Việt nam trong thời gian qua đã giành được nhiều thành tựu quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh. Song đứng trước yêu cầu về sử dụng và phát huy hiệu quả các nguồn nhân lực xã hội cho mục tiêu CNH-HĐH rút ngắn của nước ta hiện nay thì đang tồn tại nhiều bất cập. Trong đó bất cập về chất lượng nguồn nhân lực, nguồn lực có vai trò quyết định trong hệ thống các nguồn lực xã hôi là vấn đề có tính bức bách nhất và cần phải kịp thời khắc phục
Với quan điểm Chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố giữ vai trò quyết định trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước trong thời gian qua chúng ta đã có rất nhiều chính sách nhằm nâng cao chất lượng nhân tố con người, và thực tế hiện nay chất lượng nguồn nhân lực cũng được nâng lên rõ rệt, đáp ứng được phần nào nhu cầu phát triển. Song với thực trạng hiện nay chúng ta vẫn thiếu cả về số lượng lẫn yếu về chất lượng, thiếu hụt một cách trầm trọng nguồn nhân lực chất lượng cao, đội ngủ quản lý giỏi.Với tính cấp thiết của vấn đề phải nâng cao chất lượng nguồn lực con người nên tôi đã nghiên cứu đề tài về các giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đề tài đã giải quyết được một số vấn đề chính sau
Đề tài đã tìm hiểu rõ hơn về cách tiếp cận các khái niệm về nhân tố con người, nhận thấy được sự khác giữa các cách tiếp cận của Việt nam và thể giới. Đồng thời qua việc phân tích thực trạng về chất lượng nguồn nhân lực hiện nay, để từ đó phân tích những yếu tố lợi thế cũng như hạn chế của nguồn nhân lực, nguyên nhân chính dẫn đến các hạn chế đó. Trên cơ sở các phân tích đó đề tài đã nghiên cứu một số giải pháp mang tính định hướng nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Với sự nỗ lực của bản thân, cùng sự giúp đỡ tận tình của giáo viên hướng dẫn PGS,TS Lê Huy Đức, Anh Nguyễn Khắc Huy cùng các anh chị tại Cục Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa-Bộ KH-ĐT tôi đã hoàn thành đề tài của mình, qua đây tôi xin chân thành cảm ơn Thầy Đức, Anh Huy và những người đã tận tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực tập vừa qua. Tuy có nhiều cố gắng song do hạn chế về số liệu cũng như khả năng của bản thân nên chắc chắn không tránh khỏi nhiều thiếu sót, mong nhận được sự góp ý của các thầy cô và các bạn để đề tài có thể hoàn thiện hơn
109 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1624 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Cơ cấu lao động của Việt nam hiện nay đang lạc hậu so với thế giới. Tuy nhiên trong nhiều năm qua xu hướng dịch chuyển của chúng ta đang có chiều hướng tích cực. Đến năm 2020 mục tiêu dịch chuyển cơ cấu lao động theo hướng hiện đại hóa
Chiếm tỷ lệ đông nhất là lao động trong khu vực dịch vụ, chiếm khoảng gần 38-39% lao động cả nước. Công nghiệp chiếm 31% và lao động trong khu vực nông nghiệp chiếm 31%. Như vậy với dự báo trên thì tới năm 2020 cơ cấu lao động của nước ta tương đối hiện đại, phù hợp với trình độ của nền kinh tế. Cơ cấu kinh tế chú trọng nâng cao tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ , giảm tỷ trọng nông nghiệp theo mục tiêu xuống duới 32% nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng nước ta đến năm 2020 cơ bản đã trở thành một nước công nghiệp
Bảng 3.1:Cơ cấu cầu lao động năm 2020
Nguồn: Bộ Kế hoạch Đầu tư2007
Về chất lượng nguồn nhân lực :
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là một mục tiêu nêu trong Nghị quyết về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, vừa được Quôc Hội thông qua. Đây cũng là nội dung được Chính Phủ hết sức quan tâm hiện nay. Bất cứ quốc gia nào, để phát triển thì nguồn lực con người là cực kỳ quan trọng. Nguồn lực này được xác định trên 3 vị trí: nguồn lực lãnh đạo, nguồn lực thực hiện sự lãnh đạo và nguồn lực chung của toàn xã hội. Với thực trạng hiện nay chúng ta đang phải đối mặt với những vấn đề về nguồn lực con người trong hội nhập quốc tế. Trước yêu cầu đó, người lao động phải là những con người có thể lực tốt để có thể đáp ứng được tác phong sản xuất công nghiệp với cường độ cao, phải có đủ trình độ học vấn và trình đô chuyên môn kỹ thuật để có thể tiếp thu, học hỏi và sử dụng thành thao những công nghệ tiên tiến. Những yêu cầu cơ bản đó buộc chúng ta trong thời gian tới phải nổ lực không ngừng nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Với xu hướng ngày nay, nền kinh tế tri thức đang là mục tiêu chung của tất cả các quốc gia trên thế giới. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin đang đặt ra cho chúng ta nhiều vấn đề bất cập về trình độ công nghệ thông tin của người lao động nước ta còn quá yếu. Bên cạnh đó với xu hướng hiện tại thì nhu cầu lao động cao cấp đang là một đòi hỏi bức thiết để đáp ứng cho CNH-HĐH đất nước. Khi mà thực trạng nước ta hiện nay chất lượng nguồn nhân lực đang còn thấp thì thị trường lao động cao cấp hiện đang trong tình trạng chênh lệch quá lớn giữa cung và cầu
Mục tiêu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đến năm 2020 đặt ra là tăng tỷ lệ lao động phổ cập trung học khoảng 80-85%.Khoảng 77% lao động qua đào tạo chuyên môn kỹ trong đó số lượng đào tạo nghề chiếm khoảng 55%. Để đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực cho thị trường lao động, trong thời gian tới điều quan trọng nhất là chúng ta phải nâng cao chất lượng đào tạo nâng cao trình độ văn hóa cũng như trình độ chuyên môn kỹ thuật cho người người lao động. Đến 2020 dự kiến có 600 trường ĐH và CĐ (trong đó 225 trường ĐH và 375 trường CĐ), tăng 288 trường so với hiện nay. Sẽ hình thành và phát triển một số trung tâm đào tạo nguồn nhân lực tập trung của cả nước và mỗi vùng. Tổng quy mô đào tạo ĐH-CĐ phải đạt ít nhất khoảng 1,8 triệu SV (năm 2010), 2,5 triệu SV (năm 2015) và 4,5 triệu SV (năm 2020). Trong cơ cấu đào tạo bậc đại học, có khoảng 70 - 80% sinh viên đại học được đào tạo theo các chương trình nghề nghiệp - ứng dụng và 20 - 30% sinh viên được đào tạo theo các chương trình nghiên cứu. Đặc biệt đến năm 2020 có từ 30 đến 40% sinh viên học tại các cơ sở giáo dục đại học tư thục
Nguồn nhân lực chất lượng cao đang là nguồn lực khan hiếm của nước ta hiện nay, đào tạo bồi dưỡng nguồn lực này có ý nghĩa to lớn trong việc thực hiện mục tiêu hiện đại hóa
CÁC QUAN ĐIỂM CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC
Chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố giữ vai trò quyết định trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Với quan điểm này chúng ta đã khẳng định vị trí quan trọng hàng đầu của nhân tố chất lượng con người trong mối liên hệ với các nguồn lực xã hội khác. Quan điểm chỉ rõ rằng chỉ có nâng cao thể lực cũng như trí lực của người lao động mới là điểm mấu chốt để chúng ta phát triển kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế thông qua việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực mới là con đường dẫn chúng ta đến thành công
Quan điểm về vai trò của chất lượng nguồn nhân lực
Chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố giữ vai trò quyết định trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Với quan điểm này chúng ta đã khẳng định vị trí quan trọng hàng đầu của nhân tố chất lượng con người trong mối liên hệ với các nguồn lực xã hội khác. Quan điểm chỉ rõ rằng chỉ có nâng cao thể lực cũng như trí lực của người lao động mới là điểm mấu chốt để chúng ta phát triển kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế thông qua việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực mới là con đường dẫn chúng ta đến thành công
Quan điểm về vị trí của giáo dục trong chiến lược nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Giáo giục giữ vao trò quyết định đến việc phát triển nguồn nhân lực. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực như các biến đổi của kinh tế xã hội, chất lượng dinh dưỡng cuộc sống…Nhưng trong đó chất lượng của hệ thống giáo dục vẫn là yếu tố có ảnh hưởng lớn nhất tới chất lượng nguồn nhân lực. Mối quan hệ của giáo dục đào tạo tới chất lượng nguồn nhân lực không chỉ là mối quan hệ ảnh hưởng trực tiếp đến trí lực của người lao động mà qua việc đầu tư nâng cao chất lượng giáo dục đào tào còn có ý nghĩa tới việc cải thiện sức khỏe, nâng cao chất lượng cuộc sống, như vậy giáo dục đào tạo là nhân tố giữ vị trí quyết đinh tới chất lượng nguồn nhân lực
Đảng ta đã luôn nhận thức được đúng đắn vai trò quyết định của giáo dục đào tạo nên trong nhiều năm qua, quan điểm “Giáo dục là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế” và quan điểm “Giáo dục đào tạo là con đường cơ bản nhất để phát triển nguồn nhân lực” phục vụ cho CNH-HĐH đất nước
Phát triển nguồn nhân lực gắn với nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội, với tiến bộ khoa học- công nghệ và sự cũng cố an ninh quốc phòng
Với bối cảnh nước ta hiện nay đang trong tình trạng tồn tại nhiều bất cập về nguồn nhân lực trong khi số lượng thì thiếu còn chất lượng thì yếu. Nhu cầu thị trường đặt ra càng ngày càng lớn. Quan điểm phát triển nguồn nhân lực phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế nhằm thúc đẩy các hoạt động đào tạo nguồn nhân lực sao cho sát với nhu cầu thực tế. Những chuyên môn, kỹ thuật được đào tạo trong các trường Đại học, Cao đẳng…và các trung tâm dạy nghề phải phù hợp với nhu cầu về thị trường lao động, thị trường tài chính,…Để mỗi cá nhân sau khi được đào tạo sẽ có điều kiện phát huy những gì mình đã được học trên cơ sở là thế mạnh của bản thân, nhằm nâng cao hiệu quả làm việc.
Bên cạnh chất lượng nguồn nhân lực thì khoa học công nghệ cũng là yếu tố chìa khóa của sự nghiệp CNH-HĐH hiện nay của nước ta, khoa học công nghệ là điều kiện tốt cho chúng ta rút ngắn thời gian CNH-HĐH đất nước, Vì vậy nắm bắt thành tựu khoa học công nghệ nước ngoài là yêu cầu khách quan đối với người lao động nước ta hiện nay. Vì thế đào tạo nguồn nhân lực phải gắn với sự phát triển của khoa học công nghệ, không được tách khỏi khoa học công nghệ nhằm tránh sự lạc hậu trong trình độ khoa học công nghệ của người lao động nước ta
Phát triển nguồn nhân lực là sự nghiệp chung của Đảng, nhà nước và của toàn nhân dân
Phát triển nguồn nhân lực là nội dung trọng tâm của chiến lược phát triển đất nước. Nhân tố con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của phát triển. Như vậy phát triển con người là sứ mạng to lớn nhằm đạt mục tiêu chung. Để phát triển nguồn nhân lực phải tiến hành đồng bộ trên nhiều phương diện: tăng cường nâng cao thể lực của người lao động, nâng cao trí lực cho người lao động hay vấn đề rèn luyện phẩm chất đạo đức...
Như vậy phát triển nguồn lực con người là sự nghiệp đòi hỏi không chỉ là sự nỗ lực của riêng ngành Giáo dục Đào tạo mà ở đây cần sự kết hợp của nhiều ngành, nhiều lĩnh vực và của toàn xã hội. Trong đó Giáo dục đào tạo là nhân tố đi đầu và quyết định đến chất lượng nguồn nhân lực
Bên cạnh Giáo dục, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực còn liên quan đến nhiều ban ngành như y tế, quốc phòng an ninh, văn hóa thông tin...Bởi vì chất lượng nguồn nhân lực không những đánh giá trên tiêu chí duy nhất là trình độ hay còn gọi là trí lực mà còn nhiều chỉ tiêu khác nhau như sức khỏe, phẩm chất đào đức...Bởi vậy các ngành, lĩnh vực liên quan có tác động không nhỏ tới chất lượng nguồn nhân lực, sự nghiệp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đòi hỏi phải có sự thực hiện của toàn xã hội
Đảng và Nhà nước có vai trò hoạch định chiến lược phát triển nguồn nhân lực, kế hoạch hóa phát triển bằng các mục tiêu cụ thể và thực hiện các mục tiêu đó bằng các chính sách hỗ trợ phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện công tác nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, luôn tồn tại những vấn đề bất cập, những vấn đề mang tính chất nổi cộm cần phải tháo gỡ. Lúc này sự đóng góp ý kiến của cộng đồng là rất quý giá. Ví dụ như trong việc phát triển nâng cao chất lượng đào tạo của ngành giáo dục, những bất cập tồn tại như chất lượng giảng dạy kém, nội dung chương trình học chưa hợp lý...Những bất cập đó được phát hiện, góp ý là nhờ cộng đồng, xã hội. Qua đây ta có thể thấy được việc phát triển nguồn nhân lực không những là sự nghiệp to lớn của Đảng và nhà nước mà nó còn là sự nghiệp lớn lao của toàn xã hội
Phát triển nguồn nhân lực trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Với xu hướng toàn cầu hóa hiện nay, hội nhập kinh tế quốc tế là điều tất yếu nhằm phát huy lợi thế so sánh giữa các quốc gia. Việt nam chúng ta cũng không nằm ngoài quy luật đó
Sau khi chúng ta gia nhập tổ thực thương mại thế giới WTO chúng ta đã có rất nhiều cơ hội để phát triển. Vào WTO có nghĩa là chúng ta sẽ phải tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế, chịu sự cạnh tranh gay gắt. Ngay bây giờ, một số ngành có kỹ thuật cao thiếu lao động buộc chúng ta thuê lao động nước ngoài. Cạnh tranh cũng sẽ là điều không thể tránh khỏi với các doanh nghiệp khi tham gia “sân chơi chung toàn cầu”. Thế nhưng, xét về đội ngũ quản lý, quản lý doanh nghiệp, giám đốc còn thiếu nhiều kỹ năng quản lý. Số lượng doanh nghiệp doanh nhân giỏi, trình độ chuyên môn cao và năng lực quản lý tốt chưa nhiều. Đa phần họ chưa được trang bị các kiến thức kinh doanh như quản trị doanh nghiệp, phát triển thương hiệu, chiến lược cạnh tranh, ứng dụng công nghệ thông tin… Rồi việc am hiểu luật chơi, tuân thủ luật chơi lại chưa phải là thói quen của nhiều doanh nghiệp trong khi đây lại là yếu tố quan trọng khi vào sân WTO.
Chính vì vậy hơn lúc nào hết, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là điều bắt buộc để chúng ta giành lợi thế cạnh tranh trước các doanh nghiệp nước ngoài. Để làm được điều này thì quan điểm phát triển nguồn nhân lực là phải phải phát triển nguồn nhân lực trong môi trường hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phải gắn liền với việc chấp nhận đầu tư mạnh cho bồi dưỡng, phát triển nhân lực kỹ thuật cao, đào tạo các chuyên gia các ngành mũi nhọn, bồi dưỡng tài năng trẻ, nhất là tài năng quản lý, khoa học – công nghệ. Và chính bản thân các công chức cũng phải tự học tập, nâng cao chuyên môn đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp, đáp ứng yêu cầu kinh doanh quốc tế
CÁC GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC PHỤC VỤ SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC
Giải pháp cải thiện, nâng cao sức khỏe nguồn nhân lực :
Hoàn thiện chiến lược nâng cao sức khỏe
Bên cạnh việc khám chữa bệnh thì việc nâng cao sức khỏe cho người dân nói chung và người lao động nói riêng thông qua việc cung cấp các tri thức bằng các chương trình truyền thông đại chúng là rất quan trọng. Trong nhiều năm qua các chương trình như vậy chưa thực sự mang lại hiệu quả, vì vậy cần có những giải pháp mới nhằm tăng cường hiệu quả của các chương trình như là các chương trình mục tiêu trọng điểm của quốc gia
Trước hết là phải xây dựng các chương trình liên ngành về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Như ta đã biết sức khỏe là vốn quý của mỗi con người, sức khỏe liên quan tới nhiều yếu tố trong cuộc sống như cả chế độ dinh dưỡng, văn hóa, xã hội….Vì vậy nâng cao sức khỏe người lao động không chỉ là công việc riêng của ngành y tế mà phải được thực hiện với sự cộng tác của nhiều ngành liên quan như Bộ Văn hóa thông tin, Bộ quốc phòng, Bộ Giáo dục đào tạo…Các chiến lược liên ngành bao giờ cũng mang lại hiệu quả cao hơn là chỉ áp dụng riêng trong một ngành thực hiện
Bên cạnh đó các chương trình nâng cao sức khỏe của người dân phải được tăng cường liên kết, lồng ghép với nhau nhằm tăng hiệu quả. Một chương trình đơn lẻ chỉ nhằm mục đích tập trung vào đề phòng hay ngăn chặn một loại bệnh dịch, ví dụ như chương trình quốc gia phòng chống lao, Tăng cường đưa ra được những chương trình tổng hợp bao gồm nhiều chương trình nhỏ co mối liên hệ theo chiều dọc sẽ mang lại hiệu quả cao hơn trong việc truyền tải thông tin đến người lao động. nâng cao hiệu quả bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cho người lao động hiện nay
Vai trò quan trọng của cộng đồng được thể hiện trong hầu hết các chương trình của nhà nước. Và đặc biệt trong vấn đề nâng cao sức khỏe, thể lực cho người dân. Nhớ sức mạnh cộng đồng, sức mạnh của quần chúng nhằm mục đích truyên truyền, quảng bá những kiến thức về sức khỏe, về phòng chữa bệnh, về an toàn lao động nếu được sự đồng lòng của cả cộng đồng quan tâm thì hiệu quả sẽ rất lớn
Tăng cường hiệu quả hoạt động của hệ thống y tế trên cả nước
Hệ thống y tế có ý nghĩa to lớn trong việc đảm bảo sức khỏe cho người dân. Hiện nay, do nhiều lý do chính sách y tế của Việt nam còn khiếm khuyết, ảnh hưởng đến việc nâng cao sức khỏe của nguồn nhân lực. Do vậy một nội dung quan trọng của việc đổi mới ngành y tế theo hướng công bằng, hiệu quả là hoàn thiện và xây dựng chính sách phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội, đáp ứng các yêu cầu phát triển.
Để đáp ứng được yêu cầu trên thì trước hết riêng ngành y tế phải thực hiện công tác hoàn thiện mạng lưới các cơ sở y tế trên cả nước. Vấn đề bất cập nhất hiện nay là vấn đề chất lượng các bệnh viện còn thấp, nhất là các bệnh viện cấp Tỉnh và Huyện. Vì vậy trước tiên chúng ta phải tăng cường nâng cao chất lượng khám chữa bệnh của các bệnh viện cấp dưới, nhất là các bệnh viện, các trạm y tế xã, nhằm phục vụ nhu cầu khám chữa bệnh tại chỗ cho người dân. Các bệnh viện tuyến dưới phải tăng cường máy móc trang thiết bị dụng cụ, hơn thế nữa phải tăng cường bồi dưỡng trình độ y bác sỹ về cả chuyên môn và phẩm chất đạo đức. Vấn đề đạo đức nghề nghiệp là vấn đề quan trọng trong tất cả các lĩnh vực cảu xã hội, và đặc biệt trong y tế và giáo dục, trong y tế thường nêu lên khẩu hiệu “lương y như tử mẫu” nhưng hiện nay đang có thực trạng người dân mất lòng tin ở một số y bác sỹ do các hành vi không đúng với y đức người thầy thuốc, nhất là ở các bệnh viện cấp dưới, tình trạng y bác sỹ vô trách nhiệm đã nhiều lần dẫn đến những hậu quả to lớn gây tử vong bệnh nhân. Vì thế trước đòi hỏi về chất lượng khám chữa bệnh thì chúng ta cần nâng cao y đức người thầy thuốc ngay trong khi còn ngồi trên ghế nhà trường.
Không ngừng nghiên cứu tìm hiểu các phương pháp chữa bệnh mới của các nước có nền Y học tiên tiến trên thế giới nhằm học tập kinh nghiệm chuyên môn. Quan tâm đến việc phát triển nền y học cổ truyền dân tộc và phương pháp chữa trị đông y cùng với tây y nhằm tăng cường chất lượng khám chữa bệnh cho người dân nói chung và người lao động nói riêng
Nước ta hiện nay đang thiếu các bệnh viện và các đội ngũ y Bác sỹ tận tâm với nghề, vì vậy ngoài việc nâng cao chất lượng tại các bệnh viện hiện có thì chúng ta còn phải tăng cường đầu tư ngân sách cho việc mở rộng hệ thống bệnh viện, xây thêm các bệnh viện mới, hoàn thiện mạng lưới cơ sở trên cả nước để đáp ứng nhu cầu người dân nhất là tại các vùng sâu, vùng xa ít có điều kiện tiếp cận dịch vụ y tế
Nhóm giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục-đào tạo
Theo quan điểm phát triển nguồn nhân lực trong thời gian tới thì giáo giục giữ vao trò quyết định đến việc phát triển nguồn nhân lực, chất lượng giáo dục đào tạo ảnh hưởng chủ yếu đến chất lượng nguồn nhân lực, vì thế việc nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo là công việc có vị trí “đi đầu” nhằm thực hiện mục tiêu phát triển con người của nước ta hiện nay. Để thực hiện được mục tiêu đó trong quan điểm về nâng cao chất lược giáo dục đào tạo chúng ta cần quán triệt theo quan điểm “Đào tạo theo nhu cầu thực tế”, thực hiện trên nguyên tắc mà Đảng ta đã đưa ra là “xã hội hóa giáo dục đào tạo”.
Vấn đề đào tạo nói chung và đào tạo theo nhu cầu của doanh nghiệp và nhu cầu của thị trường lao động nói riêng hiện nay đang được toàn xã hội quan tâm. Vì vậy trong thời gian tới công tác đào tạo phải nhất quán theo quan điểm đưa ra là đào tạo sát với thực tế, đào tạo theo nhu cầu của doanh nghiệp và đào tạo theo đơn đặt hàng…Để quá triệt theo quan điểm đó chúng ta cần tập trung các vấn đề chính sau:
- Chuyển mạnh dạy nghề từ hướng cung sang hướng cầu của thị trường lao động.
- Tập trung nguồn lực hình thành hệ thống các trường trọng điểm, trường chất lượng cao ở các vùng, các ngành kinh tế trọng điểm để đào tạo đội ngũ LĐKT trình độ cao đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp.
- Củng cố và phát triển những trường đào tạo chuyên ngành để phục vụ cho những nhu cầu đặc thù của một số ngành; đồng thời tiến hành kiểm định chất lượng các cơ sở dạy nghề.
- Bổ sung cơ chế chính sách để huy động các doanh nghiệp tham gia vào đào tạo nghề và phát triển cơ sở dạy nghề tại doanh nghiệp.
- Phải coi dạy nghề tại doanh nghiệp như là một hình thức đào tạo cho người lao động chứ cơ sở sản xuất không chỉ là nơi thực tập. Có các tiêu chí đánh giá, công nhận kỹ năng nghề của người lao động được đào tạo tại doanh nghiệp hoặc tự đào tạo trong quá trình lao động.
- Đổi mới chương trình đào tạo theo hướng mềm dẻo, tích hợp và linh hoạt, phù hợp với sự thay đổi công nghệ của doanh nghiệp.
- Đổi mới phương pháp đào tạo, lấy rèn luyện kỹ năng nghề của người lao động trong doanh nghiệp để điều chỉnh phương pháp đào tạo.- Nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên trên cơ sở tích hợp kiến thức ( lý thuyết, trình độ sư phạm và năng lực thực hành nghề) và có chính sách đặc thù đối với giáo viên doanh nghiệp. Hiện nay giảng viên doanh nghiệp còn yếu về năng lực thực hành.
- Cần có cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan nhà nước về lao động với đại diện giới chủ, đaị diện giới thợ,đại diện của các hội nghề nghiệp và cơ sở dạy nghề trong việc xác định nhu cầu của doanh nghiệp về lao động.- Xây dựng trung tâm phân tích, dự báo nhu cầu thị trường lao động.- Tăng cường hợp tác với các nước đặc biệt là các nước trong khu vực để tiếp cận chuẩn quốc tế và chuẩn khu vực về kỹ năng nghề.Đối với cơ sở dạy nghề và doanh nghiệp:
- Cơ sở dạy nghề phải gắn với doanh nghiệp trong quá trình đào tạo: Doanh nghiệp tham gia xây dựng tiêu chuẩn, kỹ năng nghề, thiết kế chương trình và tham gia giảng dạy, đánh giá kết quả học tập của người học nghề... Cơ sở dạy nghề dạy lý thuyết, doanh nghiệp đào tạo kỹ năng nghề, kèm cặp tại doanh nghiệp.
- Cơ sở dạy nghề phải chủ động điều tra để có được thông tin về nhu cầu của doanh nghiệp ( nghề, trình độ, mức độ kỹ năng...) để tổ chức đào tạo phù hợp.
- Doanh nghiệp có trách nhiệm cung cấp thông tin cho cơ sở dạy nghề về nhu cầu về lao động.
Bên cạnh việc quán triệt quan điểm đào tạo như trên, trong công tác giáo dục đào tạo chúng ta phải thực hiện công tác xã hội hóa giáo dục đào tạo nhằm tăng hiệu quả trong việc cải thiện bộ máy, cơ sở đào tạo cũng như cải cách nội dung đào tạo theo hướng ngày càng khoa học và phù hợp hơn
Xã hội hóa giáo dục không chỉ đơn thuần là một cuộc đại cải cách hệ thống giáo dục - đào tạo Việt Nam mà về bản chất, nó là một trong những nội dung quan trọng nhất trong chiến lược hoạch định tương lai đất nước. Vì thế, xã hội hóa giáo dục là nhiệm vụ chung của toàn xã hội chứ không thuộc về riêng bất kỳ một bộ, ngành hay cơ quan nào. Đó là một sự nghiệp thiêng liêng, cốt tử bởi xã hội hóa giáo dục sẽ tạo ra đội ngũ trí thức – những người tạo nên dòng phát triển chính lưu của xã hội, thẩm định tính hợp lý của dòng chính lưu ấy và cải cách nó từng ngày, từng giờ nhằm thích ứng với những thay đổi của thế giới.
Để phát triển một cách đúng hướng, chúng ta phải cải cách giáo dục đào tạo theo nguyên tắc trên. Việc quan trọng đầu tiên là chúng ta phải tạo hành lang pháp lý đầy đủ và đồng bộ để xã hội hóa giáo dục phát triển đúng hướng, đặc biệt là đảm bảo được định hướng xã hội chủ nghĩa
Thứ hai chúng ta cần đảm bảo sự cân bằng, hài hoà giữa quyền tự chủ với trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục ngoài công lập
Thứ ba: Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra của cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục. Bên cạnh đó cần tăng cường vai trò giám sát xã hội Vai trò giám sát xã hội là rất quan trọng.
Tăng cường thu hút đầu tư trong nước, nhưng vẫn đảm bảo vai trò chủ động của Nhà nước. Thu hút đầu tư nước ngoài, nhưng vẫn giữ vững bản sắc giáo dục Việt Nam Bàn về bản sắc giáo dục Việt nam, chắc sẽ là một đề tài lớn. Muốn nhấn mạnh đến yêu cầu giữ vững chủ quyền khi các đối tác nước ngoài tham gia hoạt động giáo dục ở nước ta. Những yêu cầu cụ thể về chương trình sách giáo khoa ở bậc học phổ thông phải đảm bảo là chương trình và sách giáo khoa nhằm giáo dục con người Việt Nam để trở thành công dân có ích cho đất nước.
Trên đây là các quan điểm, nguyên tắc nhằm tăng chất lượng giáo giục đào tạo Việt nam hiện nay. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực song song với các biện pháp nhằm nâng cao sức khỏe cho người lao động, chúng ta cần nâng cao trình độ văn hóa và trình độ chuyên môn kỹ thuật cho họ, bên cạnh đó cần tạo một môi trường lao động tốt để người lao động có thể phát huy tối đa khả năng làm việc của bản thân. Trong vấn đề nâng cao trình độ chung cho nguồn nhân lực chúng ta phải thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao chất lượng giáo giục phổ thông, và sau phổ thông. Cụ thể như sau:
Nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông nhằm nâng cao trình độ văn hóa
Như ta đã biết, trình độ văn hóa nguồn nhân lực chính là sự hiểu biết của người dân trong độ tuổi lao động đối với những kiến thức phổ thông. Như vậy nó là hiểu biết của người lao động tiếp thu được sau khi được đào tạo trong các trường tiểu học, trung học cơ sỏ và trung học phổ thông. Để nâng cao trình độ văn hóa của người dân nói chung và trình độ văn hóa của những người trong độ tuổi lao động nói riêng, chúng ta phải có giải pháp thích hợp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy của hệ thống giáo dục đào tạo. Bởi hệ thống giáo dục đào tạo không những ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng giảng dạy, mức độ tiếp thu của học sinh mà nói còn anh hưởng đến phẩm chất đạo đức, sự tự tin và tính năng động cho học sinh trước khi tham gia học tập kiến thức chuyên môn kỹ thuật
Thứ nhất: Đổi mới mục tiêu chương trình và công tác giảng dạy hiện nay:
Mục tiêu của giáo dục đào tạo là yếu tố thay đổi theo từng cấp học, đối với mỗi độ tuổi chúng ta phải đặt ra một mục tiêu khác nhau phù hợp với mỗi lứa tuổi, cấp học của học sinh. Mục tiêu của đào tạo phổ thông phải gắn với việc chuẩn bị nền tảng học vấn phổ thông, kỹ năng cơ bản để học sinh có đủ tự tin, lập trường cũng như khả năng sáng tạo của bản thân. Tóm lại giai đoạn học phổ thông có ý nghĩa vô cùng quan trọng, là giai đoạn học tập trình độ văn hóa, trau dồi đạo đức để chuẩn bị bước sang giai đoạn đào tạo nghề sau này
Thứ hai: Về nội dung chương trình giáo dục
Hiện nay chương trình học của chúng ta đang tồn tại nhiều bất cập, trong khi chương trình học của học sinh thì quá nặng, Bộ Giáo dục-Đào tạo lại không dám hạ thấp sợ lạc hậu, điều này dẫn đến việc cả thầy và trò đều bị áp lực rất lớn
Cải cách nội dung sách giáo khoa theo hướng đưa nhiều dẫn chứng thực nghiệm vào trong nội dung giảng dạy, tăng tính thực dụng và giảm tính lý thuyết. Hướng cho học sinh nắm bắt được một lĩnh vực chuyên môn cụ thể ngay trong thời gian còn đi học phổ thông bằng cách ngay từ lớp 6 đã phải có định hướng cho học sinh học thiên về một lĩnh vực nghiên cứu, và sang cấp 3 là định hướng cho nghề nghiệp sau này.
Bên cạnh đó tăng cường bồi dưỡng cho thế hệ trẻ lòng yêu nước, yêu quê hương và gia đình; tinh thần tự tôn dân tộc, lý tưởng xã hội chủ nghĩa; lòng nhân ái, ý thức tôn trọng pháp luật; tinh thần hiếu học, chí tiến thủ lập thân, lập nghiệp
Thứ ba: Về phương pháp giảng dạy
Phương pháp giảng dạy là yếu tố liên quan trực tiếp đến chất lượng giáo dục, một người thầy giỏi là một người có phương pháp truyền đạt khoa học, học sinh dễ tiếp thu. Cải cách giáo dục không chỉ dừng lại ở việc cải cách sách giáo khoa, mà qua đây chúng ta cũng phải cải cách cả phương pháp giảng giạy càng ngày càng khoa học hơn
Đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng phát huy tư duy sáng tạo và năng lực tự học của học sinh. Thầy cô giáo phải là người hướng cho học sinh để học sinh tự tìm tòi học hỏi. Tăng cường việc nghiên cứu các phương tiện trợ giảng để nâng cao chất lượng giờ học, hướng dẫn học sinh phương pháp tìm kiếm tài liệu để học sinh tự nhiên cứu. Tăng tính tự tin năng động cho học sinh bằng các buổi thuyết trình, làm việc nhóm, thảo luận, đi tham quan thực tế tại các xí nghiệp… Tuy nhiên, ngoài việc học, nhà trường phải rất chú trọng thái độ ứng xử ngoài đời của học sinh. Tập cho học sinh có thói quen ganh đua về chính mình để tiến bộ. Trường chỉ cho học sinh biết kiểm điểm chính mình để học sinh giỏi không tự kiêu, học sinh yếu không tự ti.
Thứ tư: Tổ chức các buổi hướng nghiệp cho học sinh phổ thông trung học để học sinh lựa chon các lĩnh vực nghề nghiệp theo thế mạnh và niềm đam mê của bản thân học sinh.
Thứ năm: Không ngừng công tác nâng cao trình độ cho đội ngũ giáo viên bằng các buổi học chuyên đề, học tại chức…Cập nhật kịp thời những thay đổi trong phương pháp dạy học, trong nội dung chương trình học tới từng giáo viên. Bồi dưỡng giáo viên để tạo cho mỗi trường, mỗi cơ sở đào tạo có những giáo viên cốt cán. Việc này phải được quan tâm một cách thường xuyên hơn, những người thầy người cô trước hết phải gương mẫu trong cuộc sống cũng như trong công tác học tập, họ phải là những tấm gương cho học sinh về ý chí, tinh thần ham học hỏi, học không ngừng. Bên cạnh đó nâng cao công tác quản lý giáo dục đào tạo từ trung ương đến địa phương. Nâng cao hiệu quả quản lý của các sở, các phòng giáo dục đào tạo. Phân cấp quản lí giáo dục từ Trung ương đến địa phương phải được thực thi như tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, thể hiện trong chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 và chiến lược 10 năm cải cách hành chính là tạo thế chủ động cho ngành trên cả ba mặt: Chuyên môn, Tài chính, và tổ chức cán bộ. Tách rời và thiếu tính chủ động trên cả ba vấn đề lớn đó nhất định ảnh hưởng lớn đến sự điều hành của giáo dục, dẫn đến ảnh hưởng tới chất lượng giáo dục
Thứ sáu: Sử dụng nguồn vốn giáo dục đào tạo một cách hợp lý:
Ngân sách nhà nước cho giáo dục đào tạo trong những năm qua không ngừng tăng lên. Sử dụng các nguồn vốn này phải gắn với nhu cầu thực tiễn, mở rộng hệ thống trường học tại những vùng khó khăn chưa có trường học, nâng cao mức lương và đãi ngộ đối với giáo viên để đảm bảo cuộc sống vật chất cho họ. Bên cạnh đó phải đầu tư cho việc tăng cường đầu tư trang thiết bị giáo dục cho học sinh tiếp cận với việc thực hành trên lớp, phổ cập tin học cho học sinh ngay từ những năm học trung học cơ sở……
Nâng cao chất lượng trong đào tạo chuyên môn kỹ thuật:
Nâng cao chất lượng đào tạo Đại học-Cao đẳng và Trung học chuyên nghiệp:
Giáo dục đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp giữ vai trò chủ đạo trong toàn bộ hệ thống giáo dục vì nó trực tiếp tác động đến trình độ phát triển của khoa học và công nghệ, cũng như trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động. Việc nâng cao chất lượng đào tạo của hệ thống này có vai trò to lớn trong việt tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước vốn đang là yêu cầu rất bức thiết hiện nay.
Đào tạo phải gắn với nhu cầu thực tế, vấn đề Thừa “ngọn”, thiếu “gốc” đang là khó khăn rất lớn cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước trong giai đoạn hiện nay , bởi chính sự bất cập trong cung- cầu nguồn nhân lực với chất lượng “cung” không đáp ứng được đòi hỏi của cầu”. Song song với vấn đề đó là việc thị trường lao động Việt Nam đang đứng trước nghịch lý "dồi dào nhưng vẫn khan hiếm", đặc biệt là tình trạng thiếu trầm trọng nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng sự phát triển của nền kinh tế-xã hội. Dựa trên quan điểm “đào tạo phải gắn với nhu cầu thực tế” là cơ sở để chúng ta đưa ra nhiều hướng giải pháp cho công tác giáo dục đào tạo trong nhà trường. Sau đây là một số giải pháp nhằm tăng cường chất lượng đào tạo
- Vấn đề thi tuyển đầu vào: Mặc dù chất lượng của đào tạo đại học được bắt đầu từ giáo dục phổ thông, nhưng vấn đề tuyển sinh đầu vào cũng là một yếu tố quyết định đến chất lượng đào tạo của các trường sau này. Để đảm bảo chất lượng đào tạo của mình các trường phải trực tiếp chịu trách nhiệm về chất lượng đào tạo của mình trước xã hội chứ không phải Bộ chịu trách nhiệm cho trường.
Công tác quy định môn thi vào các trường đào tạo phải hợp lý để nâng cao chất lượng đầu vào và hiệu quả đào tạo sau này, hiện nay còn tồn tại nhiều bất cập về vấn đề quy định môn thi của các trường. Ví dụ ba môn thi tuyển sinh đầu vào là Toán, Lý, Hóa nhưng trong quá trình đào tạo thì hầu như không sử dụng hoặc sử dụng rất ít các kiến thức liên quan tới môn Lý và Hóa học. Vì vậy cần phải hợp tăng cường nghiên cứu để hợp lý hóa các môn thi tuyển sinh đầu vào. Khối kinh tế là khối cần nhiều kiến thức về ngoại ngữ nên đưa môn thi ngoại ngữ vào một trong ba môn thi tuyển sinh.
- Chương trình đào tạo: Một chương trình đào tạo thiên lệch không thể không ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo, thậm chí ảnh hưởng cả đến quá trình hội nhập giáo dục, xu hướng tất yếu của thời đại hiện nay. Từ năm học 2004 – 2005, các trường đại học đã xây dựng lại chương trình đào tạo theo hướng dẫn của Bộ Giáo dục & Đào tạo theo tinh thần giảm tải. Điều đó nói lên những nỗ lực rất lớn của Bộ Giáo dục & Đào tạo trong việc cải thiện công tác quản lý giáo dục, song chương trình đó vẫn còn nhiều bất cập. Những môn học thuộc kiến thức ngành và chuyên ngành chỉ được gói gọn trong 55% thời lượng là quá ít. Chịu trách nhiệm chính về khối kiến thức chuyên ngành là ở cấp bộ môn, nhưng cấp này chỉ được quyền chi phối đến 20% số đơn vị học tập. Giải pháp trong thời gian tới là Bộ Giáo dục & Đào tạo hãy giao thêm quyền cho các trường, trường giao thêm quyền cho cấp bộ môn và như thế mới có điều kiện cho sinh viên được quyền tham gia lựa chọn những kiến thức, môn học mang tính kỹ năng nào mà sinh viên thích.
- Về giáo trình: Thiếu sách, giáo trình, tài liệu cũng là một sự không đồng bộ với đòi hỏi chất lượng đào tạo cao. Kinh nghiệm của các nước phát triển và mới phát triển như Nhật, Singapore, Hàn Quốc, Trung Quốc … thì để nhanh chóng có nhiều tài liệu tham khảo, giáo trình cho sinh viên hãy đầu tư cho dịch thuật song song với việc đầu tư tự viết. Kinh nghiệm các nước cũng cho thấy đầu tư cho dịch thuật đem lại kết quả nhanh hơn và hiệu quả cao hơn so với đầu tư tự viết ở các nước kém phát triển, nhanh chóng làm phong phú nguồn tài liệu học tập cho sinh viên. Bên cạnh đó, cần xem xét khả năng nhập khẩu chương trình đào tạo như một số nước đã làm và đã thành công. Hiện nay chúng ta có nhiều sách tham khảo, giáo trình chất lượng chưa cao còn do khâu quản lý, như khâu cấp giấy phép xuất bản, khâu nghiệm thu… và điều đó cũng ảnh hưởng không tốt đến chất lượng đào tạo.
- Về phương pháp giảng dạy:
Để phương pháp giảng dạy mới được áp dụng thì quy mô lớp học phải tối đa là 50 sinh viên, lý tưởng là 30 – 35, trong thực tế rất ít có lớp học như vậy, mà có khi lên đến 100 – 150 sinh viên. Những lớp học quá đông sinh viên, việc áp dụng phương tiện giảng dạy hiện đại như dùng đèn chiếu hoặc projector cũng kém hiệu quả (mà sinh viên đã có nhiều phản ánh) nguyên nhân là do sinh viên đang chưa quen với cách học này. Vì vậy cần tăng cường công tác tập cho sinh viên phương pháp nghiên cứu khoa học, phương pháp học mới là học ở nhà trường, tự học ở thư viện và ở nhà, ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy trở thành một thói quen, học tập qua mạng cũng là một phương pháp học mang lại hiệu quả mà nhiều quốc qia phát triển đang áp dụng. Đồng thời phân nhỏ lớp học và học và học theo kiểu sinh viên đối thoại với giảng viên. Điều này làm tăng khả năng tự lập trong suy nghĩ và tăng tính tự tin, năng động cho sinh viên sau khi tốt nghiệp
- Về nguồn tài chính: Việt nam được xem là một trong những quốc gia có chi phí để học đại học, cao học và cả nghiên cứu sinh rẻ nhất thế giới. Nếu so sánh chi phí đó với mức lương công chức, lương tối thiểu thì hợp lý, nhưng nếu với mức học phí hiện tại thì tất yếu sẽ kéo theo hàng loạt sự không đồng bộ: lương giáo viên thấp, nhà trường và cả Nhà nước không có tiền để đầu tư cho phương tiện thiết bị như phòng thí nghiệm, xưởng thực hành, cho thư viện, cho phòng đọc … sẽ lại là vòng luẩn quẩn: chất lượng đào tạo thấp, kém hiệu quả.
Giải pháp cho vấn đề này là Bộ Giáo dục và Đào tạo cần nhanh chóng xem xét giải pháp tăng học phí của tất cả các cấp đào tạo từ đại học trở lên. Thứ hai, cần thực sự khuyến khích các nhà đầu tư đầu tư đào tạo đại học và sau đại học chứ không chỉ dừng lại ở chủ trương như hiện nay, nhanh chóng thực hiện xã hội hóa đào tạo đại học, trên cơ sở đó nhanh thực hiện chủ trương giảm tỉ lệ sinh viên thuộc các trường đại học công lập và tăng tỉ lệ sinh viên hệ ngoài công lập như ở nhiều nước trên thế giới.
Trên đây chỉ là một số biện pháp góp phần nâng cao chất lượng đào tạo đại học ở Việt nam. Hy vọng đóng góp phần nào vào sự nghiệp cải cách giáo dục, đào tạo tại Việt nam, qua đó nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo điều kiện để Việt nam có thể bước những bước đầu tiên trên con đường hội nhập quốc tế.
Nâng cao chất lượng đào tạo nghề tại các trung tâm dạy nghề trên cả nước
Thi vào đậu vào các trường Đại học, Cao đẳng hay Trung học chuyên nghiệp không phải là con đường duy nhất để học tập kiến thức chuyên môn kỹ thuật cho người lao động. Đào tạo nghề trong nhiều năm qua cũng đã có nhiều bước đột phát cung cấp một lượng công nhân, kỹ sư cho đất nước, tăng cường thu hút đào tạo nghề có ý nghĩa rất lớn đến việc tăng tỷ lệ đào tạo trong lực lượng lao động bởi vì trong thực tế không phải ai cũng có điều kiên hoặc nhu cầu học tập ở các trường chuyên nghiệp. Tăng cường đào tạo nghề cũng là một giải pháp mang tính then chốt để giải quyết vấn đề trang bị kiến thức kỹ thuật của mình cho công việc sau này
Để nâng cao hiệu quả thu hút và đào tạo nghề trong cả nước cần có một hệ thống các trung tâm đào tạo nghề trọng điểm. Không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy trên cơ sở các chuẩn mực đã đạt được xác định nhằm tạo ra đội ngủ cán bộ chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển kỹ thuật nghề nghiệp trong thời gian tới
Cũng như công tác đào tạo chính quy, công tác đào tạo tại các cơ sở đào tạo nghề phải thực hiện chuyển mạnh dạy nghề từ hướng cung sang hướng cầu của thị trường lao động. Tập trung nguồn lực hình thành hệ thống các cơ sở trọng điểm ở các vùng, các ngành kinh tế trọng điểm để đào tạo đội ngũ lao động kỹ thuật trình độ cao đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó phải không ngừng củng cố và phát triển những cơ sở đào tạo chuyên ngành để phục vụ cho những nhu cầu đặc thù của một số ngành; đồng thời tiến hành kiểm định chất lượng các cơ sở dạy nghề. Đổi mới chương trình đào tạo theo hướng mềm dẻo, tích hợp và linh hoạt, phù hợp với sự thay đổi công nghệ của doanh nghiệp. Đổi mới phương pháp đào tạo, lấy rèn luyện kỹ năng nghề của người lao động trong doanh nghiệp để điều chỉnh phương pháp đào tạo.
Hoàn thiện cơ chế -chính sách về phát hiện và đào tạo nhân tài
Nhân tài là nguyên khí quốc gia, là tài sản vô giá của dân tộc của quốc gia mà mọi người dân trong cộng đồng dân tộc đều có thể tự hào về họ. Vì vậy chủ trương phát hiện, tạo điều kiện bồi dưỡng cho nhân tài phát triển là điều quá đúng trong đường lối Giáo dục của Đảng ta, Nhà nước ta: Nâng cao dân trí, Đào tạo nhân lực, Bồi dưỡng nhân tài. Vì thế trong chính sách phát hiện và đào tạo nhân tài là giải pháp mang tính đột phá trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước. Để làm được điều này chúng ta phải có những giải pháp lớn mang tầm quốc gia về công tác thu hút, đào tạo, bồi dưỡng nhân tài
Trước hết, cần tính đồng bộ trong các cơ chế-chính sách, nhằm hướng đến và cân bằng những yếu tố tạo điều kiện cho năng khiếu và tài năng: yếu tố tâm lý - giáo dục - môi trường.
Sau đó, cần cụ thể hóa bằng việc đưa vào hệ thống luật những định hướng trên. Đưa vào luật thì mới có khả năng thực thi liên tục, mà không phải là những giải pháp ngắn hạn.
Sách lược về nhân tài khó có thể tách riêng thành một bộ luật độc lập, mà nên định hướng như nội dung hàm chứa trong các bộ luật liên quan, từ vấn đề gia đình, giáo dục - đào tạo đến luật về lao động, công chức, hình sự….
Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống
Chất lượng cuộc sống là yếu tố quyết định tới vấn đề sức khỏe người lao động, không những thế chất lượng cuộc sống còn ảnh hưởng lớn đến khả năng tiếp cận các dịch vụ giáo dục đào tạo của người dân, chỉ có đầy đủ về điều kiện ăn uống cơ bản thì người dân mới có cơ hội và thời gian để tham gia vào việc học tập nâng cao hiểu biết, như vậy nó có ảnh hưởng không những trực tiếp đến tình trạng sức khỏe mà còn gián tiếp tác động tới trình độ văn hóa người dân.
Nâng cao thể lực người lao động trước hết phải nâng cao chất lượng cuộc sống cho họ. Không những phải đảm bảo chế độ dinh dưỡng, chế độ làm việc mà ngoài ra chúng ta phải quan tấm tới các vấn đề tinh thần, tâm lý của họ, xây dựng môi trường sống trong lành, ít ô nhiễm vừa là biện pháp tăng thể lực cho người lao động, vừa là biện pháp nhằm giảm bệnh tật của người dân, đặc biệt là người lao dộng.
Để làm được điều này chúng ta phải tăng cường hơn nữa công tác xóa đói giảm nghèo, nâng cao hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói, giảm nghèo cho các vùng núi, vùng sâu vùng xa vv. Tạo điều kiện cho họ trong việc thoát khỏi cái đói, cái nghèo.
Bên cạnh đó nhà nước phải tăng cường hơn nữa các chương trình hỗ trợ nâng cao chất lượng cuộc sống, tạo công ăn việc làm cho người lao động ở các vùng sâu, vùng xa, các vùng dân tộc miền núi, nhằm giảm khoảng cách chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, miền núi. Các chương trình này mang ý nghĩa là các chương trình mục tiêu trọng điểm quốc gia như Chương trình 135 giai đoạn 2, Chương trình hỗ trợ cho người nghèo vay vốn làm ăn …
Giải pháp cải thiện môi trường xã hội, môi trường làm việc thuận lợi, nhằm khai thác, sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực
Môi trường xã hội, môi trường làm việc thuận lợi có ảnh hưởng tích cực đến chất lượng nguồn nhân lực. Tạo tinh thần thoải mái và không khí thi đua làm việc, nhờ đó mà năng suất lao động cũng được nâng cao. Bên cạnh đó việc sử dụng nhân tài hợp lý, sử dụng đúng người đúng việc giúp người lao động có điều kiện để phát huy sở trường trong công việc,
Để tạo được điều đó, trước hết cần tạo được một thị trường lao động lành mạnh, linh hoạt. Trước hết chúng ta phải hoàn thiện và phát triển hệ thống giao dịch thị trường lao động. Trong thị trường lao động, để cung - cầu lao động gặp nhau nhanh chóng, cần có các tổ chức giới thiệu việc làm, tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp và người lao động, giảm thiểu chỗ làm việc trống và người thất nghiệp. Tập trung đầu tư và hoàn thiện 3 trung tâm giới thiệu việc làm ở 3 vùng kinh tế trọng điểm (Bắc, Trung, Nam) đạt tiêu chuẩn các nước trong khu vực; đồng thời, quy hoạch và đầu tư hệ thống cơ sở giới thiệu việc làm ở địa phương, sử dụng công nghệ thông tin hiện đại để thực hiện giao dịch lành mạnh và hiệu quả.
Trong vấn đề thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực chúng ta cần chú trọng đến vấn đề chú trọng hoàn thiện các chế độ lương bổng và phúc lợi, chế độ khen thưởng, chế độ điều động và đề bạt.
- Chế độ lương bổng và phúc lợi được thiết lập trên cơ sở: (a) phù hợp với trình độ đào tạo; (b) phù hợp với thâm niên công tác, cấp bậc và chức vụ được giao; (c) phù hợp với đặc điểm nghề nghiệp của từng ngành; (d) tăng tương ứng với sự phát triển kinh tế và sự gia tăng giá cả v.v...
- Chế độ khăn thưởng: phải kịp thời, đúng lúc cho (a) cá nhân/đơn vị hoàn thành nhiệm vụ đạt hiệu quả cao; (b) cá nhân/đơn vị có sáng kiến hoặc giải pháp (đột xuất, độc đáo) đem lại lợi ích lớn cho xã hội, không phân biệt đó là cán bộ lãnh đạo hay nhân viên; (c) khen thưởng các sinh viên, cán bộ khoa học - kỹ thuật được gửi đi đào tạo ngoài nước hoàn thành tốt nhiệm vụ và trở về nước phục vụ; (d) khen thưởng các đơn vị/tổ chức có những cống hiến tốt cho xã hội và nhân dân, không phân biệt ở trong hay ngoài nước.
- Chế độ điều động và đề bạt cán bộ cần thực hiện trên cơ sở công khai, khách quan và vô tư. Việc điều động, luân chuyển cán bộ nhằm đưa những người giỏi, có năng lực về phục vụ cho các địa phương gặp nhiều khó khăn. Việc điều động nhân sự đòi hỏi phải đưa đúng người về đúng nơi có nhu cầu, trong đó bao gồm cả các cán bộ lãnh đạo lẫn các chuyên viên quản lý hành chính, chuyên viên khoa học - kỹ thuật. Song song với chế độ điều động cần có chế độ đề bạt hợp lý (cả về chức vụ lẫn lương bổng – phúc lợi) để khuyến khích và tạo niềm tin cho những người được điều động để họ ra sức cống hiến cho nhiệm vụ được giao. Chế độ điều động nhân sự nếu được thực hiện tốt sẽ góp phần tích cực trong việc rút ngắn khoảng cách biệt giữa nông thôn và thành thị, khoảng cách biệt giữa các thành phố lớn và thành phố nhỏ.... Đây cũng là giải pháp hữu hiệu nhằm khắc phục nạn “chảy máu chất xám” trong nước (internal brain drain), tạo nên sự cân bằng nhất định giữa các địa phương với nhau và qua đó giúp cho sự phát triển của quốc gia ngày càng hữu hiệu hơn.
Giải pháp thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao từ bên ngoài
Do đặc điểm lịch sử của đất nước, hiện nay có khoảng 2 triệu người Việt nam sinh sống ở nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới, trong số này có rất nhiều nhà khoa học, kỹ thuật Việt nam đạt thành tích cao trong khoa học. Đây là nguồn chất xám rất đáng trân trọng. Mặt khác, với chính sách mở cửa và hội nhập của Đảng và Nhà nước Việt nam, hiện nay ngày càng có nhiều thanh niên, học sinh, sinh viên Việt nam đang lao động hoặc học tập tại các nước tiên tiến. Do vậy, cần đẩy mạnh chính sách thu hút tri thức Việt kiều, thu hút các lưu học sinh và lao động sau khi hoàn tất nhiệm vụ trở về phục vụ Tổ quốc. Công việc này có thể tiến hành dưới nhiều hình thức khác nhau: trở về nước sinh sống và làm việc, trở về nước phục vụ trong một thời gian nhất định, hoặc vẫn sống ở nước ngoài nhưng tham gia tư vấn, tham mưu, kiêm nhiệm v.v...
Bên cạnh việc thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn lực trong nước thì cần quan tâm hơn nữa tới các chính sách thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực được đào tạo ở ngoài ,điều này có ý nghĩa lớn lao trong việc bổ sung tri thức, chia sẻ kinh nghiệm và hỗ trợ nhau trong phát triển khoa học, công nghệ giúp Việt nam có thể đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh, tiếp cận trình độ phát triển quốc tế.
KẾT LUẬN
Việt nam trong thời gian qua đã giành được nhiều thành tựu quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh. Song đứng trước yêu cầu về sử dụng và phát huy hiệu quả các nguồn nhân lực xã hội cho mục tiêu CNH-HĐH rút ngắn của nước ta hiện nay thì đang tồn tại nhiều bất cập. Trong đó bất cập về chất lượng nguồn nhân lực, nguồn lực có vai trò quyết định trong hệ thống các nguồn lực xã hôi là vấn đề có tính bức bách nhất và cần phải kịp thời khắc phục
Với quan điểm Chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố giữ vai trò quyết định trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước trong thời gian qua chúng ta đã có rất nhiều chính sách nhằm nâng cao chất lượng nhân tố con người, và thực tế hiện nay chất lượng nguồn nhân lực cũng được nâng lên rõ rệt, đáp ứng được phần nào nhu cầu phát triển. Song với thực trạng hiện nay chúng ta vẫn thiếu cả về số lượng lẫn yếu về chất lượng, thiếu hụt một cách trầm trọng nguồn nhân lực chất lượng cao, đội ngủ quản lý giỏi..Với tính cấp thiết của vấn đề phải nâng cao chất lượng nguồn lực con người nên tôi đã nghiên cứu đề tài về các giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đề tài đã giải quyết được một số vấn đề chính sau
Đề tài đã tìm hiểu rõ hơn về cách tiếp cận các khái niệm về nhân tố con người, nhận thấy được sự khác giữa các cách tiếp cận của Việt nam và thể giới. Đồng thời qua việc phân tích thực trạng về chất lượng nguồn nhân lực hiện nay, để từ đó phân tích những yếu tố lợi thế cũng như hạn chế của nguồn nhân lực, nguyên nhân chính dẫn đến các hạn chế đó. Trên cơ sở các phân tích đó đề tài đã nghiên cứu một số giải pháp mang tính định hướng nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Với sự nỗ lực của bản thân, cùng sự giúp đỡ tận tình của giáo viên hướng dẫn PGS,TS Lê Huy Đức, Anh Nguyễn Khắc Huy cùng các anh chị tại Cục Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa-Bộ KH-ĐT tôi đã hoàn thành đề tài của mình, qua đây tôi xin chân thành cảm ơn Thầy Đức, Anh Huy và những người đã tận tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực tập vừa qua. Tuy có nhiều cố gắng song do hạn chế về số liệu cũng như khả năng của bản thân nên chắc chắn không tránh khỏi nhiều thiếu sót, mong nhận được sự góp ý của các thầy cô và các bạn để đề tài có thể hoàn thiện hơn
KIẾN NGHỊ
Với yêu cầu về việc nâng cao chất lược nguồn nhân lực đáp ứng cho nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nươc mà thực tế đã đặt ra, việc phát triển nguồn lực con người là giải pháp mang tính chất đột phá nhằm giúp chúng ta thực hiện mục tiêu rút ngắn của mình. Thực tế hiện nay chúng ta đang tồn tại nhiều bất cập trong các công tác nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trên cơ sở phân tích các lợi thế, khó khăn hiện nay tôi xin đưa ra một số kiến nghị sau :
Trong vấn đề tiền lương cho người lao động, trong nhiều năm qua Nhà nước ta đã có nhiều cải cách trong vấn đề tiền lương. Tuy nhiên hiện nay còn tồn tại nhiều bất cập trong mức tiền lương tối thiểu, hệ số lương của bộ phận cán bộ nhà nước..Kiến nghị đưa ra là nâng mức lương tối thiểu lên cao hơn hiện tại. Bên cạnh tiền lương cần tăng cường phụ cấp, trợ cấp theo hệ số lương cho từng đối tượng, đặc biệt là các đối tượng làm việc tại khu vực nông thôn, các vùng núi khó khăn…
Trong vấn đề thu học phí giáo dục đào tạo. nâng cao học phí là biện pháp nhằm tăng cường nguồn thu cho việc nâng cao chất lượng giảng dạy, tuy nhiên mặt trái của nó là việc những học sinh khó khăn ít có cơ hội tiếp cận các dịch vụ giáo dục. Nhà nước phải có chính sách thu học phí hợp lý. Tăng thu học phí song song với việc tăng các chính sách hỗ trợ học sinh sinh viên có hoàn cảnh khó khăn, tăng học bổng nhằm tăng nỗ lực phấn đấu cho sinh viên, Trong năm qua nhà nước đã có chính sách cho sinh viên vay vốn phục vụ cho nhu cầu học tập, chính sách đã có tác động tích cực tới việc tạo điều kiện cho các sinh viên gia đình khó khăn không đủ khă năng chu cấp cho con học đại học, song với mức vay 800 nghìn đồng một tháng, 8 triệu một năm là quá ít, kiến nghị trong thời gian tiếp theo sẽ nâng cao mức cho vay tối thiểu là 1 triệu đồng một tháng nhằm tạo điều kiện cho sinh viên có điều kiện học tập tốt hơn, nhất là bộ phận sinh viên nghèo
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Phạm Minh Hạc (chủ biê ) (1996), vấn đề con người trong CNH-HĐH , NXB chính trị quốc gia hà nội.
Phạm Minh Hạc (chủ biên) (2001), về phát triển toàn diện con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, NXB chính trị quốc gia hà nội.
Đỗ Mười; Vấn đề CNH-HĐH đất nước
CNH-HĐH ở Việt nam, lý luận và thực tiễn; NXB chính trị quốc gia Hà nội 2002
Bộ lao động – thương binh và xã hội (2006) , niên giám thống kê lao động – thương binh và xã hội 2006, NXB lao động xã hội, Hà nội.
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2007), số liệu thống kê lao động – việc làm ở việt nam 2006, NXB lao động – xã hội 2007
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (1998), tác động của những biến đổi kinh tế đến sự phát triển nguồn nhân lực, việc làm và khu vực phi kết cấu ở việt nam và đông nam á, nxb lao động. 1998
Bộ Kế hoạch Đầu tư; Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội Việt nam giai đoạn 2001-2010 và tầm nhìn 2020
Tổng cục thống kê ( 2007 ), số liệu thống kê dân số và kinh tế – xã hội việt nam 2007
Viện chiến lược phát triển (2001), cơ sở khoa học của một số vấn đề trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội việt nam đến năm 2010 và tầm nhìn 2020, NXB chính trị quốc gia hà nội
Chương trình phát triển của liên hiệp quốc (2006), báo cáo phát triển con người 2006: công nghệ mới vì sự phát triển con người, NXB chính trị quốc gia Hà nội
Vũ Hy Chương ( chủ biên ) (2002), vấn đề tạo nguồn lực tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, NXB chính trị quốc gia Hà nội
Đỗ Minh Cương- Nguyễn Thị Doan (2001), phát triển nguồn nhân lực giáo dục đại ; Phạm Tất Dong ( 2001), định hướng phát triển đội ngũ trí thức việt nam trong thời kỳ CNH-HĐH , NXB chính trị quốc gia Hà nội
Đỗ Hoài Nam; Một số vấn đề về CNH-HĐH ở Việt nam; NXB chính trị quốc gia 2006
Giáo trình kinh tế phát triển-Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Giáo trình Dự báo phát triển kinh tế xã hội- Trường đại học Kinh tế quốc dân
N.G.Mankiw (1999), kinh tế vĩ mô, trường Đại học Kinh tế quốc dân, NXB Thống kê hà nội
Giáo trình Kinh tế lao động-Trường Đại học kinh tế Quốc dân
Thời báo kinh tế Việt nam: vneconomy.com
Các trang web của các Bô, các ban ngành:Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Thương binh và xã hội, Bộ Công nghiệp, vv
DANH MỤC VIẾT TẮT
CNH - HĐH : Công nghiệp hoá hiện đại hoá
CMKT : Chuyên môn kỹ thuật
KHCN : Khoa học công nghệ
GD- ĐT : Giáo dục đào tạo
GDP : Tổng sản phẩm quốc nội
HDI : Chỉ số phát triển con người
SDD : Chỉ số người gầy
UNDP : Chương trình phát triển của liên hợp quốc
UNIDO : Tổ chức công nghiệp
ILO : Tổ chức lao động thế giới
CĐ/THCN/CNKT : Cao đẳng/Trung học chuyên nghiệp/Công nhân kỹ thuật
OCED : Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế - câu lạc bộ các nước giàu)
MỤC LỤC
DANH MỤC VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ HÌNH VẼ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28920.doc