Toàn cầu hoá mang lại những cơ hội mới cho việc mở rộng lượng và chất của hoạt động kinh tế đối ngoại, mở rộng thị trường , truyền bá khoa học công nghệ và kỹ năng quản lí tiên tiến. Đến lượt chúng, các yếu tố này lại, hứa hẹn năng suất lao động và một mức sống cao hơn cho nhân dân. Lần đầu tiên trong lịch sử, Việt Nam có quan hệ bình thường với tất cả các nước và trung tâm kinh tế – chính trị lớn trên thế giới. Ngày 28/7/1995, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của hiệp hội các nước Đông Nam á. Và cũng trong thang 7/1995, Việt Nam và liên minh Châu âu đã kí hiệp định chung về hợp tác kinh tế thương mại và khoa học kỹ thuật và bình thường hoá quan hệ ngoai giao với Mỹ. Việt Nam cũng đã nộp đơn xin gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế APEC và tổ chức thương mại thế giới (WTO). Đến cuối năm 1996, Việt Nam có quan hệ kinh tệ thương mại chính thức với trên 120 nước, kim ngạch ngoại thương gia tăng nhanh chóng. Nhiều nước và tổ chức quốc tế đã dành cho Việt Nam viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay để đầu tư phát triển kinh tế xã hội.
22 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1578 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mục tiêu, phương hướng, nguyên tắc cơ bản và giải pháp nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ẩm và dịch vụ của một quốc gia nhất định dựa trên cở sở những lợi thế của quốc gia đó về các điều kiện tự nhiên ,kinh tế ,khoa học, công nghệ ,và xã hôị để đáp ứng nhu cầu của quốc gia khác thông qua trao đổi quốc tế .Phân công lao động quốc tế diễn ra trên phạm vi ngày càng rộng lớn bao quát nhiều lĩnh vực và với tốc độ nhanh .Dưới tác động như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, phân công lao động quốc tế diễn ra theo chiều sâu. Bởi vậy trong sản xuất các quốc gia thường chú ý phát triển loại sản phẩm “ vô hình” ,các sản phẩm co hàm lượng khoa học và công nghệ cao so với loại sản phẩm có hàm lượng nguyên liệu và lao động giản đơn nhiều như trước đây. Sự phát triển cao của phân công lao động quốc tế làm xuất hiện ngày càng nhiều các hình thức hợp tác mới về kinh tế, khoa học công nghệ chứ không đơn thuần chỉ có hình thức ngoại thương như các thế kỉ trước. Phân công lao động quốc tế làm biến đổi nhanh chóng cơ cấu ngành và cơ cấu lao động trong từng nước và trên phạm vi quốc tế. Sự phân công lao động quốc tế thường được biểu hiện qua các tổ chức kinh tế quốc tế và các công ty xuyên quốc gia, khiến cho vai trò của chúng ngày một nâng cao trên trường quốc tế .
1.1.1.2. Cở sở lựa chọn của thương mại quốc tế và xu thế thị trường thế giới .
Từ những thập kỉ 70 của thế kỉ XX lại đây, toàn cầu hoá và khu vực hoá trở thành xu thế tất yếu của thời đại dẫn đến “mở cửa” và “hội nhập”của mỗi quốc gia vào cộng đồng quốc tế, trong đó có xu thế phát triển của thị trường thế giới. Xu thế này có liên quan đến sự phân công lao động quốc tế và việc vận dụng lợi thế so sánh giữa các quốc gia trong thương mại giữa các nước với nhau. Những biểu hiện của xu thế phát triển thị trường thế giới
Thương mại trong ngành tăng rõ rệt
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, cùng với khoa học và công nghệ phát triển, sự phân công quốc tế đã có thay đổi rất lớn về hình thức, chủ yếu thể hiện sự phân công giữa các ngành từng bước chuyển sang phân công nội bộ ngành, do đó thương mại trong các ngành phát triển rất mạnh. Theo dự báo, cùng với cạnh tranh quốc tế càng gay gắt và cùng với tiến bộ khoa học công nghệ, thương mại trong nội bộ ngành sẽ chiếm tỉ trọng ngày càng lớn hơn trong thương mại thế giới.
+ Khối lượng thương mại trong nội bộ các tập đoàn kinh tế khu vực không ngừng mở rộng .
+ Thương mại công nghệ phát triển nhanh chóng
Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt, hàng hoá cuả một nước có thể chen chân vào thị trường quốc tế được hay không trong một chừng mực nhất định còn tuỳ thuộc vào nước đó áp dụng công nghệ tiến bộ như thế nào vào sản xuất hàng hoá xuất khẩu, nâng cấp và thay đổi thế hệ hàng hoá.
+ Thương mại phát triển theo hướng tập đoàn hoá kinh tế khu vực.
Nền kinh tế thế giới đang phát triển theo xu hướng tập đoàn hoá khu vực do:
Cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt. Cục diện thế giới thay đổi từ hai cực sang đa cực, so sánh sức mạnh kinh tế thế thế giới cũng thay đổi rõ rệt. Để duy trì lợi ích của mình và củng cố vị trí trong đàm phán, nhiều nước đang phát triển cũng tổ chức các loại hình liên minh kinh tế khu vực.
Khoa học và công nghệ phát triển nhanh chóng làm thay đổi cơ cấu ngành trên quy mô thế giới.
Xu thế tập đoàn hoá kinh tế khu vực ngaỳ càng có ảnh hưởng quan trọng đến tình hình kinh tế thương mại thế giới,làm cho hướng chuyển dịch tiền vốn và kĩ thuật trên phạm vi thế giới có thay đổi lớn. Điều này vừa đem lại cơ hội cho sự phát triển thương mại và kinh tế thế giới, vưà có ảnh hưởng bất lợi đối với nhiều nước, nhất là các nước nằm ngoài khu vực và các nước đang phát triển.
1.1.1.2.Vai trò của kinh tế đối ngoại.
Trên thế giới ngày nay, quốc gia nào cũng quan tâm nhiều đến kinh tế đối ngoại. Mọi quốc gia muốn tăng trưởng kinh tế cao và phát triển bền vững đều mở rộng hoạt động ngoại thương, hợp tác quốc tế về đầu tư, hợp tác chuyển giao công nghệ, đồng thời đẩy mạnh các dịch vụ thu ngoại tệ.Có thể nói kinh tế đối ngoại có vai trò vô cùng to lớn trong điều kiện hiện nay. Và có thể khái quát vai trò to lớn của kinh tế đối ngoại qua các mặt sau đây:
Góp phần nối liền sản xuất và trao đổi trong nước với sản xuất và trao đổi quốc tế; nối liền thị trường trong nước với thị trường thế giới và khu vực .
Hoạt động kinh tế đối ngoại góp phần thu hút vốn đầu tư trực tiếp (FDI) và vốn viện trợ chính thức từ các chính phủ và các tổ chức tiền tệ quốc tế (ODA); thu hút khoa học, kĩ thuật, công nghệ; khai thác và ứng dụng những kinh nghiệm xây dựng và quản lí nền kinh tế hiện đại vào nước ta.
Góp phần tích luỹ vốn phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước, đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu lên nước công nghiệp tiên tiến hiện đại.
Góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo ra nhiều công ăn việc làm, giảm tỉ lệ thất nghiệp, tăng thu nhập, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân theo mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Tất nhiên, những vai trò to lớn của kinh tế đối ngoại chỉ đạt được khi hoạt động kinh tế đối ngoại vượt qua được nhũng thách thức (mặt trái) của toàn cầu hoá và giữ đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.2.Những hình thức chủ yếu của kinh tế đối ngoại.
Kinh tế đối ngoại gồm nhiều hình thức: hợp tác sản xuất (nhận gia công xây dựng xí nghiệp chung, khu chế xuất, khu công nghệ, khu kĩ thuật cao); hợp tác khoa học – công nghệ (trong đó có hình thức đưa lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài); ngoại thương, hợp tác tín dụng quốc tế, các hoạt động dịch vụ như du lịch quốc tế, giao thông vận tải, thông tin liên lạc quốc tế, dịch vụ thu, đổi và chuyển giao ngoại tệ…; đầu tư quốc tế, v v…
Trong các hình thức kinh tế đối ngoại, ngoại thương, đầu tư quốc tế và dịch vụ thu ngoại tệ là những hình thức chủ yếu và có hiệu quả nhất và cần được coi trọng.
1.2.1. Ngoại thương.
Ngoại thương, hay còn gọi là thương mại quốc tế, là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các quốc gia thông qua xuất nhập khẩu.
Trong các hoạt động kinh tế đối ngoại, ngoại thương giữ vị trí trung tâm và có tác dụng to lớn: góp phần làm tăng sức mạnh tổng hợp, tăng tích luỹ của mỗi nước nhờ sử dụng có hiệu quả lợi thế so sánh giữa các quốc gia trong trao đổi quốc tế; là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; “điều tiết thừa thiếu” trong mỗi nước; nâng cao trình độ và cơ cấu ngành nghề trong nước. Tạo công ăn việc làm và nâng cao đời sống của người lao động nhất là các ngành trong xuất khẩu.
Nội dung cảu ngoại thương bao gồm: xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá, thuê nước ngoài gia công tái xuất khẩu, trong đó xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của hoạt động kinh tế đối ngoại
Mấy thập kỉ gần đây, dưới tác động của cách mạng khoa học công nghệ và xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá và thương mại quốc tế có những đặc điểm mới:
Tốc độ tăng trưởng của ngoại thương quốc tế tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc dân.
Tốc độ tăng trưởng ngoại thương hàng hoá “vô hình” có xu hướng tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng ngoại thương hàng hoá “hữu hình” .Điều đó bắt nguồn từ sự thay đổi cơ cấu kinh tế giữa các ngành sản xuất vật chất và ngành dịch vụ trong mỗi quốc gia và quốc tế.
Cơ cấu mặt hàng có sự biến đổi sâu sắc theo hướng: hàng hoá nhu cầu tầng 1 (nhu cầu về đời sống vật chất) giảm xuống và hàng hoá nhu cầu tầng 2 (nhu cầu về đời sống văn hoá tinh thần) tăng nhanh; tỷ trọng xuất khẩu hàng thô, nguyên liệu giảm xuống, còn hàng dầu mỏ khí đốt, sản phẩm công nghệ chế biến nhất là máy móc thiết bị lại tăng.
Phạm vi phương thức và công cụ cạnh tranh của thương mại quốc tế diễn ra rất đa dạng và phong phú, không chỉ về mặt chất lượng, giá cả, mà còn về điều kiện giao hàng, bao bì, mẫu mã, thời hạn thanh toán, các dịch vụ sau bán hàng. Phạm vi thị trường ngày một mở rộng không chỉ hàng hoá, dịch vụ thông thường mà còn mở rộng sang lĩnh vực tài chính, tiền tệ- lĩnh vực này càng đóng vai trò quan trọng trong quan hệ kinh tế quốc tế.
Chu kì sống của từng loại ngày càng rút ngắn lại. Các hàng hoá có hàm lượng khoa học công nghệ cao có sức mạnh cạnh tranh hơn so với các hàng hoá truyền thống.
Quá trình phát triển thương mại quốc tế đòi hỏi, một mặt phải tự do hoá thương mại, mặt khác phải thực hiện bảo hộ mậu dịch một cách hợp lí.
Cần nhấn mạnh rằng, muốn biến ngoại thương thành đòn bẩy có sức mạnh phát triển kinh tế quốc dân, cần phải nắm bắt được lợi thế so sánh.
1.2.2. Hợp tác trong lĩnh vực sản xuất.
Hợp tác trong lĩnh vực sản xuất bao gồm gia công, xây dựng xí nghiệp chung, chuyên môn hoá và hợp tác hoá sản xuất quốc tế…
1.2.2.1. Nhận gia công.
Do tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, các nước công nghiệp tiến hành cải tổ cơ cấu kinh tế quốc dân theo hướng tập trung ưu tiên những ngành có hàm lượng khoa học cao, chuyển những ngành có hàm lượng lao động và nguyên liệu cao sang các nước đang phát triển. Các ngành có hàm lượng lao động cao cũng thích hợp với các nước đang phát triển bởi vì chúng đòi hỏi ít vốn đầu tư, việc đào tạo công nhân cũng nhanh hơn việc đầu tư công nhân cho các ngành có hàm lượng khoa học cao. Dĩ nhiên chúng ta mong muốn và phấn đấu đi vào những ngành công nghệ tiên tiến. Song cần thấy rằng, muốn mở rộng việc nhận gia công cho nước ngoài phải chọn những gì thế giơí cần chứ không thể chọn những gì mà chủ quan chúng ta mong muốn.
1.2.2.2. Một hình thức phổ biến khác là xây dựng những xí nghiệp chung với sự hùn vốn và công nghệ của nước ngoài.
Xí nghiệp chung hay hỗn hợp là kiểu tổ chức xí nghiệp, thương nghiệp, dịch vụ và tổ chức tài chính – tín dụng …Hiện nay, những xí nghiệp loại này đang tồn tại một cách phổ biến ở nhiều nước. Về mặt pháp lí, xí nghiệp chung thường được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần với trách nhiệm hữu hạn tương ứng với số vốn đóng góp của các thành viên. Các xí nghiệp này thường được ưu tiên xây dựng ở những ngành kinh tế quốc dân hướng vào xuất khẩu và trở thành nguồn thu ngoại tệ chuyển đổi hay tạo điều kiện cho nhà nước tiết kiệm ngoại tệ
1.2.2.3. Hợp tác sản xuất quốc tế trên cơ sở chuyên môn hoá.
Hợp tác sản xuất quốc tế có thể diễn ra một cách tự giác theo những hiệp định hay hợp đồng giữa các bên tham gia, cũng có thể hình thành một cách tự phát do kết qủa cạnh tranh, do đầu tư và lập các chi nhánh của các công ty xuyên quốc gia tại các nước.
Chuyên môn hoá bao gồm chuyên môn hoá những ngành khác nhau và chuyên môn hoá trong cùng một ngành (chuyên môn hoá theo sản phẩm, theo bộ phận sản phẩm hay chi tiết và theo công nghệ) .Hình thức hợp tác này làm cho cơ cấu kinh tế ngành của các nước tham gia đan kết vào nhau, phụ thuộc lẫn nhau.
1.2.3. Hợp tác khoa học kĩ thuật.
Hợp tác khoa học kĩ thuật đựoc thực hiện dưới nhiều hình thức, như trao đổi những tài liệu – kĩ thuật và thiết bị, mua bán giấy phép, trao đổi kinh nghiệm, chuyển giao công nghệ, phối hợp nghiên cứu khoa học kỹ thuật, hợp tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và công nhân…
Đối với những nước lạc hậu về kỹ thuật, vốn chi cho nghiên cứu khoa học kĩ thuật còn ít, đội ngũ cán bộ khoa học còn chưa nhiều, phưong tiện vật chất còn thiếu thốn thì việc tham gia hợp tác khoa học kĩ thuật với nước ngoài là vo cùng quan trọng. Đó là một điều kiện thiết yếu để rút ngắn khoảng cách với các nước tiên tiến.
Việc đưa lao động và chuyên gia đi làm việc theo hợp đồng ở nước ngoài cũng là một hình thức hợp tác đào tạo cán bộ và công nhân.
1.2.4. Đầu tư quốc tế.
Đầu tư quốc tế là một hình thức cơ bản của kinh tế đối ngoại. Nó là quá trình trong đó hai hay nhiều bên cùng góp vốn để xây dựng và triển khai kột dự án đầu tư quốc tế nhằm một đích sinh lợi.
Có hai hình thức đầu tư quốc tế: đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.
+ Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tưmà quyền sở hữu và quyền sử dụng quản lí vốn của người đầu tư thống nhất với nhau, tức là người có vốn đầu tư trực tiếp tham gia vào việc tổ chức quản lí và điều hành dự án đầu tư, chịu trách nhiệm về kết quả, rủi ro trong kinh doanh và thu lợi nhuận.
Ngày nay, trong nền kinh tế thế giới, hình thức đầu tư trực tiếp vốn là hình thức chủ yếu của các nước phát triển có nền kinh tế phát triển va f có xu hướng ngày càng tăng. Đầu tư quốc tế được thực hiện dưới các hình thức:
Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng
Xí nghiệp liên doanh mà vốn do hai bên cùng góp theo tỷ lệ nhất định để hình thành xí nghiệp mới có hội đồng quản trị và ban điều hành chung.
Xí nghiệp 100% vốn nươcs ngoài.
-Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT). Hình thức này đòi hỏi cần có nguồn vốn của bên ngoài và thường đầu tư cho các công trình kết cấu hạ tầng.
Thông qua các hình thức trên mà các khu chế xuât, khu công nghiệp mới, khu công nghệ cao … được hình thành và phát triển.
+ Đầu tư gián tiếp là loại hình thức đầu tư mà quyền sở hữu tách rời quyền sử dụng vốn đầu tư, tức là người có vốn không trực tiếp tham gia vào tổ chức, điều hành dự án mà thu lợi dứơi hình thức lợi tức cho vay, hoặc lợi tức cổ phần, hoặc có thể không thu lợi trực tiếp.
Nguồn vốn đầu tư gián tiếp rất đa dạng về chủ thể và hình thức. Chủ thể đầu tư gián tiếp có thể là chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ, v v, với các hình thức như: Viện trợ có hoàn lại, viện trợ khồng hoàn lại, cho vay ưu đãi hoặc không ưu đãi; mua cổ phiếu và các chứng khoán theo mức quy định của từng nước.
1.2.5. Các hình thức dịch vụ thu ngoại tệ và du lịch quốc tế.
Các dịch vụ thu ngoại tệ là một bộ phận quan trọng của kinh tế đối ngoại. Xu thế hiện nay là tỷ trọng các hoạt động dich vu tăng lên so với các hàng hoá khác trên thị trường thế giới.
Du lịch quốc tế
Du lịch là nhu cầu khách quan, vốn có của con người. Kinh tế càng phát triển năng suất lao đọng càng cao thì nhu cầu du lịch – nhất là du lịch quốc tế càng tăng vì thu nhập con người tăng lên, thời gian nhàn rỗi, vá nghỉ ngơi cũng nhiều hơn .
Ngành kinh tế du lịch nẩy sinh trên cơ sở nhu cầu khách quan đó là một sản phẩm và là một bộ phận trong hệ thống phân công lao động xã hội. Đây là một ngành kinh doanh tổng hợp bao gồm các hoạt động tổ chức, hướng dẫn du lịch, sản xuất, trao đổi hàng hoá và dịch vụ nhằm đáp ứng các nhu cầu đi lại, ăn uống, nghỉ ngơi, lưu trú, tham quan , giải trí,… của du khâch.
Vận tải quốc tế
Đây là hình thức chuyên hàng hoá vá hành khách giữa hai nước hoặc nhiều nước.
Sự phát triển của vận tải quốc tế có tác dụng tăng nguồn thu ngoại tệ thông qua vận tải và tiết kiệm chi ngoại tệ do phải thuê vận chuyển khi nhập khẩu hàng hoá.
Vận tải quốc tế sử dụng các phương thức như: đường biển, đường sắt, đường bộ (ô tô) , đường hàng không… trong các phương thức đó, vận tải đường biển có vai trò quan trọng nhất.
Xuất khẩu lao động ra nước ngoài và tại chỗ
Hiện nay nhu cầu lao động ở các nước phát triển vẫn còn lớn do kinh tế phát triển, tỷ lệ tăng dân số ở các nước này có xu hướng giảm và nhất là do chuỷên dịch cơ cấu kinh tế bởi cách mạng khoa học công nghệ.
Các hoạt động dịch vụ thu ngoai tệ khác.
Như dịch vị thu bảo hiểm, dịch vụ thông tin bưu điện, dịch vụ kiều hối, dịch vụ ăn uống, dịch vụ tư vấn…
Do giá trị dân tộc và quốc tế không giống nhau, nên trong việc xuất khẩu có thể diễn ra các tình huống su đây: Một là, thu được lợi nhuận siêu ngạch trong xuất khẩu. Hai là, lỗ khi xuất khẩu, nhưng lãi ở nhập khẩu.
Cũng có thể thu chênh lệch giá dựa trên cơ sở vận dụng sự tách rời giữa giá cả và giá trị nhằm điều tiết phân phối thu nhập quốc dân, nhưng chỉ nên giới hạn ở những mặt hàng tiêu dùng cao cấp .,
Kinh nghiệm nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại của một số quốc gia trong khu vực.
Vào những năm 1980, thế giới đựơc chứng kiến sự thành công về kinh tế của một số quốc gia và vùng lãnh thổ khác ở Đông á và Đông Nam á như : Đài Loan, Xinhgapo, Macao, Thai Lan đựoc xem như những Con Rồng mới. Điểm chung sự thành công của những nước này có thể thấy ở một số phương diện sau:
Quyết tâm mở cửa nền kinh tế đất nước hướng vào cuộc cạnh tranh quốc tế dựa trên chính sách công nghiệp nhất quán và hiệu quả của Chính phủ. Chính sách công nghiệp mà các nước nàyđã thực hiện để hỗ trợ các doanh nghiệp có thể gói gọn lại với các nguyên tắc:
+ Chọn lọc ngành nghề;
+Tiêu điểm về nội dungl;
+Bảo hộ theo giai đoạn;
+Nâng đỡ gián tiếp hơn trực tiếp, từng phần hơn toàn bộ.
Chính phủ có chiến lược áp dụng các nỗ lực để thông thương thị trường trong nước với thị trường quốc tế, chủ yếu thông qua các quan hệ song phương và đa phương với các nước có vai trò quan trọng trên trường quốc tế, và xây dựng các định chế kinh tế của nước mình không phải với tư cách là để bảo hộ trong nước mà để tạo điều kiện hội nhập tích cực hai cjiều trong và ngoài nước
Xây dựng bộ máy quản lí nhà nước trong sạch và hiệu quả.
Đặc biệt nhấn mạnh các yếu tố văn hoá truyền thống của nước mình như một nền tảng để ổn định và phát triển toàn diện.
áp dụng triệt để tiến bộ của công nghệ,đặc biệt là tin học vào hoạt động tổ chức và quản lí kinh tế với hiệu quả và hiệu suất cao.
Tất cả cái đó hợp thành điều kiện tiên quyết để tạo dựng môi trường đầu tư và kinh doanh hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Hiện nay Xinhgapo trở thành một hải cảng hoạt động hiệu quả nhất thế giới nhờ việc áp dụng tổ chức mạng lưới (SNS) điều khiển và vận hành mậu dịch – bao gồm tinhọc hoá hệ thống khai báo hải quan, hệ thống tính thuế xuất, nhập khẩu, cung cấp thông tin và xử lí thủ tục kinh doanh: đơn giản hoá công khai hoá việc quản lí mậu dịch của Chính phủ. Thành viên của hệ thống này là giới thương nhân, nhân viên hải quan, uỷ ban phát triển mậu dich và một cơ quan chính phủ xử lí tài liệu, giấy phép, dịch vụ hành chính vơí các cơ quan của các nước khác.
Và đặc biệt ở Trung Quốc với mức tăng trưởng kinh tế trung bình hằng năm trên 9% được coi là “thần kì”. Hiện nay Trung Quốc sản xuất 46% thịt lợn của thế giới, 24% bông sợi, … Trung Quốc hiện đứng đầu thế giới về xuất khẩu rau khô, nấm chế biến, tỏi và quả đóng hộp. Trung Quốc hiện đứng đầu về xuất khẩu thuỷ sản vơí giá trị 4,5 tỉ USD. Có thể thấy rõ mậu dịch hàng nông sản của Trung Quốc đã tăng lên với tốc độ cao. Mặt khác ngành công nghiệp và dệt may xuất khẩu Trung quốc cũng phát triển một cách mạnh mẽ. Ngoại thương Trung Quốc sau khi phá kỉ lục 1 nghìn tỉ USD năm 2004, vẫn giữ xu hướng tăng tương đối nhanh trong năm 2005, đồng thời xuất hiện đặc trưng xuất khẩu cao, nhập khẩu thấp. Năm 2005, Xuất siêu mậu dịch Trung Quốc đạt mức khá cao, chỉ 9 tháng đầu năm, con số đã lên đến 68,33 tỉ USD, gấp đôi tổng mức 31,98 tỉ USD của năm 2004. Mức thặng dư thương mại khổng lồ này, chủ yếu do tăng trưởng xuất khẩu mạnh mẽ của các mặt hàng dệt may, các sản phẩm công nghiệp nhẹ, nông sản và các sản phẩm dầu mỏ.
Để đạt được những thành công trong hoạt động kinh tế đối ngoại, các nước đi sau có thể học hỏi rất nhiều kinh nghiệm của các nước đi trước. Những kinh nghiệm :
Có chính sách đảm bảo cho các nhà đầu tư nước ngoài về quyền sở hữu chắc chắn đối với tài sản vốn và lợi nhuận.
Đảm bảo khả năng tiếp cận tự do và không hạn chế về điều kiện tín dụng, thanh toán quốc tế, ngoịa hối và các giao dịch khác có liên quan đến hoạt động xuất khẩu.
Mở rộng hình thức mậu dịch tự do đối với các hoạt động cảu khu chế xuất.
Giảm thiểu tối đa sự phiền hà về thủ tục hành chính, cung ứng và dịch vụ công đầy đủ và hiệu quả cho hoạt động của doanh nghiệp xuất khẩu.
Cần có chính sách công nghiệp của Chính phủ.
Từ những phân tích trên, có thể coi những kinh nghiệm đó là những bài học xác đáng đối với Việt Nam trong hoạt động kinh tế đối ngoại của mình.
Chương II: Thực trạng kinh tế đối ngoại của Việt Nam hiện nay.
2.1. Thực trạng và những thành tựu đã đạt được trong kinh tế đối ngoại của Việt Nam.
Quan hệ quốc tế được mở rộng, các cam kết quốc tế được triển khai thực hiện tốt; đồng thời đã tiến hành ký kết nhiều hiệp định đa phương, song phương, tạo bước phát triển mới về kinh tế đối ngoại. Thị trường xuất khẩu được duy trì và mở rộng; tổng kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh (16,2%/năm), vượt kế hoạch đề ra; tổng kim ngạch xuất khẩu đã chiếm trên 50% GDP và đạt 370 USD/người. Nguồn vốn tài trợ phát triển chính thức (ODA) liên tục tăng qua các năm và nguồn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) tăng khá. Vay trả nợ nước ngoài được quản lý tốt. Bước đầu đã có một số dự án đầu tư ra nước ngoài.
Ngoaị thương.
Ngoại thương đã có những sự tăng trưởng vựot bậc:
+ Về xuất khẩu
Hoạt động xuất khẩu đã có bước phát triểm tốt, đáp ứng gần 80% nhu cầu nhập khẩu.Trong 13 năm qua, đặc biệt từ năm 1995 cơ cấu mặt hàng xuất khẩu có sự thay đổi lớn. Từ năm 1993 trở về trước, kim ngạch xuất khẩu cảu Việt Nam phụ thuộc vào hai mặt hàng xuất khẩu là gạo và dầu thô thì từ năm 1997 trở lại đây đã hình thành 15 mặt hàng xuất khẩu chủ lực với giá trị xuất khẩu chiếm xấp xỉ 80% tổng kim ngạch xuất khẩu. Chất lượng hàng xuất khẩu đã nâng lên đáng kể, bước đầu tạo bước cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường thế giới, đồng thười tác động tích cực tới chất lượng hàng hoá trong nước. Hiện nay gạo, dầu thô, thuỷ sản, hàng may mặc, giày dép, cà phê, hạt điều,…xuất khẩu ở Việt Nam đã từng bước được thừa nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng quốc tế.
Tổng kim ngạch năm 2005 ước đạt 32,233 triệu USD, cao nhất từ trước tơi nay. Bình quân 1 tháng đạt gần 2,69 tỷ USD, còn cao hơn mức đạt được trong cả năm của các năm từ 1992 trở về trước. Tỷ lệ kim ngạch XK so vơi GDP đạt trên 60%. Tốc độ tăng đạt 21,6%, vừa cao hơn tốc độ tăng 16% theo mục tiêu, vừa cao gấp 2,6 lần tốc độ tăng GDP. Tốc độ tăng 2 chữ số đạt được ở cả hai khu vực..
Tính chung 5 năm, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 109,1 tỷ USD, tăng trưởng bình quân 5 năm đạt 16,2% (đạt chỉ tiêu tăng trưởng 16% do Đại hội Đảng lần thứ IX đề ra). Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người năm 2005 đạt gần 370 USD.
Về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, nhìn chung các nhóm mặt hàng đều có tốc độ tăng trưởng khá. Tính bình quân 5 năm 2001- 2005, nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản tăng 12,7% và chiếm tỷ trọng 32,8% tổng kim ngạch xuất khẩu; nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp tăng 20,8%, chiếm tỷ trọng 40,2%; nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản tăng 14,6%, chiếm tỷ trọng 27%. Nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp có tốc độ tăng trưởng mạnh nhất, đã dần chiếm ưu thế trong tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu.
Đến năm 2005, ngoài dệt may và dầu thô có kim ngạch xuất khẩu đạt trên 5 tỷ USD còn có thêm 5 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD là thuỷ sản, giày dép, hàng điện tử, sản phẩm gỗ và gạo. Các mặt hàng gạo, cà phê tiếp tục duy trì vị trí thứ 2 thế giới, hạt tiêu đứng đầu thế giới, hạt điều đứng thứ 3 thế giới...
Đã bước đầu thực hiện được mục tiêu cải tiến cơ cấu xuất khẩu theo hướng tăng các mặt hàng chế biến, giảm tỷ trọng các sản phẩm thô, tạo một số mặt hàng có khối lượng lớn và thị trường tương đối ổn định. Chất lượng hàng xuất khẩu từng bước được nâng lên; năng lực cạnh tranh được cải thiện.
Xuất khẩu dịch vụ thời kỳ 2001-2005 dự kiến đạt 21,1 tỷ USD, tốc độ tăng bình quân 15,7%/năm, bằng khoảng 19% so với tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá, xấp xỉ mức bình quân của thế giới (bình quân của thế giới là 20%), trong đó, một số ngành dịch vụ xuất khẩu đạt khá như: hàng không, bưu chính viễn thông, hàng hải, tài chính - ngân hàng, du lịch.
Cơ cấu thị trường xuất khẩu có nhiều chuyển biến tích cực, giảm dần sự phụ thuộc vào khu vực thị trường Châu á, ổn định xuất khẩu vào thị trường Châu Âu, tăng nhanh xuất khẩu vào thị trường Châu Mỹ đặc biệt là thị trường Mỹ. Ngoài ra còn mở được nhiều thị trường mới có nhiều tiềm năng trong những năm tới.
+ Về nhập khẩu.
Cùng với chủ trương khuyến khích đẩy mạnh xuất khẩu, hoạt động nhập khẩu có vai trò hết sức quan trọng và nhà nước rất quan tâm nhằm vào mục tiêu cho phát triển sản xuất, thị trường nội địa phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước và nhanh chóng hội nhập vào thị trường quốc tế.
Nhập khẩu hàng hoá thời kỳ 2001- 2005 đạt 129,6 tỷ USD, tăng gần 2,1 lần so với tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá thời kỳ 1996-2000, tốc độ tăng bình quân 18,5%/năm. Nhập khẩu hàng hoá về cơ bản đã thực hiện được chủ trương nhập khẩu đảm bảo phục vụ có hiệu quả cho phát triển sản xuất và đổi mới công nghệ, thúc đẩy nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của hàng hoá, đáp ứng nhu cầu cần thiết của đời sống và xuất khẩu.
Về cơ cấu nhập khẩu, nhóm hàng nguyên, nhiên vật liệu chiếm tỷ trọng ưu thế, tốc độ tăng bình quân 5 năm đạt 17,9%, chiếm tỷ trọng 61,5% tổng kim ngạch nhập khẩu; nhóm hàng máy móc, thiết bị, phụ tùng: tốc độ tăng bình quân 5 năm là 19,6%, chiếm tỷ trọng 31,5%; nhóm hàng tiêu dùng có tốc độ tăng bình quân 5 năm là 18,9%, chiếm tỷ trọng 7,1%. Cơ cấu hàng hóa nhập khẩu chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng nhập khẩu máy móc, thiết bị và phụ tùng, giảm tỷ trọng nhập khẩu nguyên, nhiên vật liệu.
Nhập khẩu của khu vực doanh nghiệp trong nước chiếm tỷ trọng chi phối nhưng có xu hướng giảm dần, dự kiến năm 2005 chiếm 65%, toàn thời kỳ 2001-2005 chiếm 65,8%. Tỷ trọng của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài trong tổng kim ngạch nhập khẩu cả nước có xu hướng tăng dần, toàn thời kỳ 2001-2005 chiếm 34,2%.
Nhập siêu hàng hoá tuy ở mức khá cao, nhưng đã được kiềm chế và nằm trong tầm kiểm soát; cả thời kỳ 2001-2005 nhập siêu khoảng 20,5 tỷ USD, bằng 18,8% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá.
Tình trạng nhập siêu gia tăng xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó nổi bật là: nhóm hàng nguyên, nhiên vật liệu, máy móc, thiết bị phục vụ đầu tư xây dựng cơ bản và mở rộng năng lực sản xuất, phục vụ xuất khẩu tăng nhanh. Giá cả nhiều mặt hàng nhập khẩu chủ chốt trên thị trường thế giới tăng cao do giá dầu thô tăng nhanh. Một số đồng tiền mạnh như Euro, Yên Nhật đã tăng giá khá mạnh so với USD, làm cho chi phí nhập khẩu tính theo USD tăng lên. Nhu cầu mua sắm hàng hoá nhập khẩu để cải thiện cuộc sống của dân cư cũng tăng mạnh.
Nhập khẩu dịch vụ: Tổng kim ngạch nhập khẩu dịch vụ 5 năm 2001-2005 dự kiến đạt 21,2 tỷ USD, tăng bình quân 10,3%.
Trong hợp tác đầu tư vốn nước ngoài.
+ Đầu tư gián tiếp.
Bước vào kế hoạch 5 năm 2001 - 2005, do khó khăn kinh tế toàn cầu, nguồn ODA của thế giới có xu hướng giảm đáng kể. Tuy nhiên, nguồn ODA mà các nhà tài trợ cam kết dành cho Việt Nam vẫn liên tục tăng lên; điều này thể hiện sự đồng tình và ủng hộ của cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế đối với chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta.
Việc ký kết các điều ước quốc tế cụ thể về ODA trong 5 năm đã diễn ra thuận lợi; tổng giá trị các hiệp định đã được ký kết đạt khoảng 14,7 tỷ USD, trong đó vốn viện trợ không hoàn lại chiếm 15-20%. Tuy nhiên tỷ lệ giải ngân nguồn vốn này chưa cao, dự kiến trong 5 năm ước giải ngân nguồn vốn ODA khoảng 7,8 tỷ USD, đạt 87% so với kế hoạch đề ra.
Trong các chương trình, dự án ODA đã được ký kết có những dự án quốc gia mang ý nghĩa kinh tế - xã hội quan trọng đối với cả nước. Việc vận động nguồn ODA trực tiếp tập trung cho các vùng nghèo, có nhiều khó khăn cũng được cải thiện một bước so với trước đây. Giá trị ODA bình quân đầu người mà các vùng nghèo, khó khăn được thụ hưởng trực tiếp trong thời gian qua đã được cải thiện một phần. Nhiều công trình đầu tư bằng nguồn vốn ODA đã hoàn thành, đưa vào sử dụng góp phần tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống người dân, tăng cường công bằng xã hội.
+ Thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.
Trong bối cảnh tình hình quốc tế có nhiều khó khăn như dòng luân chuyển vốn bị hạn chế và phân tán bởi sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường thu hút vốn, nhưng do môi trường đầu tư tiếp tục được cải thiện thông qua việc sửa đổi, bổ sung các chính sách nên trong 5 năm 2001-2005 tổng vốn đăng ký vẫn đạt 17,9 tỷ USD, vượt 19,3% mục tiêu đề ra (mục tiêu là 15 tỷ USD). Tổng vốn thực hiện đạt 13,6 tỷ USD so với mục tiêu đề ra là 11 tỷ USD, tăng 12,5% so với thời kỳ trước.
Tỷ lệ đóng góp của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong GDP tăng dần qua các năm, năm 2005 bằng 15% GDP. Trong 5 năm qua, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm 17% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, giảm đáng kể so với con số 24% của thời kỳ trước; tổng doanh thu không kể dầu khí đạt 76,9 tỷ USD, gấp hơn 2,5 lần so với kỳ trước; giá trị xuất khẩu không kể dầu khí đạt 33,2 tỷ USD, gấp 3 lần so với kỳ trước và chiếm trên 30,9% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước; kim ngạch nhập khẩu đạt 43,3 tỷ USD, chiếm 34,2% tổng kim ngạch nhập khẩu; nộp ngân sách nhà nước khoảng 3,2 tỷ USD, gấp 2 lần so với thời kỳ trước và bằng 4,9% tổng thu ngân sách; thu hút khoảng 86 vạn lao động trực tiếp, tăng hơn 2 lần so với kỳ trước và số lao động gián tiếp ước tăng hơn 2 lần.
Riêng trong tháng 11, đã có 36 dự án tăng vốn, nâng tổng số lượt dự án tăng vốn đầu tư trong 11 tháng nên đến 439 dự án, với tổng số vốn đầu tư tăng là 1,68 tỷ USD. Trong tháng 11, cả nước cũng có thêm 43 dự án FDI được cấp phép với tổng vốn dăng kí 623,7 triệu USD.
+ Du lịch và du lịch quốc tế.
Đây là một hình thức kinh tế đối ngoại quan trọng , có vai trò to lớn trong nền kinh tế “ mở cửa”, đặc biệt có ý nghĩa khi đời sống kinh tế xã hội của các quốc gia ngày một nâng cao, là một thước đo để chỉ chất lượng cuộc sống con người và xã hội.
Du lịch Việt Nam trong mấy năm gần đây đã có sự khởi sắc: kể từ năm 2000, Việt Nam đã bứơc lên vị trí thứ năm trong bảng tổng két xếp hạng về sự thu hút khách quốc tế trong các nước thành viên ASEAN với hơn 2,13 triệu lượt người , xếp sau Malaixia, Thai Lan, Xinhgapo, Inđônêxia.
Năm 2005, Việt Nam đã đón hơn 3,4 triệu lượt khách du lịch quốc tế, tăng 18,4% so với năm ngoái, doanh thu của ngành du lịch lên tới 1,91 tỷ USD, cao hơn năm 2004 là 14% . Năm nay Việt Nam dự kiến sẽ đón khoảng từ 3,6 đến 3,8 triệu lượt du khách quốc tế, với doanh thu lên tới 2,28 tỷ USD.
2.2. Những hạn chế của hoạt động kinh tế đối ngoại ở Việt Nam.
Bên cạnh những thành tựu nêu trên, hoạt động kinh tế đối ngoại trong thời gian qua còn có những hạn chế sau đây:
a) Lĩnh vực xuất, nhập khẩu vẫn còn nhiều khó khăn và đối mặt với nhiều nguy cơ, thách thức:
Tỷ trọng xuất khẩu nhóm hàng nguyên liệu, khoáng sản, hàng nông, lâm, thuỷ sản còn lớn; hàng chế biến chủ yếu vẫn là hàng gia công như dệt may, giầy dép, hàng điện tử và linh kiện máy tính... Do đó, hiệu quả xuất khẩu (phần giá trị gia tăng thực thu về cho đất nước) còn thấp. Mặt khác, tăng trưởng xuất khẩu của nước ta không ổn định và phụ thuộc nhiều vào biến động giá cả trên thị trường thế giới. Các mặt hàng có giá trị xuất khẩu trên 1 tỷ USD chưa nhiều. Một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn trong tổn kim ngạch xuất khẩu như hàng dệt may giày dép nhưng chủ yếu là gia công, lượng ngoại tệ thu được thấp, chỉ khoảng 20%. Địa bàn xuất khẩu tập trung chủ yếu ở một số tỉnh, thành phố lớn (như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Hải Phòng, Đà Nẵng), còn các địa phương khác rất thấp. Vai trò của khối doanh nghiệp trong nước chưa được phát huy tương xứng với tiềm năng, đặc biệt là hiệu quả xuất khẩu của các doanh nghiệp nhà nước còn thấp.
Hàng xuất khẩu của Việt Nam vào các nước trung gian vẫn chiếm tỷ trọng cao, hiệu quả xuất khẩu thấp.Xét về tiêu chí cạnh tranh của sản phẩm như giá cả, chất lượng tổ chức tiêu thụ và thương hiệu của doanh nghiệp thì sức cạnh tranh của nước ta thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Khi gia nhập WTO, các hàng rào nhập khẩu các hàng hoá và đầu tư sẽ được hạ xuống hoặc bãi bỏ sẽ tạo sức cạnh tranh với sản xuất kinh doanh trong nước. Do vậy nếu không nâng sức cạnh tranh các doanh nghiệp, sản phẩm của chúng ta có nguy cơ mất ngay thị phần trong nước đối với nhiều sản phẩm và dịch vụ.
Tình trạng nhập siêu liên tục gia tăng với quy mô tuyệt đối. Sự yếu kém về xuất khẩu có nguyên nhân từ việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm, chúng ta chưa tạo được những ngành kinh tế chủ lực dựa trên các lợi thế so snáh, lợi thê cạnh tranh của đất nước.
b) Việc sử dụng ODA trong thời gian qua còn hạn chế, chậm trễ trong quá trình giải ngân, làm giảm hiệu quả sử dụng ODA.
Nguyên nhân của tình trạng giải ngân chậm có nhiều, trong đó chủ yếu là quy trình và thủ tục trong nước cũng như của các nhà tài trợ còn phức tạp, chậm trễ trong việc di dân tái định cư và giải phóng mặt bằng, công tác đấu thầu; năng lực quản lý và giám sát thực hiện dự án của các ban quản lý còn hạn chế và bất cập. Vốn đối ứng có nơi, có lúc bố trí chưa kịp thời.
Quy hoạch vận động và sử dụng ODA chưa được hoàn chỉnh để định hướng cho các cơ quan thụ hưởng chủ động thu hút và sử dụng nguồn lực này.
Năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý dự án nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu do thiếu về số lượng, phần lớn làm kiêm nhiệm và yếu về chất lượng, thiếu tính chuyên nghiệp.
c) Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đăng ký mới và tăng vốn tuy có tăng, nhưng vẫn còn dưới mức tiềm năng.
Vốn đầu tư thực hiện tuy tăng qua các năm nhưng tỷ trọng vốn đầu tư nước ngoài trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội lại có xu hướng giảm dần do tốc độ tăng trưởng thấp hơn mức tăng vốn đầu tư trong nước. Tỷ trọng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội giảm từ 24% trong thời kỳ 1996-2000 xuống còn khoảng 17% trong thời kỳ 2001-2005. Việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp còn hạn chế, mặc dù đã có những chính sách ưu đãi nhất định, do nhiều nguyên nhân (là lĩnh vực có nhiều rủi ro vì thiên tai, phương thức hợp tác với người nông dân chưa hợp lý, quy hoạch vùng nguyên liệu chưa hợp lý và đầy đủ, các nhà đầu tư nước ngoài có xu hướng đầu tư vào địa bàn có hạ tầng cơ sở tốt và thị trường đầy đủ và thuận lợi). Hệ thống chính sách và pháp luật thiếu đồng bộ và chưa hoàn chỉnh gây tác động tâm lý cho nhà đầu tư nước ngoài. Chưa thực sự hình thành được một “sân chơi bình đẳng” giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Trong một số lĩnh vực sản xuất còn áp dụng các biện pháp hạn chế đầu tư trực tiếp nước ngoài (xi măng, sắt thép, điện). Liên kết giữa khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với doanh nghiệp trong nước chưa chặt chẽ. Cụ thể như việc cung cấp nguyên liệu, phụ tùng của các doanh nghiệp trong nước cho các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài còn hạn chế, làm giảm khả năng tham gia vào chương trình nội địa hoá và xuất khẩu tại chỗ thông qua các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Công tác quy hoạch ngành, vùng lãnh thổ chưa được cải cách cơ bản nhằm xác định lượng vốn đầu tư cần huy động của các ngành và trách nhiệm của các Bộ, ngành và địa phương trong công tác thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Công tác quản lý thực hiện sau cấp phép chưa tốt. Tỷ lệ dự án đổ bể, phải giải thể trước thời hạn khá cao, một số dự án quy mô lớn chậm triển khai, vốn đầu tư đã được cấp phép nhưng chưa thực hiện còn lớn.
Chương III: Mục tiêu, phương hướng, nguyên tắc cơ bản và giải pháp nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả KtĐN ở Việt Nam.
3.1. Mục tiêu.
Đối với nước ta, việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại phải nhằm từng bước thực hiện mục tiêu dân giàu,nước mạnh xã hội công bằng dân chủvà văn minh theo định hứơng xã hội chủ nghĩa. Trong thời gian trước mắt việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Mục tiêu đó phải được quán triệt đối với mọi ngành mọi cấp trong hoạt động kinh tế đối ngoại cũng như được quán triệt trong mọi lĩnh vực của kinh tế đối ngoại.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ kiến thức quản lí để mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
a) Xuất khẩu:
Mục tiêu là phát triển xuất khẩu với tốc độ tăng trưởng cao và bền vững, làm động lực thúc đẩy tăng trưởng GDP. Đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế cạnh tranh đồng thời tích cực phát triển các mặt hàng khác có tiềm năng thành những mặt hàng xuất khẩu chủ lực mới, theo hướng nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng có giá trị gia tăng cao; tăng sản phẩm chế biến và chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần tỷ trọng hàng thô. Phấn đấu đưa tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá đạt 59-64 tỷ USD vào năm 2010, và khoảng 232-248 tỷ USD cả thời kỳ 2006-2010, tốc độ tăng trưởng bình quân là 14-16%/năm.
b) Nhập khẩu
Mục tiêu là kiềm chế được nhập siêu, phấn đấu tiến tới cân bằng hợp lý cán cân xuất - nhập khẩu. Ưu tiên nhập khẩu vật tư, thiết bị và công nghệ tiên tiến; giữ thế chủ động trong nhập khẩu, tập trung vào nhập thiết bị hiện đại từ các nước có công nghệ nguồn; giảm nhanh và tiến tới hạn chế nhập thiết bị công nghệ lạc hậu hoặc công nghệ trung gian; hạn chế nhập khẩu hàng hóa vật tư thiết bị cũng như hàng tiêu dùng trong nước có thể sản xuất và đáp ứng được.
3.2. Phương hướng.
Xuất phát từ quna điểm của Đảng: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”, phương hướng cơ bản nhằm phát triển kinh tế đối ngoại :
Đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế với mọi quốc gia, mọi tổ chức kinh tế không phân biệt chế độ chính trị trên nguyên tắc tôn trọng độc lập,chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi. Củng cố và tăng cường vị trí của Việt Nam ở các thị trường quen thường và với bạn hàng truyền thống, tích cực thâm nhập, tạo chỗ đứng ở các thi trường mới, phát triển các quan hệ mưói dưới mọi hình thức.
Kinh tế đối ngoại là một trong các công cụ kinh tế đảm bảo cho việcthực hiện mục tiêu kinh tế – xã hội đề ra cho từng giai đoạn lịch sử cụ thể và phục vụ đắc lực mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,thưc hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chủ động tạo những điều kiện để hội nhập có hiệu quả vào nền kinh tế thế giới; phát huy ý chí tự lực, tự cường; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, dựa vào nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài.
3.3. Nguyên tắc cơ bản.
Bình đẳng.
Đây là nguyên tắc có ý nghĩa quan trọng làm nền tảng cho việc thiết lập và lựa chọn đối tác trong quan hệ kinh tế quốc tế giữa các nước. Nguyên tắc này xuất phát từ yêu cầu phải coi mỗi quốc gia trong cộng đồng quốc tế là một quốc gia độc lập có chủ quyền. Nó cũng bắt nguồn từ yêu cầu của sự hình thành và phát triển của thị trường quốc tế mà mỗi quốc gia là thành viên. Với tư cách là thành viên, mỗi quốc gia phải đảm bảo có quyền tự do kinh doanh, quyền tự chủ như mọi quốc gia khác. Nói cách khác đảm bảo tư cách pháp nhân của mỗi quốc gia trước luật pháp quốc tế và cộng đồng quốc tế.
Kiên trì đấu tranh để thực hiện nguyên tắc này là nhiệm vụ chung của mọi quốc gia, nhất là các nước đang phát triển khi thực hiện mở cửa và hội nhập ở thế bất lợi so với các nước phát triển.
Cùng có lợi.
Nguyên tắc này giữ vai trò là nền tảng kinh tế để thiết lập và mở rộng quan hệ kinh tế giữa các nứơc với nhau.
Cơ sở khách quan của nguyên tắc này bắt nguồn từ yêu cầu phải thực hiện đúng các quy luật kinh tế của thị trường diễn ra trên phạm vi quốc tế mà mỗi nước có lợi ích kinh tế dân tộc khác nhau. Trong nền kinh tế thi trường thế giới, nguyên tắc bình đẳng giữa các quốc gia sẽ là hình thức nếu quốc gia đó tham dự không cùng có lợi ích kinh tế. Vì trong trường hợp đó, quan hệ kinh tế giữa các nước đó sẽ đi ra ngoài yêu cầu của quy luật giá trị – quy luật dựa trên nguyên tắc ngang giá của kinh tế thi trường trong cộng đồng quốc tế.
Tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của mỗi quốc gia.
Nguyên tắc này đòi hỏi mỗi bên trong hai bên hoặc nhiều bên phải thực hiện đúng các yêu cầu:
Tôn trọng các điều khoản đã được kí kết trong các nghị định giữa các chính phủ và trong các hợp đồng kinh tế giữa các chủ thể kinh tế với nhau.
Không được đưa ra những điều kiện làm tổn hại đến lợi ích của nhau.
Không được dùng các thủ đoạn có tính chất can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia có quan hệ nhất là dùng thủ đoạn kinh tế, kĩ thuật và kích động để can thiệp vào đường lối, thể chế chính trị của quốc gia đó.
Giữ vững độc lập, chủ quyền dân tộc và củng cố định hướng xã hội chủ nghĩa đã chọn.
Đây là nguyên tắc vừa mang tính chất chung cho tất cả các nước khi thiết lập và thực hiện quan hệ kinh tế đối ngoại, vừa là nguyên tắc có tính đặc thù đối với các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có nước ta. Trong quan hệ kinh tế quốc tế giữa các nước không đơn thuần phải xử lí tốt mối quan hệ về lợi ích kinh tế và mà còn phải xử lí tốt mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế và lợi ích chính trị.
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại ở Việt Nam.
Để thực hiện mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại cần thực hiện đồng bộ hàng loạt các giải pháp trong đó có các giải pháp chủ yếu sau đây:
Đảm bảo sự ổn định về môi trường chính trị, kinh tế xã hội.
Môi trường chính trị, kinh tế – xã hội là nhân tố cơ bản, có tính quyết định đối với hoạt động kinh tế đối ngoại, đặc biệt là đối với việc thu hút đầu tư nước ngoài – hình thức chủ yếu quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại. Kinh nghiệm thực tiễn đã chỉ ra rằng, nếu sự ổn định kinh tế chính trị không được đảm bảo, môi trường kinh tế không thuận lợi, thiếu các chính sách khuyến khích, môi trường xã hội thiếu tính an toàn… sẽ tác động xấu tới quan hệ hợp tác kinh tế, trên hết là đối với việc thu hút đầu tư nước ngoài, bởi sẽ tác động gián tiếp hoặc trực tiếp đối với tỷ suất lợi nhuận của đối tác.
Có chính sách thích hợp đối với từng hình thức kinh tế đối ngoại.
Đây là giải pháp quan trọng nhằm phát triển đa dạng có hiệu quả kinh tế đối ngoại. Việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại đòi hỏi :
Một mặt phải mở rộng các hình thức kinh tế đối ngoại, mặt khác phải sử dụng linh hoạt phù hợp với điều kiện cụ thể. Đặc biệt là phải sử dụng chính sách thích hợp đối với mỗi hình thức kinh tế đối ngoại.Như trong xuất khẩu để đạt đựơc những mục tiêu như trên đòi hỏi phải có giải pháp đồng bộ như:
Cần có chính sách toàn diện, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất khẩu, xoá bỏ các rào cản về thủ tục hành chính, kinh doanh, tạo điều kiện thông thoáng cho doanh nghiệp, nhất là trong việc tiếp cận nguồn vốn, xây dựng quỹ bảo hiểm xuất khẩu hàng hoá, quỹ xúc tiến thương mại
Xây dựng hệ thống pháp luật ổn định, nhất quán nhằm tăng tính hấp dẫn của môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam đặc biệt trong quá trình trước và sau khi Việt Nam gia nhập WTO.
Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế, theo hướng phát huy lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh. Xây dựng chiến lược xuất khẩu hướng vào những ngành công nghệ cao, có giá trị gia tăng cao.
Giảm nhanh đầu vào của các sản phẩm có tính độc quyền như viễn thông, điện.. giảm chi phí trung gian đồng thời phát triển nhanh các ngành công nghiệp phụ trợ, công nghiệp chế biến.
Đẩy mạnh xúc tiến thương mại ở các cấp chính phủ cho các loại hình doanh nghiệp, xây dựng các loại hình doanh nghiệp, xây dựng các tổ chức xúc tiến có hiệu quả ở các thị trường trọng điểm nhất là Mỹ, EU, Nhật bản, các nước ASEAN, chú trọng các thị trường truyền thống và các thị trường mới.
Tăng cường vai trò các hiệp hội ngành hàng và hoàn thiện quản lí nhà nước trong lĩnh vực xuất khẩu theo hướng phù hợp với các cam kết và mở cửa thị trường của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Khuyến khích sử dụng thiết bị hàng hoá sản xuất trong nước, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu tiến tới cân bẵng xuất khẩu. Thực hiện chính sách bảo hộ có lựa chọn có thời hạn. Chủ động thâm nhập thị trường quốc tế, chú trọng thị trường các trung tâm kinh tế thế giới, mở rộng thị trường quen thuộc, tranh thủ mọi cơ hội mở thị trường mới. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, tăng sức hấp dẫn nhất là đối với các công ty xuyên quốc gia. Khuyến khích doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài và các chính sách hỗ trợ công dân Việt Nam kinh doanh ở nước ngoài.
Xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật.
Kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế nói chung, kinh tế đối ngoại nói riêng. Trong điều kiện nền kinh tế tri thức đang hình thành và từng bứơcphát triển, kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội càng đóng vai trò quan trọng và yêu cầu chất lượng ngày càng cao. Trong đó đặc biệt là kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật mà trước hết là hệ thống thông tin liên lạc, giao thông vận tải.
Đối với nước ta, bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong lĩnh vực bưu chính viễn thông thì trong lĩnh vực giao thông vận tải mặc dù đang có nhiều cố gắng, song vẫn còn quá lạc hậu so với các nước trong khu vực, trong khi vốn đầu tư còn nhiều hạn chế. Do vậy phải có chiến lược đầu tư đúng nhất là đầu tư tập trung có trọng điểm, dứt điểm và có hiệu quả cao, đặc biệt phải kiên quyết chống các hiện tượng tiêu cực gây thất thoát vốn đầu tư.
Tăng cường vai trò quản lý nhà nước đối với kinh tế đối ngoại.
Vai trò quan trọng về quản lí kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường đã được khẳng định. Đối với lĩnh vực kinh tế đối ngoại do tính chất đặc biệt của nó vai trò đó lại càng quan trọng hơn bao giờ hết. Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn những năm vừa qua đã khẳng định rằng nếu thiếu sự quản lí của nhà nước, kinh tế đối ngoại sẽ không thể mở rộng và mang lại hiệu quả, thậm chí còn dẫn đến hiệu quả khó lường không chỉ về kinh tế mà còn nguy hại hơn là hậu quả về chính trị, bởi vì mối quan hệ kinh tếvà chính trị là mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau nhất là trong điều kiện diễn biến hoà bình đang là một nguy cơ. Do vậy phải:
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lí kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Để phát huy có hiệu quả vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước ta thích ứng với yêu cầu của hội nhập, cần phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa nhà nước, thị trường và doanh nghiệp. Trong mối quan hệ này, trước hết Nhà nước phải thúc đẩy thị trường phát triển theo đúng quy luật vốn có của nó, và tiếp đến thực sự là “người bảo vệ” cho các doanh nghiệp họat động trong một sân chơi bình đẳng, minh bạch. Muốn thực hiện được điều đó, đòi hỏi nhà nước không ngừng được củng cố và hoàn thiện chính mình để thực sự trở thành một nhà nước có năng lực, có tiềm lực. Nhà nước có năng lực được thể hiện Nhà nước đó có khả năng hoạch định các chiến lược phát triển, có cơ chế chính sách thích hợp với quốc gia và phù hợp với quốc tế nhằm thu hút tốt các nguồn ngoại lực và huy động có hiệu quả các nguồn nội lực cho sự phát triển. Nhà nước có tiềm lực là nhà nước phải có thực lực về tài chính. Tài chính phải thực sự trở thành công cụ quản lí vĩ mô của nhà nước. Nhà nước sử dụng nó để điều tiết phân phối có hiệu quả các nguồn lực trong xã hội nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng và chất lượng giải quyết các vấn đề đang đặt trong xã hội.
Đẩy mạnh việc cải cách hệ thống doanh nghiệp Nhà nước theo hướng thu hẹp diện doanh nghiệp Nhà nước nắm giữ 100% vốn hoặc giữ phần vốn chi phối, đưa các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Cần xúc tiến hình thành và hỗ trợ phát triển một số tập đoàn kinh doanh theo nguyên tắc thị trường, kết hợp nhiều hình thức sở hữu,bảo đảm sức cạnh tranh trong điều kiện hội nhập.
- Tiếp tục mở những lớp đào tạo ngắn hạn bằng những nguồn kinh phí khác nhau về hội nhập kinh tế quốc tế cho lãnh đạo các Bộ, Ngành, địa phương để thống nhất và nhận thức đầy đủ về Hội nhập kinh tế quốc tế.
Xây dựng đối tác và tìm kiếm đối tác trong quan hệ kinh tế đối ngoại.
Trong hoạt động kinh tế đối ngoại, đối tác trở thành vấn đề rất cơ bản, có tính quyết định với hiệu quả kinh tế đối ngoại.
Do hình thức kinh tế đối ngoại rất đa dạng nên đối tác cũng hết sức đa dạng. Cũng vì thế vừa xây dựng đối tác và tìm kiếm đối tác trở thành vấn đề phức tạp cần được xử lí linh hoạt.
Đối với việc xây dựng các đối tác mạnh có tầm cỡ quốc tế đóng vai trò đầu tầu trong quan hệ. Trong nền kinh tế thị trường doanh nghiệp vẫn là những chủ thể chủ yếu trực tiếp hoạt động kinh tế đối ngoại nên cần phải xúc tiến xây dựng một số doanh nghiệp nhà nước thành các tập đoàn xuyên quốc gia.
Đối với đối tác nước ngoài: việc lựa chọn đối tác thích hợp luôn là vấn đề quan trọng đối với bên Việt Nam. Song trong tương lai và về lâu dài cần quan tâm hơn đối với các công ty xuyên quốc gia vì đó là nguồn quốc tế về vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lí mà chúng ta cần khai thác. Tuy nhiên viêc khai thác được họ hoàn toàn không phải là vấn đề đơn giản, đòi hỏi phải có chiến lược, sách lựoc đúng đắn trên cơ sở cùng có lợi.
III. kết thúc vấn đề.
Toàn cầu hoá mang lại những cơ hội mới cho việc mở rộng lượng và chất của hoạt động kinh tế đối ngoại, mở rộng thị trường , truyền bá khoa học công nghệ và kỹ năng quản lí tiên tiến. Đến lượt chúng, các yếu tố này lại, hứa hẹn năng suất lao động và một mức sống cao hơn cho nhân dân. Lần đầu tiên trong lịch sử, Việt Nam có quan hệ bình thường với tất cả các nước và trung tâm kinh tế – chính trị lớn trên thế giới. Ngày 28/7/1995, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của hiệp hội các nước Đông Nam á. Và cũng trong thang 7/1995, Việt Nam và liên minh Châu âu đã kí hiệp định chung về hợp tác kinh tế thương mại và khoa học kỹ thuật và bình thường hoá quan hệ ngoai giao với Mỹ. Việt Nam cũng đã nộp đơn xin gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế APEC và tổ chức thương mại thế giới (WTO). Đến cuối năm 1996, Việt Nam có quan hệ kinh tệ thương mại chính thức với trên 120 nước, kim ngạch ngoại thương gia tăng nhanh chóng. Nhiều nước và tổ chức quốc tế đã dành cho Việt Nam viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay để đầu tư phát triển kinh tế xã hội.
Đời sống nhân dân được cải thiện. Giáo dục y tế được củng cố và tăng cường. Đời sống vật chất và tinh thần của phần lớn nhân dân được cải thiện. Số hộ thu nhập trung bình và số hộ giàu tăng lên, số hộ nghèo giảm.
Tuy nhiên, toàn cầu hoá cũng chứa đựng những yếu tố bất ổn định và những thay đổi không mong muốn đối với nhiều nước .Vì vậy đối với Việt Nam cần phải có những giải pháp để hạn chế những yếu tố bất lợi để mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Tài liệu tham khảo
Thời báo kinh tế Việt Nam – kinh tế 2005 – 2006.
Tạp chí kinh tế đối ngoại – Số 14 (11/ 2005)
Tạp chí kinh tế đối ngoại – Số 7 (3 /2004)
Tạp chí kinh tế và phát triển.
Giáo trình kinh tế chính trị Mac – Lênin.
Kinh tế đối ngoại trong bối cảnh toàn cầu hoá ( Sách tham khảo)
Kinh tế đối ngoại có sự quản lí của nhà nước.
www.mofa.gov.vn.
www.tap chi thuong mai.htm.
www.thời báo kinh tế việt nam.htm
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35790.doc