Tóm tắt.
 Số liệu nhiệt độ cực đại ngày (Tx) tại 57 trạm quan trắc trên 7 vùng khí hậu Việt Nam 
 được sử dụng để xác định mức độ và xu thế biến đổi của nắng nóng (NN). Kết quả chỉ ra rằng, NN 
 thường xuất hiện từ tháng 3 đến tháng 9 (ở các vùng từ B1 đến N1) và từ tháng 2 đến tháng 6 (ở 
 vùng N2 và N3). Trong khi đó, nắng nóng gay gắt (NNGG) thường bắt đầu sau và kết thúc trước 
 NN khoảng 1 tháng ở hầu hết các vùng khí hậu. Trên lãnh thổ Việt Nam, NN xảy ra nhiều nhất ở 
 vùng B4 và có xu hướng giảm dần về phía bắc và phía nam của lãnh thổ. NN (NNGG) thường có 
 biến động mạnh hơn ở những trạm và trong những tháng có số ngày NN (NNGG) lớn. NN có xu 
 thế tăng ở hầu hết các trạm trong thời kỳ 1961-2007 và tăng nhanh hơn trong thời kỳ 1991-2007 ở 
 các trạm thuộc vùng B2, B3 và B4 nhưng lại giảm xuống ở một số trạm thuộc vùng B1, N2 và N3. 
Mức độ và xu thế biến đổi của nắng nóng ở Việt Nam giai đoạn 1961-2007
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
14 trang | 
Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 2192 | Lượt tải: 2
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Mức độ và xu thế biến đổi của nắng nóng ở Việt Nam giai đoạn 1961 - 2007, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 370‐383 
370 
_______ 
Mức độ và xu thế biến đổi của nắng nóng ở Việt Nam 
giai đoạn 1961-2007 
Chu Thị Thu Hường1,*, Phạm Thị Lê Hằng2, Vũ Thanh Hằng3, Phan Văn Tân3 
1Trường Đại học Tài Nguyên và Môi trường Hà Nội, 41A Đường Phú Diễn, Cầu Diễn, Hà Nội, Việt Nam 
2Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Trung ương, 4 Đặng Thái Thân, Hà Nội, Việt Nam 
3Khoa Khí tượng Thủy văn và Hải dương học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN, 
334 Nguyễn Trãi, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 11 tháng 8 năm 2010
Tóm tắt. Số liệu nhiệt độ cực đại ngày (Tx) tại 57 trạm quan trắc trên 7 vùng khí hậu Việt Nam 
được sử dụng để xác định mức độ và xu thế biến đổi của nắng nóng (NN). Kết quả chỉ ra rằng, NN 
thường xuất hiện từ tháng 3 đến tháng 9 (ở các vùng từ B1 đến N1) và từ tháng 2 đến tháng 6 (ở 
vùng N2 và N3). Trong khi đó, nắng nóng gay gắt (NNGG) thường bắt đầu sau và kết thúc trước 
NN khoảng 1 tháng ở hầu hết các vùng khí hậu. Trên lãnh thổ Việt Nam, NN xảy ra nhiều nhất ở 
vùng B4 và có xu hướng giảm dần về phía bắc và phía nam của lãnh thổ. NN (NNGG) thường có 
biến động mạnh hơn ở những trạm và trong những tháng có số ngày NN (NNGG) lớn. NN có xu 
thế tăng ở hầu hết các trạm trong thời kỳ 1961-2007 và tăng nhanh hơn trong thời kỳ 1991-2007 ở 
các trạm thuộc vùng B2, B3 và B4 nhưng lại giảm xuống ở một số trạm thuộc vùng B1, N2 và N3. 
Từ khóa: Nhiệt độ cực đại ngày, mức độ biến đổi, xu thế, NN, NNGG, Việt Nam. 
1. Mở đầu∗
Nắng nóng (NN) và nắng nóng gay gắt 
(NNGG) là một trong những loại hình thời tiết 
rất đặc trưng trong mùa hè ở hầu khắp các khu 
vực trên lãnh thổ Việt Nam, gây ảnh hưởng xấu 
về nhiều mặt đối với con người, cây trồng và 
vật nuôi. Theo Trung tâm Dự báo Khí tượng 
Thủy văn Trung ương, chỉ tiêu để xác định NN 
hay NNGG dựa vào nhiệt độ cực đại (Tx) và độ 
ẩm tương đối (Rh) trong ngày. Cụ thể, nếu Tx ≥ 
35oC và Rh ≤ 55%, thì sẽ xảy ra nắng nóng, 
hoặc nếu Tx ≥ 37oC và rh ≤ 45% thì sẽ xảy ra 
NNGG. Tuy nhiên, chỉ tiêu độ ẩm đưa ra ở đây 
để đánh giá mức độ khô nóng trong khí quyển. 
Do đó, trong bài viết này chúng tôi sẽ chỉ xác 
định NN và NNGG thông qua Tx. 
∗ Tác giả liên hệ. ĐT: 0946652952. 
 E-mail: chuhuongkttv@yahoo.com 
Do Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới 
gió mùa có địa hình phức tạp, đồng thời lại chịu 
ảnh hưởng mạnh mẽ của áp thấp nóng phía tây 
và áp cao cận nhiệt đới Tây Thái Bình Dương 
(ACTBD) trong mùa hè nên NN xảy ra rộng 
khắp trên toàn lãnh thổ. Có thể nhận thấy, ngay 
trong những tháng đầu và giữa mùa hè năm nay 
(2010), NNGG đã liên tiếp xảy ra trong một 
thời gian dài. Điển hình, một đợt NNGG đã xảy 
ra từ 2/7 đến 12/7/2010 trên khu vực Bắc Bộ và 
Trung Bộ với nhiệt độ lớn nhất trong ngày có 
thể đạt tới 400C-410C. 
C.T.T. Hường và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 370‐383 371
Như chúng ta đã biết, biến đổi khí hậu đã và 
đang diễn ra với biểu hiện rõ nét là nhiệt độ 
trung bình toàn cầu tăng lên dẫn đến sự biến đổi 
của các hiện tượng cực đoan. Theo báo cáo lần 
thứ 4 của Ban liên Chính phủ về Biến đổi khí 
hậu (IPCC), nhiệt độ bề mặt trái đất trong thời 
gian từ 1906-2005 đã tăng lên khoảng 0,74 ± 
0,180C. Xu thế tăng nhiệt độ trong 50 năm gần 
đây là 0,130C/thập kỷ, gấp gần hai lần xu thế 
tăng nhiệt độ của 100 năm qua. Đặc biệt, ở Bắc 
cực nhiệt độ đã tăng gần gấp hai lần tỷ lệ tăng 
trung bình toàn cầu. Hơn nữa, trong 12 năm gần 
đây (1995-2006) có 11 năm nóng nhất kể từ 
năm 1850 [1]. Ngoài ra, theo tổ chức khí tượng 
thế giới (WMO), bề mặt trái đất trên toàn cầu 
trong tháng 1 và tháng 4 năm 2007 có thể xem 
là nóng nhất kể từ năm 1880. Cụ thể, nhiệt độ 
trong tháng 1 đã tăng lên 1,890C và trong tháng 
4 đã tăng lên 1,370C so với nhiệt độ trung bình 
của từng tháng [2]. Riêng trên lãnh thổ Việt 
Nam, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, nhiệt độ 
trung bình trong 50 năm qua (1958-2008) đã 
tăng lên từ 0,5 đến 0,70C và nhiệt độ trong mùa 
đông có xu thế tăng nhanh hơn trong mùa hè [3-
5]. 
Trên thế giới, trong những năm gần đây, đã 
có rất nhiều tác giả nghiên cứu về các hiện 
tượng cực đoan như nắng nóng, rét đậm, rét 
hại,... dựa vào nhiệt độ cực trị trên mỗi vùng. 
Nghiên cứu xu thế biến đổi của nhiệt độ ngày 
trong giai đoạn 1961-1998 từ 91 trạm trong 15 
quốc gia cho vùng Đông nam Châu Á và nam 
Thái Bình Dương, Manton M. J và ccs (2001) 
đã nhận thấy, số ngày nóng và đêm ấm thì tăng 
lên trong khi số ngày mát và đêm lạnh trong 
năm lại giảm đi [6]. Một kết luận tương tự đã 
được Vincent L. A và ccs (2005) đưa ra khi 
phân tích biến đổi của nhiệt độ cực trị ngày trên 
8 quốc gia vùng Nam Mỹ trong thời kỳ 1961-
2000. Các tác giả cho rằng, số đêm ấm thì tăng 
lên, còn số đêm lạnh lại giảm đi ở rất nhiều 
trạm, đặc biệt với những trạm nằm ở bờ biển 
phía tây và đông của Nam Mỹ [7]. Phân tích số 
liệu nhiệt độ trung bình và cực trị trung bình 
trong ngày, Toreti A và F. Desiato (2008) đã sử 
dụng số liệu từ 49 trạm quan trắc ở Italia trong 
giai đoạn 1961-2004. Kết quả cho thấy, xu thế 
âm xảy ra trong thời kỳ từ 1961-1981; ngược 
lại, xu thế dương xảy ra rõ rệt trong thời kỳ 
1981-2004, còn biên độ nhiệt độ trung bình 
ngày thì tăng lên trong toàn bộ thời kỳ [8]. Để 
phân tích những biến đổi theo không gian và 
thời gian của nhiệt độ trung bình và cực trị 
ngày, Bulygina O. N và ccs (2007) đã sử dụng 
số liệu nhiệt độ ngày từ trên 530 trạm ở Nga 
trong thời gian từ năm 1951-2005. Nghiên cứu 
cho thấy, tổng số ngày trong từng mùa có nhiệt 
độ cực đại cao hơn phân vị thứ 95 đã tăng lên, 
còn số ngày có nhiệt độ cực tiểu nhỏ hơn phân 
vị thứ 5 đã giảm trên hầu hết các vùng của Nga. 
Số ngày có nhiệt độ cao dị thường cũng có xu 
thế giảm. Nhưng ở một số vùng riêng biệt, số 
ngày có biên độ dao động nhiệt độ ngày lớn lại 
có xu thế tăng lên [9]. 
Cho đến nay, ở Việt Nam cũng đã có nhiều 
nghiên cứu về NN. Dựa trên số liệu thống kê từ 
năm 1983-2000, Trần Thế Kiêm (2000) đã đưa 
ra một số nhận xét về đặc điểm phân bố NN 
theo không gian, thời gian và các hình thế 
synop chính gây ra thời tiết NN ở Việt Nam 
[10]. Phân tích số ngày NN trong từng thời kỳ 
trên lãnh thổ Việt Nam, Nguyễn Đức Ngữ 
(2009) cho rằng, số ngày NN trong thập kỷ 
1991- 2000 nhiều hơn so với các thập kỷ trước, 
đặc biệt ở Trung Bộ và Nam Bộ [3]. Phân tích 
các trung tâm khí áp ảnh hưởng đến Việt Nam 
để giải thích sự tăng lên của nhiệt độ trung bình 
trên một số trạm đặc trưng trong thời kỳ 1961-
2000, Nguyễn Viết Lành (2007) cho rằng, nhiệt 
độ trung bình trong thời kỳ này đã tăng lên từ 
0,4-0,60C, nhưng xu thế tăng rõ rệt nhất xảy ra 
trong thập kỷ cuối và trong mùa đông, đặc biệt 
là trong tháng 1, mà nguyên nhân là do sự mạnh 
lên của ACTBD trong thời kỳ này [11]. Ngoài 
C.T.T. Hường và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 370‐383 372
ra, phân tích sự biến đổi nhiệt độ cực trị ở Việt 
Nam trong giai đoạn 1961-2007, Hồ Thị Minh 
Hà và Phan Văn Tân (2009) cho rằng, nhiệt độ 
cực đại có xu hướng giảm hoặc tăng chậm ở 
những khu vực có nhiệt độ cực đại cao và tăng ở 
những khu vực có nhiệt độ cực đại thấp hơn 
[12]. Như vậy, những nghiên cứu về nắng nóng 
trên lãnh thổ Việt Nam tuy không ít, song mức 
độ và xu thế biến đổi của NN lại chưa được 
nghiên cứu một cách hệ thống. Trong khi đó, sự 
biến đổi của nhiệt độ trung bình toàn cầu cũng 
như nhiệt độ cực trị có thể sẽ làm biến đổi các 
hiện tượng thời tiết và khí hậu cực đoan trong đó 
có NN và NNGG. Bởi vậy, Đặc điểm phân bố 
theo không gian và thời gian cũng như mức độ 
và xu thế biến đổi của NN và NNGG sẽ được 
chúng tôi đưa ra trong bài viết này. 
2. Số liệu và phương pháp 
2.1. Số liệu 
Để nghiên cứu sự biến động theo không 
gian, thời gian cũng như mức độ và xu thế biến 
đổi của NN, chúng tôi sử dụng số liệu ngày của 
yếu tố nhiệt độ cực đại (Tx) từ 57 trạm khí 
tượng đặc trưng cho 7 vùng khí hậu trên lãnh 
thổ Việt Nam trong giai đoạn từ 1961-2007. Cụ 
thể: 
- Vùng Tây Bắc (B1): Sơn La, Điện Biên, 
Lai Châu, Mộc Châu, Yên Châu 
- Vùng Đông Bắc (B2): Sa Pa, Hà Giang, 
Bắc Quang, Yên Bái, Lạng Sơn, Bãi Cháy, Thái 
Nguyên, Cô Tô, Tuyên Quang 
- Vùng Đồng bằng Bắc Bộ (B3): Hà Nội, 
Phù Liễn, Nam Định, Ninh Bình, Bạch Long 
Vĩ, Hòa Bình, Thái Bình 
- Vùng Bắc Trung Bộ (B4): Thanh Hóa, 
Hồi Xuân, Vinh, Tương Dương, Hà Tĩnh, Kỳ 
Anh, Đồng Hới, Tuyên Hóa, Đông Hà, A Lưới, 
Huế, Nam Đông, Hương Khê 
- Vùng Nam Trung Bộ (N1): Đà Nẵng, Trà 
My, Quảng Ngãi, Batơ, Quy Nhơn, Tuy Hòa, 
Nha Trang, Phan Thiết, Phú Quý 
- Vùng Tây Nguyên (N2): Bảo Lộc, Buôn 
Ma Thuột, Đà Lạt, Kon Tum, Playcu, Ayunpa, 
Đăknông 
- Vùng Đồng bằng Nam Bộ (N3): Cà Mau, 
Cần Thơ, Rạch Giá, Vũng Tàu, Côn Đảo, 
Trường Sa, Phú Quốc. 
 2.2. Phương pháp 
Đặc điểm phân bố không gian, biến đổi theo 
thời gian cũng như xu thế biến đổi của NN 
được xác định dựa trên các đặc trưng thống kê 
cơ bản của hiện tượng trên từng vùng khí hậu 
như: 
- Chuỗi số ngày NN, NNGG theo từng 
tháng và năm của các trạm, giá trị trung bình 
nhiều năm. 
- Độ lệch chuẩn của số ngày NN và NNGG 
theo tháng và năm tại các trạm. 
- Các phương trình biểu diễn xu thế biến đổi 
tuyến tính theo thời gian của số ngày xuất hiện 
NN (NNGG) cho từng trạm, Y= A0 + A1.t, 
trong đó Y là số ngày xuất hiện NN, A0 và A1 là 
các hệ số hồi quy, t là thời gian (năm). Các 
phương trình này được xây dựng dựa trên chuỗi 
số liệu quan trắc 47 năm, từ năm 1961 đến 
2007. Hệ số A1 dương hay âm phản ánh xu thế 
tăng hay giảm theo thời gian của số ngày NN. 
Trị số tuyệt đối của A1 biểu thị mức độ tăng 
(giảm); trị số này càng lớn mức độ tăng (giảm) 
càng lớn. 
- Đường và phương trình biểu diễn xu thế 
biến đổi của NN/NNGG theo thời gian cũng 
được xây dựng trên toàn chuỗi số liệu 1961-
2007 và trong từng thời kỳ 1961-1990 (được 
xem như thời kỳ chuẩn khí hậu) và 1991-2007 
là thời kỳ chịu ảnh hưởng rõ nét của biến đổi 
khí hậu. 
C.T.T. Hường và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 370‐383 373
3. Kết quả và thảo luận 
3.1. Phân bố số ngày NN và NNGG theo không 
gian và thời gian 
Phân tích số ngày NN và NNGG trung bình 
năm trên toàn chuỗi số liệu quan trắc từ 1961-
2007 của một số trạm đại diện cho các vùng khí 
hậu (hình 1) cho thấy, NN cũng như NNGG ở 
các vùng khí hậu phía Bắc có xu thế tăng dần từ 
Bắc vào Nam, còn ở các vùng khí hậu phía 
Nam lại có xu hướng ngược lại là tăng dần từ 
Nam ra Bắc. Như vậy, Trung Bộ, đặc biệt là 
vùng khí hậu Bắc Trung Bộ (B4) là tâm điểm 
của NN. Các trạm trong vùng này có số ngày 
NN khá cao, dao động trong khoảng 40-60 
ngày, nhiều nhất lên tới 84 ngày (trạm Nam 
Đông) và ít nhất cũng trên 22 ngày (trạm Thanh 
Hóa). Số ngày xuất hiện NNGG bằng khoảng 
1/4 số ngày NN. Đối với vùng khí hậu Nam 
Trung Bộ (N1), số ngày NN và NNGG cũng 
khá lớn, tương đương với mức trung bình của 
vùng B4 (ngoại trừ hai trạm gần biển là Nha 
Trang và Phan Thiết). Ở các vùng khí hậu còn 
lại, số ngày NN và NNGG ít hơn rất nhiều (trừ 
trạm Yên Châu (B1) và trạm Ayunpa (N2)), đặc 
biệt, trên vùng khí hậu Nam Bộ, số ngày NN 
dao động trong khoảng 10 ngày, còn NNGG thì 
chỉ xảy ra xấp xỉ 1 ngày. 
Số ngày nắng nóng trung bình năm
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
L
A
IC
H
A
U
D
IE
N
B
IE
N
Y
E
N
C
H
A
U
H
A
G
IA
N
G
L
A
N
G
SO
N
TU
Y
E
N
Q
U
A
N
G
Y
E
N
B
A
I
TH
A
IN
G
U
Y
E
N
L
A
N
G
H
O
A
B
IN
H
PH
U
L
IE
N
N
A
M
D
IN
H
TH
A
N
H
H
O
A
V
IN
H
TU
O
N
G
D
U
O
N
G
H
A
TI
N
H
D
O
N
G
H
O
I
D
O
N
G
H
A
H
U
E
N
A
M
D
O
N
G
D
A
N
A
N
G
Q
U
A
N
G
N
G
A
I
Q
U
Y
N
H
O
N
N
H
A
TR
A
N
G
PH
A
N
TH
IE
T
K
O
N
TU
M
A
Y
U
N
PA
B
U
O
N
M
A
TH
U
O
T
V
U
N
G
TA
U
C
A
N
TH
O
C
A
M
A
U
Trạm
Số
 n
gà
y 
N
N
G
G
Số ngày nắng nóng gay gắt trung bình năm
0
5
10
15
20
25
30
35
L
A
IC
H
A
U
D
IE
N
B
IE
N
Y
E
N
C
H
A
U
H
A
G
IA
N
G
L
A
N
G
SO
N
TU
Y
E
N
Q
U
A
N
G
Y
E
N
B
A
I
TH
A
IN
G
U
Y
E
N
L
A
N
G
H
O
A
B
IN
H
P
H
U
L
IE
N
N
A
M
D
IN
H
TH
A
N
H
H
O
A
V
IN
H
TU
O
N
G
D
U
O
N
G
H
A
TI
N
H
D
O
N
G
H
O
I
D
O
N
G
H
A
H
U
E
N
A
M
D
O
N
G
D
A
N
A
N
G
Q
U
A
N
G
N
G
A
I
Q
U
Y
N
H
O
N
N
H
A
TR
A
N
G
PH
A
N
TH
IE
T
K
O
N
TU
M
A
Y
U
N
PA
B
U
O
N
M
A
TH
U
O
T
V
U
N
G
TA
U
C
A
N
TH
O
C
A
M
A
U
Trạm
Số
 n
gà
y 
N
N
G
G
Hình 1. Phân bố số ngày NN, NNGG trung bình năm tại một số trạm trên các vùng khí hậu. 
Hình 2 và 3 biểu diễn số ngày NN và 
NNGG trung bình tháng của các trạm đặc trưng 
trên các vùng khí hậu. Từ đó ta thấy, trên các 
vùng từ B1 đến N1, NN thường xuất hiện vào 
thời gian từ tháng 3 đến tháng 9. Riêng vùng 
khí hậu B1, tháng 4 và tháng 5 là hai tháng có 
NN xuất hiện nhiều nhất, còn trong các vùng 
B2, B3, B4 và N1 thì NN xảy ra chủ yếu trong 
C.T.T. Hường và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 370‐383 374
các tháng mùa hè, nhưng thường có cường độ 
mạnh nhất trong tháng 6 và 7 (riêng Quy Nhơn 
có số ngày NN lớn nhất vào tháng 8). Tuy 
NNGG thường bắt đầu sau và kết thúc trước 
NN khoảng 1 tháng, song thời kỳ NNGG mạnh 
nhất lại xuất hiện sớm hơn NN khoảng 1 tháng 
ở hầu hết các trạm, trừ 2 trạm Vinh và Huế có 
số ngày NN và NNGG đều đạt cực đại trong 
tháng 7. 
Do ảnh hưởng của địa hình kết hợp với tác 
động của gió phơn khô nóng, nên số ngày NN 
và NNGG trên các trạm vùng Tây Bắc có sự 
khác biệt rõ rệt. Như ở trạm Lai Châu và trạm 
Yên Châu có số ngày NN và NNGG lớn hơn rất 
nhiều so với các trạm trong vùng. 
Số ngày nắng nóng trung bình tháng vùng Tây Bắc
0
2
4
6
8
10
12
II III IV V VI VII VIII IX XTháng
Số
 n
gà
y 
nắ
ng
 n
ón
g
LAICHAU
DIENBIEN
YENCHAU
Số ngày nắng nóng gay gắt trung bình tháng vùng Tây Bắc
0
1
2
3
4
II III IV V VI VII VIII IXTháng
Số
 n
gà
y 
N
N
G
G LAICHAU
DIENBIEN
YENCHAU
Số ngày nắng nóng trung bình vùng Đông Bắc
0
1
2
3
4
5
6
7
III IV V VI VII VIII IXTháng
Số
 n
gà
y 
nắ
ng
 n
ón
g
HAGIANG
LANGSON
TUYENQUANG
YENBAI
THAINGUYEN
Số ngày nắng nóng gay gắt trung bình tháng vùng Đông Bắc
0
0.2
0.4
0.6
0.8
1
1.2
IV V VI VII VIII IXTháng
Số
 n
gà
y 
N
N
G
G
HAGIANG
LANGSON
TUYENQUANG
YENBAI
THAINGUYEN
Số ngày nắng nóng trung bình tháng vùng Đồng bằng Bắc Bộ 
0
2
4
6
8
10
12
III IV V VI VII VIII IXTháng
Số
 n
gà
y 
nắ
ng
 n
ón
g LANG
HOABINH
PHULIEN
NAMDINH
Số ngày nắng nóng gay gắt trung bình tháng vùng Đồng bằng Bắc Bộ 
0
0.5
1
1.5
2
2.5
3
III IV V VI VII VIIITháng
Số
 n
gà
y 
N
N
G
G
.
LANG
HOABINH
PHULIEN
NAMDINH
Số ngày nắng nóng trung bình tháng vùng Bắc Trung Bộ
0
4
8
12
16
20
II III IV V VI VII VIII IX XTháng
Số
 n
gà
y 
nắ
ng
 n
ón
g
THANHHOA
VINH
TUONGDUONG
HATINH
DONGHOI
HUE
NAMDONG
Số ngày nắng nóng gay gắt trung bình tháng vùng Bắc Trung Bộ
0
1
2
3
4
5
6
7
8
II III IV V VI VII VIII IX XTháng
Số
 n
gà
y 
N
N
G
G
THANHHOA
VINH
TUONGDUONG
HATINH
DONGHOI
HUE
NAMDONG
Hình 2. Số ngày NN và NNGG trung bình tháng tại một số trạm điển hình trên các vùng phía bắc. 
C.T.T. Hường và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 370‐383 375
Như đã nói ở trên, số ngày NN/NNGG có 
xu thế tăng dần từ bắc vào nam và đạt cực đại ở 
vùng Bắc Trung Bộ, với số ngày NN trung bình 
trong tháng 6 ở trạm Nam Đông lên tới 20,4 
ngày. Ở các trạm khác trong vùng cũng có số 
ngày NN lên tới trên 10 ngày trong tháng 6 và 
tháng 7. Tuy nhiên, số ngày NNGG lại xảy ra 
nhiều hơn trong tháng 5 ở trạm Tương Dương 
(7,4 ngày) và tháng 4 ở trạm Nam Đông (6,1 
ngày). 
Đối với vùng khí hậu N2 và N3, NN thường 
xuất hiện từ tháng 2 đến tháng 6 và nhiều nhất 
từ tháng 3 đến tháng 5. Đây là thời kỳ mùa khô 
đồng thời cũng là khoảng thời gian mặt trời đi 
qua thiên đỉnh lần thứ nhất trong năm ở những 
vùng này. 
Cũng tương tự như vùng Tây Bắc, phân bố 
số ngày NN và NNGG trên vùng N2 và N3 là 
cả NN và NNGG đều đạt cực đại vào tháng 4, 
đặc biệt, trong tháng này, số ngày NN trung 
bình tại trạm Ayunpa lên tới 21 ngày, còn 
NNGG cũng lên tới 8,9 ngày. 
Số ngày nắng nóng trung bình tháng vùng Nam Trung Bộ
0
2
4
6
8
10
12
14
16
III IV V VI VII VIII IXTháng
Số
 n
gà
y 
nắ
ng
 n
ón
g DANANG
QUANGNGAI
QUYNHON
NHATRANG
PHANTHIET
Số ngày nắng nóng gay gắt trung bình tháng vùng Nam Trung Bộ
0
0.5
1
1.5
2
2.5
3
3.5
4
III IV V VI VII VIII IXTháng
Số
 n
gà
y 
N
N
G
G
. DANANG
QUANGNGAI
QUYNHON
NHATRANG
PHANTHIET
Số ngày nắng nóng trung bình tháng vùng Tây Nguyên
0
4
8
12
16
20
I II III IV V VI VII VIII IXTháng
Số
 n
gà
y 
nắ
ng
 n
ón
g KONTUM
AYUNPA
BUONMATHUOT
Số ngày nắng nóng gay gắt trung bình tháng vùng Tây Nguyên
0
2
4
6
8
10
II III IV V VITháng
Số
 n
gà
y 
N
N
G
G
. KONTUM
AYUNPA
BUONMATHUOT
Số ngày nắng nóng trung bình tháng vùng Nam Bộ
0
2
4
6
8
10
12
14
I II III IV V VI VII VIIITháng
Số
 n
gà
y 
nắ
ng
 n
ón
g
VUNGTAU
CANTHO
CAMAU
Số ngày nắng nóng gay gắt trung bình tháng vùng Nam Bộ
0
0.1
0.2
0.3
0.4
0.5
IV V VI VIITháng
Số
 n
gà
y 
N
N
G
G VUNGTAU
CANTHO
CAMAU
Hình 3. Số ngày NN và NNGG trung bình tháng tại một số trạm điển hình trên các vùng phía nam. 
C.T.T. Hường và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 370‐383 376
3.2. Sự biến động của hiện tượng NN và NNGG 
Để xem xét mức độ biến động của số ngày 
NN và NNGG trên các vùng khí hậu Việt Nam, 
đại lượng độ lệch chuẩn trung bình trong năm 
hình 4 được sử dụng để phân tích. Qua đó, nhận 
thấy rằng, tương tự như phân bố theo không 
gian của NN, mức độ dao động của số ngày NN 
cũng như NNGG xảy ra mạnh nhất ở khu vực 
Bắc và Nam Trung Bộ và giảm dần về phía bắc 
và nam của lãnh thổ. 
Có thể thấy, trên các vùng khí hậu, NN và 
NNGG có biến động khá lớn, đặc biệt, tại trạm 
Tương Dương và Đông Hà (B4), NN/NNGG 
dao động trong năm lên tới trên 18/16 ngày. 
Tuy nhiên, tại các trạm thuộc vùng khí hậu N1, 
NN cũng có biến động rất lớn nhất (trừ trạm 
Nha Trang và Phan Thiết) với NN và NNGG 
dao động tương ứng trên dưới 17 và 7 ngày. Ở 
các vùng khí hậu Tây Nguyên và Nam Bộ, mặc 
dù số ngày NN không nhiều nhưng mức độ biến 
động cũng khá cao, như trạm Ayunpa, Buôn Ma 
Thuột, Kontum, Cà Mau, Cần Thơ,.... đều có 
mức độ biến động trên dưới 10 ngày, xấp xỉ số 
ngày NN trung bình trong năm. Đặc biệt, tại 
trạm Ayunpa, số ngày NNGG cũng dao động 
trên 10 ngày/năm. Mức độ biến động của NN 
và NNGG trong từng tháng ở một số trạm tiêu 
biểu được đưa ra trong bảng 1. Từ đó ta thấy, 
NN và NNGG có biến động lớn trong những 
tháng có số ngày NN (NNGG) lớn. Cụ thể, NN 
có biến động mạnh nhất trong tháng 4 và tháng 
5 (vùng B1, N2 và N3), trong các tháng 5, 6, 7 
và 8 (vùng B2, B3 và B4 và N1). 
Độ lệch chuẩn của số ngày nắng nóng trung bình năm
0
4
8
12
16
20
L
A
IC
H
A
U
D
IE
N
B
IE
N
Y
E
N
C
H
A
U
H
A
G
IA
N
G
L
A
N
G
SO
N
TU
Y
E
N
Q
U
A
N
G
Y
E
N
B
A
I
TH
A
IN
G
U
Y
E
N
L
A
N
G
H
O
A
B
IN
H
PH
U
L
IE
N
N
A
M
D
IN
H
TH
A
N
H
H
O
A
V
IN
H
TU
O
N
G
D
U
O
N
G
H
A
TI
N
H
D
O
N
G
H
O
I
D
O
N
G
H
A
H
U
E
N
A
M
D
O
N
G
D
A
N
A
N
G
Q
U
A
N
G
N
G
A
I
Q
U
Y
N
H
O
N
N
H
A
TR
A
N
G
PH
A
N
TH
IE
T
K
O
N
TU
M
A
Y
U
N
PA
B
U
O
N
M
A
TH
U
O
T
V
U
N
G
TA
U
C
A
N
TH
O
C
A
M
A
U
Trạm
Đ
ộ 
lệ
ch
 c
hu
ẩn
 (n
gà
y)
Độ lệch chuẩn của số ngày nắng nóng gay gắt trung bình năm
0
4
8
12
16
L
A
IC
H
A
U
D
IE
N
B
IE
N
Y
E
N
C
H
A
U
H
A
G
IA
N
G
L
A
N
G
SO
N
TU
Y
E
N
Q
U
A
N
G
Y
E
N
B
A
I
TH
A
IN
G
U
Y
E
N
L
A
N
G
H
O
A
B
IN
H
PH
U
L
IE
N
N
A
M
D
IN
H
TH
A
N
H
H
O
A
V
IN
H
TU
O
N
G
D
U
O
N
G
H
A
TI
N
H
D
O
N
G
H
O
I
D
O
N
G
H
A
H
U
E
N
A
M
D
O
N
G
D
A
N
A
N
G
Q
U
A
N
G
N
G
A
I
Q
U
Y
N
H
O
N
N
H
A
TR
A
N
G
PH
A
N
TH
IE
T
K
O
N
TU
M
A
Y
U
N
PA
B
U
O
N
M
A
TH
U
O
T
V
U
N
G
TA
U
C
A
N
TH
O
C
A
M
A
U
Trạm
Đ
ộ 
lệ
ch
 c
hu
ẩn
 (n
gà
y)
Hình 4. Độ lệch chuẩn của số ngày NN và NNGG 
trung bình năm trên các trạm. 
Bảng 1. Độ lệch chuẩn của số ngày NN trung bình tháng trên một số trạm tiêu biểu 
Tháng 3 Tháng 4 Tháng 5 Tháng 6 Tháng 7 Tháng 8 
Trạm 
NN NNGG NN NNGG NN NNGG NN NNGG NN NNGG NN NNGG 
Lai Châu 3.2 1.3 4.9 3.2 5.3 3.2 3.1 0.8 2.6 0.9 3.3 0.8 
Yên Châu 3.3 1.6 4.3 2.9 5 3.6 4.5 1.5 3.8 1.4 2.4 0.3 
Hà Giang 0.3 1 0.3 2.5 0.6 2.4 0.2 2.4 0.4 3.3 0.5 
Tuyên Quang 0.3 0.9 0.2 2.8 1.3 4.7 1.9 3.9 1.1 3.8 0.4 
Thái Nguyên 0.2 0.4 0.1 2.4 0.8 3.8 1.2 3.2 0.8 3.1 0.5 
Láng 0.3 0.1 0.7 0.3 2.7 1.3 5 2 3.9 1.6 2.9 0.7 
Hoà Bình 0.9 0.5 1.9 1 3.8 2.3 4.8 3.1 4.4 2.3 3.8 1 
Phủ Liễn 0.1 0 0.3 0.1 1.5 0.2 2.5 0.5 1.9 0.6 1.1 0.2 
Vinh 0.9 0.2 1.7 1.3 4 3 5.6 4.8 6.1 3.7 4.2 2 
C.T.T. Hường và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 370‐383 377
Tương Dương 3.2 2.8 4.3 3.5 5.7 5.1 5.9 5.4 5.7 5.7 4.8 2.6 
Hà Tĩnh 1.2 0.6 1.9 1.2 4.2 2.7 5.5 4.3 5.8 3 4.5 2 
Huế 2 0.6 3.4 1.9 5.9 3.7 6.2 3.8 5.6 3.1 5.2 2.9 
Đà Nẵng 0.9 0.4 1.6 1.2 3.5 2.8 6 4 3.6 2.5 4.6 2 
Quy nhơn 3.1 0.1 5.6 1.8 5.8 3.1 4.2 3.2 5.8 2.7 
Phan Thiết 0.2 0.2 1.7 0.3 1.9 0.5 0.1 0.7 
Ayunpa 5.5 3.4 6 5.8 6.6 3.6 5.6 0.8 2.8 0.2 1.9 
Buôn Ma Thuột 4.4 0.2 5.6 1.3 2.5 0.1 
Vũng Tàu 0.2 0.8 0.2 0.2 0.3 
Cần Thơ 2.5 0.4 6.1 1.1 5.7 1.8 2.3 0.2 1.9 0.8 0.2 0.2 
Đặc biệt, trong tháng 6, trên các trạm vùng 
B4 và N1, NN biến động khoảng 6 ngày và từ 3 
đến 6 ngày (đối với NNGG). Trên khu vực N2 
và N3, tuy số ngày NN trong tháng không lớn 
song mức độ biến động của NN trong tháng 4 
và tháng 5 cũng rất lớn (từ 4,4 đến 6,7 ngày), 
đặc biệt, NNGG biến động trong tháng 5 tại 
trạm Ayunpa là 5,8 ngày, lớn hơn số ngày 
NNGG trung bình trong tháng này (3,4 ngày). 
Ngoài ra, số ngày NN và NNGG trung bình 
tháng và năm của từng trạm trong từng thập kỷ 
cũng được đưa ra để đánh giá mức độ biến động 
NN và NNGG qua từng thời kỳ. Trong phạm vi 
bài này, chúng tôi chỉ trình bày kết quả tính 
toán của một số trạm đại diện cho các vùng khí 
hậu trên lãnh thổ Việt Nam, như các trạm Lai 
Châu (B1), Thái Nguyên (B2), Láng (B3), Huế 
(B4), Quy Nhơn (N1), Buôn Ma Thuột (N2) và 
trạm Cà Mau (N3). 
Từ hình 5 nhận thấy, NN và NNGG trung 
bình năm qua các thập kỷ ở các trạm đặc trưng 
có xu hướng tăng dần theo thời gian. Xu thế 
tăng số ngày NN (NNGG) trong 2 thời kỳ cuối, 
đặc biệt trong thời kỳ 2001-2007 xảy ra rõ rệt 
nhất ở các trạm Láng, Huế và Quy Nhơn. Xu 
thế NN tăng lên trong thời kỳ 1981-1990, giảm 
nhẹ trong thời kỳ 1991-2000, song lại tăng ở 
thời kỳ 2001-2007, xảy ra ở các trạm Thái 
Nguyên, Buôn Ma Thuột và trạm Cà Mau. 
Trong đó, trạm Thái Nguyên có số ngày NN và 
NNGG biến động qua các thập kỷ ít nhất (4,7 
ngày), còn trạm Quy Nhơn và trạm Láng lại có 
mức độ biến động lớn nhất tương ứng là 31,5 
ngày và 21 ngày. 
Phân bố nắng nóng trung bình năm
0
10
20
30
40
50
60
70
80
Lai Châu Thái
Nguyên
Láng Huế Quy
Nhơn
Buôn Ma
Thuột
Cà Mau
Trạm
S
ố 
ng
ày
 n
ắn
g 
nó
ng
61-70
71-80
81-90
91-00
01-07
Phân bố nắng nóng gay gắt trung bình năm
0
4
8
12
16
20
Lai Châu Thái
Nguyên
Láng Huế Quy
Nhơn
Buôn Ma
Thuột
Cà Mau
Trạm
Số
 n
gà
y 
nắ
ng
 n
ón
g 
ga
y 
gắ
t
61-70
71-80
81-90
91-00
01-07
Hình 5. Số ngày NN và NNGG trung bình năm qua các thập kỷ trên một số trạm tiêu biểu. 
C.T.T. Hường và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 370‐383 378
Phân bố nắng nóng ở trạm Lai Châu 
0
2
4
6
8
10
T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9
Số
 n
gà
y 
nắ
ng
 n
ón
g
61-70
71-80
81-90
91-00
01-07
Phân bố nắng nóng gay gắt ở trạm Lai Châu 
0
1
2
3
4
5
6
T3 T4 T5 T6 T7 T8
S
ố 
ng
ày
 n
ắn
g 
nó
ng
 g
ay
 g
ắt
61-70
71-80
81-90
91-00
01-07
Phân bố nắng nóng ở trạm Thái Nguyên 
0
1
2
3
4
5
6
T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9
Số
 n
gà
y 
nắ
ng
 n
ón
g
61-70
71-80
81-90
91-00
01-07 8
Phân bố nắng nóng gay gắt ở trạm 
Thái Nguyên 
0
0.2
0.4
0.6
0.8
1
T4 T5 T6 T7 T8 T9
S
ố 
ng
ày
 n
ắn
g 
nó
ng
 g
ay
 g
ắt
61-70
71-80
81-90
91-00
01-07
Phân bố nắng nóng ở trạm Láng 
0
2
4
6
8
10
12
14
T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9
S
ố 
ng
ày
 n
ắn
g 
nó
ng
61-70
71-80
81-90
91-00
01-07
Phân bố nắng nóng gay gắt ở trạm Láng 
0
0.5
1
1.5
2
2.5
T4 T5 T6 T7 T8 T9
Số
 n
gà
y 
nắ
ng
 n
ón
g 
ga
y 
gắ
t
61-70
71-80
81-90
91-00
01-07
Hình 6. Số ngày NN và NNGG trung bình tháng qua các thập kỷ tại một số trạm khu vực Bắc Bộ. 
Nhìn chung, xu thế tăng của NN và NNGG 
ở hầu hết các vùng khí hậu cũng phù hợp với xu 
thế nóng lên toàn cầu. Song sự tăng lên khá 
nhanh của số ngày NN và NNGG ở các vùng 
khí hậu B3, B4, N1 phản ánh điều kiện khí hậu 
trở nên khắc nghiệt hơn ở các vùng này. 
Khác với sự biến động của số ngày NN và 
NNGG trung bình năm, số ngày NN và NNGG 
trung bình tháng qua các thập kỷ không thể hiện 
rõ rệt quy luật tăng theo thời gian trong tất cả 
các tháng (hình 6 và 7). Trong hai thập kỷ gần 
đây, số ngày NN và NNGG ở hầu hết các tháng 
nhiều hơn ba thập kỷ trước đó (trừ trạm Cà 
Mau). Sự biến động này xảy ra lớn nhất trong 
thời gian NN cực đại trên từng trạm. Trong 
từng thời kỳ, NN có xu hướng giảm đi ở tháng 
này nhưng tăng lên ở tháng khác trong năm. Sự 
tăng giảm không đồng nhất của số ngày NN và 
NNGG các tháng trong năm trên các vùng khí 
hậu dường như có liên quan đến sự dịch chuyển 
mùa khí hậu. Tuy vậy, để có thể đưa ra được 
những kết luận chi tiết hơn cần thiết phải có 
những nghiên cứu sâu hơn về các hiện tượng 
này.
C.T.T. Hường và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 370‐383 379
Phân bố nắng nóng ở trạm Huế 
0
5
10
15
20
25
T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9
S
ố 
ng
ày
 n
ắn
g 
nó
ng
61-70
71-80
81-90
91-00
01-07
Phân bố nắng nóng gay gắt ở trạm Huế 
0
1
2
3
4
5
T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9
S
ố 
ng
ày
 n
ắn
g 
nó
ng
 g
ay
 g
ắt
61-70
71-80
81-90
91-00
01-07
Phân bố nắng nóng ở trạm Quy Nhơn 
0
2
4
6
8
10
12
14
16
18
20
T4 T5 T6 T7 T8 T9
S
ố 
ng
ày
 n
ắn
g 
nó
ng
61-70
71-80
81-90
91-00
01-07
Phân bố nắng nóng gay gắt ở trạm Quy Nhơn
0
1
2
3
4
5
6
7
T5 T6 T7 T8 T9
S
ố 
ng
ày
 n
ắn
g 
nó
ng
 g
ay
 g
ắt
61-70
71-80
81-90
91-00
01-07
Phân bố nắng nóng ở trạm Buôn Ma Thuột
0
2
4
6
8
T3 T4 T5 T6
S
ố 
ng
ày
 n
ắn
g 
nó
ng
61-70
71-80
81-90
91-00
01-07
Phân bố nắng nóng ở trạm Cà Mau
0
2
4
6
8
10
T3 T4 T5Tháng
Số
 n
gà
y 
nắ
ng
 n
ón
g
61-70
71-80
81-90
91-00
01-07
Hình 7. Số ngày NN và NNGG trung bình tháng qua các thập kỷ tại một số trạm trên khu vực Trung và Nam Bộ. 
3.3. Xu thế biến đổi theo thời gian của NN và 
NNGG 
Xu thế biến đổi theo thời gian (1961-2007) 
của số ngày xuất hiện NN và NNGG thông qua 
hệ số A1 của phương trình hồi quy tuyến tính 
một biến (hình 8). Kết quả phân tích cho thấy, 
hầu hết các trạm trong các vùng khí hậu đều có 
xu thế tăng theo thời gian. Đặc biệt ở các vùng 
B2, B3 và B4, xu thế của NN tăng một cách 
đáng kể và xảy ra trên hầu hết các trạm. Xu thế 
tăng mạnh nhất xảy ra ở các trạm Bắc Quang, 
Láng, Đồng Hới và Tuyên Hoá với các hệ số A1 
tương ứng là 0,77, 0,7, 0.87 và 0,6 Tuy nhiên, 
xu thế giảm lại xảy ra ở một số trạm trên các 
vùng B1, N2, N3 như trạm Điện Biên, Kontum, 
Ayunpa, Cần Thơ,..., trong đó, trạm Cần Thơ có 
xu thế giảm mạnh nhất với hệ số A1 bằng -0,48. 
Mặt khác, xu thế biến đổi của NN trong 
từng thời kỳ được chúng tôi biểu diễn cho từng 
trạm trên lãnh thổ Việt Nam trong 3 thời kỳ 
1961-2007, 1961-1990 và 1991-2007. Tuy 
nhiên, do khuôn khổ của tạp chí, chúng tôi chỉ 
đưa ra xu thế biến đổi của một số trạm đặc 
trưng cho các khu vực (hình 9). Kết quả phân 
tích cho thấy, NN xu thế tăng xảy ra ở hầu hết 
các trạm trong thời kỳ 1961-2007. Trên vùng 
B2, B3, xu thế tăng cũng xuất hiện trong cả hai 
thời kỳ 1961-1990 và 1991-2007, đặc biệt tăng 
mạnh hơn trong thời kỳ 1991-2007, như tại 
trạm Hoà Bình, Láng, Bắc Quang có hệ số A1 
tương ứng là 1,35, 0,97 và 0,8. Riêng tại trạm 
Yên Bái, Ninh Bình, NN trong thời kỳ này lại 
có xu thế giảm. Trên vùng B4 và N1 xu thế 
tăng nhanh hơn lại xảy ra trong thời kỳ 1961-
1990, ngược lại, xu thế tăng hoặc giảm chậm lại 
xảy ra trong thời kỳ 1991-2007. Tuy nhiên, 
trong thời kỳ này, NN tại các trạm Trà My, 
Vinh và Hà Tĩnh lại có xu thế tăng nhanh với 
hệ số A1 tương ứng là 2.84, 1,1 và 0,76.
C.T.T. Hường và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 370‐383 380
Xu thế biến đổi của số ngày nắng nóng thời kỳ 1961-2007
-0.8
-0.6
-0.4
-0.2
0
0.2
0.4
0.6
0.8
1
LA
IC
H
A
U
D
IE
N
BI
EN
Y
EN
CH
A
U
H
A
G
IA
N
G
LA
N
G
SO
N
TU
Y
EN
Q
U
A
N
G
Y
EN
BA
I
TH
A
IN
G
U
Y
EN
LA
N
G
H
O
A
BI
N
H
PH
U
LI
EN
N
A
M
D
IN
H
TH
A
N
H
H
O
V
IN
H
TU
O
N
G
D
U
H
A
TI
N
H
D
O
N
G
H
O
I
D
O
N
G
H
A
H
U
E
N
A
M
D
O
N
G
D
A
N
A
N
G
Q
U
A
N
G
N
G
A
I
Q
U
Y
N
H
O
N
N
H
A
TR
A
N
PH
A
N
TH
I
K
O
N
TU
M
A
Y
U
N
PA
BU
O
N
M
A
T
V
U
N
G
TA
U
CA
N
TH
O
CA
M
A
U
Trạm
H
ệ 
số
 A
1
Xu thế biến đổi của số ngày nắng nóng gay gắt thời kỳ 1961-2007
-0.6
-0.4
-0.2
0
0.2
0.4
0.6
LA
IC
H
A
U
D
IE
N
BI
EN
Y
EN
CH
A
U
H
A
G
IA
N
G
LA
N
G
SO
N
TU
Y
EN
Q
U
A
N
G
Y
EN
BA
I
TH
A
IN
G
U
Y
EN
LA
N
G
H
O
A
BI
N
H
PH
U
LI
EN
N
A
M
D
IN
H
TH
A
N
H
H
O
V
IN
H
TU
O
N
G
D
U
H
A
TI
N
H
D
O
N
G
H
O
I
D
O
N
G
H
A
H
U
E
N
A
M
D
O
N
G
D
A
N
A
N
G
Q
U
A
N
G
N
G
A
I
Q
U
Y
N
H
O
N
N
H
A
TR
A
N
PH
A
N
TH
I
K
O
N
TU
M
A
Y
U
N
PA
BU
O
N
M
A
T
V
U
N
G
TA
U
CA
N
TH
O
CA
M
A
U
Trạm
H
ệ 
số
 A
1
Hình 8. Xu thế biến đổi của NN và NNGG của một số trạm trong thời kỳ 1961-2007. 
Trên vùng B1, N2 và N3, xu thế giảm mạnh 
hoặc tăng không đáng kể xảy ra trong cả 3 thời 
kỳ (trừ thời kỳ đầu tại trạm Buôn Ma Thuột và 
trạm Cà Mau). 
Như vậy, có thể nói rằng, NN trong cả 3 
thời kỳ đều có xu thế tăng ở hầu hết các trạm 
trên toàn lãnh thổ, đặc biệt tăng mạnh ở các 
trạm Láng, Bắc Quang, Tuyên Hoá, Trà My,… 
Tuy nhiên, xu thế tăng chậm hơn, thậm chí 
giảm ở một số trạm trong thời kỳ 1961-1990. 
Sang đến thời kỳ 1991-2007, một thời kỳ được 
xem là chịu ảnh hưởng mạnh nhất của sự biến 
đổi khí hậu thì xu thế tăng mạnh hơn thời kỳ 
1961-2007 như ở các trạm Thái Nguyên, Hà 
Giang, Bắc Quang, Láng, Vinh và Trà My,… 
nhưng lại giảm mạnh ở một số trạm thuộc vùng 
B1, N1, N2 và N3 như trạm Lai Châu, Sơn La, 
Quy Nhơn, Buôn Ma Thuột và Rạch Giá, Cà 
Mau. 
4. Kết luận 
Từ những kết quả phân tích, chúng tôi đã 
rút ra một số kết luận sau: 
- Số ngày NN, NNGG xuất hiện nhiều nhất 
ở Trung Bộ, đặc biệt trên khu vực Bắc Trung 
Bộ và có xu hướng giảm dần ra phía Bắc và 
phía Nam. 
- NN thường xuất hiện từ tháng 3 đến tháng 
9 (ở các vùng khí hậu từ B1 đến N1), từ tháng 2 
đến tháng 6 (ở vùng khí hậu N2 và N3). Cường 
độ mạnh nhất của NN xảy ra trong các tháng 
mùa hè, đặc biệt trong tháng 6 và 7 (ở các vùng 
khí hậu từ B2 đến N1) và trong tháng 4 và 
tháng 5 (ở các vùng B1, N2 và N3). 
- NNGG thường bắt đầu sau và kết thúc 
trước NN khoảng 1 tháng, song thời kỳ NNGG 
mạnh nhất lại xuất hiện sớm hơn NN khoảng 1 
tháng ở hầu hết các trạm. 
- NN và NNGG thường có biến động mạnh 
ở những trạm và trong những tháng có số ngày 
NN (NNGG) lớn. 
C.T.T. Hường và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 370‐383 381
LAI CHÂU
y = -0.2206x + 479.37
y = -0.1126x + 251.58
y = 0.232x - 427.68
0
10
20
30
40
50
60
70
1961 1966 1971 1976 1981 1986 1991 1996 2001 2006
Số
 n
gà
y 
nắ
ng
 n
ón
g
THÁI NGUYÊN
y = 0.265x - 507.2
y = 0.6471x - 1277.4
y = 0.0942x - 170.8
0
10
20
30
40
1961 1966 1971 1976 1981 1986 1991 1996 2001 2006
Số
 n
gà
y 
nắ
ng
 n
ón
g
LÁNG
y = 0.3733x - 721.53
y = 0.973x - 1915.3
0
10
20
30
40
50
60
1961 1966 1971 1976 1981 1986 1991 1996 2001 2006
Số
 n
gà
y 
nắ
ng
 n
ón
g
y = 0.5508x - 1071.8
HÀ TĨNH
y = 0.3989x - 747.04
y = 0.7598x - 1471.1
0
10
20
30
40
50
60
70
80
1961 1966 1971 1976 1981 1986 1991 1996 2001 2006
Số
 n
gà
y 
nắ
ng
 n
ón
g
y = 0.34x - 631.06
HUẾ
y = -0.2571x + 579y = 0.2249x - 383.16
y = 0.187x - 308.29
0
20
40
60
80
100
120
1961 1966 1971 1976 1981 1986 1991 1996 2001
Số
 n
gà
y 
nắ
ng
 n
ón
g
QUY NHƠN
y = -0.5441x + 1154.2
y = 0.5635x - 1069.7
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
1961 1966 1971 1976 1981 1986 1991 1996 2001 2006
Số
 n
gà
y 
nắ
ng
 n
ón
g 
y = 0.7981x - 1531.6
BUÔN MA THUỘT
y = 0.7851x - 1539
y = 0.2145x - 413.31
y = -0.277x + 566.41
0
10
20
30
40
50
1961 1966 1971 1976 1981 1986 1991 1996 2001 2006
Số
 n
gà
y 
nắ
ng
 n
ón
g
CÀ MAU
y = 0.4768x - 932.46
y = -1.3297x + 2663.7
0
10
20
30
40
50
60
1960 1965 1970 1975 1980 1985 1990 1995 2000
Số
 n
gà
y 
nắ
ng
 n
ón
g
y = 0.0941x - 177.42
Hình 9. Xu thế biến đổi của số ngày NN trong năm trong từng thời kỳ 1961-2007; 1961-1990 và 1991-2007. 
C.T.T. Hường và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 370‐383 382
- Số ngày NN và NNGG trung bình năm có 
xu hướng tăng trong 2 thời kỳ cuối, đặc biệt ở 
các vùng khí hậu B3, B4, N1 trong thời kỳ 
2001-2007. Song Số ngày NN và NNGG trung 
bình tháng biến đổi qua các thập kỷ lại không 
có quy luật rõ ràng. 
- NN có xu thế tăng ở hầu hết các trạm 
trong thời kỳ 1961-2007 và tăng mạnh hơn 
trong thời kỳ 1991-2007 ở các trạm trên vùng 
B2, B3 và B4 nhưng lại giảm xuống ở một số 
trạm thuộc khu vực B1, N2 và N3. Ngược lại, 
NN có xu thế giảm, biến đổi ít hoặc tăng chậm 
trên hầu hết các trạm trong thời kỳ 1961-1990 
(trừ trạm Buôn Ma Thuột và Cà Mau). 
Lời cảm ơn 
Nghiên cứu được hoàn thành nhờ sự hỗ trợ 
của đề tài KC 08.29/06-10. Tập thể tác giả xin 
chân thành cảm ơn. 
Tài liệu tham khảo 
[1] IPCC, Climate change , Synthesis Report (2007). 
[2] WMO, Reports on Extreme Weather and 
Climate Events in 2007 (2007). 
[3] Nguyễn Đức Ngữ, Biến đổi khí hậu thách thức 
đối với sự phát triển (kỳ 1), Kinh tế Môi trường, 
số 01 (2009) 10. 
[4] Nguyễn Đức Ngữ (chủ biên), Biến đổi khí hậu, 
Nhà xuất bản Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội 
(2008). 
[5] Viện Chiến lược, chính sách Tài nguyên và Môi 
trường, Biến đổi khí hậu trên ở Việt Nam trong 
khoảng 100 năm trở lại đây (2009). 
[6] Manton M.J, P.M Della-Marta, M. R. Haylock, 
K. J Hennessy, N. Nicholls, L. E Chambers, 
D.A.Collins, G. Daw, A. Finet, D. Gunawan, K. 
Inape, H. Isobe, T.S. Kestin, P. Lefale, Trends in 
extreme daily rainfall and temprature in outheast 
asia and The south pacific : 1961-1998, Int. J. 
Climatol. 21 (2001) 269. 
[7] VINCENT Vincent L. A, T. C. Peterson, V. 
R. Barros, M. B. Marino, M. Rusticucci, G. 
Carrasco, E. Ramirez, L. M. Alves, T. Ambrizzi, 
M. A. Berlato, A. M. Grimm, J. A. Marengo, L. 
Molion, D. F. Moncunili, E. Rebello, Observed 
Trends in Indices of Daily Temperature 
Extremes in South America 1960–2000 (2005) 
5011. 
[8] A. Toreti and F. Desiato, Temperature trends 
over Italy from 1961 to 2004, Theor. Appl. 
Climatol. 91 (2008), 81. 
[9] O. N. Bulygina, V N Razuvaev , N N 
Korshunova and P Ya Groisman, Climate 
variations and changes in extreme climate events 
in Russia, Environ. Res. Lett. 2 (2007) 045020. 
[10] Trần Thế Kiêm, Đặc điểm và hình thế synốp cơ 
bản gây ra thời tiết nắng nóng ở Việt Nam, 
Tuyển tập báo cáo Hội nghị khoa học lần thứ 5, 
Trung tâm Khí tượng Thủy Văn Quốc gia 
(2000). 
[11] Nguyễn Viết Lành, Một số kết quả nghiên cứu 
về biến đổi khí hậu trên khu vực Việt Nam, Tạp 
chí khí tượng Thuỷ văn, số 560 (2007), 33. 
[12] Hồ Thị Minh Hà, Phan Văn Tân, Xu thế và mức 
độ biến đổi của nhiệt độ cực trị ở Việt Nam 
trong giai đoạn 1961- 2007, Tạp chí Khoa học 
ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 
25, Số 3S (2009) 412. 
[13] Phan Văn Tân, Các phương pháp thống kê trong 
khí hậu, Nhà Xuất bản Đại học Quốc gia Hà 
Nội, Hà Nội, 2007. 
C.T.T. Hường và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 370‐383 383
Variations and trends in hot events in Vietnam 
from 1961 to 2007 
Chu Thi Thu Huong1, Pham Thi Le Hang2, Vu Thanh Hang3, Phan Van Tan3 
1Hanoi Natural Resources and Environment University, 41A Phu Dien, Cau Dien, Hanoi, Vietnam 
2The National Center for Hydro-Meteorological Forecasting, 4 Dang Thai Than, Ha Noi, Vietnam 
3Faculty of Hydro-Meteorology & Oceanography, Hanoi University of Science, VNU, 
334 Nguyen Trai, Hanoi, Vietnam
Daily maximum temperature (Tx) data at 57 meteorological stations in seven Vietnam climatic 
subregions are used to determine the variations and trends in hot and extreme hot events. The results 
show that hot events usually appear from March to September (in subregions from B1 to N1) and from 
February to June (in subregions N2 and N3). Meanwhile, extreme hot events often begin latter and 
ends sooner than hot events about one month in almost climatic subregions. In Vietnam, the number of 
hot days is largest in B4 and tends to decrease gradually to the north and south of the territory. Hot 
events (extreme hot events) vary strongly for the stations and the months which have large number of 
hot days. Hot events trends increase at almost stations during 1961-2007 and increase more rapidly 
over the period 1991-2007 at the subregions N2, B3 and B4, however, decreases in some stations in 
B1, N2 and N3. 
Keywords: Daily maximum temperature, variations, trends, hot events, extreme hot events, 
Vietnam. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
11) Huong, Hang, Hang, Tan_370-383(14tr).pdf