Tỷ lệ số dự án được giám sát đánh giá tăng trong giai đoạn 2003-2004, 2005-2006 và giảm giai đoạn 2004-2005. Năm 2004 tỷ lệ số dự án này cao nhất (60,53%) là năm công tác giám sát, đánh giá dự án thực hiện tốt nhất trong cả nước. Năm 2005, việc thực hiện nhiệm vụ này giảm sút mạnh, chỉ còn 45,78%. Năm này công tác thực hiện kém nghiêm túc nhất trong toàn giai đoạn 2003-2006. Sang năm 2006, công tác này được chấn chỉnh, do đó số dự án được giám sát, đánh giá đã tăng lên.
+Số dự án vi phạm đầu tư tăng lên với tốc độ rất nhanh, cùng với sự tăng lên của số dự án thực hiện đầu tư. Năm 2003 mới chỉ có 1,4% số dự án thực hiện đầu tư vi phạm thủ tục đầu tư. Các năm sau, số dự án vi phạm tăng cả về tuyệt đối lẫn tương đối. Từ năm 2005, tốc độ tăng số dự án vi phạm thủ tục đầu tư có chiều hướng giảm đi mặc dù vẫn tăng do có sự chỉ đạo sát sao của Thủ tướng Chính phủ trong công tác giám sát và đánh giá dự án đầu tư. Trong số các nguyên nhân gây ra vi phạm thủ tục đầu tư, các nguyên nhân như không phù hợp với quy hoạch được duyệt, không đúng thẩm quyền và ký hợp đồng không đúng quy định trong năm 2003 không có hiện tượng này xảy ra, tuy nhiên sang các năm sau đều phát sinh. Nguyên nhân chậm tiến độ vẫn là nguyên nhân cơ bản chính. Tỷ lệ chậm tiến độ chỉ giảm giai đoạn 2003-2004 (về mặt tương đối) mặc dù vẫn tăng (về mặt tuyệt đối).Các năm khác tỷ lệ này đều tăng (cả về tuyệt đối lẫn tương đối)
69 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1320 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao chất lượng công tác giám sát, đánh giá dự án đầu tư tại Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g thể các vùng kinh tế chưa được điều chỉnh kịp thời.
3.2.Chống dàn trải trong đầu tư phát triển sử dụng vốn Nhà nước
Năm 2005, tổng vốn đầu tư của khối địa phương tăng 32% so với năm 2004, nhưng số dự án bố trí chỉ tăng 8% hạn chế tối đa những công trình khởi công mới, đây là một cố gắng trong việc bố trí phân bổ vốn của các địa phương.
Theo số liệu báo cáo từ 85 đơn vị, số các dự án quyết định đầu tư trong kỳ là 8250 (khoảng 33,2% tổng số dự án đang thực hiện đầu tư), số dự án dự kiến kết thúc đầu tư trong năm 2005 là 10185 (khoảng 41%) trong đó các dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước là 5155 dự án. Quy mô vốn đầu tư bố trí cho một dự án cao hơn năm 2004, bình quân 1 dự án do Trung ương quản lý là 6,8 tỷ đồng (năm 2004 là 6,04 tỷ đồng), trong đó các dự án nhóm A là 91,4 tỷ đồng/dự án ; nhóm B là 7,25 tỷ đồng/dự án (năm 2004 là 1,1 tỷ đồng) ; ở các địa phương bố trí vốn bình quân 1 dự án cũng cao hơn so với năm 2004, bình quân chung là 3,15 tỷ đồng/dự án (năm 2004 là 2,34 tỷ đồng), trong đó: dự án nhóm A là 88,9 tỷ đồng/dự án (năm 2004 là 65,73 tỷ đồng) ; dự án nhóm B là 6,51 tỷ đồng/dự án (năm 2004 là 5,65 tỷ đồng) ; dự án nhóm C là 1,86 tỷ đồng/dự án (năm 2004 là 1,41 tỷ đồng).
Số liệu báo cáo từ 90 đơn vị, số dự án được quyết định đầu tư trong năm 2006 là 9963 dự án (khoảng 36,4% tổng số các dự án đang thực hiện đầu tư) ; số dự án dự kiến kết thúc đầu tư, đưa vào hoạt động trong năm 2006 là 9754 dự án (khoảng 35,7%). Như vậy, tình hình bố trí kế hoạch đầu tư đã tập trung hơn năm 2005. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số địa phương chưa bố trí đủ vốn cho các công trình, dự án triển khai xây dựng nên tình trạng dàn trải, nợ đọng vẫn tồn tại ở các địa phương như tỉnh KonTum, Sơn La, Hải Dương
Việc chấp hành các thủ tục đầu tư và xây dựng ngày càng được thực hiện tốt hơn, năm sau tốt hơn năm trước, hầu hết các dự án bố trí đều có quyết định đầu tư và các thủ tục đầu tư khác theo quy định của luật pháp về quản lý đầu tư và xây dựng.
3.3.Chống thất thoát, lãng phí trong đầu tư
Ta có bảng số liệu sau đây về tình hình thất thoát, lãng phí trong đầu tư giai đoạn 2003-2006 như sau
Bảng 8 : Tổng hợp số dự án thất thoát lãng phí giai đoạn 2003-2006
Năm
Số dự án có
thất thoát, lãng phí
2003
2004
2005
2006
26
6
28
8
Nguồn : Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư - Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Qua bảng trên thấy được:
- Số dự án thất thoát lãng phí lớn nhất trong năm 2005 (do năm này số dự án thực hiện đầu tư cũng tăng mạnh) và thấp nhất trong năm 2004.
- Dự án thất thoát lãng phí có xu hướng được kiểm soát chặt chẽ hơn từ sau năm 2005 (khi đột biến tăng cao vào năm này), là do:
Các Bộ, ngành, địa phương đã rà soát, soạn thảo bổ sung một số cơ chế phù hợp như Quyết định, Chỉ thị, Thông tư nhằm ngăn chặn tình trạng thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng theo thẩm quyền và trách nhiệm quản lý Nhà nước của đơn vị mình.
Chế định trách nhiệm và xử lý trách nhiệm cá nhân trong từng khâu của quá trình đầu tư đã được bổ sung và quy định rõ rang hơn trong các văn bản pháp quy về đầu tư và xây dựng. Những sai phạm trong quản lý đầu tư và xây dựng được đánh giá công bằng, khách quan qua công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát. Cơ chế trách nhiệm cá nhân được quy định trong các điều khoản của pháp luật và xử lý nghiêm minh, triêt để tuỳ theo mức độ, bằng biện pháp hành chính, hình sự và bồi hoàn thiệt hại vật chất.
Trong thời gian qua, việc thành lập và hoàn thiện hệ thống thanh tra đầu tư đã được tiến hành nhanh chóng, kịp thời trên phạm vi cả nước nhằm tạo nên một mạng lưới đồng bộ, hoạt động bước đầu có hiệu quả. Mặc dù mới được thành lập, lực lượng cán bộ kinh nghiệm chuyên môn còn thiếu và yếu nhưng đã nhanh chóng khắc phục khó khăn, tích cực triển khai hoạt động, nhất là việc thực hiện thanh tra, kiểm tra đầu tư và xây dựng.
Tuy nhiên, qua thanh tra và kiểm tra các dự án đầu tư, tình trạng thất thoát, lãng phí trong đầu tư và xây dựng vẫn còn rất bức xúc. Nhiều vụ việc tiêu cực trong lĩnh vực quản lý đầu tư và xây dựng đã được thanh tra, kiểm tra và có những kết luận cụ thể. Một số vụ việc tiêu cực trong ngành dầu khí, giao thông vận tải về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản và kinh doanh dịch vụ đã làm thiệt hại cho nhà nước hàng nghìn tỷ đồng ; những vụ việc “rút ruột công trình” một số công trình xây dựng, không đảm bảo chất lượng ở nhiều nơi trong cả nước được phát hiện ngày càng nhiều.
3.4.Xử lý nợ khối lượng đầu tư xây dựng cơ bản bằng nguồn vốn ngân sách
Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ đã chỉ đạo các biện pháp cụ thể và kiên quyết việc xử lý nợ xây dựng cơ bản theo hướng: ngay từ năm 2005, dành một phần quan trọng vốn đầu tư để thanh toán nợ tồn đọng và kiên quyết hạn chế việc phát sinh nợ mới do triển khai gối đầu các công trình mới.
Chấp hành và quán triệt tinh thần chỉ đạo trên, các địa phương đã có cố gắng dành một phần vốn của kế hoạch năm 2005 và tiếp tục bố trí vốn năm 2006 để thanh toán một phần nợ xây dựng cơ bản của các năm trước. Số vốn đã cân đối để thanh toán nợ khối lượng xây dựng cơ bản từ năm 2003 trở về trước là 3828 tỷ đồng ; chiếm gần 9% so với tổng vốn Trung ương giao cho 64 tỉnh, thành phố để thanh toán nợ khối lượng xây dựng cơ bản từ 2004 trở về trước và trả nợ vay kho bạc. Một số địa phương có khối lượng nợ đọng xây dựng cơ bản lớn, đến nay đã cố gắng giải quyết như: Yên Bái, UBND tỉnh An Giang bố trí 100 tỷ đồng năm 2006 để thanh toán một phần nợ xây dựng cơ bản.
3.5.Rà soát, đánh giá hệ thống các văn bản pháp luật về đầu tư
Chính phủ đã tiến hành chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương tiến hành khẩn trương việc tổng rà soát các văn bản pháp quy liên quan đến lĩnh vực quản lý đầu tư và xây dựng, gồm có:
Tổng rà soát các văn bản pháp quy, Quốc hội đã thông qua Luật đầu tư 2005, Luật Đấu thầu, Luật Doanh nghiệp đang hoàn thiện và sớm trình Chính phủ ban hành các Nghị định hướng dẫn thực hiện các Luật vừa được Quốc hội ban hành nêu trên, đặc biệt là Nghị định về quản lý đầu tư các dự án sử dụng vốn nhà nước.
Rà soát văn bản pháp quy liên quan tới cải cách hành chính, tăng cường công tác phân cấp quản lý theo tinh thần Nghị quyết 08/2004/NQ-CP ngày 30/6/2004 của Chính phủ
Chính phủ đã ban hành Quyết định về quy chế giám sát đầu tư của cộng đồng quy định rõ về quyền, trách nhiệm của cộng đồng và tổ chức hoạt động giám sát của cộng đồng trong việc quản lý dự án đầu tư, nhất là huy động các đoàn thể quần chúng và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Ngoài ra, một số Bộ, ngành và địa phương qua công tác rà soát đánh giá các văn bản pháp quy đã tiếp tục bổ sung, hoàn chỉnh hoặc ban hành những văn bản pháp quy mới để tăng cường quản lý đầu tư và xây dựng có hiệu quả hơn. Điển hình như, UBND tỉnh Nghệ An trong năm qua đã ban hành 9 văn bản trong quản lý đầu tư và xây dựng, trong đó có 5 văn bản về khuyến khích đầu tư, 4 văn bản về chấn chỉnh quản lý đầu tư và xây dựng. Tỉnh Thừa Thiên Huế đã có Quyết định số 4552/2004/QĐ-UB về việc quy định tạm thời phân công, phân cấp giải quyết một số vấn đề trong quản lý đầu tư và xây dựng
Tuy nhiên, vấn đề nổi bật hiện nay là sự chồng chéo giữa các văn bản pháp quy, trong đó có Nghị định 26/2005/NĐ-CP ngày 07/02/2005 (NĐ 16/CP) về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình. Nghị định 16/CP hướng dẫn thi hành Luật Xây dựng đã đề cập đến nhiều nội dung quản lý xây dựng các công trình từ khâu lập dự án đến khâu hoàn thành đưa công trình vào sử dụng.
Nghị định 16/CP còn bộc lộ những bất cập, nhưng chưa được sửa đổi bổ sung kịp thời, gây khó khăn vướng mắc trong thực tế làm cho công tác giải ngân bị chậm, nhất là trong việc yêu cầu thẩm định thiết kế cơ sở, như quy định về nội dung thiết kế cơ sở áp dụng chung cho tất cả các dự án, cho nên không phù hợp với các loại dự án ODA, dự án của các thành phần kinh tế khác (không dung vốn ngân sách nhà nước). Thủ tục thẩm định còn rườm rà, chưa làm rõ thẩm quyền quyết định cuối cùng dự án thuộc về cơ quan thẩm định thiết kế cơ sở hay cơ quan có thẩm quyền quyết định đầu tư dự án. Trong thời gian tới, khi ban hành các Nghị định mới hướng dẫn thực hiện Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, những chồng chéo và bất cập nêu trên cần phải được cơ bản khắc phục.
4. Đánh giá công tác giám sát, đánh giá dự án đầu tư giai đoạn 2003-2006 của Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư - Bộ Kế hoạch và Đầu tư
4.1.Kết quả đạt được
Đã triển khai thực hiện công tác giám sát đánh giá đầu tư các dự án nhóm A theo quy định tại Nghị định 07/CP và Thông tư hướng dẫn của Bộ ; đôn đốc các Bộ, ngành, địa phương các chủ đầu tư dự án nhóm A thực hiện báo cáo, tổ chức thực hiện giám sát các dự án Bước đầu đã hình thành quy trình thực hiện giám sát, đánh giá dự án và giám sát tổng thể đầu tư, giám sát chuyên đề một số loại dự án.
Thực hiện một số các báo cáo chuyên đề như giám sát các dự án giao thông đường bộ. đường Hồ Chí Minh ; tham gia với các Bộ quản lý ngành thực hiện một số chương trình giám sát đầu tư chuyên đề khác như các dự án thuỷ lợi, các dự án giáo dục, lâm nghiệp
Thực hiện giám sát một số dự án nhóm A kết hợp với việc xem xét điều chỉnh dự án. Trên cơ sở báo cáo của các Bộ, ngành, địa phương và các an quản lý, Vụ đã theo dõi, xem xét tình hình thực hiện nhiều dự án nhóm A để báo cáo Thủ tướng Chính phủ chấp thuận cho phép điều chỉnh dự án. Đã phối hợp với các Bộ, ngành liên quan cùng chủ đầu tư và ban quản lý dự án thực hiện giám sát đầu tư nhiều chương trình dự án thuộc các ngành và các địa phương như: giao thông, thuỷ lợi, nông nghiệp, kết cấu hạ tầng và dịch vụ đô thị, y tế, giáo dục. Đã thực hiện giám sát nhiều dự án quan trọng như: dự án giao thông (đường Hồ Chí Minh, các dự án Nam Sông Hậu ; cầu Cần Thơ, cải tạo nâng cấp các đường tỉnh lộ 18 tỉnh phía bắc), nhiều dự án quan trọng trong lĩnh vực y tế, giáo dục (dự án Y tế nông thông, dự án sản xuất văcxin sởi, dự án phát triển giáo viên tiểu học ), các dự án phát triển và kinh doanh cơ sở kỹ thuật hạ tầng khu công nghiệp, khu đô thị, các công trình công nghiệp, công trình văn hoá xã hội quan trọng khác (các dự án cụ thể đã được nêu trong báo cáo của từng chuyên viên).Qua giám sát đầu tư đã nêu ý kiến về những tồn tại, thiếu sót trong công tác quản lý dự án, đánh giá các vấn đề phát sinh và đề xuất các biện pháp khắ phục khó khăn, trở ngại đẩy mạnh tiến độ thực hiện đầu tư. Nhiều trong số các dự án đã thực hiện giám sát nói trên đã có báo cáo Thủ tướng Chính phủ phản ánh kịp thời tình hình kiến nghị các giải pháp xử lý cụ thể để đảm bảo điều kiện thực hiện tốt dự án.
Thực hiện giám sát tổng thể tình hình đầu tư trong cả nước và thực hiện giám sát một số dự án nhóm A, trong đó có những dự án quan trọng quốc gia. Báo cáo định kỳ giám sát tổng thể đầu tư được quan tâm chỉ đạo thực hiện theo quy định.
Việc thực hiện giám sát đầu tư đã đạt được kết quả bước đầu, cả giám sát tổng thể cũng như giám sát dự án. Kết quả giám sát tổng thể đã góp phần phản ánh, cung cấp thêm thông tin tình hình quản lý đầu tư của các bộ, ngành, địa phương làm cơ sở để tìm kiếm giải pháp chấn chỉnh kịp thời. Kết quả giám sát đầu tư đã được phản ánh trong các báo cáo quan trọng của Bộ trình Chính phủ và Quốc hội. Nhiều dự án nhóm A sau khi thực hiện giám sát, đánh giá đã phát hiện những vấn đề cần xử lý, đề xuất các biện pháp tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy tiến độ nhằm đảm bảo hiệu quả đầu tư. ngoài ra, Vụ đã tham gia cùng với các đơn vị trong Bộ, các bộ, ngành liên quant ham gia các hoạt động giám sát, thanh tra một số dự án theo yêu cầu của Chính phủ.
4.2.Những tồn tại, hạn chế
Mặc dù có nhiều cố gắng song công tác giám sát và đánh giá dự án đầu tư chỉ mới bắt đầu được tiến hành thực hiện một cách chính thức (bao gồm cả báo cáo đánh giá tổng thể lẫn báo cáo dự án đầu tư) từ năm 2004. Do vậy, Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư vẫn còn thiếu sót trong công tác giám sát đánh giá:
Công tác giám sát, đánh giá đầu tư còn nhiều hạn chế ; Sự quản lý, theo dõi của lãnh đạo Vụ chưa thường xuyên, chưa kiểm tra đôn đốc tích cực thúc đẩy công việc nên số lượng dự án và các chuyên đề giám sát thực hiện được ít.
Tổ chức thông tin trong Vụ chưa tốt, chưa hoàn thành được công việc xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ công tác thẩm định và giám sát đầu tư, tổ chức kiểm tra điều hành công việc trong Vụ
Tuy xác định nhiệm vụ giám sát, đánh giá đầu tư là công tác trọng tâm, nhưng chưa tập trung vào việc thực hiện công tác này nên kết quả còn hạn chế: nội dung báo cáo giám sát tổng thể chưa sâu, chưa cụ thể ; chưa chủ động trong việc tổ chức giám sát các dự án nhóm A (chưa xây dựng được kế hoạch và cơ sở dữ liệu về các dự án cần theo dõi, giám sát) ; số lượng dự án Nhóm A được giám sát còn ít.
Việc triển khai công tác giám sát, đánh giá đầu tư còn lung túng, kết quả thực hiện chưa nhiều ; còn có một số trường hợp thực hiện công việc chậm chưa đáp ứng yêu cầu.
Số lượng các đơn vị tiến hành nộp báo cáo còn chưa đầy đủ và thiếu nghiêm túc. Ngoài ra, chất lượng báo cáo nộp còn thiếu chính xác, chất lượng thấp không phản ánh đầy đủ.
Số đơn vị báo cáo đầy đủ nội dung theo quy định còn ít, Báo cáo giám sát đánh giá đầu tư của một số Bộ, địa phương có chất lượng và nội dung cụ thể không nhiều. Nội dung báo cáo sơ sài, thiếu số liệu và phân tích đánh giá tình hình, thiếu đề xuất các biện pháp, nên hiệu quả thực tế của công tác giám sát, đánh giá đầu tư chưa đạt được yêu cầu đề ra. Chất lượng các báo cáo chưa đạt yêu cầu là do công tác giám sát, đánh giá đầu tư triển khai tại các đơn vị nêu trên chưa được quán triệt đầy đủ ; báo cáo của các chủ đầu tư dự án mang tính hình thức, thiếu các thông tin chi tiết, nên báo cáo tổng hợp của các Bộ, ngành cũng không có số liệu cụ thể. Tình hình trên đã hạn chế việc phân tích đánh giá tình hình đầu tư chung trong cả nước và không đạt được mục tiêu giám sát, đánh giá đầu tư ; công tác giám sát, đánh giá chưa đạt được kết quả mong đợi, cần có giải pháp đột phá và tiếp tục được chấn chỉnh mạnh mẽ hơn.
Việc tham gia xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách về quản lý đầu tư đã có nhiều cố gắng nhưng vẫn còn lúng túng trong việc tổ chức thực hiện, tranh thủ ý kiến của lãnh đạo và chuyên gia ; chưa tập trung nghiên cứu và thúc đẩy tiến độ.
Có một số nguyên nhân của tình trạng trên, cụ thể là:
Về khách quan:
+ Thực tế, khối lượng công việc thẩm định, thẩm tra dự án không giảm, các cán bộ, chuyên viên phải thực hiện theo yêu cầu thời gian thẩm định, do đó quỹ thời gian dành cho công tác giám sát, đánh giá đầu tư bị hạn chế nên chưa thực hiện tốt nhiệm vụ này. Đồng thời, quy trình làm việc chung trong Bộ liên quan đến công tác giám sát đầu tư chưa được hoàn thiện và ban hành chính thức, do đó sự phân công phối hợp chưa rõ ràng giữa các đơn vị trong Bộ
+Phối hợp giữa các Bộ, ngành chưa tốt, nhiều yêu cầu triển khai công tác giám sát chưa được sự quan tâm của các bộ, ngành và chủ đầu tư ; còn sự chồng chéo và chưa thống nhất trong hoạt động này giữa các bộ, nên hiệu quả giám sát chưa cao. Thiếu chế tài đủ mạnh để các bộ, ngành và địa phương thực hiện đầy đủ và nghiêm túc công tác giám sát, đánh giá đầu tư
+ Báo cáo của các bộ, ngành, địa phương chưa đáp ứng yêu cầu về thời gian và nội dung báo cáo.
+ Năng lực và kinh nghiệm của Vụ còn hạn chế.
Về chủ quan:
+ Chỉ đạo, lãnh đạo chưa cân đối giữa nhiệm vụ thẩm định và giám sát đánh giá đầu tư
+ Chuyên viên chưa thực hiện đúng kế hoạch công tác về giám sát đầu tư ; một số cán bộ, chuyên viên thiếu theo dõi liên tục, chưa theo dõi sát tiến độ thực hiện đầu tư, chưa nghiên cứu kỹ các báo cáo của chủ đầu tư hay của ngành.
+ Chưa tổ chức tổng kết, rút kinh nghiệm về công tác giám sát, đánh giá đầu tư để bổ túc nghiệp vụ cho các cán bộ, khắc phục kịp thời các thiếu sót, đẩy mạnh công tác này.
Chương II: Kiến nghị, giải pháp nâng cao chất lượng công tác giám sát, đánh giá đầu tư tại Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư - Bộ Kế hoạch và Đầu tư
I. Bối cảnh công tác giám sát, đánh giá đầu tư của Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư trong những năm sắp tới
Trong những năm sắp tới, hoạt động chính của Vụ có những điểm khác và mới mẻ hơn sau đây: - Đại hội Đảng lần thứ 10 đã có chủ trương, đường lối, chính sách đổi mới phát triển kinh tế và về cơ chế quản lý kinh tế. Đây là những điều kiện thuận lợi nhưng đồng thời cũng là những yêu cầu mới cần được nhận thức đầy đủ và vận dụng trong công việc cụ thể của Vụ.
- Các luật mới liên quan đến hoạt động đầu tư (Luật Doanh nghiệp, Luật đầu tư, Luật đấu thầu) có những thay đổi nhất định trong quản lý đầu tư ảnh hưởng trực tiếp đến công tác thẩm định và giám sát đầu tư (thực hiện triệt để phân cấp quản lý đầu tư, tăng cường công tác hướng dẫn, kiểm tra, giám sát). Đồng thời năm 2007 Chính phủ và Quốc hội sẽ tiếp tục chỉ đạo đẩy mạnh thực hiện công tác giám sát đàu tư ; nhiệm vụ giám sát, đánh giá đầu tư nặng nề hơn.
- Trình độ chuyên môn và kinh nghiệm công tác đã được nâng cao một ước song lực lượng cán bộ của Vụ giảm nhiều chưa được bổ sung theo yêu cầu nhiệm vụ.
- Việc phân cấp thẩm định ngày càng mạnh mẽ cho các bộ, ngành liên quan, cũng như các địa phương.
- Hoạt động của Vụ có nhiều điểm mới, thay đổi đáng kể so với năm 2006 trở về trước. Từ năm 2007, Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư sẽ chỉ tiến hành nhận hồ sơ và thẩm định các dự án sau:
Dự án quan trọng cấp quốc gia
Các chương trình mục tiêu quốc gia
Các dự án đầu tư ra nước ngoài
Các dự án thuộc chiến lược quy hoạch dài hạn
Ngoài ra Vụ vẫn tiến hành nhiệm vụ giám sát đầu tư của mình. Các dự án ODA, dự án đầu tư trong nước nhóm A được phân cấp cho các Bộ, ngành, địa phương. Vụ chỉ tiến hành giám sát và quản lý hoạt động đầu tư có tính định hướng, không trực tiếp can thiệp vào các dự án này.
- Ngoài ra, Vụ hoạt động dựa trên tinh thần có nhiều Nghị định và Luật mới được Quốc hội và Chính phủ ban hành như:
Nghị định 16 và Nghị định 12 NĐ-CP về quản lý dự án đầu tư xây dựng
Nghị định 131 về quản lý hỗ trợ chính thức ODA (mới có hiệu lực từ tháng 12/2006)
Nghị định 108 về hướng dẫn luật đầu tư
Nghị định 111 về quản lý đấu thầu.
II.Kiến nghị và giải pháp nâng cao chất lượng công tác giám sát đánh giá dự án tại Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư - Bộ Kế hoạch và Đầu tư
1. Định hướng chung trong cả nước về công tác giám sát, đánh giá dự án đầu tư
a. Định hướng chung đầu tư trong cả nước thời kỳ 2006-2010
-Tiếp tục tập trung đầu tư nhằm chuyển đổi mạnh cơ cấu sản xuất theo hướng hiệu quả, phát huy được lợi thế từng ngành, từng vùng, từng sản phẩm ; tăng cường trang thiết bị có công nghệ tiên tiến, hiện đại hoá từng phần các ngành sản xuất công nghiệp, trước hết tập trung các ngành và sản phẩm công nghiệp có lợi thế cạnh tranh.
- Tăng cường đầu tư phát triển nguồn nhân lực: hoàn thiện, nâng cấp và tăng cường đầu tư thiết bị dạy và học hệ thống giáo dục phổ thông ; từng bước hiện đại hoá hệ thống giáo dục đại học, cao đẳng. Tăng cường đầu tư chiều sâu và hiện đại hoá các cơ sở nghiên cứu khoa học, công nghệ.
- Chú trọng đầu tư cho hậ tầng các ngành kinh tế, xã hội, tập trung lĩnh vực giao thông, viễn thông, phát triển nguồn năng lượng, hệ thống thuỷ lợi đầu mối, phát triển cơ sở hạ tầng nông thông, gắn đầu tư mở rộng sản xuất nông nghiệp đồng bộ hoá với phát triển công nghiệp chế biến. Đầu tư phát triển hạ tầng du lịch gắn với tôn tạo di tích cách mạng, di tích lịch sử, văn hoá ; đầu tư bảo vệ môi trường sinh thái, giảm nhẹ thiên tai, phát triển hạ tầng đô thị.
- Tổ chức thực hiện có hiệu quả, theo đúng tiến độ các dự án, công trình quan trọng quốc gia đã được Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư và các dự án đã được phê duyệt, các chương trình mục tiêu quốc gia. Việc thực hiện các dự án, công trình, chương trình quan trọng phải nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đã đề ra trong kế hoạch 5 năm 2006-2010 ; tập trung vào các mục tiêu tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giảm nghèo, tạo việc làm, phát triển giáo dục, đào tạo, dạy nghề, phòng chống dịch bệnh và chăm sóc sức khoẻ nhân dân.
b. Định hướng chung cả nước về công tác giám sát, đánh giá đầu tư
Trong tình hình hiện nay, khi đất nước ta đã trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới WTO, vấn đề cạnh tranh đặt ra bức xúc hơn lúc nào hết. Để có thể vững chắc gia nhập vào nền kinh tế thế giới, một mặt cần thúc đẩy phát triển kinh tế, mặt khác để những cố gắng trên thực sự trở thành thành quả kinh tế của đất nước Việt Nam, việc giám sát các dự án đầu tư rất quan trọng. Qua công tác giám sát có thể tiến hành đánh giá để từ đó rút ra bài học kinh nghiệm về sau.
Mặc dù kinh nghiệm về giám sát, đánh giá dự án đầu tư của nước ta còn nhiều hạn chế song hiện nay nước ta đã từng bước thiết lập cơ chế giám sát đánh giá như Nghị định 131 về quản lý các dự án ODA, thông tư 03/2003 hướng dẫn công tác giám sát, đánh giá đầu tư. Mục tiêu trong quá trình phân cấp quản lý hiện nay là ngày càng cho các đơn vị đầu tư tự chủ, Nhà nước chỉ tiến hành quản lý ở tầm vĩ mô. Đây là định hướng rất chiến lược trong giai đoạn hiện nay khi nền kinh tế mở cửa. Nó cho thấy rõ khả năng được độc lập tự chủ đầu tư của các thành phần kinh tế trong khuôn khổ luật pháp Nhà nước định ra, đồng thời việc phân cấp quản lý cũng ràng buộc chặt chẽ trách nhiệm của các đơn vị thực hiện giám sát, đánh giá đầu tư. Định hướng của nước ta trong giai đoạn tới đối với công tác giám sát, đánh giá đầu tư có những điểm nổi bật sau đây:
Công tác giám sát, đánh giá đầu tư phải nhằm mục tiêu đảm bảo các dự án đầu tư được giám sát một cách chặt chẽ, đảm bảo đầu tư phải phù hợp quy hoạch và mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của từng thời kỳ.
Công tác giám sát, đánh giá đầu tư phải đảm bảo giúp các cơ quan quản lý Nhà nước phân tích, đánh giá các hoạt động đầu tư để từ đó rút kinh nghiệm, đề xuất được các giải pháp, chính sách cũng như biện pháp thích hợp trong từng thời kỳ để nâng cao hiệu quả đầu tư.
Công tác giám sát, đánh giá đầu tư một mặt giúp các ngành, các địa phương và chủ đầu tư chuẩn bị và thực hiện dự án đầu tư theo đúng quy định, có hiệu quả, mặt khác giúp đỡ giải quyết những vấn đề khó khăn, vướng mắc và hạn chế những sai lầm, lãng phí, thất thoát trong đầu tư.
Nhà nước quản lý toàn diện đầu tư bằng cách tạo ra khung khổ pháp lý, định ra các tiêu chuẩn, tiêu chí đầu tư và tổ chức hướng dẫn thực hiện, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát toàn bộ các khâu của quá trình đầu tư. Ban hành các quy định pháp lý và tổ chức thực hiện tốt các chế tài đối với các vi phạm của các tổ chức, cá nhân trong quản lý đầu tư xây dựng, bao gồm cả việc xử lý hình sự, nhằm ngăn chặn và khắc phục tình trạng tiêu cực, thất thoát lãng phí, tham nhũng trong đầu tư xây dựng cơ bản.
c.Nhiệm vụ chủ yếu của công tác giám sát, đánh giá đầu tư tại Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư trong thời kỳ tới
Xây dựng kế hoạch hoạt động theo từng lĩnh vực công tác, trong đó xác định rõ phạm vi và trách nhiệm trong từng công việc cụ thể để tổ chức thực hiện đầy đủ nội dung và trách nhiệm của từng cán bộ, chuyên viên ; Hoàn thành đúng tiến độ xây dựng các đề án công tác được Bộ giao, đặc biệt là việc xây dựng Luật đầu tư công ; Tham gia đào tạo hệ thống cán bộ thẩm định và giám sát đầu tư theo kế hoạch của Bộ.
Hoàn thiện quy trình mẫu thực công tác thẩm tra, thẩm định, giám sát đầu tư theo yêu cầu quy định (có tiêu chí, tiêu chuẩn, mẫu hoá các loại văn bản, báo cáo)
Thực hiện đúng quy trình, tăng cường công tác quản lý tiến độ (chỉ đạo theo dõi, kiểm tra, đôn đốc), chủ động phối hợp chặt chẽ với các đơn vị trong và ngoài cơ quan để đẩy nhanh tiến độ thẩm định dự án, quy hoạch.
Tăng cường hợp tác, phối hợp với các cơ quan đơn vị trong và ngoài cơ quan, trao đổi, rút kinh nghiệm trong các lĩnh vực nghiệp vụ để rút ngắn thời gian và nâng cao chất lượng công tác.
Tích cực chủ động triển khai công tác giám sát đầu tư trên tất cả các mặt:
Tiếp tục hoàn thiện Cơ sở dữ liệu về các dự án đầu tư cần theo dõi, giám sát (thiết lập phần mềm quản lý và thu thập thông tin) ; xây dựng mạng thông tin về công tác giám sát, đánh giá đầu tư.
Phân công trách nhiệm rõ ràng cho cán bộ, chuyên viên về theo dõi, giám sát các cán bộ, chuyên viên về theo dõi, giám sát các dự án đầu tư
Lập kế hoạch và tổ chức thực hiện công tác giám sát đầu tư thường xuyên (giám sát các dự án nhóm A) và chế độ báo cáo định kỳ theo quy định ; đưa công tác giám sát đầu tư đi vào nền nếp.
Tổ chức nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm với các Bộ, ngành, địa phương về giám sát, đánh giá đầu tư ; Phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng cán bộ về công tác giám sát đầu tư.
Đề xuất trình lãnh đạo Bộ và triển khai đề án giám sát tổng thể đầu tư toàn quốc và một vài ngành điểm
2.Tăng cường phân cấp trong quản lý đầu tư
Cần tiếp tục đẩy mạnh tăng cường phân cấp trong quản lý hoạt động đầu tư cho các cấp, các ngành sao cho phù hợp với yêu cầu về cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, đơn giản hoá các thủ tục đầu tư. Công tác giám sát, đánh giá đầu tư không thể chỉ một bộ phận cơ quan Nhà nước thực hiện (do không đủ khả năng cũng như không đủ thời gian) mà cần phải chia sẻ cho các cấp, các ngành. Đi đôi với việc phân cấp trong quản lý đầu tư, cần xác định rõ trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân, ban hành chế tài đủ mạnh nhằm nâng cao trách nhiệm của các chủ thể tham gia vào quá trình hoạt động đầu tư.
3.Nhóm kiến nghị giải pháp về hệ thống thực hiện giám sát, đánh giá đầu tư
3.1.Tổ chức hệ thống giám sát, đánh giá chặt chẽ từ cấp Trung ương xuống địa phương
Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư là đơn vị làm đầu mối thực hiện các nhiệm vụ về giám sát, đánh giá đầu tư của Bộ, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương và chủ đầu tư, cung cấp các thông tin, hướng dẫn nghiệp vụ và xử lý các vấn đề về giám sát, đánh giá đầu tư.
Các Bộ, ngành chỉ định đơn vị (Vụ hoặc Ban kế hoạch) chịu trách nhiệm thường xuyên về giám sát, đánh giá đầu tư của Bộ, ngành ; hướng dẫn thực hiện giám sát, đánh giá đầu tư đối với các đơn vị trực thuộc, các dự án được Bộ, ngành phân cấp hoặc uỷ quyền cho cấp dưới.
Các Tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương do Sở Kế hoạch và Đầu tư chịu trách nhiệm thường xuyên thực hiện các nhiệm vụ về giám sát, đánh giá đầu tư của tỉnh, thành phố ; hướng dẫn thực hiện giám sát, đánh giá đầu tư đối với các cấp, đơn vị trực thuộc, các dự án được Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố phân cấp hoặc uỷ quyền cho cấp dưới.
Doanh nghiệp, Chủ đầu tư, Ban quản lý dự án chỉ định bộ phận chịu trách nhiệm thường xuyên thực hiện các nhiệm vụ về giám sát, đánh giá đầu tư đối với các dự án thuộc phạm vi quản lý của mình.
* Giám sát của cộng đồng
Bên cạnh việc giám sát thường xuyên, trực tiếp của các cơ quan quản lý nhà nước, chủ các chương trình, các dự án đầu tư (kể cả dự án của tư nhân) sau khi quyết định đầu tư phải công bố công khai nội dung quyết định đầu tư, chương trình kế hoạch đầu tư (tên dự án, quy mô xây dựng, phạm vi chiếm đất, vốn đầu tư, nguồn vốn, chủ đầu tư, tiến độ thực hiện ) tại địa điểm thực hiện đầu tư, trụ sở Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân địa phương nơi có dự án, đồng thời thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng.
Chủ đầu tư có trách nhiệm báo cáo với Hội đồng nhân dân địa phương các cấp về các nội dung cơ bản của dự án để Hội đồng nhân dân và nhân dan địa phương giám sát. Dự án của các ngành, cơ quan trung ương phải thông báo cho Hội đồng nhân dân cấp tỉnh nơi có dự án ; Dự án của các ngành và cơ quan cấp tỉnh phải thông báo cho Hội đồng nhân dân cấp huyện nơi có dự án ; Dự án của các ngành và cơ quan cấp huyện phải thông báo cho Hội đồng nhân dân cấp xã nơi có dự án để Hội đồng nhân dân các cấp tổ chức giám sát. Dự án do xã làm chủ đầu tư phải công khai trong cộng đồng nhân dân xã đó.
Nhà nước phải khuyến khích cộng đồng dân cư tham gia giám sát việc thực hiện dự án theo quyết định đầu tư và các quy định của Nhà nước, góp phần làm cho việc thực hiện dự án đúng quy định, tiết kiệm, có hiệu quả.
Giám sát của cộng đồng dân cư thông qua các tổ chức xã hội, đoàn thể quần chúng và Hội đồng nhân dân các cấp, Hội đồng nhân dân các cấp, các tổ chức xã hội có thể gửi ý kiến về dự án đến cơ quan được giao là đầu mối tổ chức thực hiện giám sát, đánh giá đầu tư các cấp. Dự án do cấp nào quản lý thì ý kiến giám sát cộng đồng được gửi về cơ quan đầu mối giám sát đầu tư cấp ấy.
Mặt khác, các cơ quan tiếp nhận ý kiến phải có trách nhiệm xem xét, kiến nghị xử lý những vấn đề phát sinh và thông báo các kết luận tới nơi gửi ý kiến đóng góp.
3.2.Ban hành các quy định về giám sát, đánh giá đầu tư
a) Quy định về chế độ báo cáo giám sát, đánh giá đầu tư
Để có báo cáo giám sát đánh giá đầu tư có chất lượng, phản ánh đúng tình hình thực tế thì Nhà nước cần có quy định chung về chế độ báo cáo giám sát, đánh giá đầu tư, cụ thể là:
Các Bộ, ngành, địa phương định kỳ báo cáo Thủ tướng Chính phủ về giám sát, đánh giá tổng thể đầu tư 6 tháng một lần, đồng thời gửi đến Bộ Kế hoạch đầu tư để tổng hợp. Các đơn vị trực thuộc Bộ, ngành, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện chế độ báo cáo thường xuyên theo quy định của các Bộ, ngành và địa phương.
Chủ đầu tư thực hiện báo cáo quý, 6 tháng và năm cho cơ quan đầu mối thực hiện giám sát, đánh giá đầu tư của Bộ, ngành, tỉnh chủ quản của mình ; chủ đầu tư dự án của các Bộ, ngành đồng thời gửi báo cáo cho cơ quan đầu mối thực hiện giám sát, đánh giá đầu tư của địa phương nơi thực hiện dự án.
Riêng chủ đầu tư dự án nhóm A ngoài việc lập và gửi báo cáo giám sát, đánh giá đầu tư dự án đến cơ quan đầu mối thực hiện giám sát, đánh giá đầu tư của các Bộ, ngành và địa phương, đồng thời gửi đến Bộ Kế hoạch và Đầu tư báo cáo quý, 6 tháng, năm để tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
Đối với các dự án hoàn thành đưa vào hoạt động, chủ đầu tư phải lập báo cáo đánh giá kết thúc quá trình đầu tư không chậm hơn 6 tháng kể từ khi hoàn thành đưa dự án vào khai thác, sử dụng theo nội dung quy định và gửi đến các cơ quan thực hiện giám sát, đánh giá đầu tư của các Bộ, ngành và địa phương trực thuộc và Bộ Kế hoạch và Đầu tư (đối với dự án nhóm A).
Các chủ đầu tư chịu trách nhiệm báo cáo đánh giá quá trình khai thác, vận hành dự án theo nội dung quy dịnh gửi đến các cơ quan thực hiện giám sát, đánh giá đầu tư của các Bộ, ngành và địa phương trực thuộc và đồng thời gửi đến Bộ Kế hoạch và Đầu tư (đối với dự án nhóm A).
Ban quản lý dự án thực hiện báo cáo giám sát, đánh giá đầu tư dự án do mình quản lý theo quy định của chủ đầu tư.
b) Quy định về văn bản quy phạm pháp luật có liên quan tới hoạt động giám sát, đánh giá đầu tư
Kiến nghị đề ra về nhiều mặt, chủ yếu để tạo một khung cơ bản cho hoạt động giám sát, đánh giá đầu tư:
Về tổ chức thực hiện: Những cơ quan không gửi Báo cáo giám sát đánh giá hoặc gửi Báo cáo giám sát đánh giá nhưng không đầy đủ, thiếu khách quan trong các năm qua phải kiểm điểm, báo cáo Thủ tướng chính phủ về nguyên nhân cũng như trách nhiệm của các đơn vị, cá nhân liên quan ; Có giải pháp chấn chỉnh bộ máy và quy trình thực hiện công tác giám sát, đánh giá đầu tư trong phạm vi quản lý của mình ; thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo định kỳ và nội dung báo cáo theo quy định.
Về chế tài thực hiện: Bổ sung chế tài đủ mạnh để các đơn vị giám sát, đánh giá đầu tư phải chấp hành nghiêm túc theo hương:
Chống “khép kín” trong công tác giám sát, đánh giá đầu tư
Gắn công tác giám sát, đánh giá đầu tư với công tác thanh qyết tán vốn đầu tư dự án, điều chỉnh dự án đầu tư.
Bổ sung các quy định về hình thức kỷ luật và trách nhiệm của các cá nhân đơn vị liên quan về thực hiện chế độ báo cáo và chất lượng báo cáo.
Về công tác quy hoạch: Sớm ban hành Nghị định hướng dẫn về quy hoạch ; các Bộ, ngành, địa phương tổ chức rà soát, sửa đổi, bổ sung và điều chỉnh các quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội vùng kinh tế, vùng kinh tế trọng điểm, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, thành phố ; quy hoạch phát triển một số ngành quan trọng, một số sản phẩm chủ yếu. Quy hoạch phải đảm bảo đi trước một bước trước khi tiến hành đầu tư, nếu không sẽ gây ra tình trạng xây dựng tràn lan, không đúng quy hoạch gây thất thoát lãng phí.
Về ban hành mới, sửa đổi bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan: Rà soát các văn bản pháp quy hiện hành, loại bỏ các văn bản trái pháp luật hoặc nội dung không còn phù hợp ; sửa đổi, bổ sung Nghị định 16/CP về dự án đầu tư xây dựng công trình ; ban hành các văn bản mới theo tinh thần Nghị quyết của Quốc hội và Chính phủ, nhằm đảm bảo tính đồng bộ của các văn bản pháp quy và hài hoà thủ tục với các quy định của các nhà tài trợ nước ngoài (Luật và Nghị định về quản lý sử dụng vốn ngân sách nhà nước, vốn ODA ).
Nâng cao chất lượng công tác quản lý đầu tư, xây dựng ở tất cả các khâu trong quá trình đầu tư xây dựng: Tăng cường công tác kiểm tra giám sát và đánh giá đầu tư. Các Bộ, ngành, địa phương thực hiện giám sát ngay từ khâu quy hoạch, lập dự án, thẩm định, bố trí vốn đầu tư, đảm bảo tuân thủ theo quy hoạch, kế hoạch được duyệt ; Khẩn trương triển khai công tác giám sát cộng đồng đối với đầu tư bằng nguồn vốn nhà nước ; Thực hiện đầy đủ công tác giám sát, đánh giá tổng thể đầu tư theo yêu cầu của Quốc hội, Chính phủ, xây dựng chương trình cụ thể triển khai công tác đánh giá đầu tư của ngành và địa phương (cả tổng thể và theo từng dự án đầu tư).Chủ động đề xuất các giải pháp cụ thể hữu hiệu phù hợp với đặc thù của đơn vị mình, nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư khắc phục những tồn tại về thất thoát, lãng phí, chậm tiến độ trong đầu tư, xây dựng.
Để khắc phục từng bước các yếu kém trong đầu tư xây dựng hiện nay, các bộ, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố sớm cần nghiên cứu, đề xuất các giải pháp tăng cường quản lý dự án đầu tư phù hợp với đặc thù của ngành và địa phương mình ; trước mắt, các ban quản lý dự án, chủ đầu tư cần thực hiện đầy đủ các quyền hạn và trách nhiệm theo quy định.
3.3.Hiện đại hoá, tin học hoá hệ thống tổ chức thực hiện
Đây là xu hướng của thời đại. Trong điều kiện mới, tình hình mới, không thể thực hiện công tác giám sát đánh giá trên giấy tờ đơn thuần hoặc trực tiếp đến hiện trường mới có thể giám sát được. Với cuộc cách mạng công nghệ mới hiện nay đã và đang giúp con người rất nhiều trong các lĩnh vực, trong đó có giám sát và đánh giá dự án. Kiến nghị như sau:
Tin học hoá toàn bộ hệ thống giám sát đánh giá, trước mắt ở các cấp lãnh đạo trước. Đây là những nơi cần tổng hợp số liệu lớn, do vậy phải có sự trợ giúp của các thiết bị máy tính cũng như các phần mềm ứng dụng mới có khả năng rút ngắn thời gian phân tích và đồng thời cũng tăng độ chính xác của số liệu báo cáo lên Thủ tướng Chính phủ.
Xây dựng mạng lưới giám sát và hỗ trợ giám sát bằng các hệ thống máy tính kết nối Internet giữa các đơn vị quản lý đầu tư với nhau trong cả nước. Có như vậy, thông tin từ các dự án đang triển khai thực hiện đầu tư nếu có sai phạm gặp vấn đề xảy ra có thể kịp thời thông báo lên cấp có thẩm quyền để mau chóng giải quyết, tránh để vấn đề phát sinh lâu ngày khó giải quyết.
Hoàn thiện cơ sở dữ liệu về các dự án đang theo dõi giám sát. Cần phải bảo quản kỹ lưỡng cơ sở dữ liệu này vì đây là những thông tin rất quan trọng và mang tính chất quyết định cho quá trình giám sát dự án. Nếu mất sẽ không có cơ sở để tiến hành tiếp tục theo dõi giám sát, hoặc có khắc phục thì cũng mất nhiều thời gian.
Thiết lập các tổng đài, số máy nóng để nhân dân có thể phản ánh ngay lập tức với cấp có thẩm quyền các sai phạm xảy ra trong công tác quản lý đầu tư.
4.Thiết lập các tiêu chuẩn trong công tác đấu thầu
Cần quy định rõ và tiến hành tiêu chuẩn hoá các tổ chức tư vấn, các nhà thầu, từ đó đảm bảo tính khách quan, tính độc lập trong hoạt động tư vấn, xoá bỏ tình trạng “khép kín” trong đầu tư, xây dựng, nhất là trong công tác đấu thầu. Theo xu hướng của thời đại, nước ta nhất thiết phải mở rộng đối tượng nhà thầu tham gia cho các gói thầu trong nước, tiến tới mô hình cạnh tranh rộng rãi trong đấu thầu ở Việt Nam. Việc cho phép nhiều nhà thầu tham gia đấu thầu một cách rộng rãi tạo khả năng cho các dự án có được nhà thầu có năng lực, trình độ phù hợp với yêu cầu kỹ thuật đề ra, từ đó tránh được tình trạng năng lực nhà thầu yếu kém, thi công sai phạm dẫn tới công trình kém chất lượng, gây hậu quả nghiêm trọng và lãng phí lớn về sau. Việc thiết lập các tiêu chuẩn trong công tác đấu thầu cũng giúp cho công tác giám sát, đánh giá được thuận lợi, có căn cứ để tiến hành truy cứu trách nhiệm khi có sai sót xảy ra trong xây dựng cơ bản. Có thể đưa ra một số tiêu chuẩn sau:
Tiêu chuẩn quy định về tư cách nhà thầu tham gia đấu thầu dự án đầu tư, đặc biệt đối với các dự án đầu tư có nguồn vốn từ ngân sách nhà nước.
Tiêu chuẩn về hồ sơ mời thầu, hồ sơ dự thầu. Việc chuẩn bị hồ sơ mời thầu chính xác rất quan trọng, đảm bảo cho quá trình đấu thầu không bỏ sót các nhà thầu tốt, đồng thời giúp nhà thầu hoàn thiện nhanh hồ sơ dự thầu một cách đẩy đủ, đẩy nhanh giai đoạn đấu thầu tuyển chọn nhà thầu. Đồng thời, hồ sơ dự thầu tốt cũng nâng cao chất lượng công trình sau này.
Thiết lập tiêu chuẩn cho những cơ quan, đơn vị xét thầu. Việc gây lãng phí lớn ở các công trình hiện nay một phần không nhỏ là do năng lực xét thầu của các cơ quan này quá kém, không đảm bảo. Nâng cao năng lực các đơn vị xét thầu, tuyển chọn nhà thầu (đặc biệt đối với các gói thầu có sự tham gia của nguồn vốn ngân sách nhà nước) góp phần nâng cao chất lượng công trình, giúp Nhà nước giảm được lãng phí trong công tác xây dựng cơ bản.
Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định các biện pháp chống bỏ thầu “kín” cũng như sự liên kết trái phép giữa các nhà thầu lớn, mạnh nhằm loại bỏ các nhà thầu nhỏ và mới. Tiến tới xoá bỏ cơ chế chỉ định thầu (chỉ những gói thầu quan trọng và phải đảm bảo yêu cầu an ninh quốc gia mới được tiến hành phương pháp này), tiến hành đấu thầu rộng rãi để các nhà thầu mới và quy mô vốn nhỏ có thể tham gia. Đây là biện pháp để nâng cao năng lực nhà thầu, thiết lập một môi trường cạnh tranh hợp pháp trong đấu thầu.
5.Giám định chặt chẽ quá trình tổ chức thực hiện dự án
Kiểm tra việc giải phóng mặt bằng, đền bù đất đai hoa màu. Đây là công tác khó khăn nhất hiện nay trong đầu tư. Việc giải phóng mặt bằng cho nhân dân tiến hành rất khó khăn, mất nhiều thời gian và tiền bạc, đôi khi có dự án chiếm tới 70% vốn đầu tư. Tuy nhiên, công tác giải phóng mặt bằng một mặt phải được thực hiện một cách phù hợp với lòng dân, với quy hoạch tổng thể của đất nước, mặt khác phải quản lý chặt chẽ, tránh kẻ xấu lợi dụng khai khống giá thành, gây thất thoát, nhất là đối với các công trình sử dụng vốn ngân sách nhà nước.
Theo dõi quá trình chuẩn bị và tiến hành đấu thầu.
Kiểm tra việc phê duyệt (quá trình phê duyệt) thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán công trình, thông qua đó phát hiện ra được các vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện đầu tư xem có sai khác gì so với quyết định đầu tư không.
Phân tích các báo cáo, các số liệu thống kê, các kết quả kiểm tra và các thông tin thu thập từ các nguồn khác nhau để phát hiện ra các sai phạm, các bất hợp lý phát sinh trong quá trình thực hiện hoặc những biến động khách quan ảnh hưởng tới dự án đầu tư để từ đó có kiến nghị lên cấp có thẩm quyền quyết định các biện pháp thích hợp: bổ sung nguồn lực để đẩy nhanh tiến độ đầu tư, đình hoãn hoặc dãn tiến độ thực hiện của những công trình không cần thiết, hoặc có thể huỷ bỏ quyết định đầu tư, xử lý các sai phạm.
6.Nhóm kiến nghị về nhân sự - con người
6.1.Nâng cao chất lượng chuyên môn nghiệp vụ
Có thể thấy, việc thực hiện công tác giám sát, đánh giá dự án cần phải chú trọng nhất vào nhân tố con người. Nhân tố con người chi phối mạnh mẽ và ảnh hưởng lớn tới chất lượng công tác.Nếu không có nhân tố này thì công tác giám sát, đánh giá dự án đầu tư không thể tiến hành. Theo kinh nghiệm thế giới về công tác giám sát, đánh giá dự án, bài học rút ra nên tập trung vào “ cái gì” hơn là rút ra “ai” là người chịu trách nhiệm.Giải pháp đưa ra ở đây trước hết phải tổ chức bộ máy quy củ “từ trên xuống”, có như vậy mới tạo được một hệ thống giám sát, đánh giá có chất lượng, nghiêm túc, thống nhất từ đó mới đạt được kết quả mong muốn.
Kiến nghị đưa ra những yêu cầu sau:
Tăng cường hợp tác, phối hợp với các cơ quan đơn vị trong và ngoài cơ quan, trao đổi, rút kinh nghiệm trong các lĩnh vực nghiệp vụ để rút ngắn bớt thời gian và nâng cao chất lượng công tác.
Đẩy mạnh phong trào thi đua trong nội bộ đơn vị để hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ được giao.
Tăng cường lực lượng cán bộ tương xứng với nhiệm vụ được giao để thay thế số cán bộ đã và sẽ về hưu trong năm 2006 và 2007 và đảm bảo khối lượng công việc của Vụ
Hoàn chỉnh và ban hành chính thức quy trình làm việc chung trong Bộ trong điều kiện mới (đặc biệt là quy trình giám sát, đánh giá đầu tư) để làm cơ sở phối hợp công tác
Đề nghị Bộ bố trí và cho phép Vụ thực hiện dự án hỗ trợ kỹ thuật để tăng cường năng lực cán bộ giám sát đầu tư ; hỗ trợ vụ trong việc xây dựng cơ sở dữ liệu và phần mềm giám sát đầu tư.Thực hiện tốt chương trình tin học hoá quản lý hành chính
Ban hành cơ chế kiểm tra cán bộ, công chức tiếp nhận và giải quyết công việc ; xử lý nghiêm những người có hành vi sách nhiễu, hách dịch, vô trách nhiệm ; khen thưởng những cán bộ hoàn thành xuất sắc công việc, nhiệm vụ được giao. Quy định cụ thể và rõ ràng trách nhiệm cá nhân trong khi thi hành công vụ.
6.2.Xác định trách nhiệm của các đơn vị giám sát đánh giá dự án
Công tác giám sát, đánh giá đầu tư muốn nâng cao chất lượng một mặt đốc thúc liên tục, mặt khác phải gắn kết quả giám sát, đánh giá với trách nhiệm của đơn vị thực hiện giám sát đánh giá đầu tư.
1.Trách nhiệm của cơ quan, đơn vị thực hiện giám sát, đánh giá đầu tư:
1.1.Thủ trưởng của các Bộ, ngành, địa phương, chủ đầu tư chịu trách nhiệm về các hậu quả do không tổ chức thực hiện việc giám sát, đánh giá đầu tư hoặc không báo cáo theo quy định.
1.2.Các cơ quan được giao nhiệm vụ thực hiện giám sát, đánh giá đầu tư phải chịu trách nhiệm về nội dung các báo cáo của mình.
1.3.Chủ đầu tư chịu trách nhiệm về nội dung báo cáo của mình và phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật về mọi hậu quả phát sinh do không thực hiện hay thực hiện không đầy đủ các quy định về giám sát đầu tư hoặc do báo cáo, cung cấp thông tin sai sự thực về tình hình thực hiện đầu tư trong phạm vi mình quản lý.
1.4.Các Bộ, ngành, địa phương phải xem xét và xử lý kịp thời các vấn đề phát sinh, các kiến nghị của cơ quan giám sát, đánh giá đầu tư, chủ đàu tư về những vấn đề thuộc quyền hạn và trách nhiệm của mình trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị của bên có liên quan và chịu trách nhiệm về các quyết định về việc xử lý đó hoặc báo cáo kịp thời với cấp trên các vấn đề vượt thẩm quyền.
2. Xử lý vi phạm các quy định về giám sát, đánh giá đầu tư.
2.1.Trong thời hạn quy định mà các Bộ, ngành, địa phương không gửi báo cáo giám sát, đánh giá đầu tư thì Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ báo cáo Thủ tướng Chính phủ và kiến nghị các hình thức xử lý thích hợp.
2.2.Các đơn vị trực thuộc Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, các chủ đầu tư không thực hiện đầy đủ chế độ báo cáo thì cơ quan thực hiện giám sát, đánh giá đầu tư cần báo cáo cấp có thẩm quyền và kiến nghị các hình thức xử lý về hành chính hoặc đề nghị ngừng thực hiện dự án.
2.3.Chủ đầu tư chịu trách nhiệm về những vấn đề phát sinh liên quan trong trường hợp phải ngừng thực hiện dự án do không báo cáo kịp thời.
2.4.Các cấp có thẩm quyền không được phép điều chỉnh đầu tư đối với các dự án không thực hiện giám sát, đánh giá đầu tư theo quy định.
2.5.Các dự án sẽ không được ghi vốn kế hoạch năm sau nếu không có đầy đủ báo cáo giám sát, đánh giá đầu tư của năm trước. Dự án sẽ chỉ được phê duyệt quyết toán vốn đầu tư khi thực hiện đầy đủ các quy định giám sát, đánh giá đầu tư.
3.Xử lý các vi phạm về quản lý đầu tư và xây dựng trong quá trình giám sát, đánh giá đầu tư.
3.1.Các cơ quan thực hiện giám sát, đánh giá đầu tư báo cáo kịp thời các cấp có thẩm quyền những trường hợp vi phạm Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng trong các hoạt động đầu tư thuộc cấp mình quản lý để xử lý theo quy định.
3.2.Các cơ quan thực hiện giám sát, đánh giá đầu tư cố tình che giấu các trường hợp vi phạm về quản lý đầu tư và xây dựng phải chịu trách nhiệm liên đới trước pháp luật về các sai phạm và hậu quả gây ra.
Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng phải đặt ra các tiêu chí khác nhau để có thể tiến hành khen thưởng cho các đơn vị cũng như cá nhân hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giám sát và đánh giá đầu tư. Đây cũng là một biện pháp nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm cũng như sự phấn khích làm việc của những người thực hiện nhiệm vụ giám sát, đánh giá dự án đầu tư.
Kết luận
Cùng với sự gia tăng ngày càng mạnh mẽ các cơ sở hạ tầng phục vụ đất nước trong công cuộc đổi mới phát triển của Việt Nam hiện nay, công tác giám sát đánh giá đầu tư cho thấy đây là một phần không thể thiếu của quản lý Nhà nước. Với những gì làm được trong giai đoạn vừa qua, có thể thấy rằng Nhà nước ta rất chú trọng tới giám sát đánh giá đầu tư, có cái nhìn đúng đắn về nhiệm vụ này. Giám sát, đánh giá đầu tư đã có những kết quả tích cực, góp phần không nhỏ trong việc chống thất thoát lãng phí, nâng cao hiệu quả dự án đầu tư. Tuy nhiên, có thể thấy rằng, việc giám sát đánh giá đầu tư vẫn còn nhiều bất cập và mang nặng hình thức, đặc biệt là trong các Cơ quan Nhà nước. Vậy, để các dự án đầu tư có được kết quả như mong muốn của nhân dân ta, để nội lực được phát huy mạnh mẽ và có hiệu quả, để vốn thu hút được không bị sử dụng sai mục đích, và hơn cả để các dự án đầu tư góp ích vào nền kinh tế nước nhà, công tác giám sát, đánh giá đầu tư thời kỳ tới phải được cải tổ mạnh mẽ trong các cơ quan quản lý nhà nước, phổ biến rộng rãi tới mọi tầng lớp nhân dân, sao cho giám sát đánh giá đầu tư là trách nhiệm cũng như quyền lợi của toàn dân Việt Nam.
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Báo cáo tổng hợp giám sát đánh giá đầu tư các năm 2003-2006 - Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư - Bộ Kế hoạch và Đầu tư .
2.Thông tư 04
3.Nghị định 131 về quản lý hỗ trợ chính thức ODA (mới có hiệu lực từ tháng 12/2006)
4.Nghị định 16 và Nghị định 12 NĐ-CP về quản lý dự án đầu tư xây dựng
5.Nghị định 108 về hướng dẫn luật đầu tư
6.Nghị định 111 về quản lý đấu thầu.
7.Trang Web Bộ Kế hoạch và Đầu tư -
8.Giáo trình Kinh tế đầu tư -PGS.TS Nguyễn Bạch Nguyệt - TS.Từ Quang Phương
9.Giáo trình Quản lý dự án - TS.Từ Quang Phương
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
Chương I: Thực trạng công tác Giám sát và Đánh giá đầu tư tại Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư - Bộ Kế hoạch và Đầu tư 3
I.Một vài nết về Vụ thẩm định và Giám sát đầu tư 3
1.Chức năng - Nhiệm vụ - Cơ cấu tổ chứcc 3
1.1.Chức năng - Nhiệm vụ 3
1.2.Cơ cấu tổ chức 4
2.Một số nhiệm vụ chính của Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư về Đánh giá và Giám sát đầu tư 4
3.Phương thức thực hiện giám sát, đánh giá đầu tư tại Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư 5
II.Thực trạng công tác giám sát và đánh giá đầu tư tại Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư - Bộ Kế hoạch và Đầu tư 6
A-Chế độ báo cáo và nội dung giám sát, đánh giá đầu tư tại Vụ 6
1.Nội dung giám sát, đánh giá đầu tư tại Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư 6
1.1. Đánh giá tổng thể đầu tư 6
1.2.Giám sát, đánh giá dự án đầu tư 7
2.Báo cáo về giám sát đánh giá đầu tư 8
2.1.Chế độ báo cáo 8
2.2.Thời hạn báo cáo định kỳ 8
B- Công tác tổ chức thực hiện giám sát, đánh giá dự án đầu tư tại Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư giai đoạn 2003-2006 9
1.Quy định về giám sát, đánh giá dự án đầu tư của nước ta 9
2.Tổ chức thực hiện công tác giám sát và đánh giá dự án đầu tư giai đoạn 2003-2006 11
2.1.Báo cáo giám sát, đánh giá chung các dự án đầu tư từ các đơn vị 11
2.2.Tình hình tổ chức thực hiện công tác giám sát, đánh giá dự án đầu tư giai đoạn 2003-2006 13
2.2.1.Thực trạng công tác giám sát, đánh giá dự án đầu tư chung của cả nước giai đoạn 2003-2006 13
2.2.2.Thực trạng công tác giám sát, đánh giá dự án đầu tư của các Bộ -Cơ quan ngang bộ, Cơ quan Chính phủ, các địa phương và các Tổng Công ty 91 16
2.2.3.Giám sát, đánh giá dự án đầu tư các dự án đầu tư nhóm A 31
*Thực hiện chế độ báo cáo giám sát đánh giá đầu tư: 31
2.3.Tổ chức nhân sự thực hiện giám sát, đánh giá dự án đầu tư tại Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư - Bộ Kế hoạch và Đầu tư 36
3. Hoạt động giám sát, đánh giá dự án đầu tư dưới góc độ quản lý Nhà nước về đầu tư 36
3.1.Công tác quy hoạch 36
3.2.Chống dàn trải trong đầu tư phát triển sử dụng vốn Nhà nước 38
3.3.Chống thất thoát, lãng phí trong đầu tư 39
3.4.Xử lý nợ khối lượng đầu tư xây dựng cơ bản bằng nguồn vốn ngân sách 40
3.5.Rà soát, đánh giá hệ thống các văn bản pháp luật về đầu tư 41
4. Đánh giá công tác giám sát, đánh giá dự án đầu tư giai đoạn 2003-2006 của Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư - Bộ Kế hoạch và Đầu tư 42
4.1.Kết quả đạt được 42
4.2.Những tồn tại, hạn chế 44
Chương II: Kiến nghị, giải pháp nâng cao chất lượng công tác giám sát, đánh giá đầu tư tại Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư - Bộ Kế hoạch và Đầu tư 47
I. Bối cảnh công tác giám sát, đánh giá đầu tư của Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư trong những năm sắp tới 47
II.Kiến nghị và giải pháp nâng cao chất lượng công tác giám sát đánh giá dự án tại Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư - Bộ Kế hoạch và Đầu tư 48
1. Định hướng chung trong cả nước về công tác giám sát, đánh giá dự án đầu tư 48
a. Định hướng chung đầu tư trong cả nước thời kỳ 2006-2010 48
b. Định hướng chung cả nước về công tác giám sát, đánh giá đầu tư 49
c.Nhiệm vụ chủ yếu của công tác giám sát, đánh giá đầu tư tại Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư trong thời kỳ tới 50
2.Tăng cường phân cấp trong quản lý đầu tư 52
3.Nhóm kiến nghị giải pháp về hệ thống thực hiện giám sát, đánh giá đầu tư 52
3.1.Tổ chức hệ thống giám sát, đánh giá chặt chẽ từ cấp Trung ương xuống địa phương 52
* Giám sát của cộng đồng 53
3.2.Ban hành các quy định về giám sát, đánh giá đầu tư 54
a) Quy định về chế độ báo cáo giám sát, đánh giá đầu tư 54
b) Quy định về văn bản quy phạm pháp luật có liên quan tới hoạt động giám sát, đánh giá đầu tư 55
3.3.Hiện đại hoá, tin học hoá hệ thống tổ chức thực hiện 57
4.Thiết lập các tiêu chuẩn trong công tác đấu thầu 57
5.Giám định chặt chẽ quá trình tổ chức thực hiện dự án 59
6.Nhóm kiến nghị về nhân sự - con người 59
6.1.Nâng cao chất lượng chuyên môn nghiệp vụ 59
6.2.Xác định trách nhiệm của các đơn vị giám sát đánh giá dự án 60
Kết luận 63
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4878.doc