các thương vụ có tính chất cơ hội. Một DN cần phải xác định một cách hợp lý rằng việc sáp nhập mua lại là con đường thực tế và có lý dẫn đến tăng trưởng chứ không phải chỉ đơn thuần là một cơ hội đang có sẵn. Trừ phi có nguồn thông tin nội bộ hoàn toàn, các DN thường phải trả thêm ít nhất 30% so với giá trị thực của DN mục tiêu. Do vậy để thực hiện thành công thương vụ này, các DN hậu M&A lại cần phải có khả năng bù thêm ít nhất là tương đương với con số này. Chính vì vậy, thương vụ M&A cần phải được tiến hành dựa trên những chiến lược chi tiết rõ ràng, chứ không chỉ vì một cơ hội bất chợt xuất hiện. Hầu hết các thương vụ M&A tiến hành một cách ồ ạt hàng loạt đều có xu hướng thất bại.
Thứ hai, luôn định hướng phát triển trong sự hoà hợp. Dù là hợp tác dưới hình thức đối tác chiến lược hay sáp nhập toàn bộ, thì các DN cần lấy định hướng phát triển trong sự hoà hợp làm phương châm hoạt động của mình. Điều này thể hiện ở những điểm cụ thể sau:
Phải đảm bảo rằng những thay đổi là thích hợp. Khi xét về sự cần thiết phải có sự rạch ròi và rõ ràng trong cơ chế lãnh đạo và liên lạc cũng như để có hành động nhanh chóng và hiệu quả, sẽ có một câu hỏi được đặt ra liệu những thay đổi theo kế hoạch có thực sự đẩy mạnh công việc kinh doanh hay không. Cách tiếp cận về “ một quy mô thích hợp cho tất cả” hoặc “không còn cách nào khác” đối với một thương vụ M&A có thể sẽ là một sự thất bại cho thương vụ đó.
Không bỏ qua những sự khác biệt văn hoá DN. Để hợp nhất hiệu quả mọi người cần phải làm việc cùng nhau. Khi xảy ra xung đột văn hoá thì DN hậu M&A sẽ gặp nhiều rắc rối. Các vấn đề thuộc phần “cứng” của một bản hợp đồng M&A là bảng tổng kết tài sản, bảng cân đối thu chi... có thể được giải quyết nhờ luật sư, nhờ bộ phận kế toán. Tuy nhiên, các vấn đề “mềm” như văn hoá DN phải được các DN xem xét kỹ lưỡng và có sự điều điều chỉnh cho phù hợp. Có như vậy, mới tạo ra cơ hội lớn cho sự thành công của DN hậu M&A và từ đó tạo nên sự thành công cho cả thương vụ đó.
Khách hàng là trọng tâm của thương vụ M&A. Khách hàng là một trong những giá trị quan trọng mà DN tiến hành thu được từ thương vụ M&A. Chính vì vậy, DN thực hiện M&A cần đặt khách hàng là trọng tâm của thương vụ M&A. Nên kế hoạch M&A cần phải hướng đến khách hàng một cách thật cụ thể. Điều này có nghĩa là cần phải quan tâm xem xét sẽ phải phục vụ họ như thế nào và ai sẽ là cầu nối thông tin liên lạc với họ. Dù vẫn được hưởng chế độ phục vụ như cũ, có khi còn tốt hơn, nhưng khách hàng bao giờ cũng đặt câu hỏi về việc họ sẽ hưởng lợi gì trong sự thay đổi chủ sở hữu này.
Tóm lại, hoạt động M&A ở Việt Nam ngày một trở nên phổ biến hơn. Số lượng các thương vụ M&A ngày một tăng và giá trị mỗi thương vụ cũng lớn hơn. Sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, ổn định về chính trị, hội nhập ngày càng sâu vào hoạt động của thế giới, nhiều ưu đãi về chính sách cho các nhà đầu tư, đặc biệt các nhà đầu tư nước ngoài sẽ là những điều kiện thuận lợi cho hoạt động M&A ở Việt Nam phát triển. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là họat động M&A ở Việt Nam không có hạn chế. Sự không thống nhất trong các quy định của pháp luật, kiến thức về M&A của các nhà quản trị DN còn thiếu, số lượng các thương vụ M&A tăng lên nhanh chóng nhưng hình thức chưa đa dạng – chưa có thương vụ hợp nhất nào. Do vậy, các biện pháp để hoàn thiện và nâng cao hơn nữa môi trường cho hoạt động này phát triển là vô cùng quan trọng, cần được thực hiện sớm.
KẾT LUẬN
M&A là một hoạt động đầu tư kinh doanh đặc thù vì đối tượng ở đây không phải là hàng hóa hay dịch vụ mà là DN. Nên giữa chủ thể và đối tượng của hoạt động không có gì khác nhau về loại hình, đặc điểm và cấu trúc quản lý. Mục đích cuối cùng mà các DN thực hiện hoạt động M&A đó là lợi ích (lợi nhuận, hiệu quả kinh tế theo quy mô, mở rộng thị trường). Nhìn từ khía cạnh QTDN, hoạt động M&A là một biện pháp vừa mang tính chất lâu dài vừa giải quyết được nhiều vấn đề khó khăn trước mắt cho DN. M&A giúp các nhà quản trị giải quyết được các bài toán về vốn, thị trường, nhân sự, cơ sở hạ tầng, khách hàng. Với các DN đang khó khăn, M&A là một cứu cánh giúp vượt qua khó khăn.
Ở phạm vi quốc gia, M&A không trực tiếp tác động làm tăng hay giảm GDP. Hoạt động M&A chỉ có thể tác động đến nền kinh tế một cách gián tiếp thông qua tác động vào hiệu quả sản xuất kinh doanh do những thay đổi trong quy mô và cấu trúc quản lý mang lại. Bên cạnh đó, với những quốc gia đang phát triển như Việt Nam, M&A còn là kênh thu hút vốn đầu tư nước ngoài thông qua việc các nhà đầu tư nước ngoài M&A với một DN trong nước. Ở Việt Nam, hoạt động M&A cũng đã bắt đầu sôi động. Chính phủ cũng đã xây dựng được một hệ thống pháp lý về M&A tương đối đầy đủ, cũng như tạo được một môi trường hấp dẫn thu hút đầu tư. Tuy nhiên, để hoạt động này phát triển, Chính phủ cần hoàn thiện hệ thống pháp lý về M&A. Ngoài ra, nhiều vấn đề khác như thông tin và tính minh bạch trong kinh doanh, nhân sự cho M&A, tính cạnh trang trên thị trường, kiến thức về M&Alà những vấn đề cần được khắc phục.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu giáo khoa:
1. Chủ biên Ts. Mai Văn Bưu, Ts. Phan Kim Chiến (2004), Giáo trình Lý thuyết quản trị kinh doanh, Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật, tr 5-6, Hà Nội
2. Dương Hữu Hạnh, Nhà sách Lộc, Giáo trình quản trị doanh nghiệp, Nhà xuất bản thống kê, tr 13; 158-159
3. Chủ biên PGS.Ts. Lê Văn Tâm, Ts. Ngô Kim Thanh, Giáo trình quản trị doanh nghiệp, Nhà xuất bản lao động – xã hội, tr 8-9; 27-31, 295
4. Chủ biên TS. Nghiêm Xuân Đạt, GS.TS Tô Xuân Dân, TS Vũ Trọng Lâm, Phát triển và quản lý các DN ngoài quốc doanh, NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, 2002, tr. 5; 6
5. Luật doanh nghiệp năm 2005, Nhà xuất bản thống kê, tr 6; 171-174
6. Luật đầu tư, Nhà xuất bản chính trị quốc gia
7. Luật cạnh tranh, Nhà xuất bản chính trị quốc gia
8. Luật chứng khoán, Nhà xuất bản thống kê
Trang điện tử
www.mof.gov.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7320.doc