Đề tài Nâng cao chất lượng thẩm định dự án trung, dài hạn tại chi nhánh ngân hàng công thương Bãi Cháy

Chúng ta biết rằng hệ thống chính sách của Nhà nước ảnh hưởng và chi phối tất cả các lĩnh vực xã hội như kinh tế, chính trị, văn hoá, tôn giáo, môi trường. Một sự thay đổi dù lớn hay nhỏ trong chính sách của Nhà nước ngay lập tức sẽ tác động đến toàn xã hội. Công tác thẩm định dự án đầu tư cũng không phải là ngoại lệ, nó luôn bị chi phối bởi các chính sách vĩ mô ở các mức độ khác nhau. Do vậy, để nâng cao công tác thẩm định dự án đầu tư trung và dài hạn không chỉ có lỗ lực của riêng Ngân hàng mà phải có sự trợ giúp đỡ phối hợp của các ngành các cơ quan hữu quan. Để thực hiện được điều này Nhà nước cần chú ý đến những vấn đề sau: - Chính phủ cần có những Nghị định nhằm đưa công tác kiểm toán phát huy hơn nữa vài trò của minh. Bên cạnh đó cũng phải có những chỉ thị cụ thể đối với Bộ tài chính nhằm làm cho các doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc chế độ kế toán theo đúng quy định của Nhà nước. - Những kiến nghị này có những tác dụng : Trước hết là làm tăng tính trung thực của các doanh nghiệp trong nộp thuế cho Ngân sách Nhà nước. Sau đó sẽ thành thói quen trong hoạt động của doanh nghiệp, từng bước công khai tài chính tạo điều kiện cho doanh nghiệp dễ dàng trong quá trình cổ phần hoá. Nhất là đối với các doanh nghiệp Nhà nước. Sau cũng là giúp Ngân hàng có được những số liệu chính xác về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tình hình tài chính của doanh nghiệp, làm cơ sở thẩm định doanh nghiệp nói riêng và thẩm định toàn bộ dự án nói chung. - Đối với các doanh nghiệp Nhà nước Chính phủ cần phải giảm bớt những “ giúp đỡ ” để các doanh nghiệp này từng bước làm chủ sản xuất kinh doanh, chịu những quy luật cạnh tranh trên thị trường. Trước mắt có thể là gặp những khó khăn nhưng sau đó họ sẽ đứng vững và hoạt động có hiệu quả hơn. Những “ giúp đỡ ” cần giảm đầu tiên là trong quan hệ tín dụng đối với các Ngân hàng thương mại quốc doanh. Từ trước Nghị định 178/NĐ - CP/2000 chủ trương của Chính phủ vẫn tách vỡ ra doanh nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp phi quốc doanh trong hoạt động tín dụng. Cho phép các doanh nghiệp nhà nước được vay vốn không cần thế chấp, điều này hoàn toàn là bất hợp lý bởi lẽ, khi không phải thế chấp tài sản thì tổng số tiền vay tại Ngân hàng sẽ lớn hơn rất nhiều so với nguồn vốn kinh doanh của các doanh nghiệp hiện có. Điều này là hiển nhiên cho rằng hệ số tài trợ là hoàn toàn không có giá trị trong công tác thẩm định. Hậu quả là doanh nghiệp sẽ “ phồng to ” ra hơn so với năng lực thực tế của mình, nếu như có xảy ra rủi ro trong quá trình kinh doanh ( Vấn đề này là không tránh khỏi ) thì doanh nghiệp sẽ không đủ năng lực để trả nợ. Như vậy doanh nghiệp nhà nước và Ngân hàng quốc doanh đều là vốn của Nhà nước thì cần tách bạch rành rọt để cho mỗi chủ thể tự chịu trách nhiệm lấy nguồn vốn của mình và hoạt động có hiệu quả hơn. Tình trạng bỏ “túi lành” sang “ túi thủng ” như hiện nay là bất cập. Công tác thẩm định không có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp này. - Hàng năm Chính phủ đều có những kế hoạch đầu tư phát triển cho từng vùng nhưng các dự án vẫn được các ngành thực hiện không đồng nhất : Có hiện tượng các dự án của ngành thì thừa các dự án của vùng thì thiếu. Chính những mâu thuẫn này làm cho công tác thẩm định tại các Ngân hàng trở nên khó khăn hơn. Bởi vì khi thẩm định phương diện thị trường thì nhu cầu những sản phẩm hàng hoá của vùng lại thiếu, nhưng xét trên toàn ngành thì tổng sản lượng lại thừa. Hay tình trạng các dự án cùng loại cùng một lúc thực hiện, trước khi thực hiện thì tổng cung nhỏ hơn tổng cầu, nhưng nhiều dự án đi vào hoạt động thì tổng cung lại lớn hơn tổng cầu. Những khó khăn này Ngân hàng khó mà lường hết được trong công tác thẩm định, nhưng mà Chính phủ, các Bộ có liên quan có thể điều tiết được theo kế hoạch. Vì vậy chính phủ cần phải lưu tâm hơn nữa về vấn để này.

doc72 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1443 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao chất lượng thẩm định dự án trung, dài hạn tại chi nhánh ngân hàng công thương Bãi Cháy, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
- Cơ chế điều hành, nhân sự: giám đốc chỉ đạo, điều hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trực tiếp thông qua phó giám đốc và các bộ phận phòng nghiệp vụ và phân xưởng sản xuất. Các bộ phận của nhà máy được phân công thực hiện các công việc theo đúng chức năng nhiệm vụ. VI- Thẩm định phương diện kinh tế - tài chính: 1/ Dự toán và nguồn vốn đầu tư: - Tổng vốn đầu tư của dự án : 79.634 triệu đồng - Trong đó: + Vốn đầu tư cố định: 75.996 triệu đồng + Vốn lưu động: 3.638 triệu đồng ( Vốn đầu tư dài hạn theo hạng mục đầu tư). Đơn vị: triệu đồng Cơ cấu đầu tư Số tiền Tỷ trọng % - Nhà cửa, vật kiến trúc 18.651 24,5 - Thiết bị công nghệ 42.210 55,5 - Thiết bị phụ trợ 2.755 3,6 - Chi phí khác 7.753 10,2 - Dự phòng 2.500 3,3 - Lãi vay NH trong thời gian xây dựng 2.127 2,9 Cộng 75.996 100 - Cân đối nguồn vốn đầu tư: + Vốn tự có + huy động: 7.996 triệu đồng Tỷ lệ: 11% + Vốn vay ngân hàng: 68.000 triệu đồng Tỷ lệ: 89% Đơn vị: Triệu đồng - Nhà cửa vật kiến trúc 18.651 - Thiết bị công nghệ 42.210 - Thiết bị phụ trợ 2.755 - Chi phí khác 2.257 - Lãi vay NH thời gian XD 2.127 Cộng 68.000 2/ Kế hoạch thu nhập - chi phí và kết quả SXKD: (Biểu I-a, biểu I-b, biểu I-c, biểu I-d, biểu I-e). Xem bảng kèm theo sau! 3/ Các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn: Tính tỷ suất sinh lời trên vốn đầu tư, Doanh thu điểm hòa vốn: (biểu sốII). Năm Tỷ suất sinh lời/ Vốn đầu tư (% ) Doanh thu điểm Hòa vốn ( triệu đ) Thời gian hoà vốn ( tháng ) 1 ( 1,1) 36.979 12,6 2 9,0 35.598 8,8 3 9,3 34.936 7,7 4 10,4 33.254 7,2 5 11,1 31.802 6,9 6 11,8 30.347 6,6 7 14,3 25.218 5,5 8 14,9 23.766 5,2 9 19,9 13.388 2,9 10 19,9 13.388 2,9 + Nhận xét: Tỷ suất sinh lời trên vốn đầu tư của dự án đạt tương đối cao, tốc độ của dự án trong những năm cuối đạt từ 14 - 19,9 %. Với điểm hoà vốn trên của dự án trong các năm, đảm bảo dự án kinh doanh có lãi. với điểm hòa vốn trên , thời gian hoà vốn của dự án rất cao, đặc biêt trong các năm cuối của đời dự án. b/ Tính NPV, IRR: (Biểu I-f). ( Xem bảng kèm theo sau phần thẩm định dự án cụ thể ) NPV = 29.630 triệu => dự án trên có lãi IRR = 16 % = > lớn hơn lãi suất tiền vay ngân hàng tại thời điểm hiện nay, chứng tỏ dự án đầu tư sẽ có hiệu quả. c/ Thời gian hoàn vốn: - Thời gian hoàn vốn vay: = 68.000 = 6,99 năm 9.734 - Thời gian hoàn vốn đầu tư = 75.996 = 7,97 năm 9.538 Với chỉ số trên, sẽ thuận lợi cho việc thu hồi vốn đầu tư và vốn vay ngân hàng. d/ Độ nhạy của dự án : ( Xem bảng sau phần thẩm định dự án ) - Trường hợp giảm giá bán 10%: (biểu II-f) + IRR = 10% + NPV = 6.215 triệu đồng. - Trường hợp tăng chi phí sản xuất lên 10%: (biểu III-f). + IRR = 13% + NPV = 16.563 triệu đồng. Với 2 trường hợp trên dự án đều có lãi, tỷ lệ hoàn vốn nội bộ lớn hơn lãi suất tiền vay ngân hàng. VII- Phương án cho vay, thu nợ: 1. Phương án cho vay: - Phương thức cho vay: theo dự án đầu tư - Hình thức phát tiền vay: Căn cứ hợp đồng tín dụng, các hợp đồng, chứng từ thanh toán khối lượng, hợp đồng mua bán máy móc thiết bị, biên bản nghiệm thu để phát tiền vay theo tiến độ thi công của dự án. 2. Phương án thu nợ: - Nguồn trả nợ hàng năm: (bảng tính kế hoạch hoàn vốn ) + Từ khấu hao: Trích 89 % nguồn KHCB + Lợi nhuận: Trích 25 - 30 % nguồn lợi nhuận thu đợc hàng năm - Thời gian cho vay: 95 tháng - Thời gian thu nợ: 84 tháng C/ Thẩm định biện pháp bảo đảm tiền vay Công ty Gốm xây dựng Hạ Long là doanh nghiệp nhà nước thuộc Tổng công ty Thuỷ tinh và Gốm xây dựng. Kết quả sản xuất kinh doanh trong 3 năm (1999,2000 và 9 tháng năm 2001) đều có lãi, tình hình tài chính ổn định, quan hệ tín dụng với Ngân hàng tốt (không có nợ quá hạn, không có lãi treo). Căn cứ Nghị định số 178/2000/NĐ-CP ngày 29/12/2000, Thông tư 06/2001/TT-NHNN1 ngày 04/4/2001, hướng dẫn thực hiện bảo đảm tiền vay số 1219/CV-NHCT5 ngày 01/6/2001. Quyết định cho công ty Gốm xây dựng Hạ Long vay không có tài sản lảm đảm bảo. 6.3 Đánh giá chất lượng của dự án. Thông qua nghiên cứu dự án và tờ trình thẩm định cuả Ngân hàng Công thương Bãi cháy em thấy Ngân hàng đánh giá chưa toàn diện về dự án, cụ thể ở những điểm sau: Thứ nhất : Thẩm định về sự cần thiết phải đầu tư: Căn cứ vào tờ trình thẩm định cảu Ngân hàng và dự án ta ước tính sản lượng gạch ốp lát tiêu thụ tại địa phương 20 - 21 triệu m2/ năm, trong đó gạch tiêu thụ của doanh nghiệp chiếm hơn 50%. Nếu đầu tư dây truyền mới này sản lượng của doanh nghiệp chỉ còn 1 triệu m2/ năm giảm gần 10 lần và giá bán lại tăng 2,5 lần so với sản phẩm cũ . Một câu hỏi được đặt ra là liệu với sản phẩm mới này của công ty có được thị trường chấp nhận hay không ? Theo dự án thì sản phẩm này được bán ở thị trường trong nước là chủ yếu, một phần là được xuất khẩu sang nước ngoài. Nhưng trên thì trường hiện nay có rất nhiều loại gạch ốp lát của công ty trong nước và nước ngoài sản xuất với nhiếu chất lượng khác nhau giá cả cũng khác nhau. Riêng tại thị trường Quảng Ninh đã có 6 công ty sản xuất gạch ốp lát và số liệu khach hàng nhập khẩu gạch của doanh nghiệp vẫn chưa có cơ sở vững chắc.Vậy với loại gạch này doanh nghiệp có trụ được trên thị trường hay không là câu hỏi đặt ra cần phải xét. Thứ 2: Thẩm định về phương diện tài chính. Trong bảng tình hình sản xuất kinh doanh qua 3 năm 1999 ;2000; 9 tháng năm 2001 của công ty Ngân hàng thẩm định là doanh nghiệp làm ăn bảo toàn được vốn và có lãi. Nhưng theo em số liệu này cần phải xem xét đánh giá lại vì : - Lợi nhuận ròng của doanh nghiệp qua 2 năm 1999, 2000 đều là 6 triệu trong khi đó số hàng tồn kho của doanh nghiệp năm 2000 tăng so với năm 1999 là 2.955 triệu đồng, đầu tư năm 2000 tăng so với năm 1999 là 2005 triệu đồng trong khi đó tỷ suất lợi nhuận của 2 năm này đều là 0.05%. - Nhưng đến năm 2001: tỷ suất lợi nhuận của công ty tăng lên 4,78% tăng gấp 95,6 % so với năm 2000, đầu tư trong năm giảm so với năm trước là 3.498 triệu đồng, lợi nhuận ròng lại tăng 501 triệu đồng tăng so với năm 2000 là 83,5%. Đây là một con số đáng nghi ngờ. Vậy theo em Ngân hàng cần phải nên kiểm tra lại độ chính xác của của báo cáo tài chính và tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ngân hàng cần phải xem xét độ chính xác báo giá của dây truyền công nghệ sản xuất của doanh nghiệp có đúng và hợp lý không, hay doanh nghiệp khải man lên để vay Ngân hàng được nhiều tiền hơn. 6.4. Những mặt còn tồn tại trong công tác thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng công thương Bãi cháy. Xét về khía cạnh tài chính, đánh giá các chỉ tiêu tài chính luôn là ưu tiên hàng đầu đối với một dự án đầu tư, khi được Ngân hàng xem xét . Sau đây là những tồn tại trong công tác thẩm định tại chính các dự án đầu tư tại Ngân hàng công thương Bãi cháy. Một là, theo như lý thuyết thì “ Hệ số tài trợ”, “ năng lực đi vay” là những chỉ tiêu kinh tế tài chính được xem trước tiên khi quyết định cho vay đầu tư trung dài hạn. Vì nó đánh giá năng lực tài chính thực tế của đơn vị trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Xét về mặt tài chính thì hệ số tài trợ nhỏ trong điều kiện lãi suất Ngân hàng thấp thì điều này rất có lợi cho Ngân hàng vì chi phí vốn sẽ thấp. Nhưng trong điều kiện lãi suất Ngân hàng cao điều này sẽ tạo ra một gánh nặng lớn trong tổng chi phívì chi phí vốn lúc này sẽ rất cao. Trong thực tế hiện nay, Ngân hàng vẫn chấp nhận những dự án có hệ số tài trợ nhỏ hơn 5%. Điều này theo lý thuyết là không được bởi vì, bởi vì nó phản ánh năng lực tài chính của doanh nghiệp yếu kém. Hai là, một dự án đầu tư được doanh nghiệp lập ra, nhằm tạo ra lợi nhuận cho mình, tạo lợi ích cho xã hội. Nhưng để có tính khả thi doanh nghiệp phải có ít nhất là 30% tổng số vốn đầu tư. Điều này đảm bảo cho khả năng an toàn các dự án, tăng trách nhiệm của doanh nghiệp đối với dự án, sẽ làm tăng hiệu quả và giảm rủi ro cho dự án. Đây là một yêu cầu bắt buộc đối với các dự án trình Ngân hàng nhất là các dự án lớn mang tính chất sản xuất kinh doanh. Nhưng trong công tác thẩm định tại Ngân hàng cho ta thấy Ngân hàng đã bỏ qua điều này, ví dụ như dự án trình bày tại mục 4.2 khi tổng dự án là 78 tỷ nhưng doanh nghiệp đã vay tới 68 tỷ chiếm 87% tổng số vốn. Và Ngân hàng chỉ chú ý đến những chỉ số về lợi nhuận tăng hàng năm. Cho nên khi ra quyết định đầu tư thì Ngân hàng chỉ chú ý đến nguồn trả nợ. Ba là trong quá trình thẩm định dự án đầu tư Ngân hàng đã quá tập trung vào việc xem xét khả năng trả nợ hàng năm của dự án, qua việc tính toán nguồn trả nợ bằng khấu hao + lợi nhuận ròng và dừng lại ở đó. Ngân hàng rất ít quan tâm đến hiệu qủa tài chính cuối cùng của toàn bộ dự án đầu tư. Điều này là chưa chính xác vì, theo đúng mục tiêu của thẩm định tì chính thì cả dự án có hiệu quả tài chính thì sẽ đủ khả năng trả nợ Ngân hàng và khi đó việc trả nợ sẽ chỉ là vấn đề về thời gian trả nợ. Xuất phát từ quan điểm như vậy, Ngân hàng đã lựa chọn các dự án đầu tư không dựa nhiều vào các hiệu quả của NPV, IRR mà dựa trên khả năng của nguồn trả nợ hàng năm về mối quan hệ nào khác là không đúng. Nếu theo phương châm này, một dự án đều có thời gian khấu hao và thời gian trả nợ là khác nhau, ví dụ 10 năm và 5 năm. Khi hàng năm các doanh nghiệp phải lấy tất cả các nguồn khấu hao + chi phí lãi vay trong 5 năm đầu trả nợ cho Ngân hàng không đủ nhưng 5 năm tiếp theo không phải trả, doanh nghiệp có thể có một tổng lợi nhuận lớn xét về tổng thể các chỉ số NPV, IRR vẫn cho phép dự án thực hiện. Như vậy Ngân hàng sẽ không cho vay và làm cho dự án không thực hiện được. Ngoài ra một điều đáng quan tâm là sự ảnh hưởng của giá cả các yếu tố đầu vào và đầu ra mức cung cầu các sản phẩm của dự án. Bởi lẽ sự biến động này sẽ làm tăng và giảm chi phí và ảnh hưởng tới thu chi dự kiến của dự án. Do đó cần dự báo các tác động đó trong tương lai để có những biện pháp hỗ trợ hữu hiệu hơn. b. Xét về khía cạnh phi tài chính Với những con số trong báo cáo quyết toán hàng năm, những thông tin liên quan đến dự án đầu tư mà khách hàng vay vốn, các chủ đầu tư cung cấp cho Ngân hàng không thật tin cậy, nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Pháp lệnh kế toán thống kê chưa được thực hiện nghiêm túc đặc biệt là các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Việc hạch toán doanh nghiệp nhiều khi không đúng thực chất và chưa có chế độ kiểm toán bắt buộc nên rất khó đánh giá thực trạng khả năng tài chính tình hình thanh toán kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, khi thẩm định về phương diện kĩ thuật Ngân hàng thường bị thụ động. Mỗi doanh nghiệp có một ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh nhất định cho nên các thiết bị công nghệ trong dự án đầu tư có những thông số kĩ thuật đặc thù của nó. Vì thế khi thẩm định các yếu tố kĩ thuật Ngân hàng phải thường dựa vào chủ đầu tư hay các cơ quan giám định nên chỉ nắm được những thông số cơ bản như: sản lượng hàng hoá sản xuất, chất lượng máy móc thiết bị ( tổng quán nhất )… mà yếu tố công nghệ thiết bị là yếu tố mang tính chất quyết định đem lại sự thành công của dự án. Do đó, Ngân hàng hoàn toàn xác định theo cảm tính khi thẩm định các yếu tố kĩ thuật. Ngoài ra để xác định tài sản thế chấp, Ngân hàng đã thực hiện theo chủ trương của chính phủ, Ngân hàng nhà nước nhằm từng bước giảm bớt sự phụ thuộc quá lớn vào tài sản thế chấp đối với các dự án có tính khả thi cao như dự án trên. Gần đây Nghị định 178/NĐ - CP ngày 29/12/2000 của thủ tướng Chính phủ quy định về điều kiện cho vay không có bảo đảm bằng tài sản. Nhưng trên thực tế, các doanh nghiệp mà hầu hết là doanh nghiệp phi quốc doanh chưa đủ điều kiện này cho nên vẫn cần có tài sản thế chấp cho các khoản vay. ở Ngân hàng cán bộ tín dụng nào phụ trách dự án nào thì sẽ thực hiện luôn hai chức năng vừa là cán bộ về thẩm định về dự án đầu tư vừa là cán bộ thẩm định về tài sản thế chấp. Ngân hàng chưa có một bộ phận chuyên môn chuyên trách về nghiệp vụ này nên nhiều khi đánh giá về tài sản thế chấp không chính xác dẫn đến cho vay quá tỷ lệ an toàn gây tình trạng thất thoát vốn khi doanh nghiệp gặp rủi ro. c. Nguyên nhân của tồn tại trên * Xét về phía Ngân hàng Công tác thẩm định là một công tác phức tạp đòi hỏi sự hiểu biết rộng trong nhiều lĩnh vực. Vì vậy, đòi hỏi các cán bộ làm công tác này phải có một trình độ tổng hợp cao. Nhưng các cán bộ ở Ngân hàng mới phần nào đáp ứng được những yêu cầu trên vì họ chưa thích ứng được với một nền kinh tế sôi động, hiện đại và các dự án đầu tư ngày càng lớn, tính rủi ro ngày càng cao. Sự tiếp thu các công nghệ thẩm định tiên tiến, trình độ ngoại ngữ, vi tính các hiểu biết về đời sống kinh tế xã hội… còn hạn chế. Các thông tin trong nền kinh tế hiện nay luôn thay đổi mà công tác thẩm định đòi hỏi phải cập nhật thường xuyên. Do đó đòi hỏi cán bộ tín dụng phải thường xuyên tự đổi mới và cập nhật những kiến thức này. Điều này hiện nay tại Ngân hàng còn được thực hiện một cách rất hạn chế. Chưa có quá trình bồi dưỡng thường xuyên của các cán bộ thẩm định cũng như chưa có sự hỗ trợ của phòng vi tính trong Ngân hàng. Các số liệu kinh tế tổng hợp, các văn bản liên quan đến nhiều khía cạnh của nền kinh tế – xã hội chưa được khai thác triệt để. * Về phía Ngân hàng Một số doanh nghiệp hiện nay làm ăn chưa có định hướng kế hoạch lâu dài, không coi trọng uy tín của chính mình họ sẵn sàng làm mọi chuyện để rút vốn của Ngân hàng. Bằng chứng thủ đoạn như lập dự án giả để lấy tiền hoạt động sai mục đích, đưa ra mức doanh thu quá cao làm tăng mức khả thi của dự án. Một số dự án vay vốn tại Ngân hàng chỉ là một phần, một mảng của dự án phát triển tổng thể của doanh nghiệp, có trường hợp doanh nghiệp vay vốn đầu tư một thiết bị lẻ trong dây chuyền sản xuất … . Như vậy, việc tính toán hiệu quả kinh tế của dự án rất khó khăn và thường là tính doanh thu, chi phí lợi nhuận chung của cả dây truyền, hoặc toàn doanh nghiệp. * Một số nguyên nhân khác. Ngành Ngân hàng tuy đã có những tiến bộ vượt bậc nhưng vẫn còn những yếu kém trong cơ chế hoạt động , điều hành, cạnh tranh, công nghệ Ngân hàng còn lạc hậu. Trình độ, năng lực của các Ngân hàng thẩm định dự án chưa đạt yêu cầu, chưa đủ kinh nghiệm thẩm định những dự án lớn phức tạp. Bên cạnh đó quan hệ của các Ngân hàng thương mai chưa chặt chẽ, chưa có sự phối hợp, chưa có sự hỗ trợ lẫn nhau trong công tác thẩm định dự án đầu tư, thẩm định dự án ở từng ngành, lĩnh vực cụ thể. Vai trò chỉ đạo trong hướng dẫn, hỗ trợ quản lý của Ngân hàng Nhà nước về thẩm định chưa tốt. Thông tin tổng hợp từ Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng công thương Quảng ninh về tình hình xu hướng phát triển trong các ngành kinh tế trong từng thời kỳ còn ít, chưa kịp thời nên Ngân hàng thiếu căn cứ thông tin và thẩm định. Môi trường pháp lý cho hoạt động tín dụng Ngân hàng đầy đủ. Việc thực hiện pháp lệnh kế toán, thống kê chưa nghiêm túc, đại đa số các số liệu, quyết toán và báo cáo tài chính của doanh nghiệp chưa được thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc. Số liệu phản ánh không chính xác thực trạng tình hình sản xuất kinh doanh và tài chính doanh nghiệp đặc biệt là khối kinh tế ngoài quốc doanh. Ngoài ra các cơ quan chịu trách nhiệm cấp chứng thư sở hữu tài sản và quản lý Nhà nước đối với bất động sản chưa thực hiện kịp thời việc cấp giấy tờ sở hữu cho các chủ đang sở hữu , hoặc sử dụng tài sản. Do đó trong việc thế chấp và thế chấp vay vốn. Ngân hàng khó khăn phức tạp nhiều khi bị ách tắc. Hiệu lực của các cơ quan hành pháp chưa đáp ứng yêu cầu tranh chấp, tố tụng về hợp đồng kinh tế hợp đồng dân sự, phát mại tài sản, cầm cố, bảo lãnh, chưa bảo vệ được quyền lợi chính đáng của Ngân hàng. Việc tổng hợp thông tin, đánh giá xếp loại doanh nghiệp hiện có cơ quan nào chính thức thực hiện. Như ở Mỹ có 2 tổ chức đánh giá hoạt động của doanh nghiệp , xếp loại doanh nghiệp theo các chỉ số tài chính. Họ có thể sắp xếp thứ tự theo năng lực tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả … thứ tự sắp xếp gồm ba chữ cái hoa hoặc thường. Ví dụ AAA, AAB… Để các điều kiện đầu tư có thể căn cứ vào đó để bỏ vốn đầu tư của mình các doanh nghiệp cũng xếp hạng cao thì mức độ rủi ro đầu tư càng nhỏ. Định hướng phát triển kinh tế của ngành, từng địa phương, trong Tổng công ty chưa cụ thể, chưa khả thi hoặc chủ chương của các ngành hữu quan không thống nhất dẫn đến tình trạng khó khăn cho công tác thẩm định và quyết định cho vay ở chỗ, xét về mặt tài chính thì đạt nhưng xét về mặt kinh tế - xã hội thì không được có thể tại khu vực doanh nghiệp hoạt động thì thiếu sản phẩm đó nhưng trên bình diện chung thì là thừa và ngược lại ngoài ra những quy hoạch phát triển kinh tế không ổn định sẽ làm dự án ngừng hoạt động Chương III Giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư trung và dài hạn tại chi nhánh ngân hàng công thương Bãi cháy. I. Định hướng công tác thẩm định trung và dài hạn trong năm 2002. ở nước ta hiện nay từ Ngân hàng thương mại quốc doanh lớn đến các Ngân hàng thương mại cổ phần đều đang đối mặt với những thách thức liên quan đến chất lượng của các khoản cho vay. Chi nhánhNgân hàng công thương Bãi cháy cũng đang đứng trước những thách thức này và đang có gắng thực hiện tốt công tác thẩm định dự án đầu tư nhằm nâng cao hiệu quả cho vay và đã có những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường đang phát triển rất sôi động hiện nay thì mọi thứ luôn thay đổi và phát triển. Điều này phù hợp, thích hợp với hôm nay nhưng ngày mai nó đã trở nên lạc hậu không còn phù hợp nữa, đó là quy luật của sự phát triển và thay thế. Đứng trước những khó khăn và tồn taị trong công tác thẩm định nói chung và tại chi nhánh Ngân hàng công thương Bãi cháy nói riêng , theo tôi cần phải có những biện pháp sau nhằm để nâng cao chất lượng cho vay đặc biệt là trong công tác thẩm định những món vay. Để thực hiện nâng cao chất lượng tín dụng trong năm 2002 đặc biệt là trong công tác thẩm định dự án trung và dài hạn trước khi cho vay thì Ngân hàng đã đặt ra các mục tiêu phải thực hiện như sau: Tổng nguồn vốn tăng bình quân 10% so với năm 2002 ( bình quân đạt 130 tỷ đồng). Dư nợ bình quân đạt 95 tỷ đồng ( trong đó vốn vay trung và dài hạn chiếm 50%). Nợ quá hạn đến 31/12/2002 giảm xuống còn 4 tỷ đồng.Đảm bảo an toàn tuyệt đối tài sản, tiền vốn trong hoạt động kinh doanh. Đảm bảo thu nhập ổn định và từng bước cải thiện đời sống của cán bộ công nhân viên trong phạm vi cơ chế tiền lương của Ngân hàng công thương Quảng Ninh. Tiếp tục kiện toàn, củng cố bộ máy tổ chức của chi nhánh tại các phòng – tổ để nâng cao hiệu quả công tác điều hành của chi nhánh. Tiếp cận bám sát khách hàng để mở rộng cho vay. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định tín dụng, kiểm tra, giám sát chặt chẽ các khoản vay. Đặc biệt là nghiên cứu kĩ và chấp hành đúng nghiêm túc các bước trong mẫu tờ trình thẩm định, quy trình thẩm định trong công văn số 2587 / CV-NHCT5 ngày 23/10/2001 của Tổng giám đốc Ngân hàng Công thương Việt Nam Phùng Khắc Kế đã ký. Tăng cường công tác kiểm tra việc thực hiện thể lệ chế độ nghiệp vụ của tất cả các chuyên đề theo quy định của ngành nhằm phát hiện, ngăn ngừa, khắc phục những tồn tại thiếu sót để hoạt động kinh doanh của chi nhánh tăng hiệu quả song phải đảm bảo an toàn tuyệt đối tài sản. Tranh thủ sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, của Ngân hàng Công thương Quảng Ninh, sự phối kết hợp của các tổ chức đoàn thể quần chúng để động viên cán bộ công nhân viên hoàn thành tốt mục tiêu NHCT Quảng Ninh đề ra. II. Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định dự án tại chi nhánh Ngân hàng công thương Quảng Ninh. 1.Giải pháp lâu dài: Giải pháp về công tác thẩm định tài chính. Phân tích tài chính của doanh nghiệp vay vốn : từ trước đến nay, mặt phân tích tài chính doanh nghiệp vay vốn chưa được coi trọng trong công tác thẩm định. Nhiều cán bộ tín dụng chỉ đánh giá qua loa hoặc chỉ nêu ra các con số mà chưa phân tích kỹ. Đây là những nguyên nhân gây ra rủi ro cho nguồn vốn tài trợ của Ngân hàng. Như vậy một mảng khá quan trọng trong quy trình nghiệp vụ cho vay lại chưa được thực hiện nghiêm chỉnh. Để nâng cao chất lượng thẩm định, chi nhánh một mặt phải đặt ra yêu cầu đối với mỗi cán bộ thẩm định là trong nội dung tờ trình thẩm định cần phân tích kĩ năng lực tài chính của khách hàng vay vốn, mặt khác tổ chức bồi dưỡng nâng cao khả năng phân tích tài chính của cán bộ thẩm định. Phân tích tài chính của dự án vay vốn Trong nội dung quy trình đã đưa ra các chỉ tiêu cơ bản để phân tích hiệu quả của dự án, song để việc phân tích dự án với thực tế, cán bộ thẩm định cần tham khảo giá thị trường cũng như các dự án khác tương tự để phân tích được toàn diện . Thực tế tại chi nhánh, trong phân tích dự án chưa quan tâm nhiều đến việc sử dụng phương pháp giá trị hiện tại ròng ( NPV) để đánh giá tính khả thi của dự án. Ngân hàng cần phải xem xét ưu điểm của phương pháp và đưa vào sử dụng trong phân tích dự án. Khi sử dụng chỉ tiêu NPV để đánh giá tính hiệu quả của dự án, cần chú ý tới việc lựa chọn tỷ lệ chiết khấu phù hợp : + Với dự án mà vốn tự có của dự án chiếm ưu thế thì tỷ lệ chiết khấu là lãi suất tiền gửi Ngân hàng ( chi phí cơ hội ) . + Với dự án mà vốn tự có của dự án nhỏ thì tỷ lệ chiết khấu là lãi suất đi vay của dự án, thường là lãi suất kho bạc, lãi suất cho vay trung và dài hạn của Ngân hàng. + Dự án càng rủi ro thì tỷ lệ chiết khấu càng lớn. - Ngân hàng chỉ quan tâm đến dòng tiền của dự án. Tuy nhiên để việc đánh giá dự án được toàn diện, Ngân hàng nên phân tích thêm dòng tiền của dự án. Cách tính hai dòng tiền như sau: Dòng tiền của cả dự án = Lợi nhuận trước thuế + Lãi vay NH + KHCB Dòng tiền của chủ dự án = Lợi nhuận sau thuế + KH + Trả nợ gốc NH Xác định thời hạn trả nợ, mức thu nợ, cách thức thu nợ gốc và lãi Thu gốc: việc xác định thời hạn trả nợ cũng như mức trả nợ cần tính toan sao cho phù hợp với năng lực sản xuất, tiến độ thực hiện dự án. Thực tế Ngân hàng thường tiến hành thu đều từng kì hay thu luỹ thoái với ý muốn thu hồi nợ càng nhanh càng tốt. Thực tế thì thời gian đầu, máy móc mới đưa vào vận hành chưa chạy hết công suất, sản phẩm sản xuất ra đang ở trong thời gian thăm dò thị trường… Nếu Ngân hàng yêu cầu trả nợ ở mức cao ngay thì doanh nghiệp chưa đủ khả năng, do vậy ảnh hưởng tới sản xuất. Vì vậy Ngân hàng không nên chia đều khoản thu gốc cho các kỳ thu luỹ thoái mà phải căn cứ vào dòng thu của dự án, đồng thời thu nợ gốc tăng dần theo thời gian, như vậy phù hợp với quá trình vận hành kết quả đầu tư ( giai đoạn sử dụng chưa hết công suất, tiếp đến sử dụng ở mức công suất cao nhất và cuối cùng công suất giảm dần và thanh lý ). Thu lãi: Ngân hàng thường đang tiến hành thu lãi hàng tháng, có trường hợp vẫn thu lãi trong thời gian ân hạn, như vậy là chưa hợp lý. Việc thu lãi cần được tính toán và thu cùng với việc thu nợ gốc. Như vậy phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời tránh tình trạng các doanh nghiệp phải vay ngắn hạn để trả lãi vay vì khó khăn tài chính do chưa có nguồn thu từ dự án. Ngân hàng có thể xem xét vận dụng cách thu nợ gốc và lãi theo niên kim cố định đối với các dự án trung dài hạn. Giả sử khoản tiền Ngân hàng cho doanh nghiệp vay là V, khoản nợ này được trả theo ( n ) niên kim cố định, số tiền mỗi niên kim là ( a ), lãi suất mỗi niên kim là ( i ). Như vậy, V chính là giá trị hiện tại của chuỗi niên kim ( a ) và theo công thức giá trị hiện tại. ( 1 +i )-n V = a --------------- i Suy ra: Vi a = ---------------- 1 – ( 1 + i )-n Ta có: Số tiền trả lãi đầu kì là : Vi Số tiền trả gốc kì đầu sẽ là : Vi Vi D1 = a – Vi = ----------------- - Vi = -------------------- 1 – ( 1 + i )- n ( 1 + i ) n - 1 Từ đó ta sẽ tính được số tiền thanh toán nợ gốc và lãi mỗi kỳ và lập bảng thanh toán nợ theo niên kim cố định. Giải pháp về thu thập , đánh giá chất lượng và xử lý thông tin Thông tin chính là cơ sở để cán bộ thẩm định tiến hành các bước phân tích, đánh giá, thẩm định dự án vay vốn. Thông tin đầy đủ, nhiều chiều với độ tin cậy cao có ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả thẩm định. Để có được thông tin có chất lượng cao, cán bộ thẩm định cần thu thập, chọn lọc từ nhiều nguồn, song cần chú ý khai thác các nguồn sau: Thông tin từ doanh nghiệp vay vốn. Trong quá trình hoàn tất hồ sơ, thủ tục xin vay, doanh nghiệp vay vốn có trách nhiệm cung cấp thông tin cần thiết cho Ngân hàng. Đó là: phương án sản xuất kinh doanh, kế hoạch vay vốn - trả nợ, các báo cáo tài chính thời điểm gần nhất, các giấy tờ khác có liên quan… và các thông tin khác mà Ngân hàng thu được qua phỏng vấn người vay. Đối với các báo cáo tài chính : thông thường cán bộ tín dụng căn cư vào báo cáo tài chính để đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp vay vốn, song rất khó xác định độ tin cậy của báo cáo tài chính đó. Hiện nay Bộ tài chính đã ban hành “ Quy chế kiểm toán nội bộ ” để làm căn cứ cho doanh nghiệp Nhà nước áp dụng tại doanh nghiệp nhưng việc thực hiện chưa mang tính bắt buộc. Còn đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, việc kiểm tra các báo cáo tài chính lại còn khó hơn, công tác kế toán chưa được thực hiện một cách nghiêm túc, chủ yếu là theo hình thức ghi sổ. Thực tế đòi hỏi các cán bộ thẩm định phải chú trọng đến việc kiểm tra các báo cáo tài chính. Do yêu cầu về độ chính xác của thông tin trong công tác thẩm định, cán bộ thẩm định cần kết hợp việc điều tra thực tế tại nơi lao động sản xuất kinh doanh của khách hàng vay vốn với sự xác minh độ tin cậy của báo cáo tài chính. Thông tin thu được thông qua phỏng vấn khách hàng vay vốn: nguồn thông tin này khá quan trọng, nếu biết cách khai thác và tận dụng nó, cán bộ thẩm định có thể thu được kết quả khả quan. Trước khi tiến hành phỏng vấn, cần xác định rõ mục đích nội dung phỏng vấn và cách thức tiến hành phỏng vấn. Công tác chuẩn bị này phải xác định một cách tỷ mỉ và kĩ lưỡng, điều quan trọng là không đực xem nhẹ kết quả thu được qua phỏng vấn. Về mục đích của phỏng vấn: Không phải lúc nào các cuộc phỏng vấn cũng tìm hiểu xem khách hàng vay vốn có trung thực không, đối với khách hàng có uy tín và tín nhiệm, cuộc phỏng vấn có khi là để trao đổi với khách hàng nhằm tháo gỡ những khó khăn vướng mắc về thủ tục vay vốn hay những khó khăn trong việc đáp ứng các điều kiện vay vốn… Qua phỏng vấn có thể nhận xét về tư cách, năng lực, phẩm chất đạo đức, kinh nghiệm của người vay hoặc phỏng vấn để làm sáng tỏ những điểm còn chưa rõ hoặc còn mâu thuẫn trong hồ sơ vay vốn. Về nội dung phỏng vấn: Không có một khuôn mẫu chung khi xây dựng nội dung phỏng vấn bởi vì mỗi người xin vay lại có những đặc điểm riêng cần chú ý đánh giá hớn những đối tượng khác. Trong khi điều tra về doanh nghiệp, Ngân hàng thường muốn tìm hiểu thêm về lịch sử phát triển của doanh nghiệp, các sổ sách kế toán, kinh nghiệm cũng như các chiến lược kinh doanh, nguồn gốc của sự tăng thu nhập cũng như lợi nhuận. Ngoài ra các thông tin về người quản lý doanh nghiệp cũng rất quan trọng cũng như kinh nghiệm quản lý, kiến thức, các mối quan hệ… Ngân hàng còn cần tìm hiểu về bản chất và loại hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp : doanh nghiệp cung cấp cho thị trường loại sản phẩm nào. Khi đã nắm bắt mục đích và các nội dung quan trọng cần tìm hiểu, cán bộ thẩm định thành lập một bảng các câu hỏi và sau cuộc phỏng vấn cần ghi chép tỉ mỉ và rút ra nhận xét. Khi đặt ra câu hỏi để phỏng vấn khách hàng cần đặc biệt lưu ý một số nội dung mà trong hồ sơ vay vốn khác hàng giải trình chưa đầy đủ như : Khả năng tạo điều kiện cần và đủ để tạo ra các nguồn thu nhập từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh ( bằng vốn Ngân hàng ) để trả nợ. Các nguồn tiền khác thay thế có thể huy động được để trả nợ Ngân hàng trong trường hợp phương án xin vay vốn bị rủi ro không có nguồn trả nợ là những nguồn nào? Những khó khăn và thuật lợi và những loại rủi ro có thể xảy ra trong quá trình sử dụng vốn là gì? … Nói tóm lại, yêu cầu của phỏng vấn là thu thập được nhiều thông tin trong khoảng thời gian ngắn nhất, tránh gây phiền nhiễu làm mất thì giờ của khách hàng. Trước khi tiến hành một cuộc phỏng vấn, cán bộ thẩm định nên lập một phiếu phỏng vấn trong đó có ghi các câu hỏi đã được chọn lọc và chuẩn bị sẵn. Hình thức của phiếu cũng như cách đặt câu hỏi tuỳ thuộc vào sự sáng tạo của mỗi cán bộ thẩm định, có thể tham khảo cách lập phiếu điều tra thống kê xã hội học Marketing… Thông tin thu thập từ các nguồn khác Ngoài các thông tin thu thập từ chính các doanh nghiệp vay vốn, Ngân hàng có thể khai thác nhiều nguồn thông tin khác : Thông tin từ các Ngân hàng có quan hệ giao dịch với khách hàng vay vốn; Thông tin từ các doanh nghiệp cung cấp và tiêu thụ; Từ các công ty kiểm toán; Từ trung tâm tín dụng hoặc trung tâm phòng ngừa rủi ro… Nguồn thông tin có rất nhiều, do yêu cầu lượng thông tin phải đầy đủ nhiều chiều nên Ngân hàng phải mất khá nhiều thời gian để thu thập. Để đảm bảo tính hiệu quả của việc cung cấp và thu thập thông tin, nên cải tiến hệ thống thông tin tín dụng cho phù hợp với yêu cầu của Ngân hàng, các doanh nghiệp cũng như với các đối tượng khác cần thông tin, mọi nguồn thông tin đều được tập trung ở trung tâm tín dụng. Trung tâm này sẽ cung cấp thông tin cho cả doanh nghiệp và Ngân hàng. Các chỉ tiêu số liệu thu thập và cung cấp thông tin cần được cải tiến theo hướng đa dạng hơn. Từ các thông tin thu thập được, trung tâm tiến hành phân tích xếp loại các doanh nghiệp các tổ chức tín dụng, căn cứ vào xếp loại này để cân nhắc quyết định cho vay. Về phía Ngân hàng khi thu thập thông tin từ các nguồn khác cần được lưu giữ vào phiếu các nguồn thông tin khác. Phiếu này cùng phiếu phỏng vấn được lưu cùng tài liệu trong hồ sơ vay vốn. + Lưu giữ thông tin và phân loại khách hàng. Do yêu cầu phải thu thập thông tin nhanh và đầy đủ, việc lưu trữ thông tin và phân loại khách hàng rất cần thiết. Trước đây chi nhánh đã thực hiện việc lưu trữ khách hàng nhưng hiện nay không tiến hành nữa. Thời gian tới chi nhánh cần xem xét duy trì và phát huy hiệu quả của công tác này. Đối với những khách hàng có mối quan hệ lâu dài đối với Ngân hàng cần lưu giữ các tài liệu thu thập từ các lần cho vay trước. để khi cần cán bộ thẩm định có thể lấy ra sử dụng một cách thuận tiện. Công việc lưu giữ thông tin khách hàng cần tiến hành thường xuyên và tập trung theo các phần mảng để dễ tìm kiếm, lưu giữ trong bộ nhớ máy vi tính là thuận tiện nhất. Định kì sáu tháng một lần, Ngân hàng cần phân loại khách hàng một lần, Ngân hàng cần tiến hành phân loại khách hàng theo chỉ tiêu đánh giá chất lượng các khoản vay, hiệu quả sản xuất kinh doanh … . Qua đó giúp cán bộ thẩm định có căn cư để đánh giá chính xác hơn về doanh nghiệp vay vốn. ứng dụng tin học trong phân tích thẩm định dự án Trong khi phân tích, thẩm định tính khả thi và hiệu quả của dự án, với một dự án có quy mô lớn, các dữ liệu đầu vào nhiều và phức tạp thì việc tính toán các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của dự án cũng như tính toán dòng thu - chi cũng chiếm một phần thời gian đáng kể của cán bộ thẩm định. Khi đưa vào nhiều chỉ tiêu của phương pháp thẩm định tiên tiến ( IRR, NPV, phân tích hòa vốn, phân tích độ nhạy…), phần tính toán rất nhiều mà sử dụng máy tính thông thường thì sẽ rất vất vả đối với cán bộ thẩm định. Như vậy, khi có nguồn thông tin đầu vào chính xác, ta có thể sử dụng các hàm tài chính trong Excel để tự động hoá các khâu tính toán các chỉ tiêu kinh tế. Với các yêu cầu bức thiết của hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng, tương lai sẽ có các chương trình phần mềm dùng cho công tác thẩm định dự án, cán bộ thẩm định chỉ cần nhập dữ liệu đầu vào, chương trình máy tính sẽ tự động tính toán và in ra các bảng biểu phân tích tài chính. * Nâng cao trình độ cán bộ thẩm định Một trong những nhân tố có ảnh hưởng đến chất lượng công tác thẩm định là trình độ cán bộ công tác thẩm định. Mọi quyết định đúng sai của cán bộ lãnh đạo phụ thuộc khá nhiều vào đội ngũ cán bộ thừa hành, tác nghiệp. Để thực hiện tốt các nội dung trong quá trình thẩm định, các cán bộ thẩm định cần được trang bị các kiến thức sau: - Nắm vững mọi chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước trong phát triển kinh tế, chế độ chính sách tín dụng, thành thạo chuyên môn nghiệp vụ Ngân hàng, đặc biệt là nghiệp vụ tín dụng. Đặc biệt là năm vững Nghị định 178/NĐ - CP ra đời ngày 29/12/2000 về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng , thông tư 06/TT- NHNN1 ngày 4/4/2001 hướng dẫn thi hành Nghị định 178 trên, Nghị định số 08/NĐ - CP ngày 10/3/2001 về đăng kí giao dịch bảo đảm và Công văn số 2578/CV- NHCT5 hướng dẫn thực hiện quy chế cho vay cảu tổ chức tín dụng đối với khách hàng . - Có kiến thức tổng hợp về kinh tế thị trường, nắm được các thông tin thị trường, am hiểu pháp luật . - Có kiến thức hiểu biết nhất định về các lĩnh vực liên quan đến công tác thẩm định như công nghệ kĩ thuật, hải quan… Ngân hàng cần tạo điều kiện cho cán bộ thẩm định nâng cao trình độ và sâu sát thực tế, có thể mời các chuyên gia thuộc các lĩnh vực có liên quan về nói chuyện, trao đổi kinh nghiệm trong Ngân hàng và với các Ngân hàng bạn, cung cấp các nguồn tài liệu tham khảo của các tác giả trong và ngoài nước … Trước mắt cần tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ thẩm định một cách cụ thể để có chính sách tuyển chọn, đào tạo, sắp xếp sử dụng cán bộ hợp lý phù hợp với yếu cầu của công việc. Đưa chương trình tiêu chuẩn hoá cán bộ tín dụng vào trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực của toàn ngành. Gắn trách nhiệm với quyền lợi vật chất Quá trình xét duyệt các món vay của Hội đồng tín dụng và việc ký duyệt cho vay của giám đốc Ngân hàng cần thấy được vai trò và vị trí của cán bộ thẩm định với hiệu qủa các món vay. Từ đó phân định rõ trách nhiệm pháp lý của cán bộ thẩm định đồng thời đảm bảo quyền lợi gắn liền với trách nhiệm, khen thưởng kịp thời, kỷ luật nghiêm minh. * Xem xét lập tổ thẩm định tín dụng. Hiện nay tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Bãi cháy, công tác thẩm định và quyết định cho vay do phòng kinh doanh thực hiện. Đối với các món vay lớn, kết quả thẩm định được thông qua sự kiểm duyệt của hội đồng tín dụng. Hình thức này có ưu điểm là gắn quá trình thẩm định với quá trình cho vay, giám sát món vay, quy trách nhiệm về một người phụ trách cụ thể. Song cũng có một hạn chế cơ bản như đã đề cập ở các phần trước, đó là một cán bộ tín dụng không thể kiêm quá nhiều chức năng, điều này sẽ dẫn tới sự sơ sài trong quá trình thực hiện thẩm định món vay. Chính vì thế Ngân hàng Công thương Bãi cháy phải nên xem xét việc thành lập tổ thẩm định . Hiện nay đã có một số Ngân hàng Công thương thí điểm việc thành lập tổ thẩm định. Tổ thẩm định có những cán bộ chuyên trách làm công tác thẩm định, có nhiệm vụ nghiên cứu nắm bắt kịp thời chủ trương đường lối phát triển kinh tế của Nhà nước, của địa phương, nắm bắt pháp luật của nhà nước về thể lệ, chế độ của ngành để áp dụng có hiệu quả trong công tác thẩm định. Tổ thẩm định sau khi đã tính toán, lập tờ trình trình lên lãnh đạo phê duyệt. ở đây, tổ thẩm định chịu trách nhiệm về việc xem xét điều kiện vay vốn của khách hàng, giá trị và tính pháp lý của tài sản thế chấp, cầm cố, tính khả thi và hiệu quả kinh tế - xã hội của dự án. Cán bộ tín dụng chỉ chịu trách nhiệm về phần kiểm tra sử dụng vốn vay, thu hồi nợ gốc và lãi theo khế ước đã thoả thuận. Việc phân định rõ phạm vi trách nhiệm của tổ thẩm định và kiểm soát trước, trong và sau khi cho vay. Nhưng hình thức này cũng dễ dẫn đến sự phân tán trách nhiệm và quyền lợi đối với kết quả cuối cùng không rõ ràng. Mỗi mô hình đều có ưu nhược điểm nhất định. Ngân hàng Công thương Bãi cháy trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng của mình xem xét nên áp dụng mô hình nào. Nếu vẫn áp dụng mô hình cũ thì nên có những bổ sung hạn chế mà quan trọng nhất là thành lập ban chuyên về công tác đánh giá tài sản thế chấp và thẩm định mặt kỹ thuật của dự án. * Lập quỹ hỗ trợ cho việc thẩm định . Hiện nay, bất cứ một Ngân hàng nào ( đặc biệt là các Ngân hàng quốc doanh ) dường như cũng chưa có và cũng không cần dùng đến các khoản chi phí trợ giúp cho quá trình thẩm định, bởi vì nguồn thông tin là sẵn có. Với Ngân hàng công thương Bãi cháy, nguồn này có thể là do khách hàng cung cấp do tiêu chuẩn kĩ thuật của ngành và nhà nước quy định, do phòng kinh doanh đề ra hoặc do linh cảm và bề dày kinh nghiệm của các cán bộ tín dụng đúc kết. Ngay bản thân những người làm công tác thẩm định cũng như nhận thức sự cần thiết của khoản tiền này vì mặc dù đã có những cuộc gặp gỡ tiếp xúc trực tiếp cần chi phí nhưng nhìn chung còn lẻ tẻ và không thường xuyên và việc thẩm định dự án đầu tư không phải là một sớm một chiều, nó không hạn chế trong giai đoạn kiểm tra trước khi cho vay. Cán bộ tín dụng thường xuyên phải gặp gỡ khách hàng, thường xuyên phải xuống cơ sở kiểm tra giai đoạn này diễn ra liên tục gắn liền với quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì lẽ đó, Ngân hàng nên xem xét lập ra một quỹ riêng để chi phí cho hoạt động thẩm định dự án đầu tư. Nó sẽ góp một phần giảm bớt khó khăn cho cán bộ tín dụng khi tiến hành thẩm định, tạo điều kiện cho quá trình thẩm định được thuận lợi hơn. Mặt khác, quỹ thẩm định dự án cũng có trách nhiệm trong việc khuyến khích vật chất đối với cán bộ tín dụng. III. Kiến nghị ở nước ta hiện nay từ Ngân hàng quốc doanh lớn đên các Ngân hàng thương mại cổ phần đều phải đối mặt với những thách thức liên quan đến chất lượng của các khoản cho vay. Chi nhánh Ngân hàng công thương Bãi cháy cũng đang đứng trước những thách thức này và cũng cố gắng thực hiện tốt công tác thẩm định dự án nhằm nâng cao hiệu quả cho vay. Hiện đã có những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên mọi thứ luôn thay đổi và phát triển, điều phù hợp với hôm nay nhưng ngày mai đã trở lên lạc hậu không còn phù hợp nữa, đó là quy luật của sự phát triển và thay thế. Các giải pháp về nghiệp vụ nêu trên là những đề xuất đối với Ngân hàng, song để nâng cao chất lượng thẩm định, khác là hoàn thiện khâu kiểm tra trước trong quy trình nghiệp vụ cho vay cần có sự phối hợp đồng bộ của Ngân hàng Nhà nước, các Bộ, ngành có liên quan cùng với việc tạo dựng một môi trường kinh tế, pháp lý thuận lợi. Đối với Ngân hàng Công thương Quảng Ninh. Trong quá trình thẩm định theo nội dung quy trình, cán bộ thẩm định gặp nhiều khó khăn do một số quy định của Ngân hàng Nhà nước và của chi nhánh, chưa thực sự tạo điều kiện cho cán bộ thẩm định hoàn thiện nội dung quy trình thẩm định. Nên phê duyệt quyết định thành lập tổ thẩm định, quỹ thẩm định để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thẩm định. Các cán bộ tín dụng cần đánh giá kỹ hơn về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh và tài chính của doanh nghiệp khi thẩm định dự án. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước. Tăng cường vai trò của các trung tâm thông tin Ngân hàng. Như được biết hiện nay Ngân hàng nhà nước đã có 2 trung tâm thông tin Ngân hàng là: Trung tâm phòng ngừa rủi ro viết tắt là ( TRR ) và trung tâm thông tin tín dụng (CIC ) đặt tại vụ tín dụng Ngân hàng nhà nước và có chi nhánh tại các tỉnh, thành phố. Hiện tại, CIC là trung tâm thu thập các thông tin về các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp lớn và phát huy được những vai trò cơ bản. Nhưng nhu cầu thông tin của Ngân hàng đòi hỏi phải cao hơn rất nhiều so với những gì mà CIC cung cấp. Cần thiết phải cải tiến cơ chế làm việc của trung tâm này: Cần sắp xếp trung tân này thành một tổ chức độc lập, có thể cung cấp những dịch vụ thông tin liên quan đến ngành Ngân hàng tài chính cho những ai có nhu cầu. Hai là, ngoài những thông tin về Ngân hàng – tài chính họ cần phải phối hợp với những cơ quan có liên quan của chính phủ như: Uỷ ban kế hoạch Nhà nước, Tổng cục thống kê… để thu thập những thông tin đa dạng và phong phú hơn nữa về mọi ngành, mọi lĩnh vực trong nền kinh tế quốc dân. Các cán bộ thẩm định của Ngân hàng, có thể thu thập hệ thống cơ sở dữ liệu tại trung tâm này thông qua mạng cục bộ của Ngân hàng, khai thác những số liệu cần thiết về doanh nghiệp, về ngành quản lý doanh nghiệp, về tình hình thị trường,những dự báo … qua đó cũng tăng cường hiệu quả thẩm định các dự án. Ngân hàng Nhà nước cần từng bước thực thi chính sách lãi suất thị trường để cho các Ngân hàng thương mại có sự linh hoạt cho lĩnh vực đầu tư các dự án. Mục tiêu của Ngân hàng thương mại là tăng tối đa lợi nhuận, nhưng những quy định về lãi suất trong thời gian vừa qua là đúng đắn nhưng nó vẫn có thể làm giảm lợi nhuận của Ngân hàng. Nếu chỉ với lãi suất thị trường thì lãi suất vẫn biến động theo tỷ lệ lãi suất chiết khấu của Ngân hàng Nhà nước mà vẫn làm tăng tối đa lợi nhuận cho Ngân hàng, nhất là những dự án đầu tư trung và dài hạn. Những hạn chế của lãi suất cố định làm cho khi thẩm định dự án và quyết định cho vay, Ngân hàng vẫn là những người chịu thiệt thòi. Bởi vì, các dự án cho vay thường là trung dài hạn nhưng hiện tại lãi suất là thấp. Ví dụ hiện tại lãi suất là 1%/ tháng nhưng một năm sau lãi suất tăng lên 1,8% một tháng như đó dự án vẫn chỉ được nhận lãi suất là 1%. Đối với những dự án đầu tư vào những lĩnh vực sản xuất mặt hàng mà Nhà nước không khuyến khích phát triển như : rượu, bia, thuốc lá thì lãi suất trần sẽ gây cản trở cho Ngân hàng trong việc tăng lãi suất. Việc thay đổi chính sách lãi suất không những giúp Ngân hàng tăng hiệu quả trong việc cho vay đôí với các dự án mà còn giúp Chính phủ điều tiết nền kinh tế đúng định hướng của mình. Ngân hàng nhà nước là cơ quan điều hành, trực tiếp của các Ngân hàng thương mại thì nhất thiết phải có những hỗ trợ các Ngân hàng thương mại trong công tác thẩm định. Ngoài những cuộc hội thảo nhằm bàn bạc đúc rút ra những kinh nghiệm thẩm định tại các Ngân hàng thương mại nhất thiết phải tổ chức những khoá học thường niên cho các cán bộ thẩm định do các chuyên gia của WB, IMF hoặc của một số nước khác có ngành Ngân hàng phát triển để họ có thể nắm bắt được những tiến bộ, ứng dụng thành công vào công tác thẩm định của mình. Kiến nghị với Nhà nước. Chúng ta biết rằng hệ thống chính sách của Nhà nước ảnh hưởng và chi phối tất cả các lĩnh vực xã hội như kinh tế, chính trị, văn hoá, tôn giáo, môi trường.. Một sự thay đổi dù lớn hay nhỏ trong chính sách của Nhà nước ngay lập tức sẽ tác động đến toàn xã hội. Công tác thẩm định dự án đầu tư cũng không phải là ngoại lệ, nó luôn bị chi phối bởi các chính sách vĩ mô ở các mức độ khác nhau. Do vậy, để nâng cao công tác thẩm định dự án đầu tư trung và dài hạn không chỉ có lỗ lực của riêng Ngân hàng mà phải có sự trợ giúp đỡ phối hợp của các ngành các cơ quan hữu quan. Để thực hiện được điều này Nhà nước cần chú ý đến những vấn đề sau: Chính phủ cần có những Nghị định nhằm đưa công tác kiểm toán phát huy hơn nữa vài trò của minh. Bên cạnh đó cũng phải có những chỉ thị cụ thể đối với Bộ tài chính nhằm làm cho các doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc chế độ kế toán theo đúng quy định của Nhà nước. - Những kiến nghị này có những tác dụng : Trước hết là làm tăng tính trung thực của các doanh nghiệp trong nộp thuế cho Ngân sách Nhà nước. Sau đó sẽ thành thói quen trong hoạt động của doanh nghiệp, từng bước công khai tài chính tạo điều kiện cho doanh nghiệp dễ dàng trong quá trình cổ phần hoá. Nhất là đối với các doanh nghiệp Nhà nước. Sau cũng là giúp Ngân hàng có được những số liệu chính xác về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tình hình tài chính của doanh nghiệp, làm cơ sở thẩm định doanh nghiệp nói riêng và thẩm định toàn bộ dự án nói chung. Đối với các doanh nghiệp Nhà nước Chính phủ cần phải giảm bớt những “ giúp đỡ ” để các doanh nghiệp này từng bước làm chủ sản xuất kinh doanh, chịu những quy luật cạnh tranh trên thị trường. Trước mắt có thể là gặp những khó khăn nhưng sau đó họ sẽ đứng vững và hoạt động có hiệu quả hơn. Những “ giúp đỡ ” cần giảm đầu tiên là trong quan hệ tín dụng đối với các Ngân hàng thương mại quốc doanh. Từ trước Nghị định 178/NĐ - CP/2000 chủ trương của Chính phủ vẫn tách vỡ ra doanh nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp phi quốc doanh trong hoạt động tín dụng. Cho phép các doanh nghiệp nhà nước được vay vốn không cần thế chấp, điều này hoàn toàn là bất hợp lý bởi lẽ, khi không phải thế chấp tài sản thì tổng số tiền vay tại Ngân hàng sẽ lớn hơn rất nhiều so với nguồn vốn kinh doanh của các doanh nghiệp hiện có. Điều này là hiển nhiên cho rằng hệ số tài trợ là hoàn toàn không có giá trị trong công tác thẩm định. Hậu quả là doanh nghiệp sẽ “ phồng to ” ra hơn so với năng lực thực tế của mình, nếu như có xảy ra rủi ro trong quá trình kinh doanh ( Vấn đề này là không tránh khỏi ) thì doanh nghiệp sẽ không đủ năng lực để trả nợ. Như vậy doanh nghiệp nhà nước và Ngân hàng quốc doanh đều là vốn của Nhà nước thì cần tách bạch rành rọt để cho mỗi chủ thể tự chịu trách nhiệm lấy nguồn vốn của mình và hoạt động có hiệu quả hơn. Tình trạng bỏ “túi lành” sang “ túi thủng ” như hiện nay là bất cập. Công tác thẩm định không có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp này. - Hàng năm Chính phủ đều có những kế hoạch đầu tư phát triển cho từng vùng nhưng các dự án vẫn được các ngành thực hiện không đồng nhất : Có hiện tượng các dự án của ngành thì thừa các dự án của vùng thì thiếu. Chính những mâu thuẫn này làm cho công tác thẩm định tại các Ngân hàng trở nên khó khăn hơn. Bởi vì khi thẩm định phương diện thị trường thì nhu cầu những sản phẩm hàng hoá của vùng lại thiếu, nhưng xét trên toàn ngành thì tổng sản lượng lại thừa. Hay tình trạng các dự án cùng loại cùng một lúc thực hiện, trước khi thực hiện thì tổng cung nhỏ hơn tổng cầu, nhưng nhiều dự án đi vào hoạt động thì tổng cung lại lớn hơn tổng cầu. Những khó khăn này Ngân hàng khó mà lường hết được trong công tác thẩm định, nhưng mà Chính phủ, các Bộ có liên quan có thể điều tiết được theo kế hoạch. Vì vậy chính phủ cần phải lưu tâm hơn nữa về vấn để này. Kết luận Trong quá trình học tập nghiên cứu tại trường và thực tế thực tập tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Bãi Cháy em thấy vấn đề thẩm định, đánh giá dự án đầu tư là một khâu hết sức quan trọng trong quy trình nghiệp vụ cho vay của Ngân hàng thương mại. Hơn nữa việc nghiên cứu những giải pháp nhằm nâng cao công tác thẩm định dự án đầu tư là một vấn đề có phạm vi rộng, phức tạp, liên quan đến nhiều ngành nhiều lĩnh vực đồng thời phải có thời gian dài. Với sự hiểu biết còn hạn chế và điều kiện nghiên cứu có hạn. Trong khuôn khổ luận văn của mình em chỉ xin đưa ra những vấn đề chung nhất và một vài ý kiến nhỏ, hy vọng sẽ có thể phần nào đóng góp vào công cuộc đổi mới hoạt động của Ngân hàng Công thương Bãi Cháy. Đặc biệt là trong công tác thẩm định dự án trung - dài hạn gặt hái được nhiều thành công hơn nữa. Với sự hiểu biết còn hạn chế nên chuyên đề này không tránh khỏi sai sót và khiếm khuyết. Vậy nên em rất mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy cô và các bạn quan tâm đến vấn đề này. Hoàn thành đề tài này em xin chân thành cám ơn thầy giáo Trương Quốc Cường, anh Phạm Mạnh Hùng ( cán bộ tín dụng ), Bác Nguyễn Văn Thành ( chuyên viên chính, Sở kế hoạch và đầu tư Tỉnh QN) những người đã tận tình hướng dẫn giúp em nghiên cứu đề tài này. Em xin trân trọng cám ơn sự giúp đỡ của các cán bộ Ngân hàng Công thương Bãi Cháy đặc biệt là các anh chị trong phòng kinh doanh đã giúp em hoàn thiện luận văn này. Một lần nữa em xin trân trọng cám ơn ! Danh mục tài liệu tham khảo David Begg, Stanley, Fischer, Rudiger Dornbusch: Kinh tế học tập I,II- NXB – Giáo dục, 1993 David Cox : Nghiệp vụ Ngân hàng hiện đại – NXB Chính trị Quốc gia 1998. Edward K. Gill, Edward W.Reed: Ngân hàng thương mại Giáo trình phân tích tài chính doanh nghiệp Giáo trình lập và quản lý dự án đầu tư- chủ biên TS – Nguyễn Bạch Nguyệt. Giáo trình tài trợ dự án đầu tư - Học viện Ngân hàng. Hướng dẫn soạn thảo và phân tích các dự án đầu tư - chủ biên Trần Văn Kinh – Bộ công nghiệp- Viện thông tin – Kinh tế công nghiệp Nghị định của chính phủ số 12/NĐ- CP về việc sửa đổi bổ sung một số điều của quy chế quản lý đầu tư và xây dựng ngày 05/05/2001 ban hành kèm theo Nghị định 52/NĐ- CP ngày 08/07/2000 của Chính phủ. Nghị định số 178/ 2000/NĐ- CP về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng. Công văn số 2587/CV-NHCT5 Báo cáo kết quả kinh doanh 1999,2000,2001 và phuơng hướng hoạt động năm 2002 – Ngân hàng Công thương Bãi Cháy. Mục lục Lời nói đầu 1 ChươngI Tín dụng dài hạn và công tác thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng thương Mại 2 I. Sự cần thiết của tín dụng trung dài hạn trong nền kinh tế thị trường, khái niệm và đặc trưng tín dụng trung dài hạn 2 1. Khái niệm 2 2. Đặc trưng 2 3. Các hình thức tín dụng trung dài hạn 2 3.1 Tín dụng theo dự án 2 3.2 Tín dụng tuần hoàn 3 3.3 Tín dụng thuê mua 3 4.Vai trò của tín dụng trung dài hạn đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. 4 II Thẩm định dự án đầu tư trung dài hạn tại Ngân hàng thương mại 5 1 Rủi ro tín dụng Ngân hàng. 5 2 Sự cần thiết của thẩm định dự án đầu tư 6 2.1Sự cần thiết phải thẩm định dự án đầu tư: 7 2.2 Phương pháp thẩm định: 8 2.3 Phương pháp so sánh các chỉ tiêu: 8 3. Nội dung của thẩm định dự án đầu tư: 8 3.1 Thẩm định sự cần thiết và mục tiêu của dự án. 8 3.2 Thẩm định chủ đầu tư 9 3.3 Thẩm định dự án đầu tư 15 CHƯƠNG II Thực trạng công tác thẩm định tín dụng dự án đầu tư trung dài hạn của doanh nghiệp tại chi nhánh Ngân hàng công thương Bãi Cháy. 31 I.vài nét về hoạt động kinh doanh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Bãi Cháy 31 1. Sự ra đời, mô hình tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của chi nhánh Ngân hàng Công thương Bãi cháy. 31 2. Tình hình huy động vốn. 34 3. Tình hình sử dụng vốn tại Ngân hàng công thương Bãi cháy. 36 4. Tình hình cho vay 36 5. Kết quả sản xuất kinh doanh . 40 6.Thực trạng tình hình thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng công thương Bãi cháy. 40 6.1 Tình hình chung 40 6.2 Kết quả thẩm định dự án Ngân hàng Công thương Bãi cháy “ Đầu tư xây dựng nhà máy gạch ốp lát cao cấp từ đất sét nung ” 43 6.3 Đánh giá chất lượng của dự án. 56 6.4. Những mặt còn tồn tại trong công tác thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng công thương Bãi cháy. 58 Chương III Giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư trung và dài hạn tại chi nhánh ngân hàng công thương Bãi cháy. 72 I. Định hướng công tác thẩm định trung và dài hạn trong năm 2002. 72 II. Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định dự án tại chi nhánh Ngân hàng công thương Quảng Ninh. 73 1.Giải pháp lâu dài: 73 III. Kiến nghị 80 1 Đối với Ngân hàng Công thương Quảng Ninh. 81 2 Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước. 81 3 Kiến nghị với Nhà nước. 82 Kết luận 84 Tài liệu tham khảo 85

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24924.doc