TÓM TẮT
Mở đầu:
Trí tuệ xúc cảm là một thành tố trí tuệ mới được phát hiện vào đầu thập niên 90 của thế kỷ XX. Nó nhanh chóng nhận được sự chú ý của các nhà chuyên môn, đặc biệt là các nhà giáo dục, bởi ảnh hưởng của trí tuệ xúc cảm đối với sự thành công của con người. Con người thành đạt trong cuộc sống ngày nay không chỉ có kiến thức sâu rộng, khả năng sáng tạo mà còn cần phải có bản lĩnh để chế ngự các xung động, các cảm xúc trong tham gia, trong hợp tác, trong việc đưa ra các quyết định, kết hợp với sự thấu hiểu các diễn biến tâm lý, tình cảm của đối tác. Các nghiên cứu về trí tuệ xúc cảm trên thế giới cho thấy rằng sự phát triển của trí tuệ xúc cảm làm cho kết quả học tập của học sinh tốt hơn. Vì vậy, trong những năm cuối của thế kỷ XX, ở các nước phát triển, người ta đã quan tâm nhiều đến xúc cảm của con người và việc giáo dục xúc cảm cho học sinh vì con người là yếu tố then chốt, cơ bản để phát triển xã hội. Để thực hiện nhiệm vụ giáo dục và đào tạo con người phù hợp với sự phát triển của xã hội, việc nghiên cứu về trí tuệ
MỨC ĐỘ BIỂU HIỆN TRÍ TUỆ XÚC CẢM
29 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2063 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mức độ biểu hiện trí tuệ xúc cảm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỨC ĐỘ BIỂU HIỆN TRÍ TUỆ XÚC CẢM
TÓM TẮT
Mở đầu: Trí tuệ xúc cảm là một thành tố trí tuệ mới được phát hiện vào đầu
thập niên 90 của thế kỷ XX. Nó nhanh chóng nhận được sự chú ý của các
nhà chuyên môn, đặc biệt là các nhà giáo dục, bởi ảnh hưởng của trí tuệ xúc
cảm đối với sự thành công của con người. Con người thành đạt trong cuộc
sống ngày nay không chỉ có kiến thức sâu rộng, khả năng sáng tạo mà còn
cần phải có bản lĩnh để chế ngự các xung động, các cảm xúc trong tham gia,
trong hợp tác, trong việc đưa ra các quyết định, kết hợp với sự thấu hiểu các
diễn biến tâm lý, tình cảm của đối tác. Các nghiên cứu về trí tuệ xúc cảm
trên thế giới cho thấy rằng sự phát triển của trí tuệ xúc cảm làm cho kết quả
học tập của học sinh tốt hơn. Vì vậy, trong những năm cuối của thế kỷ XX,
ở các nước phát triển, người ta đã quan tâm nhiều đến xúc cảm của con
người và việc giáo dục xúc cảm cho học sinh vì con người là yếu tố then
chốt, cơ bản để phát triển xã hội. Để thực hiện nhiệm vụ giáo dục và đào tạo
con người phù hợp với sự phát triển của xã hội, việc nghiên cứu về trí tuệ
xúc cảm của sinh viên là một trong những nội dung rất quan trọng của công
tác giáo dục trong nhà trường đại học hiện nay.
Mục tiêu nghiên cứu: Nghiên cứu này dựa trên trên cơ sở khảo sát mức độ
biểu hiện về trí tuệ xúc cảm ở các sinh viên, từ đó đề xuất những giải pháp
phát triển trí tuệ xúc cảm để nâng cao hiệu quả học tập và rèn luyện của sinh
viên nhằm nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường.
Đối tượng - Phương pháp nghiên cứu: Mẫu nghiên cứu là 514 sinh viên với
140 nam và 374 nữ. Nghiên cứu này được tiến hành theo các phương pháp:
phương pháp nghiên cứu tài liệu để thiết lập cơ sở lý luận của đề tài, phương
pháp trắc nghiệm dùng làm công cụ đo nghiệm trong công trình nghiên cứu,
phương pháp thống kê ứng dụng trong nghiên cứu khoa học để xử lý số liệu
thực nghiệm của đề tài.
Kết quả nghiên cứu: Nghiên cứu đã xác định được các mức độ biểu hiện
khác nhau về trí tuệ xúc cảm của sinh viên, đồng thời chỉ ra được 3 yếu tố
cảm xúc trí tuệ vượt trội, đó là: năng lực thực hiện các trách nhiệm xã hội,
năng lực tự khẳng định mình và năng lực giải quyết vấn đề.
Kết luận: Theo các tiêu chí đánh giá về mức độ biểu hiện trí tuệ xúc cảm của
sinh viên mà nghiên cứu đã đề ra, chúng ta nhận thấy rằng sự biểu hiện của
các yếu tố cảm xúc trí tuệ của sinh viên chỉ ở mức độ trung bình. Do đó, việc
giáo dục và phát triển trí tuệ xúc cảm cho sinh viên cần phải được đặc biệt
chú trọng ngay từ năm thứ nhất, trong đó tất cả các kỹ năng quan trọng cần
thiết cho sự phát triển các năng lực cảm xúc trí tuệ cần được phát triển hài
hòa để nâng cao trí tuệ xúc cảm của sinh viên trong quá trình đào tạo.
Từ khóa: Trí tuệ, xúc cảm, trí tuệ xúc cảm, năng lực về trí tuệ xúc cảm.
ABSTRACT
RESEARCH ON STUDENTS’ LEVEL OF EMOTIONAL
INTELLIGENCE
AT UNIVERSITY OF MEDICINE AND PHARMACY IN HO CHI MINH
CITY
Huynh Thi Minh Hang * Y Hoc TP.Ho Chi Minh * Vol 14 - Supplement of
No 1 - 2010: 1- 8
Background: Emotional intelligence is one element which was just
discovered at the beginning of 90s of 20th century. It has been quickly paid
attention by the scientists, especially from the educators, thanks to the
affection of emotional intelligence on people’s success. Today, people
archieve in life, not only relying on their large knowledge and ability of
creativeness but also on their capacity of controlling feelings and emotion in
working, in co-operating and in making decisions together with their ability
of reading the partners’ psychology and emotion. Studies on emotional
intelligence on the world prove that emotional intelligence is one important
aspect of people’s intelligence. The development of emotional intelligence
helps improve students’s archievements in their study. Therefore, at the end
of 20th century, in developed countries, people are more interested in
emotion and emotional education as human resources as the main factor of
social development. In order to carry out the mission of education and
training in accordance with the growth of society, the study on emotional
intelligence among students becomes one of the important contents in
educational program in universities in present.
Objectives: This study is based on researching students’ level of emotional
intelligence, and thence solutions of developing emotional intelligence are
suggested in order to improve their effectiveness in learning and practising,
which helps raise the quality of education in the university.
Methods: The sample of research consists of 514 students, including 140
males and 374 females. This research is carried out, relying on some
methods: researching documents to form the methodology; using testing
methods as scientific instruments to measure the capacities of emotional
intelligence; and applying statistics method in scientific research to process
data.
Results: The research could define the different levels of students’ emotional
intelligence and at the same time show 3 prominent elements of emotional
intelligence, that is social responsibility, self-actualization and problem
solving.
Conclusion: According to the criteria of students’ emotional intelligence
evaluation which the research suggests, we find out that students’ capacities
of emotional intelligence are at average level. Therefore, the educating and
developing emotional intelligence for students should be specially paid
attention to right at the first year at the university, in which all the essential
skills for growing the capacities of emotional intelligence need to be
harmonously developed in order to enhance students’ emotional intelligence
during the process of their education.
Keywords: Intelligence, emotion, emotional intelligence, capacity of
emotional intelligence.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trước đây, khi nói đến trí tuệ, người ta thường chú trọng đến mặt nhận thức
mà quên rằng xúc cảm cũng là một mặt rất quan trọng của trí tuệ con người.
Con người thành đạt trong cuộc sống ngày nay không chỉ có kiến thức sâu
rộng, khả năng sáng tạo mà còn cần phải có bản lĩnh để chế ngự các xung
động, các cảm xúc trong tham gia, trong hợp tác, trong việc đưa ra các quyết
định, kết hợp với sự thấu hiểu các diễn biến tâm lý, tình cảm của đối tác.
Trí tuệ xúc cảm là một thành tố trí tuệ mới được phát hiện vào đầu thập niên
90 của thế kỷ XX. Nó nhanh chóng nhận được sự chú ý của các nhà chuyên
môn, đặc biệt là các nhà giáo dục, bởi ảnh hưởng của trí tuệ xúc cảm đối với
sự thành công của con người. Các nghiên cứu về trí tuệ xúc cảm trên thế giới
cho thấy rằng sự phát triển của trí tuệ xúc cảm làm cho kết quả học tập của
học sinh tốt hơn. Vì vậy, trong những năm cuối của thế kỷ XX, ở các nước
phát triển, người ta đã quan tâm nhiều đến xúc cảm của con người và việc
giáo dục xúc cảm cho học sinh vì con người là yếu tố then chốt, cơ bản để
phát triển xã hội. Để thực hiện nhiệm vụ giáo dục và đào tạo con người phù
hợp với sự phát triển của xã hội, việc nghiên cứu về trí tuệ xúc cảm của sinh
viên là một trong những nội dung rất quan trọng của công tác giáo dục trong
nhà trường đại học
hiện nay.
MỘT SỐ CƠ SỞ LÝ LUẬN
Trong tiếng La tinh, trí tuệ có nghĩa là hiểu biết, thông tuệ. Còn Từ điển
Tiếng Việt giải thích trí tuệ là khả năng nhận thức lý tính đạt đến trình độ
nhất định.
Giống như nhiều vấn đề khác trong tâm lý học, thật là khó có thể nêu lên
được một định nghĩa hoàn chỉnh và đầy đủ nhất về thuật ngữ “trí tuệ” bởi lẽ
cho đến hiện nay có nhiều quan điểm của các nhà khoa học khác nhau trên
thế giới nghiên cứu về vấn đề này. Do đó, “trí tuệ” hay còn gọi là “trí thông
minh” được định nghĩa theo những cách khác nhau. Tuy nhiên, chúng ta có
thể khái quát một cách tương đối các quan niệm đã có về trí tuệ thành 3
nhóm chính:
- Nhóm thứ nhất: Các quan điểm coi trí tuệ là khả năng hoạt động lao động
và học tập của
cá nhân.
- Nhóm thứ hai: Các quan điểm đồng nhất hóa trí tuệ với năng lực tư duy
trừu tượng của
cá nhân.
- Nhóm thứ ba: Các quan điểm coi trí tuệ là năng lực thích ứng tích cực của
cá nhân.
Thực ra, các quan niệm về trí tuệ không loại trừ nhau. Trong thực tiễn,
không có quan niệm nào chỉ chú ý đến duy nhất một khía cạnh năng lực tư
duy hay khả năng thích ứng, mà thường đề cập tới hầu hết các nội dung đã
nêu. Sự khác biệt giữa các quan niệm chỉ là ở chỗ khía cạnh nào được nhấn
mạnh và nghiên cứu sâu hơn. Có hai hình thức trí tuệ tương đối độc lập,
nhưng tác động lẫn nhau: trí tuệ lý trí và trí tuệ xúc cảm.
Cho đến nay, tồn tại rất nhiều quan điểm khác nhau về trí tuệ xúc cảm, có
quan điểm cho rằng trí tuệ xúc cảm là loại trí tuệ thuần năng lực tinh thần,
nhưng cũng có quan điểm cho rằng trí tuệ xúc cảm là sự kết hợp giữa năng
lực tinh thần và các năng lực không phải tinh thần.
Với quan điểm thứ nhất, các nhà tâm lý học đã đưa ra rất nhiều định nghĩa
khác nhau về loại trí tuệ này, tiêu biểu là các tác giả Peter Salovey và John
Mayer cho rằng: “Trí tuệ xúc cảm là năng lực nhận biết xúc cảm của mình
và của người khác, biết bày tỏ xúc cảm của mình và hòa xúc cảm vào suy
nghĩ, có thể hiểu và phân tích bằng xúc cảm, đồng thời có khả năng điều
khiển và kiểm soát xúc cảm của bản thân và của người khác”. Theo quan
niệm của hai nhà tâm lý học này thì “trí tuệ xúc cảm bao gồm khả năng tiếp
nhận, đánh giá và biểu hiện xúc cảm, khả năng đánh giá và phân loại các
xúc cảm khi định hướng suy nghĩ, khả năng hiểu xúc cảm và nhận biết xúc
cảm, khả năng điều khiển và định hướng xúc cảm nhằm mục đích phát triển
xúc cảm và trí tuệ”.
Với quan điểm thứ hai, những người xem loại trí tuệ này là sự kết hợp giữa
năng lực tinh thần và các năng lực không phải tinh thần cũng có những định
nghĩa khác nhau về trí tuệ xúc cảm, chẳng hạn như:
- Tác giả Reuven Bar-On cho rằng: “Trí tuệ xúc cảm là một dãy các năng
lực phi nhận thức và những kỹ năng có ảnh hưởng đến khả năng thành công
của một người trong hoàn cảnh người đó phải đương đầu với những yêu cầu
và sức ép từ môi trường”.
- Tác giả Daniel Goleman lại đưa ra định nghĩa về trí tuệ xúc cảm như sau:
“Trí tuệ xúc cảm là năng lực nhận biết các cảm xúc của mình và của người
khác, năng lực tự thúc đẩy và năng lực điều hành tốt các xúc cảm trong bản
thân mình và trong các mối liên hệ với người khác”. Ông quan niệm rằng
“Trí tuệ xúc cảm bao gồm năng lực tự kiềm chế, kiểm soát lòng nhiệt tình, sự
kiên trì và năng lực tự thôi thúc bản thân mình”.
Từ những cách tiếp cận bản chất về trí tuệ xúc cảm theo những góc độ ít
nhiều khác nhau của các tác giả trên, có thể đi đến một nhận định rằng, trí
tuệ xúc cảm là một phẩm chất phức hợp, đa diện, đại diện cho những nhân tố
khó thấy, khó nắm bắt như tự ý thức, tự nhận thức, tự tin, tính lạc quan, sự
thấu cảm, tính kiên nhẫn và tính tích cực xã hội. (Error! Reference source not found.)
Theo Daniel Goleman, về một ý nghĩa nào đó, chúng ta có hai hình thức
khác nhau của trí tuệ là trí tuệ lý trí và trí tuệ xúc cảm. Cả hai thứ trí tuệ này
cùng quyết định cách con người hướng dẫn cuộc sống của mình như thế nào,
trong đó trí tuệ xúc cảm cũng quan trọng như trí thông minh. Ông còn khẳng
định không có trí tuệ xúc cảm thì trí thông minh không hoạt động được một
cách thích đáng. Về mặt lý thuyết sinh lý thần kinh, thì có sự bổ sung lẫn
nhau của hệ thống rìa và vỏ não mới, của hạnh nhân và các thùy trán trước,
có nghĩa là mỗi hệ thống là một tác nhân riêng biệt của đời sống tinh thần.
Trí tuệ xúc cảm là loại trí tuệ góp phần quyết định sự thành bại của đời
người nhiều hơn trí thông minh, nó dễ thay đổi hơn và biên độ thay đổi cũng
rộng hơn trí thông minh. Trong khi chỉ số thông minh (IQ) thì hầu như mãi
cố định, trí tuệ xúc cảm lại có thể phát triển lên, có thể nâng cao chỉ số trí tuệ
xúc cảm (EQ) nhờ kinh nghiệm sống và hoạt động giáo dục.
Hiện thời chúng ta có thể nhấn mạnh những thành phần sau đây của trí tuệ
xúc cảm:
1) Khả năng nhận biết, đánh giá và thể hiện cảm xúc bản thân. Khía cạnh
này bao gồm năng lực nhận thức được các xúc cảm của mình và nhận biết
được những suy nghĩ về các xúc cảm đó khi chúng nảy sinh. Đây chính là
khả năng tự nhận thức của cá nhân về những xúc cảm của mình đang diễn
ra, nảy sinh trong những tình huống, điều kiện, hoàn cảnh nhất định.
2) Khả năng nhận biết và đánh giá cảm xúc của người khác. Việc đánh giá
cảm xúc của người khác (khả năng nhận biết chính xác cảm xúc của người
khác) và thể hiện cảm xúc đó (khả năng thể nghiệm lại cảm xúc đó vào bản
thân mình) đều liên quan tới sự thấu cảm. Hai khả năng này đều nói lên năng
lực thấu cảm của con người. Chính sự thấu cảm là một biểu hiện rất quan
trọng của trí tuệ xúc cảm.
3) Khả năng điều chỉnh cảm xúc của bản thân và của người khác. Khía cạnh
này đề cập đến sự trải nghiệm những cảm xúc của cá nhân và sự theo dõi,
đánh giá, xử sự để thay đổi, điều hòa của mình và của người khác. Khả năng
tự điều chỉnh cảm xúc này liên quan tới việc nỗ lực khắc phục những cảm
xúc tiêu cực, trong khi vẫn duy trì những cảm xúc có lợi cho bản thân. Điều
chỉnh cảm xúc cũng bao gồm cả những năng lực thay đổi các phản ứng
tương ứng của người khác (làm dịu, kiềm chế cơn nóng giận, v.v… của
người khác).
4) Khả năng sử dụng cảm xúc để định hướng hành động. Những cảm xúc
của con người có vai trò như là động lực thúc đẩy hoặc kìm hãm hành động,
tạo ra sự định hướng, sự chú ý của cá nhân đối với hành động nào đó. Vì
vậy, việc sử dụng cảm xúc để điều khiển hành vi là một trong những thành
phần quan trọng của trí tuệ xúc cảm. Chẳng hạn, điều khiển hành vi nóng
nảy, hành vi ôn hòa, v.v…
Những thành phần nêu trên tuy mới chủ yếu nhấn mạnh khía cạnh nhận thức
và tính chất quá trình của trí tuệ xúc cảm, nhưng là các thành phần có thể đo
lường được bằng các
trắc nghiệm.(Error! Reference source not found.)
Tuy nhiên trong bài báo công bố gần đây, Daniel Goleman (2001) lại đưa ra
cấu trúc EI gồm hai loạt đúp (2×2) các hoạt động tạo ra năng lực tổng thể
nhằm nhận biết và điều khiển xúc cảm ở mình và ở người khác như sau:
NĂNG LỰC CÁ
NHÂN
(quan hệ với
mình)
NĂNG LỰC XÃ
HỘI
(quan hệ với người
khác)
1. Tự biết bản thân
Nhận biết mình
Đánh giá mình
chính xác
Tự tin
2. Nhận biết các quan
hệ xã hội
Đồng cảm
Định hướng sự phục
vụ
Biết cách tổ chức
3. Tự kiểm soát, 4. Quản lý điều khiển
quản lý bản thân
Kiểm soát cảm
xúc của mình
Có lòng tin
Tự ý thức
Thích ứng
Động cơ thành
đạt
Sáng tạo
các mối quan hệ xã
hội
Phát triển người
khác
Tạo ảnh hưởng
Giao tiếp
Kiểm soát xung đột
Lãnh đạo có tầm nhìn,
khôn ngoan
Xúc tác để thay đổi
Xây dựng các mối
quan hệ
Tinh thần đồng đội và
sự hợp tác
Trong đề tài này, chúng tôi chấp nhận quan điểm của nhà tâm lý học người
Israel Reuven Bar-On cho rằng để thành công trong công việc và trong cuộc
sống, cần có các năng lực về trí tuệ xúc cảm không thể thiếu sau đây:
- Năng lực tự đánh giá bản thân một cách
lạc quan
- Năng lực tự nhận biết xúc cảm của
bản thân
- Khả năng quyết đoán
- Tính độc lập
- Năng lực tự khẳng định mình
- Khả năng đồng cảm
- Năng lực thực hiện các trách nhiệm
xã hội
- Năng lực xây dựng các mối quan hệ liên nhân cách
- Khả năng chịu đựng áp lực
- Năng lực kiểm soát xung tính
- Năng lực đánh giá đúng thực tiễn
- Khả năng linh hoạt trong tư duy
- Năng lực giải quyết vấn đề
- Khả năng giữ tâm trạng lạc quan
- Khả năng giữ tâm trạng vui vẻ,
hạnh phúc
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để khảo sát mức độ biểu hiện trí tuệ xúc cảm của sinh viên các lớp Dược
2005, Dược 2006, Dược 2007, chúng tôi đã lựa chọn thang đo mức độ biểu
hiện trí tuệ xúc cảm dựa trên cơ sở lý thuyết về trí tuệ xúc cảm của tác giả
Reuven Bar-On để biên dịch và sử dụng trong việc đánh giá mức độ biểu
hiện của sinh viên.
Thang đo này gồm 105 câu hỏi trắc nghiệm được thiết kế để đo lường mức
độ biểu hiện khác nhau của sinh viên về trí tuệ xúc cảm. Các mức độ đo
được định nghĩa từ thấp đến cao
như sau:
1- Hoàn toàn không đúng
2- Không đúng
3- Lưỡng lự
4- Đúng
5- Hoàn toàn đúng
Thang đo mức độ biểu hiện trí tuệ xúc cảm được cấu trúc thành 5 phạm trù
đo lường với các tiểu thang đo như sau:
1) Sự hiểu biết chính mình: gồm các năng lực tự nhận biết xúc cảm của bản
thân, năng lực tự khẳng định mình, tính độc lập, khả năng quyết đoán và
năng lực đánh giá bản thân một cách
lạc quan.
2) Quan hệ với người khác: gồm các năng lực như khả năng đồng cảm, năng
lực thực hiện các trách nhiệm xã hội và năng lực xây dựng các mối quan hệ
liên nhân cách.
3) Kiểm soát, quản lý stress: gồm các khả năng chịu đựng áp lực và năng lực
kiểm soát xung tính.
4) Khả năng thích ứng: gồm các năng lực như năng lực đánh giá đúng thực
tiễn, khả năng linh hoạt trong tư duy và năng lực giải quyết
vấn đề.
5) Tâm trạng: gồm các khả năng giữ tâm trạng lạc quan, vui vẻ, hạnh phúc.
Một số tiêu chí đánh giá
Để có thể đưa ra kết luận về mức độ tự đánh giá của sinh viên cho từng tiêu
chí qua từng câu trắc nghiệm cũng như của các tiểu thang đo, ta căn cứ vào
chuẩn đánh giá mức độ cao thấp M của từng câu dựa vào các khoảng ước
lượng của điểm trung bình bình quân và độ lệch tiêu chuẩn bình quân của
câu trên toàn thang đo mức độ biểu hiện trí tuệ xúc cảm như sau:
* Trường hợp M < 2,98 ta kết luận: Tự đánh giá là ở mức độ dưới trung
bình, sinh viên có nhu cầu rất cao trong việc rèn luyện và phát triển trí tuệ
xúc cảm theo tiêu chí được đánh giá.
* Trường hợp 2,98 M 3,66 ta kết luận: Tự đánh giá là ở mức độ trung
bình, sinh viên cần được rèn luyện thêm và phát triển trí tuệ xúc cảm theo
tiêu chí được đánh giá.
* Trường hợp M > 3,66 ta kết luận: Tự đánh giá là ở mức độ cao, sinh viên
có mức độ biểu hiện rất cao về trí tuệ xúc cảm theo tiêu chí được đánh giá.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu này được tiến hành theo phương pháp nghiên cứu định lượng
dựa trên kết quả khảo sát về mức độ biểu hiện trí tuệ xúc cảm của sinh viên
tại Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh. Nghiên cứu được thực hiện
trên sự khảo sát các bài trắc nghiệm dùng để đo lường mức độ biểu hiện trí
tuệ xúc cảm của sinh viên hệ chính quy các lớp Dược 2005, Dược 2006,
Dược 2007 thuộc Khoa Dược - Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh.
Qua thống kê về số lượng và giới tính của sinh viên các lớp tham gia khảo
sát, chúng tôi đã thu được những kết quả như sau:
* Tổng số sinh viên tham gia khảo sát: 514
* Lớp:
– Dược 2005: 130
– Dược 2006: 201
– Dược 2007: 183
* Giới tính:
– Nam: 140
– Nữ: 374
Kết quả chung về các thông số của thang đo mức độ biểu hiện trí tuệ xúc
cảm
Thang đo mức độ biểu hiện trí tuệ xúc cảm đã được khảo sát thử nghiệm
trên sinh viên lớp Dược 2007 trước khi tiến hành khảo sát chính thức trên
sinh viên hai lớp Dược 2005 và Dược 2006. Qua nghiên cứu các bài trắc
nghiệm của sinh viên các lớp tham gia khảo sát, chúng tôi đã rút ra được
những kết quả như sau:
Các thông số nghiên cứu Kết quả về
thang đo
Số câu trắc nghiệm 105
Số sinh viên làm trắc 514
nghiệm
Điểm trung bình toàn bài 348,88
Độ lệch tiêu chuẩn toàn bài 35,70
Điểm trung bình bình quân
của câu
3,32
Độ lệch tiêu chuẩn bình
quân của câu
0,34
Hệ số tin cậy 0,94
Qua kết quả chung về thông số của thang đo mức độ biểu hiện trí tuệ xúc
cảm cho thấy hệ số tin cậy của thang đo =0,94 là rất cao. Giá trị này nói lên
tính vững chải của thang đo và cho phép kết luận thang đo là đáng tin cậy.
Kết quả phân tích thang đo theo từng yếu tố năng lực khác nhau về trí tuệ
xúc cảm trên sinh viên
Bảng 1: Kết quả phân tích các thông số của toàn thang đo theo từng yếu tố
năng lực cảm xúc trí tuệ
Yếu Nội dung Điểm Độ Trung Thứ
tố trung
bình
lệch
tiêu
chuẩn
bình
điều
hòa
bậc
1 Năng lực tự
đánh giá
bản thân
một cách
lạc quan
23,82 3,84 3,40 8
2 Năng lực tự
nhận biết
xúc cảm
của bản
thân
22,51 3,68 3,22 10
3 Khả năng
quyết đoán
22,24 3,84 3,18 11
4 Tính độc
lập
19,75 4,16 2,82 14
5 Năng lực tự 26,04 3,66 3,72 2
khẳng định
mình
6 Khả năng
đồng cảm
24,47 3,72 3,50 5
7 Năng lực
thực hiện
các trách
nhiệm xã
hội
26,40 3,74 3,77 1
8 Năng lực
xây dựng
các mối
quan hệ liên
nhân cách
23,93 3,82 3,42 7
9 Khả năng
chịu đựng
áp lực
21,61 4,24 3,09 12
10 Năng lực 19,73 5,06 2,81 15
kiểm soát
xung tính
11 Năng lực
đánh giá
đúng thực
tiễn
22,84 3,62 3,26 9
12 Khả năng
linh hoạt
trong tư duy
21,17 4,50 3,03 13
13 Năng lực
giải quyết
vấn đề
25,67 3,84 3,67 3
14 Khả năng
giữ tâm
trạng lạc
quan
24,75 3,74 3,54 4
15 Khả năng
giữ tâm
23,98 4,28 3,43 6
trạng vui
vẻ, hạnh
phúc
Qua kết quả của bảng 1, nghiên cứu cho thấy các yếu tố năng lực khác nhau
về trí tuệ xúc cảm theo sinh viên tự đánh giá tương ứng với các mức độ đạt
được từ cao đến thấp như sau:
1. Năng lực thực hiện các trách nhiệm
xã hội
2. Năng lực tự khẳng định mình
3. Năng lực giải quyết vấn đề
4. Khả năng giữ tâm trạng lạc quan
5. Khả năng đồng cảm
6. Khả năng giữ tâm trạng vui vẻ,
hạnh phúc
7. Năng lực xây dựng các mối quan hệ liên nhân cách
8. Năng lực tự đánh giá bản thân một cách lạc quan
9. Năng lực đánh giá đúng thực tiễn
10. Năng lực tự nhận biết xúc cảm của
bản thân
11. Khả năng quyết đoán
12. Khả năng chịu đựng áp lực
13. Khả năng linh hoạt trong tư duy
14. Tính độc lập
15. Năng lực kiểm soát xung tính
Nhìn chung, tự đánh giá các yếu tố năng lực về trí tuệ xúc cảm của sinh viên
là ở mức độ trung bình. Tuy nhiên, tự đánh giá tính độc lập và năng lực kiểm
soát xung tính có mức độ biểu hiện dưới trung bình. Điều này cho phép kết
luận sinh viên có nhu cầu cao trong việc rèn luyện và phát triển trí tuệ xúc
cảm theo các tiêu chí được đánh giá.
Kết quả phân tích thang đo theo từng mặt biểu hiện khác nhau về trí tuệ xúc
cảm trên sinh viên
Bảng 2: Kết quả phân tích các thông số của toàn thang đo theo từng mặt biểu
hiện về trí tuệ
xúc cảm
Mặt
biểu
Nội dung
Điểm
trung
Độ
lệch
Trung
bình
Thứ
bậc
hiện bình tiêu
chuẩn
điều
hòa
1 Sự hiểu biết
chính mình
22,87 2,48 3,27 4
2 Quan hệ với
người khác
24,93 3,19 3,56 1
3 Kiểm soát,
quản lý stress
20,67 3,09 2,96 5
4 Khả năng
thích ứng
23,23 2,68 3,32 3
5 Tâm trạng 24,36 3,51 3,49 2
Qua kết quả của bảng 2, nghiên cứu cho thấy các mặt biểu hiện về trí tuệ xúc
cảm theo sinh viên tự đánh giá tương ứng với các mức độ đạt được từ cao
đến thấp như sau:
1. Quan hệ với người khác
2. Tâm trạng
3. Khả năng thích ứng
4. Sự hiểu biết chính mình
5. Kiểm soát, quản lý stress
Như vậy, tự đánh giá các mặt biểu hiện về trí tuệ xúc cảm của sinh viên chỉ
đạt mức độ trung bình, tuy nhiên tự đánh giá về khả năng kiểm soát và quản
lý stress là ở mức độ dưới trung bình. Điều này chứng tỏ sinh viên cần được
rèn luyện thêm và cần được giáo dục để phát triển trí tuệ xúc cảm theo các
tiêu chí được đánh giá.
So sánh sự khác biệt của các mặt biểu hiện về trí tuệ xúc cảm theo thông số
giới tính và thông số lớp
- Xét trên từng mặt biểu hiện về trí tuệ xúc cảm, nghiên cứu cho thấy có sự
khác biệt ý nghĩa về mặt thống kê giữa nam sinh viên và nữ sinh viên về
năng lực xây dựng các mối quan hệ liên nhân cách, và giữa sinh viên các lớp
về khả năng thích ứng.
- Tuy nhiên, khi xét trên toàn thang đo, kết quả nghiên cứu cho thấy không
có sự khác biệt ý nghĩa về mặt thống kê giữa nam sinh viên và nữ sinh viên,
và giữa sinh viên các lớp về mức độ biểu hiện trí tuệ xúc cảm.
Mối tương quan giữa các mặt biểu hiện về trí tuệ xúc cảm
Khi xét mối tương quan giữa các mặt biểu hiện về trí tuệ xúc cảm của sinh
viên, kết quả nghiên cứu cho thấy:
- Tất cả các mặt biểu hiện năng lực cảm xúc trí tuệ của sinh viên đều có
tương quan hỗ tương có ý nghĩa về mặt thống kê ở mức xác suất
p < 0,01.
- Xét ở những trị số tương quan r > 0,5 thì ta thấy có các mặt biểu hiện năng
lực cảm xúc trí tuệ đáng quan tâm là:
+ Sự hiểu biết chính mình là mặt biểu hiện chính có tương quan hỗ tương
với các mặt biểu hiện về quan hệ liên nhân cách với người khác; kiểm soát
và quản lý stress; khả năng thích ứng và tâm trạng với các trị số tương quan
lần lượt là 0,756; 0,525; 0,653 và 0,713.
+ Quan hệ với người khác là mặt biểu hiện chính có tương quan hỗ tương
với các mặt biểu hiện về khả năng thích ứng và tâm trạng với các trị số
tương quan lần lượt là 0,575 và 0,734.
+ Tâm trạng là mặt biểu hiện chính có tương quan hỗ tương với các mặt biểu
hiện về sự hiểu biết chính mình; quan hệ với người khác và khả năng thích
ứng với các trị số tương quan lần lượt là 0,713; 0,734 và 0,509.
- Tuy nhiên, xét trên toàn thang đo thì tất cả các mặt biểu hiện về trí tuệ xúc
cảm của sinh viên đều có tương quan hỗ tương với độ tin cậy rất cao ở mức
xác suất p < 0,01, trong đó các mặt biểu hiện về sự hiểu biết chính mình,
quan hệ với người khác và tâm trạng thì có tương quan rất cao cho thấy mức
độ tương quan rất chặt chẽ thể hiện qua các trị số tương quan lần lượt là
0,928; 0,860 và 0,821.
Như vậy, tất cả các mặt biểu hiện về trí tuệ xúc cảm của sinh viên đều có
liên quan mật thiết với nhau, có sự tác động tương hỗ lẫn nhau và có mức độ
ảnh hưởng khác nhau đến trí tuệ xúc cảm của sinh viên khi xét trên toàn
thang đo, đặc biệt là các mặt biểu hiện về sự hiểu biết chính mình, quan hệ
với người khác và tâm trạng thì có sự biểu hiện rõ rệt hơn về mức độ ảnh
hưởng đối với các mặt biểu hiện khác về trí tuệ xúc cảm.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu mức độ biểu hiện trí tuệ xúc cảm của sinh viên, chúng
tôi có thể rút ra những kết luận như sau:
1. Theo các tiêu chí đánh giá mức độ biểu hiện trí tuệ xúc cảm của sinh viên
mà nghiên cứu đã đề ra, chúng ta nhận thấy rằng sự biểu hiện của các yếu tố
năng lực về trí tuệ xúc cảm của sinh viên chỉ ở mức độ trung bình.
2. Xét về phương diện giới tính, nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt
ý nghĩa về mặt thống kê giữa nam sinh viên và nữ sinh viên về mức độ biểu
hiện trí tuệ xúc cảm.
3. Mặt khác, khi nghiên cứu sự biểu hiện về trí tuệ xúc cảm của các sinh
viên theo các năm học, nghiên cứu cho thấy rằng không có sự khác biệt ý
nghĩa về mặt thống kê giữa sinh viên các lớp về mức độ biểu hiện trí tuệ xúc
cảm.
4. Về sự tương quan giữa các năng lực cảm xúc trí tuệ, nghiên cứu cho thấy
các yếu tố của trí tuệ cảm xúc có tương quan với nhau cao. Do đó, việc giáo
dục và phát triển trí tuệ xúc cảm cho sinh viên cần phải được đặc biệt chú
trọng ngay từ năm thứ nhất, trong đó tất cả các kỹ năng quan trọng cần thiết
cho sự phát triển các năng lực cảm xúc trí tuệ cần được phát triển hài hòa để
nâng cao trí tuệ xúc cảm của sinh viên trong quá trình đào tạo.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 127_432.pdf