TÓM TẮT 
Mở đầu:
 Trí tuệ xúc cảm là một thành tố trí tuệ mới được phát hiện vào đầu thập niên 90 của thế kỷ XX. Nó nhanh chóng nhận được sự chú ý của các nhà chuyên môn, đặc biệt là các nhà giáo dục, bởi ảnh hưởng của trí tuệ xúc cảm đối với sự thành công của con người. Con người thành đạt trong cuộc sống ngày nay không chỉ có kiến thức sâu rộng, khả năng sáng tạo mà còn cần phải có bản lĩnh để chế ngự các xung động, các cảm xúc trong tham gia, trong hợp tác, trong việc đưa ra các quyết định, kết hợp với sự thấu hiểu các diễn biến tâm lý, tình cảm của đối tác. Các nghiên cứu về trí tuệ xúc cảm trên thế giới cho thấy rằng sự phát triển của trí tuệ xúc cảm làm cho kết quả học tập của học sinh tốt hơn. Vì vậy, trong những năm cuối của thế kỷ XX, ở các nước phát triển, người ta đã quan tâm nhiều đến xúc cảm của con người và việc giáo dục xúc cảm cho học sinh vì con người là yếu tố then chốt, cơ bản để phát triển xã hội. Để thực hiện nhiệm vụ giáo dục và đào tạo con người phù hợp với sự phát triển của xã hội, việc nghiên cứu về trí tuệ 
MỨC ĐỘ BIỂU HIỆN TRÍ TUỆ XÚC CẢM
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
29 trang | 
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2307 | Lượt tải: 1
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mức độ biểu hiện trí tuệ xúc cảm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỨC ĐỘ BIỂU HIỆN TRÍ TUỆ XÚC CẢM 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Trí tuệ xúc cảm là một thành tố trí tuệ mới được phát hiện vào đầu 
thập niên 90 của thế kỷ XX. Nó nhanh chóng nhận được sự chú ý của các 
nhà chuyên môn, đặc biệt là các nhà giáo dục, bởi ảnh hưởng của trí tuệ xúc 
cảm đối với sự thành công của con người. Con người thành đạt trong cuộc 
sống ngày nay không chỉ có kiến thức sâu rộng, khả năng sáng tạo mà còn 
cần phải có bản lĩnh để chế ngự các xung động, các cảm xúc trong tham gia, 
trong hợp tác, trong việc đưa ra các quyết định, kết hợp với sự thấu hiểu các 
diễn biến tâm lý, tình cảm của đối tác. Các nghiên cứu về trí tuệ xúc cảm 
trên thế giới cho thấy rằng sự phát triển của trí tuệ xúc cảm làm cho kết quả 
học tập của học sinh tốt hơn. Vì vậy, trong những năm cuối của thế kỷ XX, 
ở các nước phát triển, người ta đã quan tâm nhiều đến xúc cảm của con 
người và việc giáo dục xúc cảm cho học sinh vì con người là yếu tố then 
chốt, cơ bản để phát triển xã hội. Để thực hiện nhiệm vụ giáo dục và đào tạo 
con người phù hợp với sự phát triển của xã hội, việc nghiên cứu về trí tuệ 
xúc cảm của sinh viên là một trong những nội dung rất quan trọng của công 
tác giáo dục trong nhà trường đại học hiện nay. 
Mục tiêu nghiên cứu: Nghiên cứu này dựa trên trên cơ sở khảo sát mức độ 
biểu hiện về trí tuệ xúc cảm ở các sinh viên, từ đó đề xuất những giải pháp 
phát triển trí tuệ xúc cảm để nâng cao hiệu quả học tập và rèn luyện của sinh 
viên nhằm nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường. 
Đối tượng - Phương pháp nghiên cứu: Mẫu nghiên cứu là 514 sinh viên với 
140 nam và 374 nữ. Nghiên cứu này được tiến hành theo các phương pháp: 
phương pháp nghiên cứu tài liệu để thiết lập cơ sở lý luận của đề tài, phương 
pháp trắc nghiệm dùng làm công cụ đo nghiệm trong công trình nghiên cứu, 
phương pháp thống kê ứng dụng trong nghiên cứu khoa học để xử lý số liệu 
thực nghiệm của đề tài. 
Kết quả nghiên cứu: Nghiên cứu đã xác định được các mức độ biểu hiện 
khác nhau về trí tuệ xúc cảm của sinh viên, đồng thời chỉ ra được 3 yếu tố 
cảm xúc trí tuệ vượt trội, đó là: năng lực thực hiện các trách nhiệm xã hội, 
năng lực tự khẳng định mình và năng lực giải quyết vấn đề. 
Kết luận: Theo các tiêu chí đánh giá về mức độ biểu hiện trí tuệ xúc cảm của 
sinh viên mà nghiên cứu đã đề ra, chúng ta nhận thấy rằng sự biểu hiện của 
các yếu tố cảm xúc trí tuệ của sinh viên chỉ ở mức độ trung bình. Do đó, việc 
giáo dục và phát triển trí tuệ xúc cảm cho sinh viên cần phải được đặc biệt 
chú trọng ngay từ năm thứ nhất, trong đó tất cả các kỹ năng quan trọng cần 
thiết cho sự phát triển các năng lực cảm xúc trí tuệ cần được phát triển hài 
hòa để nâng cao trí tuệ xúc cảm của sinh viên trong quá trình đào tạo. 
Từ khóa: Trí tuệ, xúc cảm, trí tuệ xúc cảm, năng lực về trí tuệ xúc cảm. 
ABSTRACT 
RESEARCH ON STUDENTS’ LEVEL OF EMOTIONAL 
INTELLIGENCE 
AT UNIVERSITY OF MEDICINE AND PHARMACY IN HO CHI MINH 
CITY 
Huynh Thi Minh Hang * Y Hoc TP.Ho Chi Minh * Vol 14 - Supplement of 
No 1 - 2010: 1- 8 
Background: Emotional intelligence is one element which was just 
discovered at the beginning of 90s of 20th century. It has been quickly paid 
attention by the scientists, especially from the educators, thanks to the 
affection of emotional intelligence on people’s success. Today, people 
archieve in life, not only relying on their large knowledge and ability of 
creativeness but also on their capacity of controlling feelings and emotion in 
working, in co-operating and in making decisions together with their ability 
of reading the partners’ psychology and emotion. Studies on emotional 
intelligence on the world prove that emotional intelligence is one important 
aspect of people’s intelligence. The development of emotional intelligence 
helps improve students’s archievements in their study. Therefore, at the end 
of 20th century, in developed countries, people are more interested in 
emotion and emotional education as human resources as the main factor of 
social development. In order to carry out the mission of education and 
training in accordance with the growth of society, the study on emotional 
intelligence among students becomes one of the important contents in 
educational program in universities in present. 
Objectives: This study is based on researching students’ level of emotional 
intelligence, and thence solutions of developing emotional intelligence are 
suggested in order to improve their effectiveness in learning and practising, 
which helps raise the quality of education in the university. 
Methods: The sample of research consists of 514 students, including 140 
males and 374 females. This research is carried out, relying on some 
methods: researching documents to form the methodology; using testing 
methods as scientific instruments to measure the capacities of emotional 
intelligence; and applying statistics method in scientific research to process 
data. 
Results: The research could define the different levels of students’ emotional 
intelligence and at the same time show 3 prominent elements of emotional 
intelligence, that is social responsibility, self-actualization and problem 
solving. 
Conclusion: According to the criteria of students’ emotional intelligence 
evaluation which the research suggests, we find out that students’ capacities 
of emotional intelligence are at average level. Therefore, the educating and 
developing emotional intelligence for students should be specially paid 
attention to right at the first year at the university, in which all the essential 
skills for growing the capacities of emotional intelligence need to be 
harmonously developed in order to enhance students’ emotional intelligence 
during the process of their education. 
Keywords: Intelligence, emotion, emotional intelligence, capacity of 
emotional intelligence. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Trước đây, khi nói đến trí tuệ, người ta thường chú trọng đến mặt nhận thức 
mà quên rằng xúc cảm cũng là một mặt rất quan trọng của trí tuệ con người. 
Con người thành đạt trong cuộc sống ngày nay không chỉ có kiến thức sâu 
rộng, khả năng sáng tạo mà còn cần phải có bản lĩnh để chế ngự các xung 
động, các cảm xúc trong tham gia, trong hợp tác, trong việc đưa ra các quyết 
định, kết hợp với sự thấu hiểu các diễn biến tâm lý, tình cảm của đối tác. 
Trí tuệ xúc cảm là một thành tố trí tuệ mới được phát hiện vào đầu thập niên 
90 của thế kỷ XX. Nó nhanh chóng nhận được sự chú ý của các nhà chuyên 
môn, đặc biệt là các nhà giáo dục, bởi ảnh hưởng của trí tuệ xúc cảm đối với 
sự thành công của con người. Các nghiên cứu về trí tuệ xúc cảm trên thế giới 
cho thấy rằng sự phát triển của trí tuệ xúc cảm làm cho kết quả học tập của 
học sinh tốt hơn. Vì vậy, trong những năm cuối của thế kỷ XX, ở các nước 
phát triển, người ta đã quan tâm nhiều đến xúc cảm của con người và việc 
giáo dục xúc cảm cho học sinh vì con người là yếu tố then chốt, cơ bản để 
phát triển xã hội. Để thực hiện nhiệm vụ giáo dục và đào tạo con người phù 
hợp với sự phát triển của xã hội, việc nghiên cứu về trí tuệ xúc cảm của sinh 
viên là một trong những nội dung rất quan trọng của công tác giáo dục trong 
nhà trường đại học 
hiện nay. 
MỘT SỐ CƠ SỞ LÝ LUẬN 
Trong tiếng La tinh, trí tuệ có nghĩa là hiểu biết, thông tuệ. Còn Từ điển 
Tiếng Việt giải thích trí tuệ là khả năng nhận thức lý tính đạt đến trình độ 
nhất định. 
Giống như nhiều vấn đề khác trong tâm lý học, thật là khó có thể nêu lên 
được một định nghĩa hoàn chỉnh và đầy đủ nhất về thuật ngữ “trí tuệ” bởi lẽ 
cho đến hiện nay có nhiều quan điểm của các nhà khoa học khác nhau trên 
thế giới nghiên cứu về vấn đề này. Do đó, “trí tuệ” hay còn gọi là “trí thông 
minh” được định nghĩa theo những cách khác nhau. Tuy nhiên, chúng ta có 
thể khái quát một cách tương đối các quan niệm đã có về trí tuệ thành 3 
nhóm chính: 
- Nhóm thứ nhất: Các quan điểm coi trí tuệ là khả năng hoạt động lao động 
và học tập của 
cá nhân. 
- Nhóm thứ hai: Các quan điểm đồng nhất hóa trí tuệ với năng lực tư duy 
trừu tượng của 
cá nhân. 
- Nhóm thứ ba: Các quan điểm coi trí tuệ là năng lực thích ứng tích cực của 
cá nhân. 
Thực ra, các quan niệm về trí tuệ không loại trừ nhau. Trong thực tiễn, 
không có quan niệm nào chỉ chú ý đến duy nhất một khía cạnh năng lực tư 
duy hay khả năng thích ứng, mà thường đề cập tới hầu hết các nội dung đã 
nêu. Sự khác biệt giữa các quan niệm chỉ là ở chỗ khía cạnh nào được nhấn 
mạnh và nghiên cứu sâu hơn. Có hai hình thức trí tuệ tương đối độc lập, 
nhưng tác động lẫn nhau: trí tuệ lý trí và trí tuệ xúc cảm. 
Cho đến nay, tồn tại rất nhiều quan điểm khác nhau về trí tuệ xúc cảm, có 
quan điểm cho rằng trí tuệ xúc cảm là loại trí tuệ thuần năng lực tinh thần, 
nhưng cũng có quan điểm cho rằng trí tuệ xúc cảm là sự kết hợp giữa năng 
lực tinh thần và các năng lực không phải tinh thần. 
Với quan điểm thứ nhất, các nhà tâm lý học đã đưa ra rất nhiều định nghĩa 
khác nhau về loại trí tuệ này, tiêu biểu là các tác giả Peter Salovey và John 
Mayer cho rằng: “Trí tuệ xúc cảm là năng lực nhận biết xúc cảm của mình 
và của người khác, biết bày tỏ xúc cảm của mình và hòa xúc cảm vào suy 
nghĩ, có thể hiểu và phân tích bằng xúc cảm, đồng thời có khả năng điều 
khiển và kiểm soát xúc cảm của bản thân và của người khác”. Theo quan 
niệm của hai nhà tâm lý học này thì “trí tuệ xúc cảm bao gồm khả năng tiếp 
nhận, đánh giá và biểu hiện xúc cảm, khả năng đánh giá và phân loại các 
xúc cảm khi định hướng suy nghĩ, khả năng hiểu xúc cảm và nhận biết xúc 
cảm, khả năng điều khiển và định hướng xúc cảm nhằm mục đích phát triển 
xúc cảm và trí tuệ”. 
Với quan điểm thứ hai, những người xem loại trí tuệ này là sự kết hợp giữa 
năng lực tinh thần và các năng lực không phải tinh thần cũng có những định 
nghĩa khác nhau về trí tuệ xúc cảm, chẳng hạn như: 
- Tác giả Reuven Bar-On cho rằng: “Trí tuệ xúc cảm là một dãy các năng 
lực phi nhận thức và những kỹ năng có ảnh hưởng đến khả năng thành công 
của một người trong hoàn cảnh người đó phải đương đầu với những yêu cầu 
và sức ép từ môi trường”. 
- Tác giả Daniel Goleman lại đưa ra định nghĩa về trí tuệ xúc cảm như sau: 
“Trí tuệ xúc cảm là năng lực nhận biết các cảm xúc của mình và của người 
khác, năng lực tự thúc đẩy và năng lực điều hành tốt các xúc cảm trong bản 
thân mình và trong các mối liên hệ với người khác”. Ông quan niệm rằng 
“Trí tuệ xúc cảm bao gồm năng lực tự kiềm chế, kiểm soát lòng nhiệt tình, sự 
kiên trì và năng lực tự thôi thúc bản thân mình”. 
Từ những cách tiếp cận bản chất về trí tuệ xúc cảm theo những góc độ ít 
nhiều khác nhau của các tác giả trên, có thể đi đến một nhận định rằng, trí 
tuệ xúc cảm là một phẩm chất phức hợp, đa diện, đại diện cho những nhân tố 
khó thấy, khó nắm bắt như tự ý thức, tự nhận thức, tự tin, tính lạc quan, sự 
thấu cảm, tính kiên nhẫn và tính tích cực xã hội. (Error! Reference source not found.) 
Theo Daniel Goleman, về một ý nghĩa nào đó, chúng ta có hai hình thức 
khác nhau của trí tuệ là trí tuệ lý trí và trí tuệ xúc cảm. Cả hai thứ trí tuệ này 
cùng quyết định cách con người hướng dẫn cuộc sống của mình như thế nào, 
trong đó trí tuệ xúc cảm cũng quan trọng như trí thông minh. Ông còn khẳng 
định không có trí tuệ xúc cảm thì trí thông minh không hoạt động được một 
cách thích đáng. Về mặt lý thuyết sinh lý thần kinh, thì có sự bổ sung lẫn 
nhau của hệ thống rìa và vỏ não mới, của hạnh nhân và các thùy trán trước, 
có nghĩa là mỗi hệ thống là một tác nhân riêng biệt của đời sống tinh thần. 
Trí tuệ xúc cảm là loại trí tuệ góp phần quyết định sự thành bại của đời 
người nhiều hơn trí thông minh, nó dễ thay đổi hơn và biên độ thay đổi cũng 
rộng hơn trí thông minh. Trong khi chỉ số thông minh (IQ) thì hầu như mãi 
cố định, trí tuệ xúc cảm lại có thể phát triển lên, có thể nâng cao chỉ số trí tuệ 
xúc cảm (EQ) nhờ kinh nghiệm sống và hoạt động giáo dục. 
Hiện thời chúng ta có thể nhấn mạnh những thành phần sau đây của trí tuệ 
xúc cảm: 
1) Khả năng nhận biết, đánh giá và thể hiện cảm xúc bản thân. Khía cạnh 
này bao gồm năng lực nhận thức được các xúc cảm của mình và nhận biết 
được những suy nghĩ về các xúc cảm đó khi chúng nảy sinh. Đây chính là 
khả năng tự nhận thức của cá nhân về những xúc cảm của mình đang diễn 
ra, nảy sinh trong những tình huống, điều kiện, hoàn cảnh nhất định. 
2) Khả năng nhận biết và đánh giá cảm xúc của người khác. Việc đánh giá 
cảm xúc của người khác (khả năng nhận biết chính xác cảm xúc của người 
khác) và thể hiện cảm xúc đó (khả năng thể nghiệm lại cảm xúc đó vào bản 
thân mình) đều liên quan tới sự thấu cảm. Hai khả năng này đều nói lên năng 
lực thấu cảm của con người. Chính sự thấu cảm là một biểu hiện rất quan 
trọng của trí tuệ xúc cảm. 
3) Khả năng điều chỉnh cảm xúc của bản thân và của người khác. Khía cạnh 
này đề cập đến sự trải nghiệm những cảm xúc của cá nhân và sự theo dõi, 
đánh giá, xử sự để thay đổi, điều hòa của mình và của người khác. Khả năng 
tự điều chỉnh cảm xúc này liên quan tới việc nỗ lực khắc phục những cảm 
xúc tiêu cực, trong khi vẫn duy trì những cảm xúc có lợi cho bản thân. Điều 
chỉnh cảm xúc cũng bao gồm cả những năng lực thay đổi các phản ứng 
tương ứng của người khác (làm dịu, kiềm chế cơn nóng giận, v.v… của 
người khác). 
4) Khả năng sử dụng cảm xúc để định hướng hành động. Những cảm xúc 
của con người có vai trò như là động lực thúc đẩy hoặc kìm hãm hành động, 
tạo ra sự định hướng, sự chú ý của cá nhân đối với hành động nào đó. Vì 
vậy, việc sử dụng cảm xúc để điều khiển hành vi là một trong những thành 
phần quan trọng của trí tuệ xúc cảm. Chẳng hạn, điều khiển hành vi nóng 
nảy, hành vi ôn hòa, v.v… 
Những thành phần nêu trên tuy mới chủ yếu nhấn mạnh khía cạnh nhận thức 
và tính chất quá trình của trí tuệ xúc cảm, nhưng là các thành phần có thể đo 
lường được bằng các 
trắc nghiệm.(Error! Reference source not found.) 
Tuy nhiên trong bài báo công bố gần đây, Daniel Goleman (2001) lại đưa ra 
cấu trúc EI gồm hai loạt đúp (2×2) các hoạt động tạo ra năng lực tổng thể 
nhằm nhận biết và điều khiển xúc cảm ở mình và ở người khác như sau: 
NĂNG LỰC CÁ 
NHÂN 
(quan hệ với 
mình) 
NĂNG LỰC XÃ 
HỘI 
(quan hệ với người 
khác) 
1. Tự biết bản thân 
 Nhận biết mình
 Đánh giá mình 
chính xác 
Tự tin 
2. Nhận biết các quan 
hệ xã hội 
Đồng cảm 
Định hướng sự phục 
vụ 
Biết cách tổ chức 
3. Tự kiểm soát, 4. Quản lý điều khiển 
quản lý bản thân 
 Kiểm soát cảm 
xúc của mình 
 Có lòng tin 
Tự ý thức 
 Thích ứng 
 Động cơ thành 
đạt 
 Sáng tạo 
các mối quan hệ xã 
hội 
 Phát triển người 
khác 
 Tạo ảnh hưởng 
 Giao tiếp 
 Kiểm soát xung đột 
Lãnh đạo có tầm nhìn, 
khôn ngoan 
Xúc tác để thay đổi 
 Xây dựng các mối 
quan hệ 
Tinh thần đồng đội và 
sự hợp tác 
Trong đề tài này, chúng tôi chấp nhận quan điểm của nhà tâm lý học người 
Israel Reuven Bar-On cho rằng để thành công trong công việc và trong cuộc 
sống, cần có các năng lực về trí tuệ xúc cảm không thể thiếu sau đây: 
- Năng lực tự đánh giá bản thân một cách 
lạc quan 
- Năng lực tự nhận biết xúc cảm của 
bản thân 
- Khả năng quyết đoán 
- Tính độc lập 
- Năng lực tự khẳng định mình 
- Khả năng đồng cảm 
- Năng lực thực hiện các trách nhiệm 
xã hội 
- Năng lực xây dựng các mối quan hệ liên nhân cách 
- Khả năng chịu đựng áp lực 
- Năng lực kiểm soát xung tính 
- Năng lực đánh giá đúng thực tiễn 
- Khả năng linh hoạt trong tư duy 
- Năng lực giải quyết vấn đề 
- Khả năng giữ tâm trạng lạc quan 
- Khả năng giữ tâm trạng vui vẻ, 
hạnh phúc 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Để khảo sát mức độ biểu hiện trí tuệ xúc cảm của sinh viên các lớp Dược 
2005, Dược 2006, Dược 2007, chúng tôi đã lựa chọn thang đo mức độ biểu 
hiện trí tuệ xúc cảm dựa trên cơ sở lý thuyết về trí tuệ xúc cảm của tác giả 
Reuven Bar-On để biên dịch và sử dụng trong việc đánh giá mức độ biểu 
hiện của sinh viên. 
Thang đo này gồm 105 câu hỏi trắc nghiệm được thiết kế để đo lường mức 
độ biểu hiện khác nhau của sinh viên về trí tuệ xúc cảm. Các mức độ đo 
được định nghĩa từ thấp đến cao 
như sau: 
1- Hoàn toàn không đúng 
2- Không đúng 
3- Lưỡng lự 
4- Đúng 
5- Hoàn toàn đúng 
Thang đo mức độ biểu hiện trí tuệ xúc cảm được cấu trúc thành 5 phạm trù 
đo lường với các tiểu thang đo như sau: 
1) Sự hiểu biết chính mình: gồm các năng lực tự nhận biết xúc cảm của bản 
thân, năng lực tự khẳng định mình, tính độc lập, khả năng quyết đoán và 
năng lực đánh giá bản thân một cách 
lạc quan. 
2) Quan hệ với người khác: gồm các năng lực như khả năng đồng cảm, năng 
lực thực hiện các trách nhiệm xã hội và năng lực xây dựng các mối quan hệ 
liên nhân cách. 
3) Kiểm soát, quản lý stress: gồm các khả năng chịu đựng áp lực và năng lực 
kiểm soát xung tính. 
4) Khả năng thích ứng: gồm các năng lực như năng lực đánh giá đúng thực 
tiễn, khả năng linh hoạt trong tư duy và năng lực giải quyết 
vấn đề. 
5) Tâm trạng: gồm các khả năng giữ tâm trạng lạc quan, vui vẻ, hạnh phúc. 
Một số tiêu chí đánh giá 
Để có thể đưa ra kết luận về mức độ tự đánh giá của sinh viên cho từng tiêu 
chí qua từng câu trắc nghiệm cũng như của các tiểu thang đo, ta căn cứ vào 
chuẩn đánh giá mức độ cao thấp M của từng câu dựa vào các khoảng ước 
lượng của điểm trung bình bình quân và độ lệch tiêu chuẩn bình quân của 
câu trên toàn thang đo mức độ biểu hiện trí tuệ xúc cảm như sau: 
* Trường hợp M < 2,98 ta kết luận: Tự đánh giá là ở mức độ dưới trung 
bình, sinh viên có nhu cầu rất cao trong việc rèn luyện và phát triển trí tuệ 
xúc cảm theo tiêu chí được đánh giá. 
* Trường hợp 2,98 M 3,66 ta kết luận: Tự đánh giá là ở mức độ trung 
bình, sinh viên cần được rèn luyện thêm và phát triển trí tuệ xúc cảm theo 
tiêu chí được đánh giá. 
* Trường hợp M > 3,66 ta kết luận: Tự đánh giá là ở mức độ cao, sinh viên 
có mức độ biểu hiện rất cao về trí tuệ xúc cảm theo tiêu chí được đánh giá. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Nghiên cứu này được tiến hành theo phương pháp nghiên cứu định lượng 
dựa trên kết quả khảo sát về mức độ biểu hiện trí tuệ xúc cảm của sinh viên 
tại Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh. Nghiên cứu được thực hiện 
trên sự khảo sát các bài trắc nghiệm dùng để đo lường mức độ biểu hiện trí 
tuệ xúc cảm của sinh viên hệ chính quy các lớp Dược 2005, Dược 2006, 
Dược 2007 thuộc Khoa Dược - Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh. 
Qua thống kê về số lượng và giới tính của sinh viên các lớp tham gia khảo 
sát, chúng tôi đã thu được những kết quả như sau: 
* Tổng số sinh viên tham gia khảo sát: 514 
* Lớp: 
– Dược 2005: 130 
– Dược 2006: 201 
– Dược 2007: 183 
* Giới tính: 
– Nam: 140 
– Nữ: 374 
Kết quả chung về các thông số của thang đo mức độ biểu hiện trí tuệ xúc 
cảm 
Thang đo mức độ biểu hiện trí tuệ xúc cảm đã được khảo sát thử nghiệm 
trên sinh viên lớp Dược 2007 trước khi tiến hành khảo sát chính thức trên 
sinh viên hai lớp Dược 2005 và Dược 2006. Qua nghiên cứu các bài trắc 
nghiệm của sinh viên các lớp tham gia khảo sát, chúng tôi đã rút ra được 
những kết quả như sau: 
Các thông số nghiên cứu Kết quả về 
thang đo 
Số câu trắc nghiệm 105 
Số sinh viên làm trắc 514 
nghiệm 
Điểm trung bình toàn bài 348,88 
Độ lệch tiêu chuẩn toàn bài 35,70 
Điểm trung bình bình quân 
của câu 
3,32 
Độ lệch tiêu chuẩn bình 
quân của câu 
0,34 
Hệ số tin cậy 0,94 
Qua kết quả chung về thông số của thang đo mức độ biểu hiện trí tuệ xúc 
cảm cho thấy hệ số tin cậy của thang đo =0,94 là rất cao. Giá trị này nói lên 
tính vững chải của thang đo và cho phép kết luận thang đo là đáng tin cậy. 
Kết quả phân tích thang đo theo từng yếu tố năng lực khác nhau về trí tuệ 
xúc cảm trên sinh viên 
Bảng 1: Kết quả phân tích các thông số của toàn thang đo theo từng yếu tố 
năng lực cảm xúc trí tuệ 
Yếu Nội dung Điểm Độ Trung Thứ 
tố trung 
bình 
lệch 
tiêu 
chuẩn 
bình 
điều 
hòa 
bậc 
1 Năng lực tự 
đánh giá 
bản thân 
một cách 
lạc quan 
23,82 3,84 3,40 8 
2 Năng lực tự 
nhận biết 
xúc cảm 
của bản 
thân 
22,51 3,68 3,22 10 
3 Khả năng 
quyết đoán 
22,24 3,84 3,18 11 
4 Tính độc 
lập 
19,75 4,16 2,82 14 
5 Năng lực tự 26,04 3,66 3,72 2 
khẳng định 
mình 
6 Khả năng 
đồng cảm 
24,47 3,72 3,50 5 
7 Năng lực 
thực hiện 
các trách 
nhiệm xã 
hội 
26,40 3,74 3,77 1 
8 Năng lực 
xây dựng 
các mối 
quan hệ liên 
nhân cách 
23,93 3,82 3,42 7 
9 Khả năng 
chịu đựng 
áp lực 
21,61 4,24 3,09 12 
10 Năng lực 19,73 5,06 2,81 15 
kiểm soát 
xung tính 
11 Năng lực 
đánh giá 
đúng thực 
tiễn 
22,84 3,62 3,26 9 
12 Khả năng 
linh hoạt 
trong tư duy 
21,17 4,50 3,03 13 
13 Năng lực 
giải quyết 
vấn đề 
25,67 3,84 3,67 3 
14 Khả năng 
giữ tâm 
trạng lạc 
quan 
24,75 3,74 3,54 4 
15 Khả năng 
giữ tâm 
23,98 4,28 3,43 6 
trạng vui 
vẻ, hạnh 
phúc 
Qua kết quả của bảng 1, nghiên cứu cho thấy các yếu tố năng lực khác nhau 
về trí tuệ xúc cảm theo sinh viên tự đánh giá tương ứng với các mức độ đạt 
được từ cao đến thấp như sau: 
1. Năng lực thực hiện các trách nhiệm 
xã hội 
2. Năng lực tự khẳng định mình 
3. Năng lực giải quyết vấn đề 
4. Khả năng giữ tâm trạng lạc quan 
5. Khả năng đồng cảm 
6. Khả năng giữ tâm trạng vui vẻ, 
hạnh phúc 
7. Năng lực xây dựng các mối quan hệ liên nhân cách 
8. Năng lực tự đánh giá bản thân một cách lạc quan 
9. Năng lực đánh giá đúng thực tiễn 
10. Năng lực tự nhận biết xúc cảm của 
bản thân 
11. Khả năng quyết đoán 
12. Khả năng chịu đựng áp lực 
13. Khả năng linh hoạt trong tư duy 
14. Tính độc lập 
15. Năng lực kiểm soát xung tính 
Nhìn chung, tự đánh giá các yếu tố năng lực về trí tuệ xúc cảm của sinh viên 
là ở mức độ trung bình. Tuy nhiên, tự đánh giá tính độc lập và năng lực kiểm 
soát xung tính có mức độ biểu hiện dưới trung bình. Điều này cho phép kết 
luận sinh viên có nhu cầu cao trong việc rèn luyện và phát triển trí tuệ xúc 
cảm theo các tiêu chí được đánh giá. 
Kết quả phân tích thang đo theo từng mặt biểu hiện khác nhau về trí tuệ xúc 
cảm trên sinh viên 
Bảng 2: Kết quả phân tích các thông số của toàn thang đo theo từng mặt biểu 
hiện về trí tuệ 
xúc cảm 
Mặt 
biểu 
Nội dung 
Điểm 
trung 
Độ 
lệch 
Trung 
bình 
Thứ 
bậc 
hiện bình tiêu 
chuẩn 
điều 
hòa 
1 Sự hiểu biết 
chính mình 
22,87 2,48 3,27 4 
2 Quan hệ với 
người khác 
24,93 3,19 3,56 1 
3 Kiểm soát, 
quản lý stress 
20,67 3,09 2,96 5 
4 Khả năng 
thích ứng 
23,23 2,68 3,32 3 
5 Tâm trạng 24,36 3,51 3,49 2 
Qua kết quả của bảng 2, nghiên cứu cho thấy các mặt biểu hiện về trí tuệ xúc 
cảm theo sinh viên tự đánh giá tương ứng với các mức độ đạt được từ cao 
đến thấp như sau: 
1. Quan hệ với người khác 
2. Tâm trạng 
3. Khả năng thích ứng 
4. Sự hiểu biết chính mình 
5. Kiểm soát, quản lý stress 
Như vậy, tự đánh giá các mặt biểu hiện về trí tuệ xúc cảm của sinh viên chỉ 
đạt mức độ trung bình, tuy nhiên tự đánh giá về khả năng kiểm soát và quản 
lý stress là ở mức độ dưới trung bình. Điều này chứng tỏ sinh viên cần được 
rèn luyện thêm và cần được giáo dục để phát triển trí tuệ xúc cảm theo các 
tiêu chí được đánh giá. 
So sánh sự khác biệt của các mặt biểu hiện về trí tuệ xúc cảm theo thông số 
giới tính và thông số lớp 
- Xét trên từng mặt biểu hiện về trí tuệ xúc cảm, nghiên cứu cho thấy có sự 
khác biệt ý nghĩa về mặt thống kê giữa nam sinh viên và nữ sinh viên về 
năng lực xây dựng các mối quan hệ liên nhân cách, và giữa sinh viên các lớp 
về khả năng thích ứng. 
- Tuy nhiên, khi xét trên toàn thang đo, kết quả nghiên cứu cho thấy không 
có sự khác biệt ý nghĩa về mặt thống kê giữa nam sinh viên và nữ sinh viên, 
và giữa sinh viên các lớp về mức độ biểu hiện trí tuệ xúc cảm. 
Mối tương quan giữa các mặt biểu hiện về trí tuệ xúc cảm 
Khi xét mối tương quan giữa các mặt biểu hiện về trí tuệ xúc cảm của sinh 
viên, kết quả nghiên cứu cho thấy: 
- Tất cả các mặt biểu hiện năng lực cảm xúc trí tuệ của sinh viên đều có 
tương quan hỗ tương có ý nghĩa về mặt thống kê ở mức xác suất 
 p < 0,01. 
- Xét ở những trị số tương quan r > 0,5 thì ta thấy có các mặt biểu hiện năng 
lực cảm xúc trí tuệ đáng quan tâm là: 
+ Sự hiểu biết chính mình là mặt biểu hiện chính có tương quan hỗ tương 
với các mặt biểu hiện về quan hệ liên nhân cách với người khác; kiểm soát 
và quản lý stress; khả năng thích ứng và tâm trạng với các trị số tương quan 
lần lượt là 0,756; 0,525; 0,653 và 0,713. 
+ Quan hệ với người khác là mặt biểu hiện chính có tương quan hỗ tương 
với các mặt biểu hiện về khả năng thích ứng và tâm trạng với các trị số 
tương quan lần lượt là 0,575 và 0,734. 
+ Tâm trạng là mặt biểu hiện chính có tương quan hỗ tương với các mặt biểu 
hiện về sự hiểu biết chính mình; quan hệ với người khác và khả năng thích 
ứng với các trị số tương quan lần lượt là 0,713; 0,734 và 0,509. 
- Tuy nhiên, xét trên toàn thang đo thì tất cả các mặt biểu hiện về trí tuệ xúc 
cảm của sinh viên đều có tương quan hỗ tương với độ tin cậy rất cao ở mức 
xác suất p < 0,01, trong đó các mặt biểu hiện về sự hiểu biết chính mình, 
quan hệ với người khác và tâm trạng thì có tương quan rất cao cho thấy mức 
độ tương quan rất chặt chẽ thể hiện qua các trị số tương quan lần lượt là 
0,928; 0,860 và 0,821. 
Như vậy, tất cả các mặt biểu hiện về trí tuệ xúc cảm của sinh viên đều có 
liên quan mật thiết với nhau, có sự tác động tương hỗ lẫn nhau và có mức độ 
ảnh hưởng khác nhau đến trí tuệ xúc cảm của sinh viên khi xét trên toàn 
thang đo, đặc biệt là các mặt biểu hiện về sự hiểu biết chính mình, quan hệ 
với người khác và tâm trạng thì có sự biểu hiện rõ rệt hơn về mức độ ảnh 
hưởng đối với các mặt biểu hiện khác về trí tuệ xúc cảm. 
KẾT LUẬN 
 Qua nghiên cứu mức độ biểu hiện trí tuệ xúc cảm của sinh viên, chúng 
tôi có thể rút ra những kết luận như sau: 
1. Theo các tiêu chí đánh giá mức độ biểu hiện trí tuệ xúc cảm của sinh viên 
mà nghiên cứu đã đề ra, chúng ta nhận thấy rằng sự biểu hiện của các yếu tố 
năng lực về trí tuệ xúc cảm của sinh viên chỉ ở mức độ trung bình. 
2. Xét về phương diện giới tính, nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt 
ý nghĩa về mặt thống kê giữa nam sinh viên và nữ sinh viên về mức độ biểu 
hiện trí tuệ xúc cảm. 
3. Mặt khác, khi nghiên cứu sự biểu hiện về trí tuệ xúc cảm của các sinh 
viên theo các năm học, nghiên cứu cho thấy rằng không có sự khác biệt ý 
nghĩa về mặt thống kê giữa sinh viên các lớp về mức độ biểu hiện trí tuệ xúc 
cảm. 
4. Về sự tương quan giữa các năng lực cảm xúc trí tuệ, nghiên cứu cho thấy 
các yếu tố của trí tuệ cảm xúc có tương quan với nhau cao. Do đó, việc giáo 
dục và phát triển trí tuệ xúc cảm cho sinh viên cần phải được đặc biệt chú 
trọng ngay từ năm thứ nhất, trong đó tất cả các kỹ năng quan trọng cần thiết 
cho sự phát triển các năng lực cảm xúc trí tuệ cần được phát triển hài hòa để 
nâng cao trí tuệ xúc cảm của sinh viên trong quá trình đào tạo. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
127_432.pdf