Năm là, khai thác, phát huy các nguồn lực và tiềm năng tại chỗ của các địa phương, các nguồn tài chính của dân cư trong vùng.
Sáu là, hình thành, phát triển đội ngũ các nhà kinh doanh năng động. Cùng với phát triển các DNVVN là sự xuất hiện ngày càng nhiều hơn các nhà kinh doanh sáng lập. Đây là lực lượng rất cần thiết để góp phần thúc đẩy sản xuất – kinh doanh ở Việt Nam phát triển.
Bảy là, tạo ra môi trường cạnh tranh thúc đẩy sản xuất – kinh doanh phát triển có hiệu quả hơn. Sự tham gia của rất nhiều các DNVVN vào sản xuất kinh doanh làm cho số lượng và chủng loại sản phẩm tăng lên rất nhanh. Kết quả là làm tăng tính chất cạnh tranh trên thị trường, tạo ra sức ép lớn buộc các doanh nghiệp phải thường xuyên đổi mới mặt hàng, giảm chi phí, tăng chất lượng để thích ứng với môi trường mới. Những yếu tố đó có tác động lớn làm cho nền kinh tế năng động, hiệu quả hơn.
Với những lợi ích to lớn đó, việc khuyến khích, hỗ trợ phát triển các DNVVN là một giải pháp quan trọng để thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến 2010, đặc biệt là thực hiện Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa Nông nghiệp và Nông thôn. Đây cũng là một trong các giải pháp bảo đảm sự phát triển bền vững của nền kinh tế nước ta
81 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1265 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính trong cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ày của khách hàng càng cao càng tốt, nhưng tối thiểu phải 30% mới gọi là có khả năng tự chủ về tài chính
Hệ số về khả năng trả lãi của khách hàng: (Lợi nhuận trước thuế + Lãi vay trong kỳ) / Lãi vay trong kỳ.
Phản ánh khả năng tạo ra lợi nhuận để trả lãi của khách hàng. Tỷ lệ này càng cao thì khả năng trả lãi vay của khách hàng càng an toàn.
- Các chỉ tiêu cho biết cơ cấu vốn của doanh nghiệp:
+ Tài sản cố định / Tổng tài sản
+ Tài sản cố định / Vốn chủ sở hữu
+ Tài sản lưu động / Tổng tài sản
Cho biết cơ cấu vốn có hợp lý hay không.
2.2.2.3 Khả năng thanh khoản:
Các chỉ tiêu đánh giá gồm:
Thước đo tiền mặt: Tồn quỹ bình quân + những tài sản lưu động, đầu tư tài chính ngắn hạn có thể bán chuyền thành tiền dễ dàng.
Chỉ tiêu này cho biết khả năng thanh toán các khoản nợ thường xuyên, nếu bằng hoặc lớn hơn tổng số nợ phải thanh toán thường xuyên hàng tháng là tốt.
Hệ số về khả năng thanh toán ngắn hạn: Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn / Tổng nợ ngắn hạn.
Cho biết khách hàng có đủ tài sản lưu động để đảm bảo trả các khoản nợ ngắn hạn (một đồng tài sản nợ ngắn hạn được đảm bảo hoàn trả bằng bao nhiêu đồng tài sản lưu động). Tỷ lệ này > 1 là tốt.
Hệ số về khả năng thanh toán nhanh: (Đầu tư tài chính ngắn hạn + Tiền) / Nợ ngắn hạn
Hệ số này cho biết khả năng huy động các nguồn tiền có thể huy động nhanh và các chứng khoán có thể dễ dàng chuyển được thành tiền để trả nợ. Tỷ lệ này > 0,5 là tốt.
Vòng quay hàng tồn kho: Giá vốn hàng bán / hàng tồn kho bình quân
Thể hiện khả năng quay vòng nguyên vật liệu, hàng hoá, thành phẩm của khách hàng. Vòng quay hàng tồn kho càng cao thể hiện khách hàng có nguồn cung cấp nguyên vật liệu ổn định, không phải dự trữ nhiều, hàng hoá làm ra được tiêu thụ nhanh ...
Để phân tích, đánh giá chi tiết rõ hơn, cán bộ thẩm định có thể sử dụng thêm các chỉ số sau:
- Vòng quay nguyên vật liệu tồn kho: Tổng chi phí nguyên vật liệu sản xuất / Nguyên vật liệu tồn kho bình quân.
- Vòng quay thành phẩm tồn kho: Giá vốn hàng bán / thành phẩm tồn kho bình quân.
Khi phân tích, đánh giá cần so sánh với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cùng ngành nghề để so sánh. Nếu vòng quay hàng tồn kho của khách hàng thấp, cán bộ thẩm định cần tìm hiểu kỹ xem có hàng tồn kho mất phẩm chất, kém chất lượng hay không để loại trừ khi tính toán. Khi đó, xem các khoản loại trừ này như khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho và đưa vào chi phí trong kỳ và tính toán lại các tỷ số về hiệu quả hoạt động của khách hàng.
- Vòng quay các khoản phải thu: Doanh thu / các khoản phải thu bình quân:
Tỷ số này càng cao càng tốt, thể hiện việc thu tiền bán hàng nhanh. Tuy nhiên khi đánh giá cần lưu ý trong trường hợp khách hàng thực hiện chính sách bán hàng trả chậm.
2.2.2.4 Phân tích các khoản công nợ:
Các khoản phải thu: nếu các khoản phải thu lớn so với quy mô hoạt động kinh doanh, cần phải xem xét kỹ bảng kê chi tiết các khoản phải thu qua các năm xem có khoản nào thuộc dạng nợ dây dưa khó đòi hay không, các khoản không có khả năng thu hồi. Cần phải làm rõ đối với từng khoản phải thu có giá trị lớn. Đối với những khoản phải thu không có khả năng thu hồi cần loại trừ và xem các khoản này như khoản dự phòng để đưa vào chi phí và xem xét lại kết quả hoạt động kinh doanh thực tế của khách hàng.
Các khoản phải trả: xem xét đánh giá các khoản phải trả xem có lớn hơn so với quy mô hoạt động của khách hàng không, các khoản phải trả là do chưa đến hạn hay chưa có nguồn trả. Bản chất của từng khoản phải trả, việc hạch toán các khoản này có đúng không.
2.2.2.5 Các tỷ lệ nghiệp vụ khác (nếu cần thiết):
Là các tỷ lệ cho phép đánh giá khả năng sử dụng hiệu quả tài sản có của doanh nghiệp gồm:
Tỷ lệ chờ thu / doanh thu: xem xét việc sử dụng vốn của doanh nghiệp kết hợp xem xét thời gian phải thu hợp lý.
Tỷ lệ tồn kho / doanh thu: so sánh với tỉ lệ chuẩn mực tuỳ theo ngành nghề.
Tỷ lệ chờ chi / doanh thu: xem xét thời gian mà khách hàng có khả năng trả nợ.
Ba tỷ lệ trên hình thành để xem xét khả năng thu, khả năng bán hàng hoá tồn kho, khả năng trả nợ theo nghĩa vụ của công ty.
Hệ số vòng quay vốn: Doanh thu thuần / Tổng số vốn bình quân. Chỉ số này cao, vốn đầu tư sử dụng có hiệu quả.
Hệ số vòng quay vốn lưu động: Doanh thu thuần / Tài sản lưu động bình quân. Hệ số này phụ thuộc theo từng ngành nghề, vì vậy khi đánh giá phải so sánh với chỉ số chung của từng ngành.
Việc tính toán các chỉ số để đánh giá tình hình tài chính của khách hàng cần phải được thực hiện qua nhiều năm (thông thường là 3 năm) mới có thể đánh giá được xu hướng phát triển của khách hàng. Ngoài ra, khi đánh giá, nhận xét về tình hình tài chính, cán bộ thẩm định không nên chỉ tập trung vào nhận xét từ kết quả một chỉ số cụ thể mà cần có cái nhìn tổng thể các chỉ số và hiểu về mối liên hệ giữa các chỉ số để việc đánh giá được chính xác và toàn diện.
2.2.3 Phân tích Báo cáo nguồn vốn và sử dụng vốn:
Trong phân tích nguồn vốn và sử dụng vốn, CBTD thường xem xét sự thay đổi của các nguồn vốn và cách thức sử dụng vốn của một doanh nghiệp trong một thời kỳ theo số liệu giữa hai thời điểm lập Bảng cân đối kế toán.
Một trong những công cụ hữu hiệu là biểu kê nguồn vốn và sử dụng vốn. Nó giúp CBTD nhìn thấy rõ các nguồn cung ứng vốn và việc sử dụng các nguồn vốn đó. Để lập được biểu này, trước hết phải liệt kê sự thay đổi các khoản mục trên Bảng cân đối kế toán từ đầu kỳ đến cuối kỳ. Mỗi sự thay đổi được phân biệt thành hai cột sử dụng vốn và nguồn vốn theo nguyên tắc:
- Nếu các khoản mục bên tài sản tăng hoặc các khoản mục bên nguồn vốn giảm thì điều đó thể hiện việc sử dụng vốn.
- Nếu các khoản mục bên tài sản giảm hoặc các khoản mục bên nguồn vốn tăng thì điều đó thể hiện việc tạo nguồn vốn.
2.2.4 Dự báo về Bảng cân đối kế toán và Báo cáo nguồn vốn và sử dụng vốn:
Ở nước ta hiện nay do chưa có tổ chức nào đứng ra làm dịch vụ thông tin theo ngành sản xuất để có những đặc trưng tài chính của một ngành sản xuất cho phép đánh giá các đặc trưng tài chính của một doanh nghiệp cá biệt trong ngành, mà mới chỉ có những thông tin tổng hợp trong khu vực kinh tế quốc doanh. Vì vậy, phương pháp sử nhóm các chỉ tiêu tài chính đặc trưng tài chính doanh nghiệp chưa được sử dụng rộng rãi, chủ yếu các CBTD sử dụng phương pháp tỷ lệ phần trăm trên doanh thu để dự báo Bảng cân đối kế toán và Báo cáo nguồn vốn và sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Khi đó CBTD tính toán số dư của các chỉ tiêu trên Bảng cân đối kế toán năm báo cáo, sau đó xác định những chỉ tiêu thay đổi trực tiếp và có quan hệ chặt chẽ với doanh thu như Nợ Ngân sách nhà nước và công nhân viên; Các khoản phải trả khác rồi tính tỷ lệ phần trăm của các khoản đó so với doanh thu. Từ các tỷ lệ phần trăm đó xác định nhu cầu vốn kinh doanh và doanh thu dự tính cần đạt được. Bước cuối cùng là định hướng các nguồn tài trợ cho nhu cầu vốn trong thời gian tới của doanh nghiệp.
2.3 Đánh giá công tác thẩm định tài chính trong cho vay đối với DNVVN ở Chi nhánh NHCT Đống Đa:
2.3.1 Những kết quả đạt được:
Qua tìm hiểu công tác thẩm định tài trong cho vay đối với DNVVN tại Chi nhánh NHCT Đống Đa cũng ta thấy công tác thẩm định tài chính ở Chi nhánh là khá tốt.
Nội dung, quy trình thẩm định tài chính trong cho vay đối với DNVVN ở Chi nhánh được tiến hành theo đúng văn bản hướng dẫn trong hệ thống và Chi nhánh, tương đối rõ ràng, cụ thể và dễ hiểu.
Thời gian thẩm định cũng đã được rút ngắn đáp ứng kịp thời nhu cầu của các doanh nghiệp, giảm chi phí và thời gian (Theo quy định của NHCT Việt Nam thời gian thẩm định đối với cho vay ngắn hạn là không quá 3 - 5 ngày, đối với cho vay trung và dài hạn là không quá 7 - 10 ngày làm việc, được quy định trong cuốn Sổ tay tín dụng của NHCT Việt Nam năm 2004).
Nhìn chung các cán bộ thẩm định đã ứng dụng các phần mềm và các thông tin để tính toán các chỉ tiêu một cách nhanh chóng, đảm bảo chính xác bảo đảm tính khách quan cho các khách hàng đến vay. Điều này đã nâng cao thêm uy tín của Chi nhánh, thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến với Chi nhánh.
NHCT Việt Nam và Chi nhánh NHCT Đống Đa cũng đã cố gắng hoàn thiện phương pháp thẩm định, các chỉ số tài chính được so sánh với các tiêu chuẩn để đánh giá. Việc lựa chọn phương pháp thẩm định ngày càng phù hợp hơn đối với từng từng khách hàng kinh doanh trong các lĩnh vực có những đặc điểm kỹ thuật khác nhau. Phương pháp thẩm định nói chung đã đánh giá được tình hình tài chính của doanh nghiệp, hiệu quả tài chính của dự án, nhất là đánh giá được khả năng hoàn vốn, thời gian trả nợ của dự án - một trong những điều cốt lõi mà ngân hàng quan tâm. Do đó đã chọn được những khách hàng làm ăn có hiệu quả kinh tế cao và đủ khả năng trả nợ cho ngân hàng. Mặt khác phương pháp tính toán các chỉ tiêu là đơn giản, dễ hiểu, phù hợp với trình độ và điều kiện quản lý, đáp ứng được những yêu cầu cơ bản trong công tác thẩm định.
Nguồn thông tin để cung cấp cho việc thẩm định ngày càng được nâng cao. Ngoài nguồn thông tin do khách hàng cung cấp các cán bộ thẩm định đã áp dụng những nghiệp vụ thu thập thông tin về khách hàng rất hiệu quả như: tìm kiếm thông tin về khách hàng từ các ngân hàng mà khách hàng đã vay vốn, từ cơ quan thuế, từ bàn hàng của khách hàng, trên báo chí và các phương tiện truyền thông đại chúng tìm hiểu về uy tín của khách hàng trên thị trường và đặc biệt quan trọng đó là các cán bộ trực tiếp xuống tận cơ sở để khảo sát thực tế. Điều này cũng góp phần rất lớn trong công tác thẩm định, hạn chế việc cho vay đối với những khách hàng xấu, giảm rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng vì ngân hàng đã khắc phục được thông tin đối nghịch từ phía khách hàng.
Với sự ra đời của cuốn Sổ tay tín dụng của NHCT Việt Nam năm 2004 đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong chất lượng công tác thẩm định tài chính nói riêng và hoạt động tín dụng nói chung trong toàn hệ thống các Chi nhánh. Nội dung của cuốn Sổ tay tín dụng được trình bày rất cụ thể và rõ ràng ở từng nghiệp vụ trong hoạt động tín dụng đã là cơ sở quan trọng cho CBTD khi tiến hành các nghiệp vụ của mình. Sự ra đời của cuốn Sổ tay tín dụng đã góp phần xây dựng một quy trình thẩm định tài chính hiệu quả trong cho vay đối với các doanh nghiệp cũng như định hình cho Ban lãnh đạo các Chi nhánh một mô hình tổ chức công tác thẩm định chất lượng đó là, phải xây dựng phòng thẩm định tách riêng với phòng khách hàng nhưng lại có một mối quan hệ mật thiết với phòng khách hàng để hỗ trợ nhau trong hoạt động. Điều này sẽ khắc phục được một số hạn chế do tình trạng CBTD kiêm nhiệm luôn vai trò của cán bộ thẩm định như hiện nay trong các ngân hàng.
Có được những kết quả như vậy là nhờ sự quan tâm của Ban lãnh đạo đối với hoạt động kinh doanh của Chi nhánh nói chung và công tác thẩm định nói riêng. Chi nhánh NHCT Đống Đa đã chú ý nâng cao trình độ nghiệp vụ cho các cán bộ thẩm định, phân công giao những nhóm khách hàng phù hợp với trình độ năng lực của từng người; thực hiện tốt việc phân cấp thẩm định. Bên cạnh đó là sự nỗ lực, cố gắng học hỏi nâng cao trình độ, hoàn thành công việc, đáp ứng được nhu cầu của khách hàng của toàn thể cán bộ Chi nhánh NHCT Đống Đa.
2.3.2 Những hạn chế và nguyên nhân:
Tuy có những thành công đã đạt được trong công tác thẩm định tài chính trong cho vay đối với các DNVVN nhưng công tác thẩm định vẫn còn một số hạn chế do đó chất lượng của nó vẫn chưa cao. Những hạn chế này phải được Chi nhánh nhìn nhận một cách khách quan để có những biện pháp khắc phục kịp thời giúp ngày càng nâng cao chất lượng thẩm định tài chính.
2.3.2.1 Nội dung thẩm định tài chính:
Trong thẩm định, phân tích các Báo cáo tài chính của doanh nghiệp:
Khi các doanh nghiệp vay vốn cung cấp các Báo cáo tài chính cho các CBTD thì nhiều khi CBTD chưa phát hiện ra những bất hợp lý số liệu đó vì thiếu cơ sở đối chứng. Đó là một thực tế đang tồn tại trong toàn hệ thống ngân hàng nước ta là do chưa có những quy định của Nhà nước về trách nhiệm pháp lý khi cung cấp không đúng thông tin đối với các doanh nghiệp nên các doanh nghiệp không ngần ngại thực hiện những hành vi che dấu số liệu. Khi đánh giá khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp cán bộ thẩm định phải nhận thấy rõ là sự thay đổi về tổng tài sản và tổng nguồn vốn ở hạng mục nào là chủ yếu và sự thay đổi đó là do nguồn nào tài trợ. Mặt khác, phải nhìn thấy rõ sự khác nhau về cơ cấu tài sản và nguồn vốn giữa các doanh nghiệp kinh doanh các ngành nghề khác nhau. Quan trọng hơn cả là đánh giá chính xác tính bảo đảm vốn kinh doanh qua chỉ tiêu vốn lưu động ròng.
Trong đánh giá, phân tích các chỉ số tài chính của doanh nghiệp:
Việc tính toán các chỉ số tài chính đã được thực hiện khá đầy đủ và chính xác nhưng việc đưa ra các đánh giá từ các số liệu đó còn chưa đầy đủ, đôi khi mang tính chủ quan cá nhân do cán bộ thẩm định đồng thời là cán bộ tín dụng vì vậy không có sự đối chiếu so sánh giữa hai bộ phận đó. Điều này sẽ gây ra những trường hợp CBTD đánh giá chưa thật chính xác về khách hàng.
Trong phân tích Báo cáo nguồn vốn và sử dụng vốn của doanh nghiệp:
Khi thực hiện công việc này CBTD được thấy doanh nghiệp đã tài trợ cho các hoạt động nào và phân bố vốn huy động được như thế nào? Qua đó đánh giá khả năng vay nợ của doanh nghiệp này. Tuy nhiên, ở hầu hết các ngân hàng cũng như ở Chi nhánh khâu phân tích báo cáo nguồn vốn trong thẩm định tài chính chưa được chú trọng nhiều.
Trong dự báo về Bảng cân đối kế toán mới và Báo cáo nguồn vốn và sử dụng vốn:
Công tác này ít được thực hiện, các CBTD đảm nhiệm công việc thẩm định thường chỉ căn cứ vào các Bảng cân đối kế toán và Báo cáo nguồn vốn và sử dụng vốn được doanh nghiệp dự báo và cung cấp cho ngân hàng. Đây cũng là thực trạng chung của các ngân hàng hiện nay vì các cán bộ thẩm định cũng chưa được cung cấp đầy đủ những thông tin về khách hàng do khách hàng cung cấp và cũng thiếu các tổ chức cung cấp thông tin trên thị trường. Do vậy mà dẫn đến công tác thẩm định đặc biệt là việc đánh giá tính khả thi của phương án sản xuất kinh doanh / dự án trong một số tình huống chưa tốt.
2.3.2.2 Phương pháp thẩm định:
Do hạn chế của thị trường thông tin tài chính cũng như những hạn chế về chuyên môn nghiệp vụ của các cán bộ thẩm định mà quy trình thẩm định tài chính thường được đơn giản hoá, các phương pháp thẩm định chưa được sử dụng đa dạng. NHCT trong những năm qua đã cố gắng xây dựng cho mình một cuốn Sổ tay tín dụng nhằm mục tiêu hướng dẫn cho các CBTD quy trình và phương pháp thực hiện các nghiệp vụ tín dụng ngân hàng trong đó có hướng dẫn thực hiện quy trình, phương pháp thẩm định tài chính khách hàng. Mặc dù NHCT đã có những cố gắng rất nhiều những cuốn Sổ tay tín dụng vẫn chưa đáp ứng hết được các yêu cầu của công việc. Hơn thế nữa, do những hạn chế đã nêu ở trên mà khi thực hiện công tác thẩm định tài chính các CBTD không có nhiều phương pháp để lựa chọn và các phương pháp được áp dụng ở các NHTM chưa có tính thống nhất cao.
2.3.2.3 Quy trình thẩm định tài chính:
Theo như hướng dẫn trong cuốn Sổ tay tín dụng của NHCT Việt Nam thì quy trình thực hiện công tác thẩm định tài chính khách hàng trong cho vay đối với doanh nghiệp là khá chi tiết và rõ ràng. Đó là, CBTD tiến hành thu thập các thông tin về khách hàng sau đó thực hiện việc phân tích và đánh giá. Nhưng một vấn đề vướng mắc trong khi thực hiện đó là, do trình bày quá chi tiết và cụ thể nên những quy định trong cuốn sổ tay tín dụng phải trình bày dàn trải gây những khó khăn cho người thực hiện, mặt khác nó cũng gây ra sự lúng túng, không linh hoạt khi áp dụng.
2.3.3.4 Công tác tổ chức thực hiện thẩm định tài chính:
Theo như hiện nay, hầu như ở các ngân hàng cũng như ở Chi nhánh NHCT Đống Đa thì chưa tổ chức được phòng thẩm định riêng biệt mà tồn tại một tình trạng chung là CBTD thường kiêm nhiệm luôn vai trò của cán bộ thẩm định. Chính vì điều này mà chưa phát huy được tính độc lập, hiệu quả của công tác thẩm định với công tác cho vay của phòng tín dụng. Vì cùng một lúc vừa thực hiện nhiệm vụ thẩm định khách hàng để cho vay đồng thời lại là người thực hiện cho vay nên đôi khi CBTD không tránh được những quyết định cho vay sai lầm do sự chủ quan của mình.
2.3.2.5 Nguyên nhân:
Nguyên nhân khách quan:
Thứ nhất, trong bối cảnh nền kinh tế nước ta đang ở giai đoạn phát triển nền kinh tế thị trường, do vậy nhiều hoạt động gắn liền với nó còn chưa định hình rõ ràng, còn chứa đựng nhiều yếu tố bất ổn, rủi ro. Vì thế, việc phân tích, dự báo trong thẩm định tài chính là khó khăn và khó có thể chính xác hoàn toàn. Trong hoàn cảnh như vậy nhà nước ta cần có những can thiệp kịp thời bằng cách sớm ban hành văn bản thống nhất nội dung các hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động thẩm định tài chính trong cho vay đối với các doanh nghiệp nói riêng.
Hơn nữa, thông tin trong nền kinh tế phục vụ cho công tác thẩm định tài chính còn rất nghèo nàn, chưa cập nhật và thiếu chính xác đặc biệt đối với khối các DNVVN. Ngân hàng thường chỉ dựa vào nguồn tin từ phía doanh nghiệp là chính, mà nguồn thông tin này lại mang nhiều tính chủ quan của doanh nghiệp và chưa qua kiểm toán theo một chế độ bắt buộc. Điều này càng làm cho việc thẩm định càng khó khăn, dẫn tới xu hướng đơn giản hóa trong thẩm định.
Với chức năng quản lý vĩ mô Nhà nước phải có tác động để buộc các doanh nghiệp quốc doanh cũng như ngoài quốc doanh phải công bố công khai các thông tin liên quan đến tình hình tài chính và hoạt động kinh doanh của mình và phải chịu trách nhiệm pháp lý về tính trung thực của các thông tin đó.
Thứ hai, thị trường nói chung và thị trường tài chính nói riêng chưa phát triển mạnh, chưa ổn định, tâm lý và thói quen đầu tư chưa hình thành rõ nét; giá cả của vốn vay chưa được quan tâm đúng mức, chưa thu hút được sự quan tâm đúng mức của công chúng và các nhà đầu tư và các doanh nghiệp. Do vậy, các phương pháp thẩm định tài chính cũng chưa đa dạng và còn bộc lộ nhiều thiếu sót.
Ngân hàng Nhà nước với chức năng quản lý lưu thông tiền tệ, mỗi một sự điều chỉnh của ngân hàng nhà nước về chính sách tài khoá hay chính sách tiền tệ đều có tác động mạnh mẽ đến hoạt động của toàn nền kinh tế. Điều này sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của thị trường nói chung và thị trường tài chính nói riêng.
Thứ ba, môi trường pháp lý trong hoạt động tín dụng còn nhiều hạn chế và thiếu sót. Một số cơ chế, chính sách chưa được cán bộ, ngành liên quan xử lý kịp thời, các văn bản hướng dẫn triển khai nghiệp vụ còn nhiều bất cập. Mặc dù đã có hướng dẫn về các nội dung, chỉ tiêu và phương pháp thẩm định nhưng chưa có những hướng dẫn cụ thể về cách đánh giá, kết luận dựa trên các chỉ tiêu đã phân tích.
Thứ tư, do việc các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa nghiêm túc thực hiện các quy định của nhà nước về chế độ kế toán, kiểm toán cũng như việc thực hiện minh bạch hoá thông tin về mình đã gây một trở ngại không nho đối với các ngân hàng khi thực hiện công tác thu thập thông tin. Trình độ của các cán bộ ở các DNVVN nhiều khi chưa đáp ứng được những yêu cầu trong giao dịch với các ngân hàng.
Nguyên nhân chủ quan:
Thứ nhất, do trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác thẩm định còn hạn chế. Hơn nữa, những kiến thức kinh tế cụ thể liên quan đến thẩm định tài chính còn khá mới mẻ đối với những cán bộ đã làm việc lâu năm trong ngành ngân hàng vì vậy những lớp cán bộ ngân hàng này chưa có điều kiện tiếp thu hoặc bổ sung nghiệp vụ. Mặc dù trong thời gian qua, Chi nhánh đã thường xuyên cử cán bộ đi học các lớp tập huấn nâng cao trình độ chuyên môn còn hạn chế.
Thứ hai, do nhận thức của cán bộ thực hiện công tác thẩm định tài chính cũng như cán bộ quản lý ở Chi nhánh về vai trò của công tác này là chưa tích cực, chưa nhận thấy được tính chất bắt buộc của mục tiêu nâng cao chất lượng thẩm định tài chính trong chiến lược cho vay của Chi nhánh đối với các doanh nghiệp. Chính vì vậy mà công tác tổ chức thẩm định tài chính trong cho vay đối với doanh nghiệp chưa tốt và chưa có sự kiểm tra chặt chẽ của cán bộ quản lý đối với hiệu quả và chất lượng của công tác này.
Thứ ba, Chi nhánh còn thiếu máy móc, thiết bị phục vụ cho công tác thẩm định, lượng máy vi tính có chất lượng cao còn thiếu gây khó khăn cho việc tra cứu thông tin và tính toán các chỉ tiêu trong nội dung thẩm định tài chính các doanh nghiệp.
Thứ tư, nguồn thông tin phục vụ cho công tác thẩm định tài chính là chưa đầy đủ, thiếu tính chính xác và chưa được thẩm định kỹ càng.
.
CHƯƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH TRONG CHO VAY ĐỐI VỚI
CÁC DNVVN TẠI CHI NHÁNH NHCT ĐỐNG ĐA
3.1 Định hướng cho vay đối với các DNVVN của Chi nhánh NHCT Đống Đa:
Như một bước đi tất yếu trong quá trình hợp tác giữa Ngân hàng Công thương Việt Nam (VietinBank) và Hiệp hội Doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam (Vinasme), thoả thuận hợp tác VietinBank - Vinasme đã chính thức được ký kết vào ngày 26/06/2008 tại Hà Nội. Bằng hành động thiết thực này, VietinBank tiếp tục khẳng định: DNVVN luôn là những Khách hàng được quan tâm hàng đầu của mình bởi chính sự năng động, hiệu quả và những đóng góp tích cực cho nền kinh tế đất nước của các DNVVN trong những năm qua.
Việc ký kết thoả thuận hợp tác giữa VietinBank và Vinasme là một bước đi tất yếu trong quá trình hợp tác giữa hai bên, bởi cho tới nay số DNNVV chiếm khoảng 60% tổng số khách hàng với dư nợ tín dụng chiếm khoảng 50% tổng dư nợ của VietinBank. VietinBank đã và đang dành cho các DNVVN hàng loạt các sản phẩm dịch vụ đa dạng và linh hoạt. Bên cạnh các sản phẩm dịch vụ truyền thống, VietinBank có tới 8 sản phẩm dành riêng cho DNVVN, đó là: JBIC, DEG, KFW, SMEDF, ECIP, RAP, chương trình Đài Loan, Tiết kiệm và hiệu quả năng lượng. Bên cạnh đó là hàng loạt các dịch vụ phi tài chính như đào tạo, hội thảo, tư vấn, giới thiệu và hỗ trợ khách hàng tham gia các hoạt động dành cho DNVVN...Chính điều này đã tạo nên niềm tin và sự gắn kết của các khách hàng DNVVN với VietinBank.
Đặc biệt, VietinBank hiện nay là ngân hàng Việt Nam duy nhất được Bộ Tài chính, Ngân hàng nhà nước Việt Nam chỉ định tham gia ký kết MOU với các tổ chức tài chính APEC tài trợ DNVVN và được nhiều tổ chức quốc tế lựa chọn là đối tác thực hiện các chương trình dành cho DNVVN.
Với thỏa thuận hợp tác này, VietinBank và Vinasme sẽ tăng cường trao đổi thông tin, tuyên truyền, quảng bá; đào tạo nâng cao năng lực; phối hợp thu hút và khai thác các nguồn tài trợ DNVVN.
Sự kiện ký kết thành công thoả thuận hợp tác giữa VietinBank và Vinasme đã nâng mối quan hệ hợp tác tốt đẹp vốn có giữa hai bên lên một tầm cao mới, cùng một mục tiêu vì sự phát triển của cộng đồng DNVVN, vì sự thịnh vượng của nước nhà.
Với những định hướng như trên của NHCT Việt Nam, Chi nhánh NHCT Đống Đa cũng đã có những chính sách cho vay cụ thể hoá theo định hướng mà NHCT Việt Nam đang thực hiện đối với DNVVN. Chủ trương của Chi nhánh là tiếp tục củng cố nâng cao chất lượng tín dụng, nâng cao trình độ nghiệp vụ, ý thức trách nhiệm của CBTD, đảm bảo cho vay an toàn và hiệu quả, mở rộng đối tượng cho vay, tăng tỷ trọng cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh nhằm đa dạng hóa khách hàng và phân tán rủi ro. Chi nhánh sẽ phân tích tài chính doanh nghiệp, phân loại khách hàng và giảm dần dư nợ đối với những khách hàng sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, nhằm nâng cao chất lượng tín dụng. Thực tế các doanh nghiệp không tiếp cận được vốn do không đáp ứng được yêu cầu của ngân hàng là tình hình tài chính bảo đảm, có phương án kinh doanh khả thi và tài sản thế chấp. NHCT Đống Đa luôn sẵn lòng phục vụ các DNVVN đến vay vốn miễn là các doanh nghiệp làm cho Chi nhánh thấy được khả năng hoàn trả vốn vay của mình.
3.2 Các giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính trong cho vay đối với DNVVN ở Chi nhánh NHCT Đống Đa:
Xuất phát từ các những hạn chế cũng như những nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong công tác thẩm định tài chính trong hoạt động cho vay đối với các DNVVN tại Chi nhánh đã được nêu ở trên. Nhằm giúp Chi nhánh NHCT Đống Đa nâng cao hơn nữa chất lượng công tác thẩm định tài chính tôi xin đưa ra một số giải pháp sau:
Trước hết phải đổi mới về nhận thức, về tầm nhìn: Coi mục tiêu nâng cao chất lượng thẩm định tài chính trong cho vay đối với các DNVVN là một tiêu chí bắt buộc, yêu cầu phải làm ngay và làm thường xuyên. Mỗi cán bộ công nhân viên nhất là những người trực tiếp làm công tác tín dụng trong Chi nhánh phải nhận thức được mục tiêu và định hướng kinh doanh của NHCT và của Chi nhánh mình như thế nào? để rồi tư duy và vận hành một cách đúng đắn. Phải đánh giá được khách hàng của mình là ai? Hoạt động sản xuất kinh doanh của họ ra sao? để có hướng đầu tư thích hợp. Phải nhận thức được nhiệm vụ của mình đang làm để có chiến lược thực hiện và có những tham mưu chính xác cho Ban lãnh đạo.
Đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên gia về thẩm định tài chính:
Con người luôn là trung tâm của mọi quá trình hoạt động, vì vậy việc nâng cao chất lượng công tác thẩm định của ngân hàng phụ thuộc vào quá trình chuyển biến của đội ngũ này. Mỗi ngân hàng tùy thuộc vào nhu cầu, khối lượng công tác thẩm định và yêu cầu về tiến độ công việc để bố trí số lượng cán bộ thẩm định. Nhưng sẽ là không hiệu quả khi chỉ đề cập đến số lượng cán bộ mà không chú ý đến chất lượng, năng lực thẩm định. Trong thời gian qua, đội ngũ cán bộ thẩm định tại các ngân hàng có phát triển nhưng chưa đáp ứng được các yêu cầu của công tác thẩm định tài chính trong hoạt động cho vay. Một phần là do chưa được đào tạo căn bản ngay từ đầu và cũng không thường xuyên được bồi dưỡng, đào tạo lại. Để khắc phục nhược điểm này, trước mắt Chi nhánh cần có những điều chỉnh sau đây:
Bổ sung đủ số lượng, nâng cao chất lượng, đồng thời có chính sách động viên, khuyến khích cũng như có những chế tài xử lý vi phạm nghiêm khắc đối với đội ngũ cán bộ thẩm định gây tổn hại cho ngân hàng vì thiếu trách nhiệm trong công việc.
Kiện toàn, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ thẩm định theo yêu cầu công việc; Thực hiện tốt hơn nữa công tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ làm công tác thẩm định; Tăng cường các khóa đào tạo hoặc thực tập nâng cao trình độ, học tập kinh nghiệm tại các ngân hàng bạn và ngân hàng nước ngoài hoặc mời các chuyên gia ngoài nước về giảng dạy và phổ biến kinh nghiệm. Hàng năm tổ chức các cuộc thi kiểm tra trình độ, kết hợp với chất lượng xử lý công việc để làm cơ sở đánh giá, phân loại cán bộ và có kế hoạch đào tạo phù hợp.
Hoàn thiện quy trình thẩm định tài chính:
Trong giai đoạn 2004-2005, được sự chỉ đạo của Ngân hàng nhà nước, các NHTM đã cố gắng tích cực nghiên cứu và ban hành cho mình cuốn Sổ tay tín dụng, đây được coi như cẩm nang cho cán bộ làm công tác tín dụng nói chung và cán bộ làm công tác thẩm định nói riêng. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến chất lượng của cuốn Sổ tay tín dụng chưa được như mong muốn của các nhà lãnh đạo ngân hàng. Nhiều nội dung hướng dẫn còn chung chung, dàn trải vì phải chi tiết, khiến cán bộ thẩm định lúng túng trong quá trình tra cứu, nhiều khi áp dụng một cách máy móc. Để hạn chế những rủi ro mà các NHTM thường xuyên gặp phải thì việc thường xuyên cập nhật, hoàn thiện quy trình thẩm định tài chính là một công việc không thể thiếu được của mỗi ngân hàng. Việc cải tiến quy trình thẩm định tài chính phải cụ thể hóa cao cho phù hợp với năng lực cán bộ và hoạt động của ngân hàng.
Hoàn thiện công tác tổ chức thẩm định tài chính:
Dưới góc độ ngân hàng, công tác thẩm định tài chính trong hoạt động tín dụng trước hết phải là vì lợi ích của chính bản thân ngân hàng nhằm nâng cao hiệu quả của đồng vốn tín dụng và phòng ngừa các rủi ro có thể xảy ra đối với ngân hàng. Trong thẩm định tài chính do tính chất phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực đòi hỏi cán bộ thẩm định phải nắm vững chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của nhà nước, của ngành và địa phương. Xác định và kiểm tra toàn diện tất cả các mặt: tài chính, tài sản thế chấp và phương án sản xuất kinh doanh, đồng thời phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chuyên môn để có ý kiến đánh giá xác đáng.
Theo cách thức tổ chức hiện nay của ngân hàng thì chưa có sự chuyên môn hóa, cán bộ tín dụng thường kiêm nhiệm luôn vai trò cán bộ thẩm định. Chi nhánh NHCT Đống Đa cần phải có phòng chuyên trách về thẩm định tài chính nói chung, vừa tách biệt với phòng tín dụng vừa phối hợp chặt chẽ với phòng tín dụng. Đi đôi với nó là Chi nhánh cần bố trí số lượng cán bộ thẩm định vừa đủ, phân công, phân nhiệm rõ ràng.
Hoàn thiện phương pháp thẩm định tài chính:
NHCT Việt Nam cần có quy định cụ thể, thống nhất trong toàn hệ thống về nội dung và phương pháp thẩm định. Quy định này cũng nên linh hoạt, nghĩa là tùy theo tính chất, quy mô, mức độ phức tạp của từng khách hàng và lĩnh vục kinh doanh đặc thù của khách hàng để lựa chọn các phương pháp thẩm định thích hợp. Từ những quy định đó của NHCT Việt Nam mà Chi nhánh có những lựa chọn thích hợp và có những nghiên cứu, tìm tòi những phương pháp thẩm định tài chính mới có hiệu quả cao đáp ứng nhu cầu thực tế.
Hoàn thiện nội dung thẩm định tài chính:
* Thứ nhất, thẩm định khách hàng vay vốn:
Trước khi tiến hành thẩm định ngân hàng cần xác minh tính trung thực của các số liệu do khách hàng cung cấp. Chẳng hạn, khoản phải thu trong báo cáo tài chính của khách hàng thì có bao nhiêu phần trăm là khó đòi; Trong hàng tồn kho thì có bao nhiêu phần trăm hàng kém phẩm chất, bị ứ đọng; Vốn cố định biểu hiện dưới dạng máy móc, thiết bị lạc hậu hay hiện đại; Trong công nợ có bao nhiêu phần trăm nợ quá hạn Khi tính toán các chỉ tiêu tài chính, ngân hàng nên đánh giá, kết hợp với đặc thù sản xuất kinh doanh của lĩnh vực ngành liên quan. Ngoài ra, cần phân tích đánh giá Báo cáo lưu chuyển tiền tệ để đánh giá chính xác năng lực quản lý ngân quỹ cũng như khả năng thanh toán hiện tại và trong tương lai của khách hàng.
Bên cạnh những biện pháp định tính được coi như “kỹ thuật” thẩm định, nên áp dụng các phương pháp định lượng, hay “nghệ thuật” thẩm định. Đây là một biện pháp hữu hiệu giúp Chi nhánh đánh giá một cách khách quan nhất về khách hàng. Nghĩa là, chỉ cần qua tiếp xúc trực tiếp doanh nghiệp CBTD có thể thu thập được nhiều thông tin hơn so với những gì thể hiện trên giấy tờ hơn nữa những thông tin này lại là những thông tin rất chính xác.
Tuy nhiên, làm thế nào để không gây khó dễ cho khách hàng mà Chi nhánh vẫn có đủ thông tin để đánh giá khách hàng. Sau đây là một số yếu tố có thể giúp Chi nhánh có thể đánh giá định tính về khách hàng:
Đánh giá về trình độ tổ chức và quản lý:
- Mô hình tổ chức quản lý của khách hàng có phù hợp với lĩnh vực kinh doanh, quy mô của hoạt động không, có những ưu điểm, thuận lợi, khó khăn gì trong việc quản lý.
- Mô hình quản lý có mang tính chuyên môn hoá cao, tiếp cận các phương thức quản lý hiện đại hay không.
Đánh giá về kinh nghiệm, năng lực quản lý, tư cách của lãnh đạo doanh nghiệp (Giám đốc, Phó giám đốc, Kế toán trưởng):
- Tuổi tác, trình độ học vấn, kinh nghiệm lãnh đạo.
- Thời gian công tác, đảm nhiệm chức vụ, kết quả hoạt động của doanh nghiệp từ sau khi Ban lãnh đạo đảm nhiệm chức vụ so với trước đây.
- Nhận xét về tư cách đạo đức thông qua tiếp xúc, tìm hiểu các mối quan hệ của Lãnh đạo doanh nghiệp.
- Tác phong, phương pháp điều hành, tính chuyên nghiệp trong quản lý.
- Sự đoàn kết trong nội bộ Ban lãnh đạo.
- Sự am hiểu về tình hình sản xuất kinh doanh, dự án, thị trường của Ban lãnh đạo.
- Tầm nhìn và định hướng phát triển doanh nghiệp.
- Khả năng xử lý đối với các biến động bất lợi mà doanh nghiệp, dự án có khả năng gặp phải.
Việc đánh giá về trình độ tổ chức quản lý và uy tín của khách hàng nhằm để hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro do chủ quan khách hàng gây nên như: rủi ro về đạo đức, rủi ro về thiếu năng lực, trình độ, kinh nghiệm, khả năng thích ứng với thị trường; đề phòng, phát hiện những âm mưu lừa đảo ngay từ ban đầu của một số khách hàng.
Uy tín của khách hàng:
- Mối quan hệ với các ngân hàng: xem xét, đánh giá về mức độ tín nhiệm trong quan hệ với các ngân hàng, các tổ chức tín dụng, nhất là với TCB trong việc trả nợ tiền vay, doanh số tiền gửi, thực hiện các cam kết.
- Mối quan hệ về công nợ, thanh toán của khách hàng với các bạn hàng.
- Vị trí của khách hàng trên thương trường: chất lượng, giá cả hàng hoá, dịch vụ, sản phẩm của khách hàng ở mức độ nào trên thị trường, mức độ chiếm lĩnh thị trường của sản phẩm.
* Thứ hai, thẩm định năng lực tài chính:
Trong công tác thẩm định tài chính với các nội dung như đang thực hiện ở Chi nhánh là khá đầy đủ. Nhưng ở từng nội dung cần được hoàn thiện hơn nữa nhằm nâng cao chất lượng thẩm định.
- Trong quá trình thẩm định các Báo cáo tài chính, các CBTD cần thẩm định một cách kỹ càng. Các số liệu đó phải là những số liệu đã được kiểm toán, chứng thực qua cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Vì vậy, khi làm công tác thẩm định ở nội dung này CBTD cần phải có sự phối hợp với các cơ quan chức năng có liên quan như cơ quan thuế nơi khách hàng đóng trụ sở, công ty kiểm toán thực hiện kiểm toán các số liệu của khách hàng, các ngân hàng khác mà khách hàng đã từng có quan hệ. Thông qua các mối quan hệ này CBTD có thể thấy được mức độ trung thực của các con số và không bị đánh lừa bởi những thủ thuật trong kế toán mà khách hàng hay sử dụng để qua mắt các cán bộ ngân hàng. Từ đó các kết quả đánh giá sau này mới mang tính sát thực.
- Trong đánh giá tình hình chung của khách hàng: chúng ta phải đặc biệt quan tâm đến nguồn gốc tài trợ cho các khoản tăng tài sản của khách hàng qua các thời kỳ kinh doanh, nếu thấy mất cân đối trong cơ cấu tài sản, nguồn vốn thì cần phải thận trọng và phải tính tới những đặc trưng về cơ cấu tài sản, nguồn vốn của từng ngành nghề kinh doanh.
- Khi tính toán, phân tích, đánh giá các chỉ số tài chính các CBTD phải nhận thấy được sự khác biệt trong từng ngành, phải xác định được các chỉ số trung bình để so sánh, đánh giá. Hơn nữa, phải đặt các đánh giá nhận xét đó trong môi trường kinh tế chung để thấy được những ảnh hưởng của các yếu tố khách quan đến tình hình chung của khách hàng để tránh những đánh giá không có lợi cho khách hàng.
- Phải chú trọng hơn nữa đến hoạt động tài trợ của khách hàng đối với các nguồn vốn mà doanh nghiệp huy động được trước đây. Qua đó nhận xét về cơ cấu nguồn vốn đang sử dụng cũng như hiệu quả sử dụng của các nguốn vốn đó, mặt khác đánh giá xem khách hàng đã đầu tư vốn vào những hoạt động nào? Có phù hợp với các điều kiện của công ty đó hiện nay hay không.
- Các CBTD phải sử dụng các phương pháp để dự báo Bảng cân đối kế toán và Báo cáo nguồn vốn và sử dụng vốn đối với các khách hàng để có cơ sở đối chiếu, kiểm tra với các số liệu do khách hàng cung cấp.
Thường xuyên kiểm tra, kiểm soát đối với công tác thẩm định tài chính:
Để đảm bảo các quy trình, quy chế thẩm định được tuân thủ đúng đắn, đầy đủ, Chi nhánh cần tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát trong nội bộ. Mục tiêu của việc này là phát hiện ra những hiện tượng bất thường, đảm bảo tính đúng đắn trước khi ra quyết định cho vay. Đây là hoạt động phải được Chi nhánh thực hiện thường xuyên nhưng không được mang tính chiếu lệ.
Hiện đại hóa máy móc phục vụ cho công tác thẩm định:
Trong năm qua, Chi nhánh đã trang bị, sửa chữa, bảo dưỡng máy móc thiết bị, làm mới và nâng cấp đường truyền, cải tạo hệ thống mạng của Chi nhánh để thực hiện việc làm sạch dữ liệu và chuyển đổi thành công từ hệ thống OSFA sang chương trình hiện đại hóa INCAS. Tuy nhiên, Chi nhánh cần phải đầu tư trang thiết bị mới, mua thêm máy tính có chất lượng tốt để đảm bảo các cán bộ thẩm định đều có máy móc đáp ứng cho nhu cầu công việc của mình. Ngoài ra, Chi nhánh cũng cần thiết kế thêm các phần mềm để ứng dụng vào việc phân tích thẩm định tài chính, tính toán được nhiều chỉ tiêu hơn, chính xác hơn, nhanh chóng hơn. Hơn thế nữa, một điều phải chú ý đến đó là tính hiện đại của công nghệ và khả năng ứng dụng công nghệ thông tin của Chi nhánh, vừa đầu tư hiện đại hóa, tin học hóa vừa phải đào tạo con người để sử dụng, ứng dụng được.
Nâng cao hơn nữa hiệu quả trong việc thu thập và sử dụng thông tin phục vụ công tác thẩm định khách hàng vay vốn:
Nhu cầu những thông tin về khách hàng là rất lớn. Song hiện nay, công tác xây dựng và cung cấp thông tin của CBTD phục vụ công tác thẩm định nói chung và công tác thẩm định tài chính nói riêng là chưa hoàn thiện. Việc xây dựng tủ sách pháp luật, hệ thống văn bản, công văn, chế độ nghiệp vụ chưa thật hoàn chỉnh. Do đó, khi cần thông tin sử dụng gặp rất nhiều khó khăn. Để thẩm định khách hàng vay vốn được nhanh chóng, tránh được yếu tố chủ quan, bên cạnh nguồn thông tin từ hồ sơ khách hàng; Thông tin khách hàng cung cấp trực tiếp; Các báo cáo nghiên cứu thị trường của các tổ chức chuyên nghiệp đăng tải trên báo chí và các phương tiện truyền thông; thì việc thu thập thông tin khách hàng qua các đối tác của khách hàng, qua các ngân hàng mà khách hàng đã có quan hệ, qua cơ quan thuế, qua thu thập từ việc đi thực tế tại cơ sở của CBTD là rất quan trọng. Việc thu thập, hệ thống hoá và sử dụng những thông tin một cách hiệu quả là hết sức có ích đối với công tác thẩm định. Do đó, việc nâng cao hiệu quả của nghiệp vụ thu thập và sử dụng thông tin trong quá trình thẩm định tài chính của khách hàng là góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng thẩm định tài chính khách hàng.
3.3 Một số kiến nghị:
Những nguyên nhân khách quan ảnh hưởng tới chất lượng thẩm định tài chính trong cho vay đối với DNVVN tại Chi nhánh NHCT Đống Đa là những nguyên nhân vượt quá tầm kiểm soát của Chi nhánh. Để hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của các nguyên nhân khách quan này tới chất lượng công tác thẩm định tài chính, Chi nhánh NHCT Đống Đa phải nhận thấy và đưa ra những đề xuất, kiến nghị đối với các chủ thể có liên quan. Với tư cách là sinh viên thực tập tại Chi nhánh tìm hiểu về lĩnh vực này tôi xin đưa ra một số kiến nghị giúp nâng cao hơn nữa chất lượng thẩm định tài chính trong cho vay.
3.3.1 Đối với Ngân hàng Công thương Việt Nam:
NHCT Việt Nam cần tăng cường hơn nữa vai trò điều hành, quản lý của mình. Thực hiện tốt vai trò quản lý, điều hành thông qua việc xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách, quy định, hướng dẫn rõ ràng thay vì thực hiện chức năng xử lý từng trường hợp cụ thể.
Bên cạnh đó, NHCT Việt Nam còn phải tích cực phối hợp, trao đổi với các Chi nhánh nói chung và Chi nhánh NHCT Đống Đa nói riêng. Đặc biệt là việc thẩm định tài chính với các đơn vay vốn vượt quá thẩm quyền phán quyết của Chi nhánh để đẩy nhanh thời gian thẩm định tài chính, tránh tình trạng dự án được thông qua ở Chi nhánh nhưng khi trình lên Trung ương thì bị chậm trong khâu tái thẩm định.
Để đảm bảo quy trình, quy chế thẩm định được tuân thủ nghiêm túc thì NHCT Việt Nam cần phải có cơ chế kiểm soát đối với Hội sở chính cũng như các Chi nhánh về nghiệp vụ này, bao gồm 3 giai đoạn:
Kiểm soát trước: giai đoạn này dựa vào quy chế mà tiến hành kiểm tra, mục đích của bước kiểm soát này là phát hiện ra những điểm bất hợp lý của nghiệp vụ thẩm định trước khi thực hiện, cụ thể như: các điều kiện vay vốn ngân hàng theo cơ chế tín dụng hiện hành đã đầy đủ chưa? Hồ sơ khách hàng, hồ sơ vay vốn đã đầy đủ và hợp lệ chưa? đã thu thập đầy đủ thông tin cần thiết liên quan đến khách hàng chưa?
Kiểm soát trong: đây là bước kiểm soát có tác dụng giám sát quá trình thực hiện, hạn chế những thiếu sót, thực hiện không đúng trình tự nghiệp vụ, sai sót về thủ tục nhằm ngăn chặn kịp thời những thiệt hại sau này.
Kiểm soát sau: bước kiểm soát này được thực hiện khi nghiệp vụ thẩm định về cơ bản đã được hoàn thành, kiểm tra hồ sơ, chứng từ hợp lệ của nghiệp vụ ở giai đoạn trước.
NHCT Việt Nam với tư cách là Ngân hàng cấp trên của NHCT Đống Đa cần tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác trong nước và quốc tế để có thể cung cấp được nguồn thông tin cho công tác thẩm định, đảm bảo thông tin được cập nhật nhanh chóng, thường xuyên, chính xác; đồng thời thu thập, học hỏi kinh nghiệm cần thiết phục vụ cho công tác thẩm định của Chi nhánh. Mặt khác, NHCT cũng cần có cái nhìn đúng đắn về công tác cán bộ và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, áp dụng các hình thức đào tạo cán bộ phù hợp gắn với phát triển nghiệp vụ.
Một điều quan trọng nữa là NHCT Việt Nam cũng cần tạo điều kiện cho các chi nhánh đầu tư trang thiết bị máy móc, hiện đại hóa, tin học hóa các giao dịch và nghiệp vụ. NHCT cũng phải xây dựng phong cách văn hóa kinh doanh, lề lối làm việc kỷ cương trong toàn hệ thống.
3.3.2 Đối với Ngân hàng Nhà nước:
NHNN với chức năng quản lý lưu thông tiền tệ, là cơ quan thực hiện các chính sách tiền tệ, tài khoá. Vì vậy, bất cứ một sự điều chỉnh nào của NHNN trong chính sách tiền tệ, tài khoá đều có ảnh hưởng đến hoạt động của toàn bộ hệ thống các ngân hàng.
NHNN cần tăng cường vai trò chỉ đạo của mình trong hoạt động của hệ thống ngân hàng, ban hành các văn bản, quy định hướng dẫn rõ ràng cụ thể và thống nhất đối với các vấn đề liên quan đến hoạt động thẩm định tại ngân hàng trong đó có thẩm định tài chính trong cho vay với các doanh nghiệp.
NHNN trên địa bàn cần nắm vững phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu phát triển kinh tế, quy hoạch phát triển tổng thể để có thể tư vấn cho ngân hàng đầu tư vốn cho các doanh nghiệp trong các lĩnh vực then chốt, các doanh nghiệp trong các lĩnh vực cần khuyến khích phát triển.
NHNN cũng cần tổ chức những hội nghị toàn ngành để trao đổi, học hỏi kinh nghiệm, tăng cường sự hợp tác giữa các ngân hàng về các hoạt động nói chung và công tác thẩm định tài chính nói riêng. Điều này giúp các ngân hàng có những bài học kinh nghiệm được rút ra tư thực tế của Việt Nam trong công tác thẩm định tài chính nói riêng.
Hiện nay, NHNN đã có trung tâm thông tin tín dụng (CIC) là công cụ trợ giúp thông tin cho các ngân hàng rất nhiều. Tuy nhiên, NHNN cũng cần phải có biện pháp để trung tâm này hoạt động có hiệu quả hơn. Một mặt, NHNN có thể thành lập thêm các công ty chuyên mua bán thông tin, chuyên môn hóa trong việc cung cấp thông tin về tín dụng, thị trường và thông tin về các doanh nghiệp một cách cập nhất và chính xác.
NHNN cũng cần tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát đối với các ngân hàng để phát hiện những sai sót trong hoạt động của các ngân hàng nói chung và trong công tác thẩm định tài chính nói riêng, đồng thời có thể hoàn thiện hơn nữa nội dung hướng dẫn nghệp vụ cho ngân hàng.
3.3.3 Đối với Nhà nước:
Nhà nước sớm hoàn thiện hệ thống văn bản hướng dẫn thẩm định nói chung và thẩm định tài chính nói riêng, trên cơ sở đó các ngân hàng có hướng dẫn cụ thể cho việc thẩm định tài chính trong hoạt động tín dụng của mình.
Nhà nước cần quy định rõ ràng các biện pháp xử lý trường hợp doanh nghiệp cung cấp thông tin không trung thực; buộc doanh nghiệp phải thực hiện nghiêm túc chế độ kế toán thống kê và thông tin báo cáo. Ngân hàng thường chỉ dựa vào nguồn tin từ phía doanh nghiệp là chính, mà nguồn thông tin này mang nhiều tính chủ quan của doanh nghiệp và chưa qua kiểm toán theo một chế độ bắt buộc. Vì vậy Nhà nước cần ban hành quy chế kiểm toán bắt buộc và công khai tình hình tài chính của doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện giúp cho ngân hàng trong công tác thẩm định.
Nhà nước cũng cần có những biện pháp nhằm tạo một môi trường kinh tế ổn định, đặc biệt là phát triển thị trường tài chính để giúp cho việc dự báo của ngân hàng về các nội dung cần thẩm định được dễ dàng, chính xác. Hơn nữa, Nhà nước cũng cần củng cố các cơ quan làm công việc thống kê thông tin kinh tế xã hội để có được một địa chỉ tin cậy cung cấp thông tin cho ngân hàng. Điều này nhằm tránh tình trạng vì không có đủ thông tin mà dẫn tới đơn giản hóa trong thẩm định.
Nhà nước cần có những quy định nhằm phát huy tính chủ động và độc lập của ngân hàng trong thẩm định tài chính, phân biệt rõ chức năng quản lý Nhà nước với quản lý hành chính về kinh tế để tránh sự can thiệp quá sâu của các cơ quan quản lý Nhà nước vào hoạt động chuyên môn của ngân hàng.
3.3.4 Đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ:
Các doanh nghiệp cần phối hợp thiện chí với ngân hàng, cung cấp thông tin trung thực, chính xác và cùng ngân hàng kiểm soát vốn vay. Doanh nghiệp cần thực hiện nghiêm túc chế độ tài chính kế toán và kiểm toán, thực hiện công khai tình hình tài chính của mình.
Trong quan hệ với ngân hàng, nhiều doanh nghiệp còn thiếu kinh nghiệm, việc bố trí cán bộ quan hệ giao dịch với ngân hàng không hợp lý, cán bộ có tư tưởng e ngại, thiếu tự tin trong quan hệ, khả năng thuyết trình, đàm phán với ngân hàng. Do vậy, doanh nghiệp cũng cần chủ động tìm hiểu, nghiên cứu kỹ để nắm và hiểu rõ tính năng, tiện ích của các sản phẩm dịch vụ cũng như cách thức tiếp cận và sử dụng các dịch vụ mà các ngân hàng cung ứng, đặc biệt là thủ tục xin vay vốn của ngân hàng. Làm được như vậy sẽ giúp các cán bộ ngân hàng rút ngắn được thời gian khi thực hiện các nghiệp vụ và cũng là tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận các dịch vụ của ngân hàng.
KẾT LUẬN
Để thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho các Doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển, cũng như nhằm nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng đối với khu vực này là mối quan tâm hàng đầu của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa nói riêng, trong đó chất lượng công tác thẩm định tài chính trong cho vay đối với các doanh nghiệp được coi là trọng tâm.
Tuy nhiên, công tác thẩm định tài chính trong cho vay ở các Ngân hàng thương mại Việt Nam chưa có bề dày kinh nghiệm. Hơn nữa, khi áp dụng vào một nền kinh tế đang trong quá trình hoàn thiện như Việt Nam lại càng có nhiều bất cập phát sinh. Do vậy, để nâng cao chất lượng thẩm định tài chính trong cho vay đối với các Ngân hàng không phải là vấn đề riêng của một Chi nhánh hay một ngân hàng nào mà đó là vấn đề đặt ra đối với toàn hệ thống ngân hàng ở nước ta và cần có sự quan tâm, giúp đỡ của các cơ quan hữu quan.
Qua quá trình thực tập tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa tôi đã phân tích đánh giá và đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thẩm định tài chính trong cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh. Do còn có những hạn chế về mặt nhận thức, kinh nghiệm nên chuyên đề của tôi không tránh được những sai sót, tôi mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô và các cán bộ Chi nhánh.
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
NHNN : Ngân hàng nhà nước
NHTM : Ngân hàng thương mại
VNĐ : Việt Nam đồng
TCKT : Tổ chức kinh tế
DNVVN : Doanh nghiệp vừa và nhỏ
NHCT : Ngân hàng Công thương
CBTD : Cán bộ tín dụng
VCSH : Vốn chủ sở hữu
TSCĐ : Tài sản cố định
ĐTTCDH : Đầu tư tài chính dài hạn
ĐTNH : Đầu tư ngắn hạn
TSLĐ : Tài sản lưu động
13. TSCĐ : Tài sản cố định
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài chính doanh nghiệp – PGS.TS Lưu Thị Hương – Giáo trình Trường Đại học kinh tế quốc dân, Nhà xuất bản thống kê (2005)
2. Quản trị tài chính doanh nghiệp – PGS.TS Vũ Duy Hào – Giáo trình Trường Đại học kinh tế quốc dân, Nhà xuất bản thống kê (1998)
3. Ngân hàng thương mại – TS Phan Thị Thu Hà – Giáo trình Trường Đại học kinh tế quốc dân, Nhà xuất bản thống kê (2004)
4. Giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam – GS.TS Nguyễn Đình Hương – Nhà xuất bản chính trị quốc gia (2002)
5. Sổ tay tín dụng – Ngân hàng Công thương Việt Nam (2004)
6. Tạp chí Kinh tế và Dự báo
7. Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ
8. Tạp chí Tài chính doanh nghiệp - Số 10, 11/2005
9. Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2005 phương hướng hoạt động kinh doanh năm 2006 – Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa
10. Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2006 phương hướng hoạt động kinh doanh năm 2007 – Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa
11. Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2007 phương hướng hoạt động kinh doanh năm 2008 – Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa
12. Chuyên đề Thẩm định tín dụng – Trung tâm bồi dưỡng và tư vấn về tài chính vi mô - Đại học kinh tế quốc dân 2003
13. Nghị định số 90/2001/NĐ – CP ngày 23/11/2001
14. Quản trị ngân hàng thương mại – Tác giả: Perter S.Rose
15. Luật Các tổ chức tín dụng.
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH TRONG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 3
1.1 Khái quát về Ngân hàng thương mại (NHTM): 3
1.1.1 Khái niệm về NHTM: 3
1.1.2 Các hoạt động cơ bản của NHTM: 4
1.2 Thẩm định tài chính trong cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các Ngân hàng thương mại: 6
1.2.1 Doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) trong nền kinh tế: 6
1.2.2 Khái niệm, ý nghĩa của việc nâng cao chất lượng thẩm định tài chính trong cho vay đối với DNVVN ở các NHTM: 10
1.2.3 Nội dung của thẩm định tài chính trong cho vay đối với doanh nghiệp ở các NHTM: 12
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thẩm định tài chính trong cho vay đối với DNVVN của các NHTM: 26
1.3.1 Nhân tố chủ quan: 26
1.3.2 Nhân tố khách quan: 28
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH TRONG CHO VAY ĐỐI VỚI DNVVN TẠI CHI NHÁNH NHCT ĐỐNG ĐA 30
2.1 Tổng quan về Chi nhánh NHCT Đống Đa: 30
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Chi nhánh NHCT Đống Đa: 30
2.1.2 Cơ cấu, tổ chức của Chi nhánh NHCT Đống Đa: 31
2.1.3 Tình hình kinh doanh của Chi nhánh NHCT Đống Đa các năm qua: 33
2.1.4 Kết quả kinh doanh các năm qua của Chi nhánh NHCT Đống Đa: 43
2.2 Thực trạng công tác thẩm định tài chính trong cho vay đối với DNVVN tại Chi nhánh NHCT Đống Đa: 44
2.2.1 Thẩm định, phân tích các Báo cáo tài chính của doanh nghiệp: 45
2.2.2 Phân tích và đánh giá các chỉ số tài chính: 46
2.2.3 Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn: 51
2.2.4 Dự báo về Bảng cân đối kế toán và Báo cáo nguồn vốn và sử dụng vốn: 52
2.3 Đánh giá công tác thẩm định tài chính trong cho vay đối với DNVVN ở Chi nhánh NHCT Đống Đa: 52
2.3.1 Những kết quả đạt được: 52
2.3.2 Những hạn chế và nguyên nhân: 55
CHƯƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH TRONG CHO VAY ĐỐI VỚI CÁC DNVVN TẠI CHI NHÁNH NHCT ĐỐNG ĐA 60
3.1 Định hướng cho vay đối với các DNVVN của Chi nhánh NHCT Đống Đa: 60
3.2 Các giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính trong cho vay đối với DNVVN ở Chi nhánh NHCT Đống Đa: 60
3.3 Một số kiến nghị: 60
3.3.1 Đối với Ngân hàng Công thương Việt Nam: 60
3.3.2 Đối với Ngân hàng Nhà nước: 60
3.3.3 Đối với Nhà nước: 60
3.3.4 Đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ: 60
KẾT LUẬN 60
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT 60
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU 60
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 60
MỤC LỤC 60
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7908.doc