Tổng tỷ xuất sinh phản ánh số trẻ em bình quân mà một phụ nữ hoặc một thế hệ phụ nữ có thể có trong suốt cuộc đời sinh sản của mình. Về mặt lý thuyết tổng tỷ xuất sinh có khả năng dự báo một cách tốt nhất người phụ nữ hiện nay sẽ có bao nhiêu con nếu họ tuân thủ các tỷ xuất sinh đặc trưng theo tuổi tại thời điểm tiến hành ước lượng TFR.
Để có được TFR đòi hỏi phải có số liệu về số trẻ em sinh ra theo tuổi của các bà mẹ và số phụ nữ theo nhóm tuổi, mà số liệu này thường chỉ có được khi có hệ thống đăng ký hay tổng điều tra dân số. Hơn nữa nó không cung cấp thông tin về phân bố về sinh đẻ giữa các nhóm tuổi.
93 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1556 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mức sinh và các yếu tố ảnh hưởng đến mức sinh ở Thanh Hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
on và có con trai là điều kiện cho sự tồn tại, cũng là mục tiêu, giá trị mà họ cố gắng đạt được trong suốt cuộc đời. Những gia đình, những cặp vợ chồng mà có đông con trai là người ta cảm thấy hãnh diện với xóm làng, dòng họ và người ta cảm thấy như đã có một chỗ dựa đảm bảo cho tuổi già.
Qua một cuộc điều tra - phỏng vấn ở một xã vùng nông thôn ở Thanh Hoá cho thấy tâm lý người dân đối với nhu cầu con trai. Tỷ lệ các cặp vợ chồng trả lời tương ứng như sau:
- Nhất thiết phải có con trai: 19,5%.
Trong đó: + Con trai để nối dõ tông đường : 4,4%.
+ Con trai để nương tựa tuổi già: 9,8%.
+ Nhiều con trai là tự hào : 5,3%.
- Không nhất thiết phải có con trai : 36,19
- Có con trai thì tốt (quy con trai hơn con gái): 44,31%.
Nhìn chung các cặp vợ chồng tập trung trả lời ở mức độ giữa chừng, Tuy không khẳng định nhất thiết phải có con trai và hoàn cảnh kinh tế không cho phép theo đuổi mục tiêu có được con trai nhưng quan niệm giá trị con trai cao hơn vẫn còn tồn tại ở phần lớn người dân. Những người cho rằng nhất thiết phải có con trai vẫn còn khá đông (19,5%), phần lớn trong số họ với quan niệm nương tựa lúc tuổi già. Xuất phát từ môi trường sản xuất là khó khăn, không có tích luỹ, BHXH lúc về già do vậy có một đứa con trai là điều mong mỏi của họ. Quan niệm con trai để nối dõi tông đường và nhiều con là tự hào đã giảm đi đáng kể. Đây là một dấu hiệu khả quan vì rằng nhận thức chủ quan người dân giảm dần, mục đích mong muống của họ thực tế hơn lo cho tương lai về già. Mặc dù vậy kết quả còn đánh giá thấp hơn nhu cầu con trai so với tâm lý thực tế do những gia đình đã sinh được ít nhất một con trai đều trả lời không nhất thiết phải có con trai.
Việc đề cao giá trị đứa con trai hơn con gái đang làm cho các gia đình và các cặp vợ chồng tuy không muốn có đông con nhưng nhất thiết họ phải có con trai. Nhưng một đứa con trai với kinh tế nông nghiệp chưa làm họ yên tâm trong khi rủi ro cuộc sống còn nhiều. Việc coi trọng đứa con trai đưa đến một thực trạng xã hội là trẻ em gái không được đi học đầy đủ. Trong khi vai trò của con gái trong gia đình nông nghiệp lại rất cần thiết vì trẻ em gái có thể sơm tiếp xúc và làm được những công việc gia đình. Giáo dục trẻ em lại ảnh hưởng đến mức sinh, trình độ học vấn thấp thì nhu cầu sinh con trai càng cao. Chính đó là lý do mà trình độ học vấn của phụ nữ nông thôn rất thấp và đây có thể xem như cái "vòng luẩn quẩn". mà giải pháp duy nhất là đầu tư cho học tập của trẻ em gái để họ cũng có những cơ hội như các trẻ em khác.
Ngày nay mặc dù quan niệm con trai đã có sự thay đổi song nó vẫn tồn tại. ở nhiều nơi quan niệm "Đông con lắm phúc" trời sinh voi, trời sinh cỏ" đã được người nông thôn phủ nhận, cho là phi thực tế. Mặc dù họ đã biết rằng sinh nhiều con là nguyên nhân dẫn đến sự nghèo khổ nhưng họ vẫn sinh thêm và phải chịu sự tác động của nhiều yếu tố tâm lý xã hội, phong tục tập quán. Những tác động đó xuất phát từ 4 nhân tó sau:
Thứ nhất là chịu tác động mạnh mẽ của đời sống nông nghiệp nông thôn, điều kiện kinh tế xã hội và trình độ sản xuất thấp kém. Nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu dẫn đến việc coi trọng sức lao động, gia đình có nhiều con là có nguồn lao động dồi dào.
Thứ hai là ở nông thôn chính sách đảm bảo và chăm sóc người già phụ thuộc hoàn toàn vào gia đình cho nên con cái đặc biệt là con trai được xem là chỗ dựa, nuôi nấng cha mẹ lúc ốm yếu về già.
Thứ ba là mặc dù chi phí nuôi dạy con ở nông thôn thấp nhưng chi phí cơ hội cho một đưa con đi học lại rất cao, đặc biệt là việc tận dụng các nguồn lực trẻ em và việc xem đưa trẻ làm ra nhiều lợi ích hơn là gánh nặng chi phí cho chúng.
Tóm lại, yếu tố tâm lý xã hội và phong tục tập quán có ảnh hưởng lớn đến việc sinh đẻ nhiều con đặc biệt là con trai. Nó gắn với nền tảng văn hoá nông nghiệp vì vậy việc thay đổi cách suy nghĩ của người dân không phải dễ dàng. Công tác dân số kế hoạch hoá gia đình phải gắn với các chương trình phát triển kinh tế xã hội, công tác dân số không chỉ nhằm vào số lượng con cái mà phải đề cao giá trị giữa con gái và con trai.
2.3.7. ảnh hưởng của chính sách dân số kế hoạch hoá gia đình đến mức sinh:
Công tác dân số kế hoạch hoá gia đình là một bộ phận quan trọng hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội, xây dựng đất nước, là cơ sở cơ bản để nâng cao đời sống vật chất và văn hoá cho toàn xã hội. Nước ta có chính sách dân số kế hoạch hoá gia đình từ rất sớm. Hội đồng bộ trưởng ra Quyết định 216/CP ngày 26/12/1961 hướng dẫn sinh đẻ có kế hoạch, đã đánh dấu sự khởi đầu của công tác dân số kế hoạch hoá gia đình ở nước ta.
Để thực hiện được chương trình dân số kế hoạch hoá gia đình cần có sự đầu tư nguồn lực lớn. Trong đó khi nói tới ảnh hưởng của chương trình đến mức sinh phải nói đến nguồn lực con người. Nhân lực để thực hiện các hoạt động kế hoạch hoá gia đình ở cơ sở là cán bộ chuyên trách và cộng tác viên dân số đó là những người trực tiếp tham gia vào công tác dân số kế hoạch hoá gia đình. Sự thành công của công tác DS-KHHGĐ phụ thuộc không nhỏ vào lòng nhiệt tình, tận tuỵ, gương mẫu và trình độ của những người này. Do đó chất lượng và số lượng của đội ngũ cán bộ chuyên trách cộng tác viên dân số có ảnh hưởng rất lớn đến mức sinh chung của tỉnh.
Cán bộ dân số là những người trực tiếp tham gia, giám sát việc thực hiện sinh đẻ có kế hoạch. Cán bộ chuyên trách phối hợp với các cộng tác viên quản lý, theo dõi các đối tượng trong độ tuổi sinh đẻ, làm công tác tuyên truyền tư vấn và cấp phát các BPTT.
Đến năm 1993, hoạt động của Uỷ ban dân số kế hoạch hoá gia đình đã đi vào hoàn thiện từ tỉnh xuống cơ sở (cấp xã). Toàn tỉnh đến nay đã có 6992 cộng tác viên và 630 cán bộ chuyên trách dân số xã, ở tất cả các xã đã có ban dân số xã. Cộng tác viên là những người cư trú ngay tại các thôn. Mỗi cộng tác viên phụ trách trung bình 111,24 hộ (đây là phạm vi hoạt động tương đối lớn, đặc biệt là ở nông thôn), họ là những người nắm bắt được tình hình sinh đẻ một cách chi tiết, chính xác. Các chuyên trách sẽ lập báo cáo hàng tháng về tình hình biến động dân số của từng xã cho Uỷ ban dân số huyện thực tế cho thấy số lượng của đội ngũ này còn ít, chất lượng còn thấp. ở UBDS tỉnh có khoảng 40 người tốt nghiệp đại học, 82 tốt nghiệp trung cấp, còn lại hơn 10 người có trình độ sơ cấp. Cộng tác viên dân số xã chỉ mới tốt nghiệp cấp I,II, III, thậm chí chưa đi học, hơn nữa họ làm việc theo nhiệm kỳ nên bị thay đổi thường xuyên. Những người mới làm thường lại mất một thời gian làm quen với công việc nên cũng gây nhiều bất lơị.
Mặc dù vậy song nhờ có sự phối hợp, chỉ đạo đều đặn từ tỉnh xuống huyện, xã thống nhất nên đã đem lại được những hiệu quả rất lớn. Có được những kết quả đó là nhờ vào các hoạt động sau:
* Công tác thông tin, giáo dục truyền thống dân số là 1 trong 3 chương trình quốc gia về dân số kế hoạch hoá gia đình. Nó nhằm mục đích tuyên truyền sâu rộng cho nhân dân thấy được tầm quan trọng của dân số kế hoạch hoá gia đình, thúc đẩy người dân thực hiện quy mô gia đình ít con thông qua việc sử dụng các biện pháp thông tin. Công tác thông tin, giáo dục truyền thống đã thực sự là một biện pháp làm giảm mức sinh của Thanh Hoá trong những năm qua. Công tác này đã góp phần làm chuyển biến nhận thức và hành động của đông đảo tầng lớp nhân dân. Hệ thống dịch vụ được củng cố, đưa dịch vụ đến tận người dân.
Do trình độ dân trí thấp nên hoạt động này phải lồng ghép nhiều hình thức như mít tinh, tuyên truyền lưu động, truyền thanh, chiếu phim. Từ đó người dân nhận thức được ý nghĩa của kế hoạch hoá gia đình và biểu biết thêm các BPTT cũng như các thông tin về sức khoẻ sinh sản cho phụ nữ. Tuy nhiên, khó khăn của công tác là không phải ai cũng có thể hiểu và chấp nhận tự nguyện sử dụng ngay lập tức, mà phải thông qua nhiều lần vận động, tuyên truyền cụ thể tới từng người về quy mô gia đình, về việc sử dụng BPTT phù hợp với từng đối tượng, từng hoàn cảnh của mỗi người.
*Bên cạnh những nỗ lực hoạt động thì chế độ chính sách cũng có tác động đến việc thực hiện kế hoạch hoá gia đình. chế độ chính sách bao gồm chế độ chính sách đối với người làm công tác dân số, chế độ đối với người sử dụng BPTT và đối với cán bộ y tế.
Đối với những người làm công tác dân số, đó là những người trực tiếp tham gia vào việc quản lý, vận động, tiếp cận đối tượng song thù lao họ nhận được thì còn quá ít. Mỗi tháng, một cán bộ chuyên trách dân số xã ở vùng cao nhận được 192.000 đồng, vùng thấp 184.000 đồng/ tháng, trung du 176.000 đ/tháng, đồng bằng 168.000 đồng/ tháng và thị xã 160.000 đồng/ tháng. Một cộng tác viên dân số thôn, xóm thường phụ trách từ 100 - 120 hộ được thù lao 20.000đ/tháng. Với đồng lương ít ỏi (không đủ chi tiêu tối thiểu) thêm vào đó không có bảo hiểm xã hội nên họ không an tâm làm việc. Nếu không có tính tự nguyện thì đây cũng là ảnh hưởng lớn trong công tác.
Đối với cán bộ y tế: là người trực tiếp giúp các cặp vợ chồng thực hiện kế hoạch hoá gia đình song phụ cấp của họ quá ít. Ta có thể thấy điều đó qua các mức phụ cấp trong bảng sau:
Bảng 15: Phụ cấp cho cán bộ y tế làm công tác DS – KHHGĐ.
Đơn vị tính: Đồng
Chỉ tiêu
Ca đặt vòng
Ca hút thai
Đình sản, nạo thai an toàn
Người mổ
2.500
3750
7500
Phụ mổ
1.700
2500
5000
Giúp việc
800
1250
2500
Nguồn UBDS kế hoạch hoá gia đình tỉnh Thanh Hoá.
Đây là công việc đòi hỏi người cán bộ phải có tay nghề, có kinh nghiệm và là công việc đòi hỏi trình độ cao. Đây là khoản phụ cấp còn tương đối thấp so với yêu cầu công việc, do vậy chưa khuyến khích được cán bộ nhiệt tình, tâm huyết với nghề.
Đối với người sử dụng BPTT: Theo quy định của Nhà nước, những người tự nguyện đình sản được bồi dưỡng 100.000 đồng và thẻ bảo hiểm chăm sóc sức khẻo 36.000đồng. Đối với những người áp dụng BPTT khác thì chỉ được hưởng 1 phần nhỏ các phương tiện tránh thai cấp miễn phí như vòng tránh thai, thuốc tránh thai. Mặc dù vậy người dân nông thôn với thu nhập thấp nên họ chưa có quan niệm tự bỏ tiền ra mua các phương tiện tránh thai. Hầu hết trong số họ đều trông chờ vào nguồn thuốc do UBDS cấp phát.
Để có được kết quả lớn hơn trong công tác dân số kế hoạch hoá gia đình bên cạnh những kết quả đã đạt được, chính sách dân số kế hoạch hoá gia đình cần chuyển biến theo hướng tuyên truyền giáo dục gắn dân số với phát triển, chú trọng đến vấn đề giới để đạt được sự bình đẳng nam nữ trong quyết định sinh con, giá trị con gái... vận dụng các biện pháp thông tin hiện đại, phòng chống các loại bệnh viêm nhiễm qua con đường sinh sản, hạn chế nạo phá thai, cung cấp thông tin về sức khỏe sinh sản, giáo dục dân số kế hoạch hoá gia đình cho các nhóm thành viên, thanh niên, chống các tệ nạn xã hội. Tập trung cung cấp các dịch vụ kế hoạch hoá gia đình cho những vùng điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa để giảm mức sinh ở những vùng này.
Phần ba
Một số giải pháp nhằm điều chỉnh và quản lý mức sinh ở Thanh hoá trong thời gian tới.
1- Dự báo dân số và mức sinh trong 10 năm tới.
1.1. Cơ sở dự báo:
Trên cơ sở những nghiên cứu về thực trạng mức sinh và các yếu tố ảnh hưởng đến mức sinh của tỉnh cho thấy dân số của tỉnh có quy mô lớn, mật độ tương đối đông, xu hướng giảm khá nhanh qua các năm.
Các nhân tố ảnh hưởng đến mức sinh theo quy luật ảnh hưởng chung được xác định ở phần lý thuyết đều có những ảnh hưởng nhất định trong thực trạng dân số ở Thanh Hoá. Trong đó những yếu tố điều kiện kinh tế xã hội, trình độ học vấn, phong tục tập quán của tỉnh đang chứa đựng những khả năng tiềm tàng không thuận lợi cho việc giảm mức sinh.
Trong những năm tới cùng với việc thực hiện các mực tiêu kinh tế, tỉnh tiếp tục chú trọng tới công tác dân số. Xem đây là một bộ phận (chỉ tiêu) quan trọng trong phát triển. Nguồn lực chủ yếu để thực hiện chương trình vẩn là Nhà nước, tranh thủ viện trợ quốc tế và từng bước đẩy mạnh xã hội hoá công tác dân số.
Nghiên cứu dự báo mức sinh trên cơ sở xác định các yếu tố ảnh hưởng đến mức sinh, nhằm giảm sự gia tăng dân số có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, góp phần vào thực hiện mục tiêu đạt mức sinh thay thế vào năm 2005 của cả nước.
1.2. Dự báo dân số và mức sinh của tỉnh trong vòng 10 năm tới:
Nền kinh tế của tỉnh đang trên đà phát triển, cùng với sự chuyển biến về kinh tế - xã hội, mức sinh đang từ từ giảm xuống. Trong khi mức chết giảm chậm dẫn và tiến đến ổn định, muốn đạt được quy mô dân số ổn định thì vấn đề đặt ra là phải tiếp tục giảm mức sinh đến mức ổn định.
Bằng các ước lượng sự thay đổi của các nhân tố (các nhân tố làm tăng mức sinh được kiềm chế, các nhân tố tác động giảm sinh được tăng cường), dùng hàm xu thế ta xác định được dân số và mức sinh của tỉnh thể hiện qua bảng sau:
Bảng 16: Dự báo dân số, mức sinh của tỉnh trong những năm tới.
Chỉ tiêu
ĐVT
Năm 2005
Năm 2010
1. Dân số trung bình
Người
3.774.036
3.966.940
2. Tỷ lệ tăng tự nhiên
%
1,09
0,98
3. Tỷ suất sinh thô (CBR)
%
14,65
13,2
4. Tỷ xuất chế thô (CDR)
%
3,85
3,45
5. Tổng tỷ xuất sinh (TFR)
Con/P.nữ
2,05
1,86
6. CPR (tỷ lệ cặp vợ chồng sử dụng BPTT)
%
85
90
Căn cứ vào tình hình thực hiện công tác dân số kế hoạch hoá gia đình trong những năm qua và những điều kiện đảm bảo cho công tác này được thực hiện tốt. Từ thực tế năm 1995 đến nay, các kết quả đã đạt được rất khả quan. Tỷ suất sinh thô giảm từ 1995 - 1999 bình quân 1,35% mỗi năm. Tỷ suất sinh thô giảm nhanh nên tỷ lệ tăng dân số 1,35% mỗi năm. Tỷ suất sinh thô giảm nhanh nên tỷ lệ tăng tự nhiên dân số năm 1999 đạt 1,56%. Qua tỷ suất sinh giảm qua các năm là chậm dần. Theo xu hướng này thì dự báo khoảng đến năm 2006, Thanh Hoá sẽ đạt mức sinh thay thế. Tuy nhiên đây cũng là mục tiêu rất khó khăn bởi lẽ sau khi mức sinh đã giảm xuống khá thấp thì việc phấn đấu để đạt mức thấp hơn trong khi điều kiện kinh tế, xã hội còn gặp nhiều khó khăn là không dễ dàng như ở giai đoạn đầu.
Để đạt được những mục tiêu trên đòi hỏi phải có sự cố gắng, nỗ lực rất lớn của các ban, ngành đoàn thể từ tỉnh xuống cơ sở trong việc thực hiện các chính sách dân số kế hoạch hoá gia đình. Tạo điều kiện thuận lợi để quần chúng nhân dân tham gia tích cực vào việc thực hiện các mục tiêu dân số kế hoạch hoá gia đình.
2. Một số giải pháp kiến nghị:
2.1. Các giải pháp giảm mức sinh:
2.1.1. Phát triển kinh tế xã hội:
Một thực tế trên thế giới đã cho thấy rằng: ở hầu hết các nước phát triển đều có mức sinh thấp hơn các nước đang phát triển. Phân tích thực trạng phần trên cũng khẳng định mức sinh cao bị chi phối bởi phát triển kinh tế xã hội cả theo thời gian và không gian lãnh thổ. Mức sinh giảm dần qua các năm cùng với sự chuyển đổi nền kinh tế của tỉnh. Mức sinh cao hơn ở các huyện, xã có điều kiện kinh tế xã hội thấp kém. phát triển kinh tế xã hội còn là cơ sở để thay đổi các yếu tố khác ảnh hưởng đến mức sinh. Do vậy phát triển kinh tế xã hội là giải pháp cơ bản hàng đầu trong việc giảm mức sinh. Thực chất của giải pháp này là kết hợp các chính sách phát triển kinh tế xã hội với mục tiêu giảm sinh. ở Thanh Hoá, khi thực hiện giải pháp này cần trọng tâm vào cải thiện các tình hình sau:
Phát triển sản xuất nâng cao mức sống nhân dân:
Cơ sở để có giải pháp này là mức sinh giảm tỉ lệ nghịch với mức sống. Một chỉ tiêu cơ bản cho thấy mức sống nhân dân Thanh Hoá hiện tại còn thấp hơn so với sự phát triển chung của cả nước là GDP/người chỉ đạt 224.000 đồng / người/ tháng. Mặc dù vậy trong những năm qua đời sống kinh tế của nhân dân đã dần dần ổn định và đã có nhiều hộ giàu lên nhờ cơ chế thị trường. Song những năm tới cần phải nâng cao mức sống nhân dân hơn nữa mới có thể giảm mức sinh xuống thấp hơn. Vì khi đời sống vật chất được nâng cao thì đời sống tinh thần cũng được cải thiện. Mặt bằng dân trí được nâng lên. Khi đó người dân nhận thức về sinh đẻ có kế hoạch là có lợi, có điều kiện để thực hiện tốt KHHGĐ và chăm sóc con cái tốt, thực hiện thay thế số lượng bằng chất lượng con cái.
+ Hiện tại kinh tế của tỉnh còn tập trung ở khu vực nông nghiệp. Để nâng cao được mức sống của nhân dân cần có nhiều giải pháp đồng bộ: Nâng cao năng lực sản xuất, nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi. Với đặc trưng kinh tế của tỉnh trong thời gian tới có thể đẩy mạnh cho phát triển kinh tế trang trại , thực hiện các biện pháp tài chính cho nhân dân vay vốn trực tiếp để đầu tư vào các sản phẩm nông nghiệp mới có chất lượng cao. Nhà nước cần khuyến khích các thành phần kinh tế cá thể tự chủ sản xuất, kinh doanh. Khuyến khích phát triển các ngành nghề, tạo ra nhiều chỗ làm việc mới (đặc biệt là nông thôn). Bên cạnh đó nhà nước cũng cần đầu tư nhiều hơn nữa cho phát triển các công trình thuỷ lợi phục vụ cho nông nghiệp, phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn (tập trung chủ yếu là đường và điện).
+ Bên cạnh hướng phát triển nông nghiệp đó, chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp – công nghiệp là một xu hướng tất yếu cần đẩy mạnh hơn nữa. Tỉnh cần mở rộng và thu hút nhiều vốn đầu tư hơn cho các khu chế xuất, khu công nghiệp. Bằng hướng này để nâng cao mức sống nhân dân cần chú trọng vào công tác hướng nghiệp dạy nghề cho thanh niên (Bao gồm cả học sinh và những người bước vào độ tuổi lao động). công tác này cần nằm dưới sự chỉ đạo thống nhất của bộ LĐTBXH để đảm bảo cân đối lao động và ổn định nghề nghiệp.
+ Khuyến khích phát triển đa dạng các loại hình dịch vụ để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân. Các loại hình dịch vụ phải đảm bảo đa dạng, kịp thời và tận nơi tiêu dùng. Phân bố dân số Thanh Hoá tạo ra khó khăn cho luồng cung cấp dịch vụ do mật độ dân số không đều. ở những vùng miền núi như Quan Sơn, Quan Hoá, Mường Lát thì còn thiếu thốn rất nhiều, đặc biệt là những dịch vụ y tế, giáo dục và ăng uống (nước sạch cho sinh hoạt). Để đảm bảo mức sinh ở những vùng này cần tăng cường hơn nữa các luồng dịch vụ, tạo ra “thị trường” ở khắp mọi miền của tỉnh đặc biệt là những vùng núi xa xôi.
Chú ý rằng tất cả các giải pháp trên cần thực hiện theo chiều hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá (chủ yếu là nông nghiệp, nông thôn) dựa vào khoa học kỹ thuật và giáo dục theo chiều hướng thống nhất và ngày càng nâng cao. Trong đó không dựa trên cơ sở đông nhân khẩu trong gia đình, không khuyến khích có đông con, đông lao động.
Xoá đói giảm nghèo:
Đông con, ít lao động là nguyên nhân dẩn đến . Ngược lại nghèo đói là một trong những nguyên nhân dẩn đến sinh đẻ nhiều. Xoá đói, giảm nghèo là một trong những vấn đề lớn mà Đảng và Nhà nước ta đang quan tâm. ở Thanh Hoá tỷ lệ hộ đói nghèo có giả trong thời gian qua song vẩn chiếm một tỷ lệ cao, năm 1999 là 16% và năm 2000 là 14%. Họ nghèo đói là những hộ sống bằng nghề nông và gặp nhiều khó khăn trong sản xuất, chịu nhiều tác động của tự nhiên dẩn đến mất mùa hàng năm, không có thu nhập bổ sung.Nghèo đói dẩn đến mức sinh cao có thể thấy thông qua mức chết trẻ em cao, kỳ vọng của họ về số lượng con cái lớn do vậy họ mong muốn có nhiều con. Mặt khác thời gian rảnh rổi nhiều dẩn đến sinh đẻ nhiều thay vì mong muốn một cuộc sống khấm khá hơn mà họ rất khó có được. Ta thấy rằng đói nghèo không chỉ là một vấn đề kinh tế xã hội mà xoá đói giảm nghèo còn là một giải pháp giảm mức sinh ở Thanh Hoá. Có nhiều giải pháp xoá đói giảm nghèo (chương trình 135), song những giải pháp sau là có tác động giảm mức sinh nhiều nhất:
+ Hổ trợ người nghèo phát triển sản xuát: Hỗ trợ sản xuất ở đây phải thông qua chuyển dịch cơ cấu sản xuất, phát triển nghành nghề, thay đổi nghành nghề. Mục tiêu của giải pháp là giảm thời gian nông nhàn, tạo thu nhập cho khu vực nông thôn.
+ Đào tạo, hướng dẩn người nghèo cách làm ăn: Giải pháp này nhằm tạo cho người nghèo có cơ hội như những người khác để họ có cơ hội tập trung vào sản xuất. Từ đó họ ý thức rằng sinh con nhiều và nuôi con nhỏ là một cản trở đối với đời sống.
+ Khuyến khích đầu tư cho vùng nghèo: tranh thủ nguồn vốn đầu tư từ nhiều phía (Nhà nước, các tổ chức, cá nhân ) nhằm tạo vốn làm ăn, nâng cao cơ sở hạ tầng ở vùng nghèo.
+ Hỗ trợ người nghèo bằng y tế, hỗ trợ đồng bào dân tộc ít người : giải pháp này nhằm chăm lo sức khoẻ cho người nghèo để đảm bảo lao động sản xuất đồng thời bảo vệ sức khoẻ bà mẹ trẻ em, hạ thấp mức sinh.
2.1.2. Nâng cao năng lực quản lý cho đội ngũ cán bộ làm công tác dân số kế hoạch hoá gia đình.
Công tác dân số kế hoạch hoá gia đình là công tác xã hội, hoạt động theo hệ thống ngành dọc từ trung ương xuống đến tỉnh - huyện. ở các cấp khác nhau đều có các UBDS từng cấp. UBDS địa phương chịu sự quản lý hành chính và trực thuộc UBND cấp địa phương đi. UBDS kế hoạch hoá gia đình hoạt động bằng nguồn quỹ quốc gia kế hoạch hoá gia đình và được phân bổ theo hệ thống ngành dọc. Công tác dân số kế hoạch hoá gia đình là một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội, là một vấn đề xã hội hàng đầu của nước ta. Để thực hiện được vai trò quan trọng đó ngoài sự phối hợp giữa các ngành, các cấp còn cần có một sự nỗ lực lớn từ chính đội ngũ các cán bộ làm công tác này.
Qua thực tế cho thấy đội ngũ cón bộ dân số của tỉnh Thanh Hoá cùn yếu kém cả về số lượng và chất lượng cho nên đã gây khó khăn cho việc thực hiện mục tiêu KHHGĐ của tỉnh. Do đó để khắc phục tình trạng trên những năm tới cần kiện toàn và nâng cao năng lực của đội ngũ này. Muốn vậy phải tiến hành đồng thời các giải pháp sau:
* Tăng cường sự lảnh đạo của Đảng và các cấp chính quyền :
Như đã phân tích ở trên, đội ngũ cán bộ làm công tác dân số của tỉnh còn nhiều hạn chế và năng lực chuyên môn. Để khắc phục những tồn tại về mặt quản lý và hướng dẫn thực hiện cần có sự tăng cường lãnh đạo của các cấp uỷ đảng, chính quyền, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc đối với công tác này. Sự lãnh đạo của Đảng chính quyền các cấp là nhân tố quyết định sự thành bại của công tác dân số. Bởi vậy kiện toàn và nâng cao năng lực hệ thống cán bộ làm công tác dân số là một vấn đề hết sức quan trọng cần tập trung xây dựng. Từ đó nâng cao chất lượng mạng lưới cán bộ chuyên trách và cộng tác viên dân số.
* Đối với cán bộ dân số cấp huyện, trược hết thực hiện đúng yêu cầu tuyển chọn (đáp ứng được yêu cầu của công việc), phải lựa chọn theo đúng chức danh, tiêu chuẩn viên chức Nhà nước sao cho có thể thực hiện công việc một cách có hiệu quả nhất. Sau đó là việc bố trí đủ cán bộ cho các huyện còn thiếu, bổ sung cán bộ cho các huyện nhiều năm liền chưa đạt kế hoạch so với mức chung của tỉnh .
Nâng cao năng lực quản lý cho đội ngũ cán bộ còn là biện pháp để sử dụng có hiệu quả nguồn lực của chương trình. Khi có bộ máy quản lý đủ mạnh thì các chương trình mục tiêu sẽ được thực hiện có hiệu quả nhất, giảm thất thoát nguồn vốn không đáng có. Từ đó đảm bảo cho các nguồn lực của chương trình dân số quốc gia được sử dụng có hiệu quả đến tận người dân.
* Trong khi các ngành, các cấp là những người ban hành chính sách, hướng dẫn thực hiện và quản lý thì các cộng tác viên mới chính là người trực tiếp quản lý và tiếp cận đối tượng. Vì vậy cần tuyển chọn những cộng tác viên có đủ uy tín, có tâm huyết, trình độ để đảm nhận công tác tuyên truyền, vận động, tư vấn cho các đối tượng thực hiện việc sinh đẻ có kế hoạch:
+ Đối với cộng tác viên có trình độ văn hoá thấp (mù chữ hoạc trình độ cấp I) nên tuỳ thuộc vào uy tín của họ đối với cộng đồng mà xoá bỏ hợp đồng hoặc cử họ đi học các lớp xoá nù hoặc bổ túc văn hoá để họ có thể đáp ứng được yêu cầu của công việc và nhiệm vụ được giao.
+ Tạo ra không khí sôi nổi cho cán bộ chuyên trách và cộng tác viên (CTV) dân số. làm cho họ cảm thấy yêu nghề hơn, nhiệt tình với công việc hơn. Hàng năm uỷ ban DS_ KHHGĐ nên trích một khoản tiền để hộ trợ các huyện, xã, ban dân số và các đoàn thể để tổ chức các cuộc thi CTV dân số giỏi. Thông qua cuộc thi các CTV có thể học hỏi, trao đổi kinh nghiệm trong hoạt động. Đây cũng là hoạt động tạo ra phong trào thực hiện KHHGĐ trong nhân dân.
+ Khen thưởng hàng năm cán bộ chuên trách và CTV dấn số cũng là một giải pháp động viên anh, chị em yên tâm công tác, nhiệt tình với công việc. Qua đó thể hiện được sự quan tâm của cấp trên đối với cấp dưới, cũng như tính chất quan trọng của công tác.
Ngoài ra, do sinh đẻ chịu ảnh hưởng lớn bởi tâm lý, thái độ của các cặp vợ chồng do vậy đòi hỏi các cán bộ làm công tác dân số phải đi sâu đi sát vaò quần chúng. Cán bộ làm công tác dân số cần phải tích cực hơn nữa trong việc tiếp cận với dân đồng thời phối hợp với UBND thực hiện tốt chương trình lồng ghép dân số kế hoạch hoá gia đình đến cơ sở như Hội phụ nữ, Hội nông dân, trường học, bệnh viện, đoàn đội...
2.1.3. Mở rộng công tác thông tin, giáo dục, truyền thông dân số làm thay đổi hành vi sinh đẻ.
Trước thực trạng mức sinh cao ở hầu hết các khu vực trong nước. Đảng và nhà nước đã đề ra 3 chương trình dân số trong đó thông tin giáo dục tuyên truyền dân số (T-G-T) là 1 trong những chương trình có tác động lớn trong việc giảm mức sinh. Đây là biện pháp làm thay đổi nhận thức của người dân về hành vi sinh đẻ, tự giác chấp nhận quy mô gia đình ít con. Mặc dù đã có những tác động đáng kể song với ý nghĩa quan trọng của nó trong thời gian tới cần mở rộng công tác này hơn cả về nội dung và hình thức tuyên truyền.
Đối tượng truyền thông là người dân trong xã, đặc biệt là phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ. Công tác này tập trung vào các vấn đề chính sau:
+ Tăng tuổi kết hôn lần đầu, tuổi sinh con lần đầu, khoảng cách giữa các lần sinh.
+ Giảm tỷ lệ sinh con thứ 3
+ Tăng cường sử dụng biện pháp tránh thai.
Chúng ta đều biết rằng đối tượng tuyên truyền ở Thanh Hoá phần lớn là nông dân, trình độ dân trí thấp. Vì vậy để chương trình thực sự có hiệu quả phải phối hợp T-G-T bằng nhiều loại hình, cách thức khác nhau. Trong thời gian tới cần tiếp tục mở rộng các loại hình truyền thông theo hướng sau:
* Truyền thông trực tiếp: là loại hình thức thông tin phù hợp nhất với đối tượng làm nghề nông, trình độ học vấn thấp, có hiệu quả trực tiếp đối với giảm sinh rất lớn. Vì vậy truyền thông trực tiếp là một biện pháp hết sức cần thiết. Các cộng tác viên và tuyên truyền viên đến từng gia đình để gặp gỡ, nói chuyện, trao đổi, tư vấn về việc sử dụng các biện pháp tránh thai hiện đại. Để làm tốt công việc này đòi hỏi các cộng tác viên phải quản lý, hiểu rõ đối tượng của mình để qua đó có biện pháp phù hợp như thuyết phục, tuyên truyền hướng dẫn các gia đình sử dụng biện pháp tránh thai và chấp nhận quy mô gia đình ít con. Trong công tác này cần chú ý đến các đối tượng sinh nhiều, sinh dày sinh con một bề để tăng cường, chú trọng tuyên truyền vận động.
* Truyền thông gián tiếp: Đây là một phương pháp truyền thông được thể hiện qua sách báo, tranh ảnh, băng hình trên các phương tiện thông tin đại chúng nhằm góp phần thay đổi nhận thức, thái độ của đối tượng và hỗ trợ cho truyền thông trực tiếp đạt hiệu quả cao. Loại hình truyền thông này thích hợp với khu vực có đặc điểm sản xuất và môi trường tiến bộ hơn. Hiện nay ở Thanh Hoá hầu hết các xã đều có trạm phát thanh, bưu điện, trung tâm văn hoá nên cần đẩy mạnh hình thức này bằng việc sản xuất nhiều tài liệu, thông tin thích hợp, tổ chức các buổi văn nghệ, chiếu phim để thu hút đối tượng. Đối với khu vực có trình độ dân trí thấp, khi truyền thông cần phải có sự giải thích, phân tích một cách chi tiết đặc biệt nên tăng cường các tranh vẽ dễ hiểu, cung cấp các loại tờ rơi, các buổi văn nghệ quần chúng, cấp báo miển phí để nâng cao sự hấp dẩn đến các đối tượng.
* Giáo dục dân số trong nhà trường: có thể nói đây là phương pháp mang lại hiệu quả cao trong tương lai vì nó tác động vào lớp trẻ. Kết hợp với các môn học khác, các em sẽ tiếp nhận tốt hơn về vấn đề dân số. Giáo dục trong nhà trường sẽ cung cấp các thông tin cần thiết về dân số cho thế hệ trẻ để các em có quyết định đúng đắn, trong hành vi sinh đẻ trong tương lai của mình. Hơn thế nữa tại đây sẽ thu hút một số lượng lớn các đối tượng học sinh tham gia. Cùng với giáo dục giới tính nó không chỉ tác động tới các em gái mà còn có cả các em trai - những người sẽ là người chồng, người cha. Để thực hiện tốt hình thức thông tin giáo dục này cần nâng cao, bồi dưỡng cho giáo viên những kiến thức dân số. Thông qua đó mở ra cho học sinh những biểu hiện mới làm thay đổi phong tục tập quán, tạo ra sự bình đẳng nam nữ, bảo vệ sức khoẻ bà mẹ trẻ em. Ngoài ra thông qua thế hệ trẻ có thể làm thay đổi quan điểm của cha mẹ, tạo ra phong trào thực hiện kế hoạch hoá gia đình trong thôn bản, nâng cao trách nhiệm làm cha mẹ với con cái từ đó thực hiện gia đình ít con.
Có thể nói đây không những là giải pháp cho tương lai mà còn phát huy tác dụng rất mạnh mẽ ở các khu vực nông thôn nơi thiếu thốn mọi mặt về kinh tế, văn hoá thông tin thì vấn đề giáo dục dân số, giới tính cho học sinh là hết sức cần thiết.
Ngoài ra công tác T-G-T cần tập trung hơn vào việc là thay đổi nhận thức của các nhóm dân tộc có đặc thù riêng như: bà con vùng công giáo, bà con vùng dân tộc ít người có méc sinh cao (H’Mông, Dao, Thái). Nhữnh thành phần này thời gian qua đang có xu hướng bị tách ra những cộng đồng riêng biệt. Chúng ta cần chú trọng trong việc hoà nhập về văn hoá, xã hội giữa các nhóm đối tượng này với cộng đồng. Chính sách truyền thông dấn số cần tế nhị, thận trọng và các giải pháp phải hợp lý, mang tính giáo dục cao.
2.1.4. Nâng cao trình độ dân trí, tăng cường vai trò của gia đình và bình đẳng giới:
Kết quả phân tích thực tế đã cho thấy trình độ văn hoá đặc biệt là trình độ văn hoá phụ nữ là một nhân tố ảnh hưởng lớn tới mức sinh. Nó là một nhân tố mang tính bền vững lâu dài, không những tác động mạnh mẽ tới sự phát triển dân số mà còn là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân. Người có trình độ giáo dục cao là người có kiến thức về kế hoạch hoá gia đình, có nhận thức về chi phí và lợi ích sinh con, cũng là người biết chăm sóc sức khoẻ cho mình và tương lai của con cái. Do vậy họ sinh ít và chất lượng con cái cao. Trong việc giảm mức sinh, giáo dục văn hoá phải đi liền với tăng cường vai trò của gia đình và bình đẳng giới trong gia đình.
Trình độ dân trí cao là nền tảng của xã hội phát triển trong đó mức sinh giảm xuống và chất lượng con cái cao hơn. Giáo dục là điều kiện để người nông dân tự giải phóng mình khỏi những phong tục tập quán lạc hậu còn nặng nề ở nông thôn, làm cho phụ nữ có khả năng nhận thức, tiếp thu những kiến thức về dân số sức khoẻ - sinh sản và có những quyết định đúng đắn trong việc áp dụng các biện pháp tránh thai và số con mong muốn. ở đây cũng cần chý ý rằng, yếu tố quyết định mức sinh của một dân số không chỉ là trình độ học vấn của mỗi phụ nữ mà còn là tỷ lệ phụ nữ có trình độ học vấn trong tổng số phụ nữ trình độ dân trí của nữ). Vì vậy trình độ dân trí phải được nâng lên đến một mức nào đó người phụ nữ mới có khả năng để định lại giá trị đứa con, tạo ra dư luận tiến bộ trong cộng đồng, giảm mức sinh chung của cộng đồng đó. ở Thanh Hoá trình độ dân trí giữa các khu vực không đồng đều, cơ sở vật chất, trường học nhiều nơi xuống cấp nghiêm trọng, tỷ lệ trẻ em đến trường chưa cao, chất lượng dạy và học còn thấp... trong những năm tới cần tập trung vào một số giải pháp sau:
+ Thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học toàn diện: ở Thanh Hoá giáo dục phải đạt trình độ PTCS mới có tác động giảm sinh mạnh. Trong những năm trước chúng ta đã thực hiện được phổ cập giáo dục tiểu học, song tỷ lệ học sinh bỏ học giữa chừng vẩn còn cao. Để nâng cao được trình độ dân trí trước hết mọi người dân phải có trình độ trên tiểu học. đây là cơ sở cho việc nâng cao tỷ lệ học sinh ở các bậc học trên. Để thực hiện công tác này cần có các phong trào xoá nạn mù chữ, tổ chức các lớp học tình thương, bổ túc văn hoá và tập trung chủ yếu ở vùng dân tộc, vùng sâu, vùng xa.
+ Đầu tư để nâng cao cơ sở vật chất, trường học, khuyến khích các gia đình cho con em đến trường. ở các vùng núi, vùng sâu , vùng xa cần mở rộng hơn các chính sách ưu đải, cấp sách giáo khoa, trao học bổng cho trẻ em nghèo vượt khó .để thu hút ngày càng đông trẻ em đến trường.
+ Tăng cường số lượng và chất lượng giáo viên đáp ưqngs nhu cầu học ngày càng cao. Đối với những giáo viên có trình độ kém thì nên được học tập, bổ sung thêm. Đối với những vùng còn thiếu giáo viên, Tỉnh uỷ nên có kế hoạch trong việc đưa sinh viên mới ra trường đi công tác 2 năm ở các vùng sâu, vùng xa cùng vơi việc tăng phụ cấp khu vực cho những đối tượng này.
Sinh đẻ là 1 trong những chức năng của gia đình. Quan niệm “sinh đẻ là việc của phụ nữ “ ở đa số người chồng trước đây là một sự bất bình đẳng. Điều này làm giảm quyền quyết định của phụ nữ trong việc sinh con. Giáo dục nhà trường và giáo dục trong gia đình là 2 mặt song song tồn tại, phối hợp cùng nhau trong việc hình thành nhân cách của con cái. Tăng cường vai trò gia đình vừa là giải pháp nâng cao chất lượng con cái vừa làm giảm con trong gia đình, từ đó đầu tư cho con cái tốt hơn. Vai trò của gia đình thể hiện thông qua các chức năng của nó. Xã hội càng phát triển con người càng văn minh, việc thực hiện các chức năng gia đình càng phức tạp.
Ngày nay gia đình có các chức năng cơ bản: chức năng sinh đẻ, chức năng nuôi daỵ con cái, chức năng tổ chức cuộc sống vật chất và văn hoá và chức năng kinh tế. Trong đó chức năng kinh tế thể hiện gia đình là đơn vị sản xuất, chức năng này tồn tại phổ biến ở Thanh Hoá đặc biệt là vùng nông thôn. Nâng cao vai trò gia đình đòi hỏi gia đình phải làm tốt các chức năng của nó. Trong điều kiện kinh tế - xã hội ngày nay thực hiện các chức năng đó tất yếu phải giảm sinh.
Trong 1 xã hội công bằng văn minh, trình độ dân trí cao kéo theo sự nâng cao trong bình đẳng giới. Tăng cường vai trò bình đẳng nam nữ không chỉ thúc đẩy sự tiến bộ kinh tế xã hội mà còn nhằm mục tiêu hạ thấp tỷ lệ gia tăng dấn số. Nâng cao bình đẳng giới trong gia đình là thực hiện các vấn đề sau:
- Tạo cơ hội cho phụ nữ có điều kiện học tập như nam giới
- Tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia vào các hoạt động kinh tế xã hội.
- Chăm lo sức khoẻ cho phụ nữ để phụ nữ thực hiện tốt dân số kế hoạch hoá gia đình.
Nâng cao vị trí của người phụ nữ trong gia đình. Tạo sự bình đẳng cho phụ nữ tham gia ccs quyết định trong phạm vi gia đình và xã hội là các giải pháp thông qua giáo dục tác động đến hành vi sinh đẻ, do vậy cần thực hiện song song để đạt hiệu quả cao trong đó có giảm mức sinh.
Việc nâng cao bình đẳng giới trong gia đình không chỉ tạo cho phụ nữ có vị trí cao trong gia đình mà con tạo điều kiện cho họ tham gia vao các hoạt động xã hội ( bình đẵng ngoài xã hội). Bình đẳng giới tạo thu nhập cao hơn cho phụ nữ trong công việc. Từ đó tao ra sự bình đẵng giữa con trai và con gái trong việc thực hiện quền, trách nhiệm và bổn phận đối với cha mẹ già.
2.1.5. Phát triển mạng lưới y tế, tăng cường dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản, kế hoạch hoá gia đình tập trung ở những vùng nghèo, vùng sâu của tỉnh.
Y tế có tác động mạnh tới mức sinh, ở Thanh Hoá thực tế cho thấy y tế tác động mạnh tới mức sinh thông qua việc chăm sóc sức khoẻ bà mẹ trẻ em (tỷ suất chết trẻ em), đáp ứng các dịch vụ KHHGĐ (tỷ lệ sử dụng các BPTT ) Mạng lưới y tế cơ sở tring những năm qua còn chưa được hiện đại để đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Vấn đề này trong những năm tới cần tập trung đầu tư theo một số hướng sau:
- Mở thêm nhiều trạm xá cơ sở (thôn, bản) để đáp ứng kịp thời nhu cầu chăm sóc sức khoẻ và sinh sản bà mẹ, tiêm chũng và chữa bệnh trẻ em. Mạng lưới y tế, trạm xá phải gắn với sự phân bố dân cư địa phương.
- Nâng cấp các thiết bị y tế phục vụ cho việc thăm khám thai sản, các thiết bị chữa trị các bệnh mãn tính, suy dinh dưỡng ở trẻ em.
Hiện nay đối tượng chưa thực hiện tốt KHHGĐ tập trung chủ yếu ở những vùng nghèo, vùng sâu của tỉnh. Con số này chiếm tỷ lệ lớn trong các cặp vợ chồng chưa thực hiện được kế hoạch hoá gia đình. Chiến lược lồng ghép T-G-T với dịch vụ kế hoạch hoá gia đình nhằm cung cấp thông tin đầy đủ làm cho đối tượng nhận thức được hành vi sinh đẻ và chấp nhận sử dụng các BPTT. Nâng cao chất lượng dịch vụ và tăng cường dịch dụ KHHGĐ cho các vùng sâu là việc làm cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Cụ thể tập trung các giải pháp sau:
+ Cung cấp đầy đủ, kịp thời đa dạng với chất lượng ngày càng cao các biện pháp tránh thai phát triển và hoàn thiện hệ thống cung cấp dịch vụ kế hoạch hoá gia đình ở những vùng khó khăn, góp phần làm tăng nhanh số cặp vợ chồng sử dụng biện pháp tránh thai. Dịch vụ kế hoạch hoá gia đình cần được cung ứng dưới 2 hình thức. Thứ nhất đối với những người đăng ký thực hiện kế hoạch hoá gia đình thì bao cấp hoàn toàn các phương tiện tránh thai và mọi chi phí dịch vụ kỹ thuật do các trung tâm kế hoạch hoá gia đình và các cộng tác viên phân phát. Thứ hai là cho phép bán tự do có trợ giá trên thị trường các phương tiện tránh thai.
+ Tập trung nâng cao chất lượng và các hình thức chăm sóc sức khoẻ sinh sản thông qua việc nâng cao năng lực của cán bộ trạm y tế của xã; tăng cường cán bộ y tế cho các xã vùng khó khăn thông qua điều phối cán bộ, đưa những người mới qua đào tạo, sinh viên tốt nghiệp lên phục vụ ở vùng này, thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm dịch vụkế hoạch hoá gia đình đẻ đảm bảo dịch vụ này đến từng thôn, từng gia đình; có thể tạo điều kiện cho phép những cán bộ y tế chuyên khoa có kinh nghiệm kế hoạch hoá gia đình đã nghỉ hưu được tiến hành nghề dịch vụ tư nhân để phục vụ cho mọi đối tượng; kết hợp cơ sở y tế xã hội với dịch vụ kế hoạch hoá gia đình tỉnh tổ chức các buổi khám bệnh, cấp phát thuốc trực tiếp cho các đối tượng.
+ Hỗ trợ kinh phí cho các cơ sở y tế vùng sâu như: xây dựng trạm xá, mua sắm thiết bị, dụng cụ cần thiết, xây dựng củng cố số mạng lưới dịch vụ đến tận thôn xóm, tăng cường các kênh tiếp thị bao cao su, thuốc tránh thai... để khuyến khích mọi phụ nữ tham gia.
2.3.6. Làm thay đổi tâm lý xã hội, phong tục tập quán đối với hôn nhân và sinh đẻ.
Phong tục tập quán, tâm lý xã hội là những yếu tố gây rất nhiều khó khăn cho mục tiêu giảm sinh. Giải pháp hiệu quả nhất để làm giảm tác động của yếu tố này là xoá bỏ những nguyên nhân tạo ra những tâm lý, tập quán lạc hậu, nhũng yết tố xã hội đảm bảo cho hệ thống tư tưởng, tập quán này tồn tại và phát triển. Đồng thời xây dựng những nguyên tố mới tại ra tâm lý tích cực làm giảm mức sinh. Giải pháp này tập trung vào các hướng sau.
+ Xây dựng môi trường văn hoá mới - xã hội chủ nghĩa, tạo ra nhiều nhân tố mới để thay dổi tư duy trong nhân dân. Trong đó phải đẩy mạnh công tác T-G-T nhằm mục đích tuyên truyền sâu rộng trong mọi tầng lớp nhân dân về mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác dân số kế hoạch hoá gia đình. Thúc đẩy các thành viên trong cộng đồng chấp nhận quy mô gia đình ít con mạnh khoẻ, hạnh phúc thông qua việc cung cấp đầy đủ các thông tin về kế hoạch hoá gia đình và các biện pháp tránh thai.
+ Phối kết hợp đồng bộ giưã các chính sách, tìm ra những điểm chưa hợp lý, chưa thống nhất trong quan hệ giữa kinh tế xã hội và mục tiêu của công tác dân số. Thực tế trong khi nhà nước có chính sách giảm sinh thì một số chính sách khác lại vô tình làm tăng mức sinh. Rút kinh nghiệm thời gian qua cần sửa đổi và hoàn thiện 1 số chính sách như: xoá bỏ việc giao đất, giao rừng cho nhân khẩu trong khu vực sản xuất nông nghiệp. Chỉ giao đất, giao rừng theo nhân khẩu trong khu vực sản xuất nông nghiệp. Chỉ giao đất, giao rừng cho cặp vợ chồng kết hôn hợp pháp, tránh tình trạng tảo hôn và các hình thức vi phạm hôn nhân khác hoàn tiện hệ thống chính sách ưu tiên gia đình ít con, thực hiện kế hoạch hoá gia đình bằng việc cho vay vốn ưu đãi để phát triển sản xuất, giảm hoặc miễn viện phí, kiểm tra sức khoẻ, khám thai...
+ Đẩy mạnh công tác T-G-T vào những địa bàn có nại tảo hôn xảy ra nhiều. Để cho người dân hiểu được đây là việc làm bất hợp pháp và ảnh hưởng tới cuộc sống gia đình. Thông qua đó nên đề cập đến việc tảo hôn chính là nguyên nhân gâty nên việc sinh đẻ nhiều và đẻ dày sẽ không có đủ khả năng chăm sóc con cái tốt khi người cha, ngưởi mẹ còn đang trong độ tuổi ham chơi, dẫn đến tình trạng “hữu sinh vô dưỡng”. Đồng thời tập trung thuyết phục những người có uy tín trên địa bàn như già làng, trưởng bản, trưởng thôn và các bậc phụ huynhcho họ nhận thức được rằng “dựng vợ gả chồng ” sớm cho con hay cưới xin theo kiểu áp đặt là một điều không nên làm vì nó ảnh hưởng lớn đến tương lai sau này của con cái như học nghề, việc làm, tình cảm vợ chồng
+ Vận động nâng cao tuổi kết hôn bằng cách cho con em tới trường, kéo dài thời gian học tập để từ đó kéo dài tuổi kết hôn và tuổi sinh nở lần đầu của phụ nữ. Khi có trình độ nhất định qua quá trình học tập họ sẽ nhìn nhận giá trị con cái một cách hợp lí và tự mình quyết định việc có một số con hợp lí vào thời gian nào.
+ Phát huy nét đẹp truyền thống gia đình. Gia đình là tổ ấm vững vàng, tránh hiện tượng li hôn, tái hôn. Gia đình có mối quan hệ hôn nhân bền vững, các quan hệ vợ chồng, con cái được đảm bảo sẽ giảm được các hiện tượng tiêu cực xảy ra trong xã hội: Trẻ em lang thang, gì ghẻ con chồng
+ Nâng cao chất lượng dịch vụ xã hội như: BHXH, bảo hiểm y tế, giúp đỡ gia đình có công với cách mạng, gia đình neo đơn, không nơi nương tựa... để họ yên tâm khi không có con trai nuôi dưỡng, chăm sóc họ, thờ phụng khi về già. Làm cho họ thấy rằng con trai và con gái đều phải có trách nhiệm như nhau đối với cha mẹ, và phải được nuôi dưỡng, giáo dục đầy đủ.
+ Đưa công tác tuyên truyền vào phổ biến trong các hội như: hội phụ nữ, hội nông dân, hội gia đình làm kinh tế giỏi, đoàn thanh niên câu lạc bộ không sinh con thứ 3, gia đình văn hoá, gia đình trẻ hạnh phúc ... để qua đó tuyên truyền kiến thức về dân số, sức khoẻ sinh sản tới từng gia đình nhằm làm thay đổi nhận thức trong nhân dân. Tổ chức tuyên truyền thông qua các cuộc thi với nội dung phản ánh nhận thức của người dân về vấn đề dân số, về bình đẳng nam nữ trong gia đình cũng như ngoài xã hội.
+ Tăng cường hơn nữa vai trò pháp luật trong đời sống, đảm bảo tốt trật tự trị an, công bằng xã hội. Chính quyền cấp xã phải gây được lòng tin trong dân, cần đảm bảo giải quyết kịp thời, công bằng những tranh chấp, mâu thuẫn, không để xẩy ra tình trạng lấy số đông lấn át số ít, sử dụng bạo lực gây rối trật tự trong làng xã. Đây chính là một trong những nguyên nhân cơ bản tạo ra tư tưởng “đông con, nhiều cháu” là hơn người, thế mạnh của dòng họ thể hiện ở đông đúc con cháu, “có nếp, có tẻ” mà đang là nguyên nhân tác động tâm lí tới việc sinh đẻ nhiều. Pháp luật thực thi nghiêm minh, công bằng xã hội được đảm bảo thì chắc chắn việc trông cậy, sử dụng sức mạnh của đông con lắm cháu sẽ bị coi thường. Từ đó góp phần tích cực làm lành mạnh hoá xã hội, giảm mức sinh vsf đầu tư cho các cơ hội khác
2.3.7. Bổ sung, hoàn thiện các chế độ chính sách;
Chính sách, chế độ về dân số nhằm đảm bảo kinh phí, cơ sở vật chất cho hoạt động của công tác dân số kế hoạch hoá gia đình. Hoàn thiện chính sách chế độ tạo động lực khuyến khích mọi người tham gia chương trình dân số kế hoạch hoá gia đình, thúc đẩy mạnh mẽ các cặp vợ chồng sử dụng các biện pháp tránh thai. Mặc dù nhà nước đã quy định các chính sách, chế độ đối với người làm công tác, đối với người thực hiện kế hoạch hoá gia đình song hiện nay còn nhiều vấn đề cần bổ sung hoàn thiện.
- Mặc dù ngày nay nhiều người dân đã có ý thức tự nguyện chấp nhận quy mô gia đình ít con, mong muốn chất lượng của mỗi đứa con phải được chú ý. Song chi phí đầu tư cho con cái rất lớn mặt khác mất đi nguồn lao động trong gia đình. Nhà nước cần có mở rộng hoạt động tài chính tín dụng nông thôn. Đối với gia đình thực hiện sinh 1 đến 2 con cần được ưu tiên cho vay vốn đầu tư vào sản xuất, miễn học phí cho con em gia đình nghèo, và các chế độ khác.
- Đối với cán bộ chuyên trách dân số xã và cộng tác viên dân số cần có những cơ chế thù lao thoả đáng hơn. Hiện nay với mức lương tối thiểu nhà nước quy định là 210.000 đồng/ tháng thì mức thù lao cho cán bộ chuyên trách cần nâng lên tương đương với mức lương tối thiểu này dể họ nhiệt tình và tham gia nhiều thời gian hơn. Còn đối với cộng tác viên cần phải nâng mức phụ cấp hơn nữa để họ dành nhiều thời gian và nhiệt tình hơn trong khi trực tiếp tiếp xúc đối tượng. Mức thù lao cho họ ít nhất phải tương đương với mức lương tối thiểu tính theo thời gian vận động kế hoạch hoá gia đình trong tháng của họ.
- Khen thưởng đối với các xã, các cá nhân làm tốt công tác dân số kế hoạch hoá gia đình. Thường xuyên sơ kết, tổng kết, phổ biến kinh nghiệm của các xã tiên tiến. Dựa trên nguồn ngân sách của hội, cần xin thêm nguồn ngân sách của huyện để khen thưởng kịp thời các xã có tỷ lệ con thứ 3 trở lên thấp nhất. Đồng thời các chế độ cần phải dựa trên đặc điểm kinh tế xã hội, mức sống của nhân dân ở từng xã để có thể khuyến khích hoạt động của đội ngũ cộng tác viên xã đó. Từ đó khuyến khích đông đảo mọi người cùng tham gia thực hiện tốt chương trình dân số kế hoạch hoá gia đình.
- Cán bộ Đảng viên, cán bộ công chức viên chức và các lực lượng vũ trang vi phạm sinh đẻ kế hoạch sẽ không được nhận danh hiệu thi đua, không được bổ nhiệm, đề bạt, không được tăng lương đúng kỳ, không để ở cương vị lãnh đạo (nếu là cán bộ công nhân viên chức biên chế có thể chuyển sang làm hợp đồng ngắn hạn hoặc thôi việc, còn nếu là Đảng viên thì phải kỷ luật hoặc khai trừ khỏi đảng. Đối với gia đình nông nghiệp vi phạm sinh đẻ có kế hoạch thì có thẻ cắt giảm ruộng khoán, phạt thóc. Phải xử lý nghiêm minh và quy trách nhiệm cho đơn vị, cá nhân vi phạm tảo hôn. Thực hiện nghiêm túc việc đăng ký sinh, tử, kết hôn với chính quyền xã.
2.2. Kiến nghị:
Để các giải pháp trên được đưa vào thực hiện và thực hiện có hiệu quả để đạt được mục tiêu giảm sinh. Tôi xin có một vài kiến nghị sau:
- Cần tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và các cấp chính quyền cụ thể là trách nhiệm thủ trưởng trong việc thực hiện các Nghị quyết của Trung ương và Chính phủ về công tác dân số. Mặt khác đẩy mạnh xã hội hoá, huy động có hiệu quả các ban ngành đoàn thể và cá nhân tham gia tích cực hơn nữa trong công tác hoạt động thông tin giáo dục truyền thông dân số bằng nhiều loại hình phong phú, đa dạng phù hợp với đối tượng, nhóm đối tượng.
- Tập trung xây dựng và hoàn thiện mạng lưới dân số xã, phường. Củng cố các trạm y tế cơ sở, nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ dân số bằng việc tổ chức các lớp tập huấn ngắn hạn về quản lý dân số, nâng cao khả năng làm việc. Đồng thời nghiên cứu lại chế độ lương và phụ cấp hợp lý hơn cho đội ngũ cán bộ làm công tác dân số cơ sở.
- Nhiệm vụ trọng tâm của công tác dân số toàn tỉnh là thực hiện từng bước và có trọng điểm, điều hoà giữa chất lượng và số lượng dân số, giữa phát triển dân số và phát triển nguồn lực, giữa phát triển dân số dân cư với phát triển xã hội. Tập trung ưu tiên cho các vùng có mức sinh cao, vùng sâu, vùng nghèo để giải quyết các vấn đề dân số và nâng cao mức sống nhân dân. Quán triệt quan điểm đầu tư cho công tác dân số là đầu tư cho phát triển bền vững.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền dân số KHHGĐ, cung cấp dịch vụ KHHGĐ kết hợp đầy đủ, có hiệu quả chương trình chăm sóc sức khoẻ sinh sản KHHGĐ. Tăng cường vai trò của gia đình, bình đẳng giới trong việc chăm sóc sức khoẻ gia đình.
- Nâng cao chất lượng thông tin, dữ liệu về dân cư, hoàn thiện hệ thống sổ sách, biểu bảng thông tin cần quản lý, thu thập. Tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá. Đảm bảo tính tin cậy của thông tin quản lý.
- Cán bộ dân số phải biết lắng nghe ý kiến của nhân dân để biết được nguyện vọng cũng như những vướng mắc trong nhân dân để tìm ra giải pháp tháo gỡ. Biết tham khảo, học tập kinh nghiệm quản lý dân số ở các đơn vị khác và vận dụng có hiệu quả.
- Kết hợp và lồng ghép chặt chẻ hơn nữa chính sách phát triển kinh tế xã hội với chính sách dân số. Tập trung phát triển sản xuất để tăng mức sống nhân dân trong đó phải ý thức được giảm sinh là yếu tố quan trọng để phát triển kinh tế xã hội.
Kết luận
Qua nghiên cứu mức sinh của Thanh Hoá giai đoạn 1995 – 1999, ta thấy rằng mức sinh đã giảm nhiều trong mấy năm lại đây song tốc độ giảm hiện nay đẫ chậm dần và vẫn còn cao so với mức trung bình của cả nước.
Biến động mức sinh ở Thanh Hoá chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, có yếu tố tác động trực tiếp nhưng cũng có những yếu tố gián tiếp tác động. Nhìn chung các yếu tố có tác động mạnh nhất đến mức sinh ở đây là : Trình độ học vấn; Phong tục tập quán, tâm lý xã hội; Tình hình sử dụng biện pháp tránh thai; Tình trạng hôn nhân và đặc biệt là chương trình DS – KHHGĐ.
Sự thành công của công tác DS- KHHGĐ là chính sách của Đảng và Nhà nước, sự quan tâm của tỉnh và sự nỗ lực cố gắng chủ quan của mọi người dân đặc biệt là sự nhiệt tình tận tuỵ trong công việc của đội ngũ cán bộ và cộng tác viên dân số. Trong thời gian qua, chương trình DS – KHHGĐ đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, song việc giảm sinh hiện nay con gặp khá nhiều khó khăn. Để đạt được mực tiêu của chương trình dân số tốt hơn, cần chú ý đến các yếu tố ảnh hưởng đến mức sinh khi thực hiện các giải pháp của chương trình.
Nghiên cứu mức sinh này cũng chỉ ra những giải pháp điều chỉnh và quản lý mức sinh của tỉnh, chính sách DS- KHHGĐ cần được thực hiện đồng bộ các giải pháp này. Để từ đó góp phần cùng cả nước thực hiện mục tiêu đạt mức sinh thay thế trong 5 năm tới.
Tài liệu tham khảo
Giáo trình Dân số học – Chủ biên: GS. Phùng Thế Trường.
Nhà xuất bản Thống kê 1995.
Giáo trình Dân số và Phát triển – TS. Nguyễn Đình Cử
Nhà suất bản Nông nghiệp 1997
3. Giáo trình Kinh tế Lao động – Chủ biên PTS Mai Quốc Chánh và
PTS, Nhà giáo ưu tú Phạm Đức Thành.
Nhà xuất bản Giáo dục – 1998.
Các yếu tố ảnh hưởng đến mức sinh – Chủ biên Phan Tân
Trung tâm nghiên cứu dư luận xã hội và truyền thông dân số.
Chuyển đổi mức sinh và các yếu tố ảnh hưởng đến mức sinh ở
Việt Nam. Nhà xuất bản Thông kê năm 2000
Một số vấn đề về dân số học – Nguyễn Cạn.
Dân số và phát triển của các xã điển hình trong 50 năm qua
GS. TS Đặng Thu - Nhà xuất bản khoa học xã hội – 1995.
Khoảng các sinh và tử vong trẻ em Việt Nam
Nhà xuất bản Thống kê 5 – 1996.
Nâng cao vị trế của phụ nữ trong công tác Kế hoạch hoá gia đình, phát triển xã hội – Nhà xuất bản giáo dục, Hà Nội 12/1996
Tâm lý trọng nam, khinh nữ trong xã hội hiện nay
Khoa học và phụ nữ 4/1995
Tạp chí Xã hội học số 3/ 1996.
Thông tin dân số năm 1998, 1999
Các yếu tố quyết định mức sinh: Việt Nam 1994.
Tài liệu Phòng Dân số – Lao động – Môi trường Cục Thống kê tỉnh Thanh Hoá.
Niên giám thống kê tỉnh từ năm 1989 đến 2000
Tài liệu báo cáo từ các sở, nghành và phòng thống kê các huyện
Số liệu báo cáo định kì của UBDS - KHHGĐ từ 1989 đến 1999
Mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4370.doc