- Việc ban hành cơ chế nghiệp vụ tín dụng nên cân nhắc thận trọng, tránh mâu thuẫn chồng chéo với các qui định chung của Nhà nước.
- Việc điều chỉnh lãi suất cho phù hợp với tình hình kinh tế – xã hội là cần thiết nhưng không nên quá nhiều lần trong năm ảnh hưởng đến tâm lý người gửi tiền, đặc biệt không huy động được vốn dài hạn, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động tín dụng. Hiện nay, nền kinh tế đang trong thời kỳ phát triển nên nhu cầu đầu tư vốn dài hạn tăng nhanh. Do vậy, tránh tình trạng huy động vốn trong thời hạn ngắn để đầu tư cho các dự án khả thi dài hạn, điều đó sẽ gây tâm lý nặng nề cho các NHTM trong việc tính toán vòng quanh chu kỳ chuyển vốn.
- Công cụ tài chính của ta còn rất nghèo nàn, khiến cho việc chế độ điều hành tỷ giá hối đoái cố định bị hạn chế, chính sách tiền tệ trở nên kém hiệu quả. Việc áp đặt tỷ giá đã thúc đẩy sử sự phát triển của thị trường đen do đó việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái căn cứ vào tỷ giá trên thị trường tự do là hợp lý hơn. Sự thiếu đa dạng của các công cụ tài chính làm cho hoạt động luân chuyển các nguồn vốn ngắn hạn kém phong phú, hạn chế các nghiệp vụ thị trường mở của ngân hàng TW, làm gia tăng tình trạng ứ đọng vốn.
Hệ thống liên ngân hàng sẽ đảm bảo cho khả năng thanh toán của từng ngân hàng và đảm bảo cho sự cân đối của thị trường vốn. Sự hỗ trợ giũa các ngân hàng sẽ bảo vệ chính bản thân các ngân hàng, đồng thời tăng cường sức mạnh tài chính để có thể cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài có thị trường mạnh.Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng diễn ra các giao dịch kỳ hạn và giao dịch hoán đổi làm tăng tính đa dạng cho các hoạt động của thị truờng.Hệ thống quỹ bù đắp rủi ro liên ngân hnàg sẽ tạo diều kiện cho ngân hàng tránh được các rủi ro đổ vỡ bằng tiềm lực tài chính mạnh của toàn hệ thống và đem lại niềm tin cho khách hàng.
33 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1893 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao chất lượng tín dụng của Ngân hàng Thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hay phân cục ngân hàng ngoại quốc mà hoạt động thường xuyên là thi hành cho chính mình nghiệp vụ tín dụng, chiết khấu, tài chính với tiền ký thác của tư nhân hay của xí nghiệp hay cơ quan công quyền.
Theo Pháp lệnh ngân hàng ngày 23-05-1990 của Hội đồng Nhà nước xác định”ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và là phương tiện thanh toán”
b.Đặc điểm
Theo Luật các tổ chức tín dụng thì NHTM Việt Nam phát triển với những đặc điểm đặc trưng cơ bản sau :
- Thực hiện toàn bộ các hoạt động ngân hàng (huy động vốn,cho vay và thanh toán) và các hoạt động kinh doanh dịch vụ có liên quan.
- Thực hiện huy động vốn và cấp tín dụng ngắn hạn là chủ yếu, tức là duy trì quy mô sản xuất kinh doanh đã có của khách hàng. Với đòi hỏi ngày càng cao của thị trưòng tiền tệ và với sự trưởng thành của bản thân, các ngân hàng thương mại được phép và cần thiết chuyển từ hoạt động tín dụng ngắn hạn chủ yếu qua các nghiệp vụ huy động vốn và cấp tín dụng trung và dài hạn, vì sự mở rộng quy mô sản xuất của khách hàng.
- Hoạt động cuả NHTM lấy lợi ích kinh tế của xã hội làm mục tiêu và lấy lợi nhuận làm đòn bẩy kinh tế. Nó là loại ngân hàng hoạt động vì sự tìm kiếm lợi nhuận.
- Xét về mặt sở hữu, NHTM có thể là NHTMNN,NHTM hợp tác, NHTM cổ phần, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.Luật các tổ chức tín dụng không thừa nhận loại hình NHTM cổ phần tư nhân mà chỉ cho phép thành lập NHTM cổ phần giữa Nhà nước và nhân dân.
- NHTM thực hiện chức năng kinh doanh tổng hợp (nghiệp vụ truyền thống và các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng mới phát sinh) và kinh doanh đa năng (nghiệp vụ về chứng khoán và bảo hiểm).
- NHTM là loại hình ngân hàng tham gia “tạo tiền” với hệ số tạo tiền lớn nhất, đẻ ra các công cụ lưu thông tín dụng rộng rãi nhất. Vì vậy, NHTM là loại ngân hàng hoạt động gặp nhiều rủi ro nhất cần được quản lý chặt chẽ nhất để đảm bảo an toàn hệ thống tiền tệ và hệ thống các tổ chức tín dụng.
3. Vai trò chức năng của NHTM
3.1. NHTM là những trung gian tài chính, là môi giới giữa người gửi tiền và người vay vốn, giữa tiết kiệm và đầu tư. Hay nói cách khác, nó thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ và hoạt động tín dụng. Trên cơ sở huy động các khoản tiền gửi, sau đó thực hiện cho vay với lãi suất cho vay lớn hơn lãi suất huy động hoặc sử dụng và đầu tư. Ngoài ra, còn thực hiện cung cấp các dịch vụ khác như: thanh toán, chuyển tiền, bảo quản các loại chứng từ có giá, kinh doanh vàng bạc, chứng từ uỷ thác....
3.2. Bằng con đường tăng trưởng vốn, các NHTM góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Thông qua tập trung vốn, NHTM cho doanh nghiệp vay để có vốn tăng quy mô sản xuất, tăng năng suất lao động, đổi mới thiết bị, áp dụng tiến bộ kỹ thuật, thúc đẩy sản xuất phát triển.
3.3. Với tư cách là một hệ thống, các NHTM tham gia quá trình “tạo tiền” làm thu hẹp hay mở rộng hệ số của các phương tiện thanh toán, tạo cân đối hay làm mất cân đối giữa tổng cung và tổng cầu tiện tệ, làm giảm nhẹ hay gây áp lực với hàng hoá giá cả....
3.4. Đằng sau hoạt động NHTM diễn ra quá trình tích tụ và tập trung vốn cho sự phát triển cho kinh tế xã hội.
II. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại.
1. Khái niệm tín dụng.
Trong thực tế cuộc sống,thuật ngữ tín dụng được hiểu nhiều nghĩa khác nhau,ngay cả trong quan hệ tài chính,tùy theo từng bối cảnh cụ thể mà thuật ngữ tín dụng sẽ có 1quan niệm riêng.Trong quan hệ tài chính tín dụng được hiểu theo các nghĩa sau:
Đầu tiên,xét trên góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi như phương pháp chuyển dịch quỹ từ người cho vay sang người đi vay.
Trong một quan hệ tài chính cụ thể,tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở có hoàn trả giữa 2 bên chủ thể,tức là NH cấp tiền cho bên đi vay và sau 1 thời hạn nhất định người đi vay phải hoàn trả cả gốc lẫn lãi.
Hoặc tín dụng còn có nghĩa là 1 số tiền cho vay mà các định chế tài chính cung cấp cho khách hàng .Tín dụng là 1 giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa)giữa bên cho vay(NH và các định chế tài chính khác),trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thỏa thuận,bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn và lãi cho bên vay đến hạn thanh toán.
Bản chất của tín dụng là đồng tiền bỏ ra,là 1 giao dịch về tài sản trên cơ sở hoàn trả.
2. Vai trò.
Sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của các NHTM và các tổ chức tín dụng có thể cho thấy vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự vận hành của nền kinh tế. Ta có thể thấy được một số vai trò chủ yếu của tín dụng trong nền kinh tế:
- Hoạt động tín dụng đảm bảo đáp ứng nhu cầu về vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh và nhu cầu tiêu dùng của các cá nhân trong nền kinh tế.
Với mục tiêu lớn là công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế của Đảng và Nhà nước cũng như nhu cầu phát ttiển của các tổ chức kinh tế trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt quyết liệt nhưng hiện nay thì nhu cầu về vốn để đổi mới trang thiết bị công nghệ sản xuất cũng như phát triến sản xuất, mở rộng mặt hàng, nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ...là rất lớn.Do đó mở rộng nguồn vốn để đầu tư phát triển là một yêu cầu bức thiết đối với các doanh nghiệp cũng như các tổ chức kinh tế khác.Thực tế cho thấy, phần vốn chủ yếu của các công ty là huy động được từ các tổ chức tài chính trung gian, đặc biệt là các NHTM thông qua các hình thức vay mới, chiếm tỷ trọng lớn (61,9%).
Mặt khác ở nước ta hiện nay,thị trường chứng khoán mới ở đoạn sơ khai, đối tượng phát hành còn hạn chế cũng như khuôn khổ pháp lý, môi trường kinh tế, thói quen, tâm lý người dân...chưa cho phép lưu hành trái phiếu, cổ phiếu một cách rộng rãi để có thể là nguồn vốn cơ bản của các công ty. Do vậy tín dụng ngân hàng thực sự gần như là con đường duy nhất đối với các dự án đầu tư chiều sâu, phát triển sản xuất, hiện đại hoá và cải tiến công nghệ. Từ những khoản tín dụng đó có thể nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, tăng khả năng sinh lời, tăng thu nhập cho người lao động, đời sống của nhân dân được cải thiện và các khoản thu của Nhà nước cũng tăng theo.
- Thông qua hoạt động tín dụng, các tổ chức tín dụng tăng cuờng kiểm tra, giám sát với khách hàng vay vốn, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế chung của nền kinh tế quốc dân.
Tín dụng là hoạt động tiêu biểu của hầu hết các ngân hàng, đòi hỏi ngân hàng phải kiểm soát khả năng hoàn trả nợ của khách hàng, ít ra là cũng phải dự tính, phán đoán được khả năng này nhằm bảo vệ tiền gửi của khách hàng và hiệu quả hoạt động cũng như lợi nhuận của ngân hàng. Nếu một khoản vay nào đó thất thoát thì trước tiên làm ngân hàng không còn khả năng thanh toán cho người gửi tiền. Ngân hàng cũng có trách nhiệm với các cổ đông đảm bảo mức chia lãi cổ phần hợp lí cũng như mức lương nhất định đối với nhân viên. Chính vì vây, ngân hàng luôn phải thận trọng đối với các khoản tín dụng và tăng cường kiểm soát đối với khách hàng vay để xem khoản vay đó có sử dụng đúng mục đích có hiệu quả không,...đồng thời có thể tư vấn chuyên môn cho khách hàng. Do vậy chất lượng tín dụng sẽ được nâng cao, đem lại lợi ích cho cả ngân hàng và cả khách hàng, rộng hơn là cho cả nền kinh tế của quốc dân,
- Thông qua hoạt động tín dụng, góp phần tiết kiệm chi phí lưu thông, ổn định thị trường. Chi phí giao dịch là một trong những yếu tố qyết định sự thành công hay không của khách hàng.Với mỗi khoản giao dịch, có các khoản chi phí cố định ( chiếm tỷ lệ chủ yếu) và chi phí khác phụ thuộc từng loại giao dịch, do vậy với khối lượng giao dịch càng nhỏ thì chi phí giao dịch bình quân cho mỗi đồng vay, cho vay càng lớn.
NHTM và các tổ chức tài chính trung gian khác chuyên môn hoá trong lĩnh vực này nên nó sẽ tiết kiệm được nhiều chi phí giao dịch cho khách hàng (có thể giao dịch với lượng tiền lớn).
Ngoài ra, NHTM đóng vai trò người trung gian trong hoạt động tín dụng, thực hiện huy động vốn bằng nhiều hình thức những nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế và cho những người vay vốn đã tránh được sự lãng phí và giúp cho nền kinh tế phát triển hơn.
3. Đặc điểm tín dụng NHTM.
Tín dụng ngân hàng là một hình thức phát triển cao của tín dụng. Nó cơ bản giữ được những bản chất chung của tín dụng, ngoài ra còn có một số đặc điểm vượt trội sau:
Vốn tín dụng ngân hàng được thực hiện dưới hình thức tiền tệ và đã được giải phóng ra khỏi chu kỳ kinh doanh, là vốn tiền tệ tạm thời, nhàn rỗi trong nền kinh tế, với sự tham gia trong vai trò trung gian của các NHTM .
Thu nhập của người dân tăng và xuất hiện sự dư thừa tiền tệ, trong quá trình sản xuất kinh doanh, các quỹ khấu hao tài sản cố định, quỹ khen thưởng, quỹ dự phòng rủi ro... của các tổ chức kinh tế được ngân hàng huy động và là nguồn vốn tín dụng chủ yếu của ngân hàng. Quá trình vận động của vốn tín dụng ngân hàng hoàn toàn khác với tín dụng thương mại- phụ thuộc hoàn toàn vào quy mô, quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và không phải là vốn tiền tệ đưcj giải phóng ra khỏi sản xuất kinh doanh.Đây cũng là một đặc điểm chứng tỏ tín dụng ngân hàng là một hình thức tín dụng phát triển cao hơn tín dụng thương mại.
- Quá trình vận động của vốn tín dụng ngân hàng tương đối độc lập với so với sự vận động của quá trình sản xuất kinh doanh,
+ Khi hoạt động sản xuất kinh doanh được mở rộng và phát triển, nhu cầu vốn tăng có thể dẫn đến nhu cầu về vốn tín dụng tăng, từ đó tín dụng ngân hàng phục vụ đắc lực cho sản xuất kinh doanh.
+ Cũng có thể khi sản xuất kinh doanh mở rộng và phát triển, nhu cầu vốn phát triển nhưng quy mô vốn tín dụng ngân hàng có thể không đổi do có thể có vốn từ các nguồn khác (phát hành tín phiếu, trái phiếu, kêu gọi viện trợ...)
+ Sản xuất kinh doanh không thay đổi nhưng nhu câù tín dụng vẫn tăng do hoạt động tín dụng còn đáp ứng nhiều nhu cầu khác ngoài sản xuất kinh doanh như tiêu dùng, trả nợ nước ngoài....
Chính do những đặc điểm trên, tín dụng ngân hàng có thể đáp ứng được những nhu cầu vốn tín dụng cả về khối lượng, thời hạn cho vay bằng các khoản vốn không phải chỉ của nó mà cả vốn huy động.Đồng thời, nhờ có tín dụng mà ngân hàng đã mở rộng được cả về phạm vi cũng như lĩnh vực hoạt động.Nhưng bên cạnh đó, tín dụng không phải không có những nhược điểm của nó, đó chính là tính rủi ro của hoạt động tín dụng tương đối cao, do đó các ngân hàng sẽ dễ bị mất vốn, hiệu quả hoạt động cũng như chất lượng tín dụng vì thế sẽ kém đi.
4. Chất lượng tín dụng NHTM.
4.1. Khái niệm.
Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp, nó phản ánh mức độ hiệu quả của hoạt động ngân hàng, sức mạnh của ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại và phát triển.
Tín dụng được coi là có chất lượng cao khi vốn vay được của khách hàng sử dụng vào đúng mục đích, tạo được số tiền lớn, ngân hàng thu được cả vốn và lãi, còn doanh nghiệp vừa trả được nợ ngân hàng đúng hạn vừa bù đắp được chi phí và có lợi nhuận. Như vậy, ngân hàng vừa tạo ra hiệu quả kinh tế, vừa đem lại hiệu quả xã hội .
Để có thể có được chất lượng tín dụng tốt thì hoạt động quản lý phải có hiệu quả và quan hệ tín dụng phải được thiết lập trên cơ sở sự tin cậy và uy tín trong hoạt động. Hiểu đúng bản chất về chất lượng tín dụng, phân tích, đánh giá đúng chất lượng tín dụng hiện tại cũng như xác định chính xác các nguyên nhân của những tồn tại của chất lượng tín dụng sẽ giúp cho ngân hàng tìm được các biện pháp quản lý thích hợp để có thể đứng vững trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh sôi nổi và gay gắt.
4.2. Các chỉ tiêu đánh giá.
Hoạt động tín dụng ngân hàng là hoạt động “đi vay để cho vay”, do đó chất lượng tín dụng phụ thuộc rất lớn vào công tác huy động và cho vay vốn. Tín dụng là cầu nối giữa hoạt động của ngân hàng và các hoạt động sản xuất kinh doanh, tiêu dùng của xã hội và đồng thời tín dụng từ lâu đã được sử dụng như một công cụ cung cấp nguồn vốn với lãi suất ưu đãi cho những người thiếu vốn, khó khăn để họ có điều kiện mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, áp dụng kỹ thuật mới, mở rộng thị trường... từ đó mà tăng thu nhập... Các khoản tín dụng do đó có vai trò lớn trong việc giải quyết các vấn đề kinh tế cũng như xã hội.
Đối với các ngân hàng thương mại (là các tổ chức kinh doanh tiền tệ) để đánh giá chất lượng của tín dụng, ngoài các chỉ tiêu định tính, phải dựa vào các chỉ tiêu định lượng cụ thể sau :
a) Chỉ tiêu huy động vốn.
Một ngân hàng luôn đáp ứng được nhu cầu vay của khách hàng và có đủ khối lượng tiền khách hàng cần rút sẽ tạo niềm tin cho khách hàng và chứng tỏ được tiềm lực tài chính mạnh của mình. Đồng thời với đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, ngân hàng phải tính toán để cho lợi nhuận của mình được đảm bảo một tỉ lệ nhất định đối với mỗi khoản vay.
Muốn đạt được những tiêu chuẩn đó, ngân hàng phải có khả năng huy động được những nguồn vốn có thời hạn dài với chi phí thấp nhất có thể được. Khả năng huy động vốn được thể hiện ở hai chỉ tiêu:
- Tổng số vốn huy động được và tốc độ tăng của nguồn vốn này qua mỗi năm thể hiện tốc độ tăng trưởng và khả năng huy động vốn của ngân hàng.
Hiện nay ngân hàng nhà nước không quy định tỉ lệ lãi suất bắt buộc mà thay bằng lãi suất cơ bản và tỉ lệ dao động. Chính vì vậy, các ngân hàng thương mại có thể điều chỉnh dễ dàng đầu vào và đầu ra của tín dụng bằng các chính sách lãi suất nhằm làm cân đối bảng cân đối tài sản của mình. Nếu xét thấy số lượng khách hàng rút tiền ra tăng hay nhu cầu vay vốn tăng trong hiện tại hay dự đoán trong tương lai, các ngân hàng sẽ thực hiện huy động vốn và đó sẽ là biểu hiện cụ thể của mở rộng tín dụng và ngược lại.
- Cơ cấu của nguồn vốn huy động được.
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng vay của ngân hàng với những đối tượng khác nhau và đồng thời cũng thể hiện khả năng ổn định và cho vay của ngân hàng. Nếu trong cơ cấu nguồn vốn huy động được, vốn trung và dài hạn chiếm một tỷ trọng đáng kể thì ngân hàng có khả năng ổn định cao và có thể mở rộng đối tượng cho vay ra trung và dài hạn. Nhưng hiện nay phần lớn tỉ lệ vốn huy động được chủ yếu là vốn ngắn hạn từ 6-12 tháng. Trong số này, các ngân hàng chỉ được trích một tỉ lệ nhỏ cho vay trung và dài hạn còn chủ yếu là các khản tín dụng ngắn hạn. Ngân hàng không dám mở rộng đối tượng cho vay trung và dài hạn với lãi suất cao hơn bởi nếu không huy động kịp vốn cho những khoản trả nợ ngắn hạn khi đến kỳ đáo hạn thì uy tín của ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Đó là một ví dụ cơ bản về ảnh hưởng của cơ cấu nguồn vốn đối với chất lượng tín dụng.
b) Chỉ tiêu về sử dụng vốn.
Số vốn sử dụng
x 100%
Số vốn huy động
Chỉ tiêu này càng lớn thì chứng tỏ càng sử dụng có hiệu quả nguồn vốn huy động được. Đối với các nguồn vốn huy động, ngân hàng phải trả lãi suất dù sau đó có cho vay lại hay sử dụng vào các mục đích khác hay không. Do đó nếu nguồn vốn đã huy động được mà không sử dụng chiếm tỉ lệ lớn, ngân hàng sẽ bị thua lỗ.
c) Chỉ tiêu dư nợ.
Đây là chỉ tiêu đáng được quan tâm nhất khi xem xét đến chất lượng tín dụng một ngân hàng thương mại. Qua đó có thể nghiên cứu được biến động quy mô, khối lượng tín dụng, mức độ phát triển của nghiệp vụ, chứng tỏ mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng là đáng tin cậy và có hiệu quả, nói chung là khoản tín dụng có chất lượng cao.
d) Chỉ tiêu lợi nhuận.
Ngân hàng là một tổ chức kinh doanh tiền tệ nên mục tiêu lợi nhuận luôn phải đặt lên hàng đầu, ngân hàng thu được lợi nhuận tín dụng từ khoản chênh lệch lãi suất đi vay và lãi suất cho vay. Chỉ tiêu này đặc biệt quan trọng đối với những ngân hàng chưa phát triển dịch vụ ngân hàng, nguồn thu từ hoạt động tín dụng là chủ yếu. Nếu tín dụng không đạt chất lượng tốt thì không những không thu được nợ gốc và lãi mà còn tăng về chi phí của ngân hàng, làm giảm lợi nhuận.
Tuy nhiên, đối với một số dự án theo kế hoạch của nhà nước thì chỉ tiêu này đôi khi không đầy đủ để phản ánh chất lượng tín dụng. Vì mục tiêu kinh tế xã hội hay chiến lược phát triển các ngành khoa học kỹ thuật còn non trẻ, phát triển các ngành mũi nhọn, xuất khẩu hay vì các mục tiêu xã hội khác thì đôi khi lợi nhuận không được đặt ra và nó không phản ánh thực chất chất lượng khoản tín dụng.
e) Chỉ tiêu vòng quay của vốn.
Được tính bằng tỉ số giữa số thu nợ và tổng dư nợ. Chỉ tiêu này cho biết số tín dụng đã hoàn thành và được thu lại để tiếp tục cho vay. Qua đó có thể thấy được ngân hàng đã cho vay đúng đối tượng nên đã thu được cả vốn lẫn lãi, không có rủi ro và quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng là tốt đẹp. Số lợi nhuận thu được trên mỗi đồng vốn vay tăng tỷ lệ với số vòng quay của vốn.
Trên đây là một số chỉ tiêu dùng để đánh giá chất lượng tín dụng ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, chất lượng tín dụng luôn phải xem xét, đánh giá, phân tích cả về mặt định tính cũng như về mặt định lượng. Tín dụng nhằm mục tiêu lợi nhuận cả về phía ngân hàng và khách hàng nhưng ta không thể bỏ qua những mục tiêu, lợi ích xã hội của nó. Trong những năm qua, tín dụng đã góp phần tích cực vào ổn định xã hội, thông qua các hoạt động tín dụng đã tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp, hộ nông dân, duy trì và phát triển sản xuất kinh doanh. Trong thực tế các vấn đề xã hội nổi cộm đều do sự bất công trong khả năng tiếp cận, sử dụng các nguồn lực nhằm đem lại lợi nhuận và do cơ chế phân phối thu nhập có nhiều bất công. Tín dụng được sử dụng như một biện pháp khắc phục nguyên nhân thứ nhất. Chính vì vậy, để đánh giá chất lượng tín dụng, cũng cần phải quan tâm đến các kết quả mang tính xã hội của tín dụng. Đó là về mặt giải quyết việc làm, phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao thu nhập, phát triển các vùng xa xôi hẻo lánh... Tóm lại, để đánh giá chất lượng tín dụng cần phải có một cái nhìn toàn diện trên mọi góc độ cả về mặt định tính và định lượng, cả về mặt kinh tế và mặt xã hội.
4.3. Các nhân tố ảnh hưởng.
Để có được những giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng tín dụng, ta cần phải xét đến các nhân tố ảnh hưởng đến nó và từ đó tìm cách khắc phục những mặt còn hạn chế, yếu kém. Bất cứ một điều gì cũng có hai nguyên nhân của nó là nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan. Đối với tín dụng, nguyên nhân khách quan ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng chính là do môi trường kinh tế, pháp lý hiện hành, còn nguyên nhân chủ quan thuộc về phía ngân hàng và khách hàng. Sau đây, ta sẽ xem xét ảnh hưởng của từng nhân tố này đến chất lượng tín dụng.
a) ảnh hưởng của môi trường kinh tế.
Môi trường kinh tế ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng nói chung và chất lượng tín dụng nói riêng. Một môi trường kinh tế hoàn chỉnh và trong sạch sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển đúng quỹ đạo. Còn nếu môi trường ấy có nhiều bất cập, nhiều tệ nạn và có nhiều biến động thì ngân hàng sẽ không có nguồn vốn huy động bởi khách hàng lo sợ rủi ro xảy ra. Môi trường kinh tế như vậy sẽ tạo điều kiện cho nhiều tật xấu của nền kinh tế được nảy nở và phát triển. Các khoản tín dụng sẽ được đầu tư không đúng chỗ và đem lại rủi ro cho khách hàng, như vậy chất lượng tín dụng bị ảnh hưởng.
Ta xét ảnh hưởng của môi trường kinh tế đến hoạt động tín dụng trên hai khía cạnh:
- Chu kỳ kinh tế: Một cách khái quát, nếu nền kinh tế trong giai đoạn ổn định và hưng thịnh thì nhu cầu đầu tư mở rộng sản xuất, nhu cầu tiêu dùng của người dân, và lượng tiền dự trữ, tiết kiệm đều tăng, do đó cả người cho vay và người đi vay đều sẵn sàng, hoạt động tín dụng được nâng cao. Ngược lại, trong giai đoạn kinh tế suy thoái, các doanh nghiệp thấy sẽ thật là mạo hiểm nếu mở rộng sản xuất bởi nhu cầu tiêu dùng của người dân giảm, sức mua kém và hàng hóa sẽ bị tồn kho, lợi nhuận giảm hoặc thậm chí doanh nghiệp có thể bị phá sản bởi không duy trì được sản xuất và không trả được nợ ngân hàng. Chính vì vậy, lúc nền kinh tế suy thoái, nguồn vốn huy động được của ngân hàng sử dụng không có hiệu quả tức là chất lượng tín dụng cũng bị giảm.
- Các biến động về lãi suất, tỉ giá trên thị trường nói chung và thị trường tiền tệ nói riêng ảnh hưởng trực tiếp đến lãi suất ngân hàng. Nếu ngân hàng phụ thuộc vào khoản vốn huy động dưới dạng chứng chỉ tiền gửi mệnh giá lớn hoặc tiền vay của Chính phủ, giá vốn huy động của nó sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp bởi các điều kiện của thị trường tiền tệ. Hơn nữa, thị trường tiền tệ sẽ xác định sự hấp dẫn của các dự án đầu tư.
Ví dụ : Nếu một ngân hàng có thể mua trái phiếu Chính phủ với lợi tức 10% thì ngân hàng sẽ không muốn cho vay trừ khi lãi suất vay phải cao hơn rất nhiều nhằm bù đắp cho các rủi ro tăng thêm hay các chi phí quản lý khác có liên quan. Nếu ngân hàng cung ứng khoản vay của mình trên thị trường thứ cấp, nó sẽ bị ảnh hưởng thêm do lãi suất đòi hỏi ở thị trường thứ cấp bị ràng buộc chặt chẽ bởi các điều kiện thị trường tiền tệ.
Hơn nữa, lãi suất cho vay và huy động vốn là một trong những nhân tố quyết định lượng vốn huy động được và quyết định số vốn giải ngân được – còn bị ảnh hưởng bởi các mức lãi suất cạnh tranh trên thị trường từ các ngân hàng và tổ chức tín dụng khác. Ngân hàng không thể tính giá thêm cho cùng một loại sản phẩm hay dịch vụ nhằm đạt mức lợi nhuận mong muốn mà không bị mất đi một số lớn quan trọng khách hàng.
b) ảnh hưởng của môi trường pháp lý.
Môi trường pháp lý được hiểu là hệ thống luật và văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động của ngân hàng thương mại nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng.
Hiện nay hệ thống văn bản pháp luật chưa đồng bộ đã gây khó khăn cho ngân hàng và các khách hàng khi ký kết và tham gia các hoạt động tín dụng. Đồng thời cũng gây ra nhiều vướng mắc trong quản lý và sử dụng các khoản tín dụng, xử lý tài sản thế chấp, phát mại... Ví dụ như về quy định thời hạn cho vay trong “Quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng với khách hàng” quy định cho vay ngắn hạn có thời hạn tối đa 12 tháng như trong luật ngân hàng thì quy định thời hạn cho vay trung hạn bắt đầu từ 12 tháng trở lên. Điều này tạo nên sự thiếu nhất quán trong phân loại các chỉ tiêu dư nợ cho vay theo thời hạn ở các tổ chức tín dụng và cũng gây khó khăn cho quản lý tín dụng của nhà nước, tạo kẽ hở cho những việc làm sai phạm.
Sự thay đổi trong các chủ trương, chính sách của nhà nước cũng gây ảnh hưởng đến các khoản tín dụng. Nhất là về cơ cấu kinh tế, các chính sách xuất nhập khẩu... bởi nếu có sự thay đổi đột ngột ấy thì sẽ gây xáo trộn trong sản xuất kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, hoặc phương án kinh doanh sẽ không còn phù hợp... Nếu không kịp thời chuyển đổi, doanh nghiệp sẽ không sản xuất kinh doanh được và không thể thanh toán nợ dẫn đến nợ quá hạn, nợ khó đòi của ngân hàng tăng lên.
Đồng thời, sự quản lý của nhà nước đối với các doanh nghiệp còn nhiều sơ hở. Nhiều doanh nghiệp được sản xuất kinh doanh với nhiều chức năng, nhiều nhiệm vụ và có thể vượt quá trình độ, năng lực quản lý làm cho quá trình thẩm định của ngân hàng khó khăn nên mức rủi ro lớn, làm giảm sút chất lượng tín dụng.
c) ảnh hưởng từ phía ngân hàng.
- Lãi suất tín dụng : lãi suất tín dụng của ngân hàng không những được quy định bởi lãi suất cơ bản của ngân hàng nhà nước, sự cạnh tranh của các tổ chức tín dụng khác mà còn do mục tiêu lợi nhuận từ phía ngân hàng và các chi phí khác của khoản cho vay. Khi xác định lãi suất, ngân hàng phải dựa vào 3 yếu tố cơ bản :
+ Lãi suất thị trường (yếu tố nền tảng).
+ Định hướng chiến lược, chính sách kinh tế.
+ Thực trạng và tốc độ lạm phát.
Ngoài ra, chính sách điều chỉnh lãi suất một cách linh hoạt của ngân hàng đối với những khoản vay khác nhau trong những giai đoạn khác nhau cũng sẽ quyết định đến chất lượng khoản tín dụng.
- Tiêu chuẩn tín dụng: là những yêu cầu mà các doanh nghiệp phải đạt được để được thiết lập quan hệ tín dụng. Tùy theo quy mô của tín dụng mà tiêu chuẩn tín dụng được đưa ra để so sánh, đánh giá những tiêu chuẩn doanh nghiệp cần đạt được. Trên cơ sở đó, ngân hàng tiến hành phân loại doanh nghiệp để nhìn nhận, quyết định quy mô tín dụng và các biện pháp phù hợp đảm bảo an toàn tín dụng. Khi tiêu chuẩn tín dụng cao, khả năng hấp thu khách hàng càng thấp nhưng tính an toàn cao và ngược lại.
- Chính sách tín dụng của ngân hàng: chính sách tín dụng một mặt phải phù hợp với đường lối phát triển chung của đất nước, đồng thời phải đảm bảo kết hợp hài hòa quyền lợi của người cho vay, người đi vay và bản thân ngân hàng. Với các ngân hàng thương mại, một chính sách tín dụng đúng đắn, rõ ràng, hợp lý phải đảm bảo khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ luật pháp và đường lối, chính sách của nhà nước, đồng thời phải đảm bảo tính công bằng và hấp dẫn khách hàng. Một chính sách như vậy mới khuyến khích ngân hàng phát hiện và thỏa mãn các nhu cầu về vốn.
- Tổ chức bộ máy và quy trình quản lý tín dụng: tổ chức bộ máy và quy trình quản lý tín dụng quy định quyền hạn và trách nhiệm của tng khâu, mối quan hệ của từng bộ phận trong quá trình thực hiện từ thẩm định cho đến khi thiết lập quan hệ và thu hồi vốn tín dụng. Tổ chức và quản lý tín dụng phù hợp sẽ nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng, hạn chế tình trạng lựa chọn đối nghịch hay rủi ro đạo đức. Quy trình quản lý được bố trí khoa học, phân định rõ ràng về trách nhiệm, góp phần nâng cao chất lượng thông tin, là cơ sở quan trọng nâng cao mức độ hiệu quả tín dụng.
- Thông tin tín dụng và thẩm định dự án: mục đích của thẩm định dự án là nhằm giúp ngân hàng rút ra được các kết luận chính xác về tính khả thi, hiệu quả kinh tế, khả năng trả nợ, những rủi ro có thể xảy ra của dự án để quyết định cho vay hay từ chối. Đồng thời qua thẩm định cũng có thể tham gia góp ý với chủ đầu tư về dự án, xác định lại số tiền cần vay, thời hạn và mức thu hợp lý phù hợp với năng lực doanh nghiệp, nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả và tín dụng đem lại lợi nhuận cho cả ngân hàng và doanh nghiệp.
Thực hiện tốt các nhiệm vụ này, chất lượng các khoản tín dụng mới được đảm bảo. Trong số các biện pháp nâng cao ấy, biện pháp có tính chiến lược, có ý nghĩa thiết thực nhất đối với các công tác thẩm định là nâng cao chất lượng thông tin tín dụng, nó có tác động trực tiếp đến quyết định cho vay, quyết định đầu tư tín dụng. Xét dưới góc độ vĩ mô, thông tin tín dụng là cơ sở đánh giá chất lượng tín dụng ngân hàng, đưa ra các dự báo phát triển kinh tế. Đặc biệt trong tình hình hiện nay, khi nền kinh tế ngày càng phát triển, số lượng doanh nghiệp ngày càng nhiều, quan hệ kinh tế thương mại ngày càng đa dạng và phức tạp, sức ép vì nhu cầu thông tin khách hàng ngày càng quan trọng và đòi hỏi phải đáp ứng : tính cập nhật, nhanh, chính xác và tiện lợi.
- Chất lượng nhân sự : con người là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong hoạt động tín dụng ngân hàng. Nghiệp vụ ngân hàng càng phát triển càng đòi hỏi chất lượng nhân sự ngày càng cao để có thể sử dụng những phương tiện hiện đại, phù hợp với sự phát triển nghiệp vụ ngân hàng trong cơ chế thị trường. Việc lựa chọn nhân sự phải đảm bảo cả về đạo đức và nghiệp vụ chuyên môn. Hai mặt này phải gắn bó khăng khít với nhau, nhất là trong điều kiện hiện nay, các ngân hàng thương mại đang bất cập về trình độ nên lực lượng cán bộ thì nhiều nhưng vẫn thiếu cán bộ chuyên môn giỏi, hơn nữa do hệ thống luật pháp còn chưa chặt chẽ nên để đảm bảo chất lượng tín dụng, các ngân hàng phải chú trọng đến những cán bộ có đạo đức tốt.
d) Về phía khách hàng.
- Nhu cầu tín dụng của khách hàng: phụ thuộc chủ yếu vào tình hình chung của nền kinh tế và chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhìn chung đối với các doanh nghiệp, kể cả các doanh nghiệp nhà nước cũng như doanh nghiệp tư nhân, đều luôn có nhu cầu vay vốn để đổi mới công nghệ, cải tiến mặt hàng, mở rộng sản xuất nhằm tăng cường sức cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường.
- Năng lực của khách hàng: được hiểu là khả năng của người đi vay trong việc đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn đối với từng loại hình tín dụng. Điều kiện tín dụng đưa ra là nhằm tiêu chuẩn hóa các đối tượng vay vốn, đồng thời để thuận tiện cho quá trình quản lý tín dụng và nhằm đảm bảo cho khả năng thu hồi vốn của ngân hàng. Khả năng này đáp ứng các điều kiện tín dụng thể hiện ở các mặt sau:
+ Năng lực sản xuất của khách hàng: trước hết, khách hàng vay vốn phải có tư cách pháp nhân và sau đó nó phải có khả năng thực hiện dự án đó nhằm đảm bảo ngân hàng có thể thu hồi vốn lẫn lãi. Năng lực sản xuất thể hiện ở giá trị, máy móc thiết bị sẵn có, cụ thể là quá trình sản xuất sản phẩm, công nghệ sản xuất... vốn có. Nghiên cứu năng lực sản xuất, ngân hàng có thể xác định được nôi dung sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như quy mô và tính chất của hoạt động sản xuất kinh doanh đó. Ngoài ra năng lực sản xuất còn thể hiện ở trình độ người quản lý và bộ máy thừa hành. Tất cả những điều đó tạo nên khả năng tìm kiếm lợi nhuận. Để có được một khoản tín dụng chất lượng tốt đòi hỏi khách hàng phải sản xuất ổn định, kinh doanh có lãi, có trình độ sản xuất và quản lý đảm bảo cho dự án tín dụng.
+ Năng lực thị trường của sản phẩm: thể hiện ở các mặt như khối lượng sản phẩm tiêu thụ, chất lượng sản phẩm, số lượng khách hàng quen biết, sản lượng tiềm năng, vị thế của sản phẩm trên thị trường. Đồng thời cũng thể hiện ở quá trình phát triển và mở rộng sản xuất của doanh nghiệp, hệ thống mạng lưới tiêu thụ và các bạn hàng có uy tín. Năng lực thị trường được lượng hóa qua sự gia tăng của doanh số tiêu thụ sản phẩm, từ đó có thể cho biết được tính khả thi hay không của dự án đầu tư tín dụng.
+ Năng lực tài chính của khách hàng: tình hình tài chính của khách hàng là một bộ phận quan trọng cần phân tích khi ra quyết định tín dụng. Ngân hàng cần xem xét đến các khía cạnh căn bản: chất lượng tài sản có, bản chất các khoản nợ, vốn tự có và khả năng tự chủ về tài chính. Dấu hiệu tốt nhất cho việc đảm bảo về chất lượng một khoản tín dụng là một doanh nghiệp có quá trình tạo lợi nhuận ổn định. Tỉ lệ số vốn dành cho sản xuất kinh doanh để tạo thu nhập trong tổng số tài sản có càng cao càng tốt, sự đánh giá của ngân hàng phải là thực tế, ngoài ra phải xét đến tổng số nợ và mối quan hệ của nó với tài sản có. Việc phụ thuộc nặng nề vào tín dụng hay tài trợ chứng tỏ thực lực của doanh nghiệp là không cao và sẽ không phải là một khách hàng lý tưởng đối với những khoản tín dụng chất lượng cao.
+ Năng lực quản lý của doanh nghiệp: yêu cầu đặt ra là phải có một hệ thống hoạch toán kế toán và quản lý tài chính thống nhất và phù hợp với quy định. Ngoài ra phải xem xét và nắm vững cơ cấu quản lý của doanh nghiệp cũng như khả năng thích ứng của nó với những biến động thị trường bởi điều đó sẽ đảm bảo cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, hoàn trả được cả vốn lẫn lãi cho ngân hàng đem lại kết quả chất lượng cao cho khoản tín dụng.
- Tình hình cầm cố, thế chấp tài sản của doanh nghiệp cũng như của người bảo lãnh: đây là vấn đề quyết định để đảm bảo cho khoản vay ngân hàng. Doanh nghiệp phải có chứng nhận về quyền sở hữu với tài sản gắn liền với năng lực pháp luật của doanh nghiệp và khả năng sử dụng tài sản đó để thực hiện các biện pháp tín dụng. Quyền sở hữu và giá trị của tài sản phải được đảm bảo cho đến kỳ đáo hạn của khoản tín dụng, đồng thời phải có tính lỏng cao. Đối với người bảo lãnh ngoài yêu cầu về tư cách pháp nhân cũng phải có tài sản thế chấp và quyền sở hữu về tài sản như đối với người đi vay. Đặc biệt đối với những khoản thế chấp, cầm cố thường được điều chỉnh thấp xuống vì giá trị bán được và số tiền ròng thu được từ tài sản thế chấp thường ít hơn khi một khoản vay nợ trở thành một vụ thu hồi nợ. Điều này cũng nhằm đảm bảo an toàn cho số vốn tín dụng ngân hàng bỏ ra.
- Tư cách đạo đức khách hàng: phẩm chất đầu tiên đòi hỏi ở người đi vay tiền (khách hàng) là phải hoàn toàn trung thực. Khi ngân hàng có nghi ngờ về tư cách đạo đức hoặc ý định của người đi vay thì ngân hàng không nên tiến hành cho vay nhằm đảm bảo an toàn tín dụng. Chính vì vậy đối với mỗi khách hàng, ngân hàng thường có biện pháp kiểm tra tư cách khách hàng. Những lừa dối đạo đức thường xay ra do những hành vi sau của người đi vay: tạo ra những chứng cứ giả để có thể vay được tiền, cố tình chiếm đoạt phần vốn từ những người cho vay, hay những người vay vốn sử dụng vốn vay không đúng mục đích... Trong thực tế, nhất là khi có nhiều hình thức tín dụng như hiện nay thì chất lượng tín dụng phụ thuộc rất lớn vào đạo đức khách hàng.
Với điều kiện nền kinh tế thị trường mới phát triển, chưa hoàn chỉnh về mọi mặt cũng như tình trạng thành lập ồ ạt các công ty tư nhân như hiện nay, vấn đề quản lý tín dụng đặt ra cho ngân hàng thật là khó khăn. Trong khi chờ đợi có một cơ chế pháp lý hoàn thiện, nghiêm ngặt hơn, chất lượng tín dụng chỉ được đảm bảo nếu ngân hàng lựa chọn đúng những khách hàng có đầy đủ năng lực và tư cách đạo đức tốt, tức là khách hàng phải có đầy đủ thông tin chính xác để tránh được sự lựa chọn đối nghịch và những rủi ro về đạo đức.
III. Chất lượng tín dụng của NHTM Việt Nam
1. Những kết quả đạt được.
Trong những năm gần đâydo nhà nước đẩy mạnh các biện pháp kích cầu nên nền kinh tế nói chung và diễn biến tín dụng đạt được một số kết quả.Cụ thể, trong năm 2000, tăng trưởng tín dụng là 38,1%, năm 2001 là 21,4%, năm 2002 là 22.2%, năm 2003 lả 28,4%, năm 2004 với 41,5%, năm 2005 là 19,2%, năm 2006 là 21,4% và năm 2007 với đỉnh cao là 51,39%. Theo thống kê của NHNN, nợ xấu năm 2007 chỉ chiếm 2% tổng dư nợ cho vay, giảm so với cùng kỳ năm trước là 2,65%
Ngoài ra, công tác đổi mới, chấn chỉnh tự hoàn thiện đã luôn được coi là nhiệm vụ quan trọng với hệ thống ngân hàng. Các cải tiến trong các khâu tiếp nhận hồ sơ, giải quyết thủ tục... đã giúp khách hàng thuận tiện hơn trong vay và sử dụng vốn tín dụng.
2. Những hạn chế còn tồn tại.
- Tăng trưởng tín dụng “nóng” làm giảm hiệu quả của hoạt động tín dụng, nguy cơ nợ quá hạn, nợ xấu tăng cao…đặc biệt là các NHTM mới chuyển đổi từ nông thôn sang đô thị, trong khi cơ sở hạ tầng công nghệ, mạng lưới chi nhánh còn yếu, năng lực quản trị điều hành chưa được cải thiện tương xứng với tốc độ mở rộng quy mô hoạt động. Đáng chú ý, năm 2007 có gần 50 tổ chức tín dụng có tốc độ tăng trưởng dư nợ trên 50% và gần 30 tổ chức tín dụng có tốc độ tăng trưởng dư nợ trên 100%.
- Nhiều NHTM chưa xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ cho các nhóm khách hàng theo thông lệ.
- Sự thiếu minh bạch trong hoạt động của các NHTM, nếu tính những khoản nợ khoanh và nợ khó đòi thị thực tế hoạt động của nhiều NHTM đang ở trong tình trạng thua lỗ.
- Các NHTM chủ yếu vẫn coi tài sản thế chấp là cơ sở đảm bảo tiền vay, kể cả đối với tín dụng ngắn hạn. Các NHTM còn xem nhẹ đảm bảo theo dự án trong khi việc xử lý tài sản thế chấp lại gặp rất nhiều khó khăn về mặt pháp lý.
- Theo quy định của NHNN, các NHTM có nợ tồn đọng , nợ xấu đều phải trích lập dự phòng rủi ro theo các nhóm nợ từ 0%-100% (Quyết đinh 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005). Mặc dù các NHTM đã có những biện pháp nhằm giảm thấp số nợ này nhưng vẫn chưa giải quyết được là bao, nhất là số nợ tồn đọng có thời gian kéo dài, nợ có số dư nỏ. Như vậy nợ quá hạn, nợ tồn đọng phát sinh và kéo dài nhưng vẫn chậm thu được.
- Hoạt động tín dụng chưa phân bố hợp lý cho các lĩnh vực khác nhau trong nền kinh tế, lĩnh vực chứng khoán và bất động sản là 2 lĩnh vực vô cùng nhạy cảm trước những biến động kinh tế vĩ mô nhưng có những thời ký tín dụng được đổ vào hai lĩnh vực này là rất lớn, khi hai lĩnh vực này bị suy giảm, khách hàng không có khả năng trả nợ thì ngân hàng phải tự xử lý đối với tài sản cầm cố, thế chấp…mà việc xử lý với tài sản thế chấp không phải là điều đơn giản nếu như tài sản cầm cố, thế chấp đó lại chính là chứng khoán và bất động sản.
IV. Những biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng của NHTM Việt Nam.
Từ thực tế đã đưa ra, có thể nói rằng thực trạng tín dụng NHTM hiện nay tuy đã có những bước đổi mới đáng kể nhưng vẫn còn tồn tại nhiều yếu kém. Hệ thống ngân hàng nói chung, tín dụng nói riêng đang bước đầu đi vào hoạt động với đúng nghĩa “ngân hàng hiện đại” nhằm làm tăng cường tốc độ giao dịch và lưu thông trong nền kinh tế, thúc đẩy phát triển sản xuất tiêu dùng. Để hệ thống ngân hàng càng hoàn thiện hơn và thực sự trở thành một trong những công cụ kinh tế vĩ mô hữu hiệu thì các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả chất lượng tín dụng ngân hàng thương mại phải được áp dụng nhanh chóng và tích cực. Sau đây em xin mạo muội đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng thương mại.
1. Tăng cường chất lượng công tác tín dụng
Theo quy chế tín dụng hiện nay, qui định xét duyệt thẩm định dự án cho vay quả là khó khăn, hơn nữa trong quá trình làm việc với khách hàng, có nhiều tình huống mà cán bộ tín dụng không thể lường trước được. Chính vì vậy để nâng cao chất lượng công tác tín dụng thì đòi hỏi người cán bộ tín dụng phải hết sức năng động, giải quyết vướng mắc một cách khoa học, logic.
- Mọi khoản cho vay mới phải thực hiện theo đúng chế độ và đúng các điều kiện luật pháp quy định.Riêng các đối tượng vốn chỉ định của Chính phủ, vừa phải thực hiện chính sách ưu đãi, vừa phải bảo đảm điều kiện cho vay, đặc biệt hiệu quả sử dụng vốn để đảm bảo thu hồi vốn, lãi đúng hạn .
- Thực hiện phân loại nợ theo văn bản hiện hành của NHNN trong đó đặc biệt chú ý phân tích nợ quá hạn để có biện pháp xử lý thích hợp. Thực hiện nghiêm túc việc chấn chỉnh chất lượng tín dụng sau kiểm tra.
- Rà soát lại hồ sơ, phân loại dư nợ theo các nguyên nhân để có biện pháp xử lý.
- Tính toán được đặc điểm chu chuyển vốn và nhu cầu của bên vay và cùng nhau định kì hạn nợ cho phù hợp với kết quả nguồn thu. Bất cứ món vay nào cũng phải dựa trên cơ sở các nguồn thu để phân kỳ hạn nợ vào những thời gian thu hồi vốn thích hợp, tính toán chính xác thời gian thu hoạch sản phẩm.Vì vậy, xác định kỳ hạn nợ là sự kết hợp hài hoà giữa khách hàng và ngân hàng.
2. Tiến hành phân loại đội ngũ cán bộ
Tiến hành phân loại đội ngũ cán bộ tín dụng có kế hoạch cụ thể để đào tạo lại, trang bị thêm kiến thức pháp lý về nghiệp vụ tín dụng; nên ưu tiên bố trí những cán bộ có năng lực, trình độ, có tâm huyết sang làm công tác tín dụng, điều chỉnh thêm cán bộ ở các bộ phận khácbổ sung cho công tác tín dụng. Những cán bộ sa sút về phẩm chất, cố ý làm trái, tham ô lợi dụng dứt khoát không bố trí làm nghiệp vụ tín dụng. Bằng nhiều hình thức các NHTM tiến hành đào tạo lại đội ngũ cán bộ làm công tác tín dụng để cập nhật những văn bản thông tin mới nhất, trước hết là cán bộ tín dụng trực tiếp cho vay với các yêu cầu đặt ra là:
+ Nắm chắc các quy định nghiệp vụ
+ Năng động linh hoạt có tư cách đạo đức nghề nghiệp
+ Biết xác lập, đề xuất, thẩm định dự án vay vốn
+ Có kiến thức cơ bản về kinh tế thị trường , pháp luật.
3. Nâng cao chất lượng công tác tín dụng
Nâng cao chất lượng tín dụng công tác tín dụng, giảm thấp nợ quá hạn vá nợ có vấn đề với phương châm an toàn để phát triển. Thực hiện nghiêm ngặt công tác kiểm tra các dự án ngân hàng đứng ra bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay vốn nước ngoài, trên cơ sở đó có biện pháp xử lí thích hợp. Tiến hành phân loại các khoản vay có vấn đề, có biện pháp xử lý thu hồi . Đối với khoản cho vay mới, nhất thiết phải đảm bảo hiệu quả, cho vay phải tuân thủ đầy đủ quyđịnh của ngành, của pháp luật.
4. Tăng cường hơn nữa công tác giám sát tiền vay
Đây là một biện pháp quan trọng để phòng ngừa rủi ro đạo đức. Việc giám sát sẽ giúp ngân hàng kiểm soát được hành vi của người vay vốn, đảm bảo đồng vốn được sử dụng đúng mục đích. Nếu giám sát không chặt chẽ tạo ra những lỗ hổng cho khách hàng sử dụng vốn sai với dự án, làm phát sinh những rủi ro tín dụng mới mà ngân hàng không biết và không lường trước được.
Việc kiểm tra giám sát phải được thực hiện thông qua việc xem xét các báo cáo tài chính định kì của khách hàng và các giấy tờ có liên quan, ngoài ra còn có sự kiểm tra thực tế cơ sở để kiểm trathực tế cơ sở của cán bộ tín dụng để khẳng định kết quả các báo cáo trước đó.
Bên cạnh việc kiểm tra quá trình sử dụng tiền vay, cán bộ cũng đặc biệt phải lưu ý tới tài sản thế chấp của khách hàng, đánh giá lại tài sản thế chấp theo giá hiện hành, nếu giảm so với giá ban đầu thế chấp thì phải yêu cầu khách hàng bổ sung tài sản thế chấp khác hoặc giảm dư nợ tương ứng.
Cán bộ phải nắm rõ các nguồn thu của khách hàng và yêu cầu khách hàng phải thực hiện việc thanh toán cho đơn vị qua ngân hàng. Việc thường xuyên kiểm tra tài khoản của khách hàng là một phương thức để đánh giá tình trạngtài chính của họ. Nếu phát hiện tình trạng có thể xấu đi, phải yêu cầu khách hàng điều chỉnh lại kế hoạch sản xuất kinh doanh hoặc tìm biện pháp để thu nợ. Cán bộ tín dụng không được để “tình cảm” chi phối trong công việc, kiên quyết xử lý một cách đúng đắn, đảm bảo thu hồi nợ vay.
5. Trích lập quỹ bù đắp rủi ro
Chất lượng tín dụng hình thành do sự hợp tác của cả hai phía người đi vay và người cho vay. Ngân hàng lựa chọn và quyết định cho vay từ việc xét duyệt các dự án với kỳ vọng có được khoản cho vay có lợi nhuận cao và an toàn. Tuy nhiên qua một thời gian với sự tác động của nhiều yếu tố, dự án trở nên kém hiệu quả, mức độ rủi ro tăng lên đe doạ khả năng lợi nhuận và thu hồi vốn của ngân hàng. Chính lúc này, quỹ bù đắp rủi ro hình thành trên cơ sở khả năng mất vốn của khoản cho vay, một mặt sẽ giúp ngân hàng khắc phục được hậu quả, mặt khác tăng cường sức mạnh tài chính cũng như khả năng thanh toán của ngân hàng,từ đó nâng cao chất lượng tín dụng. Tuy nhiên, hiện nay hệ thống quỹ này cũng chưa thực sự được quan tâm như cần thiết, được trích lập ra từ số dư nợ quá hạn đầunăm là không hiệu quả(số dư quỹ tín dụng dự phòng của toàn hệ thống quỹ tín dụng nhân dân là 41 tỷ đồng vào cuối năm 1998- một số tiền không nhỏ bị lãng phí). Quỹ dự phòng nênđược cho phép gửi tại các ngân hàng khu vực hay TƯ chứ không để tại cơ sở như hiện nay khiến cho việc sử dụng không hợp lý. Ngoài ra cũng nên hình thành một quỹ dự phòng rủi ro cho toàn bộ hệ thống bằng cách trích một tỷ lệ % số tiền từ quỹ bù đắp rủi ro của cơ sở nhằm tạo ra một chỗ dựa vững chắc cho ngân hàng cơ sở bằng tiềm lực tài chính lớn mạnh của quỹ tổng hợp này.
6. Nâng cao chất lượng tín dụng nhân sự và chuyên môn hoá cán bộ tín dụng
Để đảm bảo chất lượng tín dụng, cán bộ tín dụng phải là người am hiểu tình hình kinh tế nói chung và khách hàng nói riêng, Từ thực lực tài chính đén tiềm năng thanh toán, tiềm năng phát triển và dự đoán trong tương lai và quan trọng nhất là nắm rõ tư cách đạo đức khách hàng vì đó là điều quyết định ý muốn trả nợ của họ. Để giải quyết những yêu cầu quá lớn này đối với cán bộ tín dụng, chuyên môn hoá là một giải pháp hữu hiệu bên cạnh việc nâng cao chất lượng nhân sự. Hiện nay ở đa số các ngân hàng, sự chuyên môn hoá chỉ cơ bản dựa trên số khách hàng, mức dư nợ vad thành phần kinh tế, diều đó khiến cho mỗi cán bộ tín dụng đều phải quan tâm đến rất nhiều lĩnh vực, khó khăn trong thu nhập và xử lý thông tin.Do đó các chuyên gia đề xuất việc chuyên môn hoá cán bộ tín dụng theo việc quản lý các nhóm khách hàng có cùng lĩnh vực chuyên môn. Điều này tạo điều kiện cho cán bộ tín dụng tập trung đi sâu vào lĩnh vực cụ thể, tranh dàn trải, phát huy được năng lực, sở trường riêng.Việc chuyên môn hoá như vậy cũng khắc phục được mâu thuẫn giữa chuyên môn hoá và đa dạng hoá, làm tăng chất lượng tín dụng và độ tin cậy của thông tin tín dụng, tạo cơ sở cho việc xây dựng các mối quan hệ với khách hàng lâu dài, đồng thời cũng làm giảm chi phí trong mỗi dự án với các khách hàng và ngân hàng.
Muốn vậy, ngân hàng phải có các biện pháp cụ thể:
- Định hướng và nội dung bồi dưỡng phải được hoạch định lâu dài.Xác định tiêu chuẩn và đề ra mục tiêu của từng giai đoạn để có những kế hoạch đào tạo và bồi dưỡng phù hợp.
- Việc đào tạo và bồi dưỡng phải lựa chọn đúng đối tượng theo chuyên môn, cán bộ được đào tạo phải đúng năng lực và phát huy hiệu quả đào tạo cho ngân hàng, tránh lãng phí trong đào tạo.
- Coi trọng đúng mực công tác đào tạo, bồi dưỡng tại chỗ, kết hợp giữa giảng dạy học tập và công việc hiện tại, khắc phục những mâu thuần giũa lý thuyết và thực tiễn. Phải tạo điều kiện để mỗi cán bộ tín dụng phát huy được hết những khả năng của mình để học tập và làm việc có hiệu quả.
- Cần chống quan niệm coi thường kinh nghiệm song cũng không được cường điệu hoá kinh nghiệm. Kinh nghiệm phải đi đôi với lý luận, lý luận là trình độ cao hơn về chất so với kinh nghiệm,lý luận lại không được xa rời thực tế. Việc đào tạo để được hiệu quả cần chú trọng chất lượng, hiệu quả thực tế chứ không vì số lượng.
7. Nâng cao chất lượng thông tin tín dụng
Các cán bộ thông tin tín dụng cần phải có trình độ chuyên môn về nghiệp vụ ngân hàng, kế toán và ngoại ngữ tin học. Họ phải đặc biệt nhanh nhạy và có óc suy đoán, làm việc với tinh thần trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp cao để đảm bảo thông tin đúng, đủ, chính xác và kịp thời. Ngoài ra, ngân hàng phải có mối liên hệ với các ngân hàng khác và các trung tâm thông tin khác để có thể mở rộng nguồn thông tin.
Ngoài ra còn có một số giải pháp:
- Củng cố mô hình mạng lưới tiếp cận khách hàng, công tác tiếp thị. Chú ý xem xét các vấn đề như tư cách pháp lý, nội dung, phương thức hoạt động, quyền lợi và trách nhiệm của các tổ chức kinh tế
- Thực hiện tốt công tác chỉ đạo điều hành từ Trung ương xuống các ngân hàng cơ sở, tuân thủ đúng từ việc thẩm định các dự án, tổ chức kiểm tra, đến việc quy định cụ thể về chế độ thông tin kiểm tra, chế độ thông tin thống kê, tổng kết, kiểm tra
- Chuyển sang cho vay các chương trình, dự án lớnvà vừa do Nhà nước hoạch định, chương trình cho vay xây dựng cơ bản theo chỉ định của chính phủ
- Gắn tín dụng thương mại với đầu tư phát triển, thúc đẩy quá trình liên kết các thành phần kinh tế nhằm khép kín chu trình sản xuất kinh doanh. Đầu tư tín dụng tạo điều kiện cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá công nghiệp dịch vụ. Tổ chức thực hiện hiệu quả chương trình vốn ngắn hạn, cho vay xây dựng cơ bản. Coi trọng phát triển kinh tế tổng hợp, lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo chính.
- Nâng cao tỷ trọng đầu tư cho các doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh có hiệu quả, có vốn điều lệ lớn, có khả năng thu hồi vốn nhanh, đặc biệt các doanh nghiệp truyền thống. Chú ý các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang làm ăn có hiệu quả,hiệu suất sinh lời cao, thu hồi vốn nhanh, tạo công ăn việc làm và tạo nhiều sản phẩm hàng hoá cho xã hội.
- Trên cơ sở tổng kết các mô hình cho vay chấn chỉnh các sai sót để chọn lựa ra hình thức cho vay bảo đảm dễ thu hồi vốn tránh thất thoát thấp. Mở rộng các hình thức cho vay trực tiếp qua các tổ chức chính trị- xã hội bằng hình thức tín chấp.
Một số kiến nghị khác
Hoạt động tín dụng của các NHTM không chỉ có ý nghĩa kinh tế mang lại lợi nhuận cho nền kinh tế mà còn có rất nhiều lợi ích chính trị xã hội, cũng do vậy, hoạt động nâng cao chất lượng tín dụng không những cần có sự nỗ lực của các NHTM mà cần sự giúp đỡ của các ngân hàng cấp trên, các cơ quan ban ngành có liên quan và của Nhà nước .
- Do tính chất phức tạp của công tác tín dụng, nên cần sớm nghiên cứu ban hành cơ chế về chính sách, chế độ, thể lệ làm việc, nghĩa vụ quyền lợi của đội ngũ cán bộ tín dụng, có chính sách ưu đãi đối với cán bộ tín dụng về thu nhập, phương tiện đi lại, bảo đảm an toàn. Thường xuyên quan tâm đến việc động viên khen thưởng cho đội ngũ cán bộ tín dụng giỏi để có cơ sở đề nghị xét chọn, khen thưởng hàng năm.Có chính sách như vậy mới đảm bảo chất lượng tín dụng trong kinh doanh - đầu tư phát triển đạt được kết quả cao.
- Việc ban hành cơ chế nghiệp vụ tín dụng nên cân nhắc thận trọng, tránh mâu thuẫn chồng chéo với các qui định chung của Nhà nước.
- Việc điều chỉnh lãi suất cho phù hợp với tình hình kinh tế – xã hội là cần thiết nhưng không nên quá nhiều lần trong năm ảnh hưởng đến tâm lý người gửi tiền, đặc biệt không huy động được vốn dài hạn, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động tín dụng. Hiện nay, nền kinh tế đang trong thời kỳ phát triển nên nhu cầu đầu tư vốn dài hạn tăng nhanh. Do vậy, tránh tình trạng huy động vốn trong thời hạn ngắn để đầu tư cho các dự án khả thi dài hạn, điều đó sẽ gây tâm lý nặng nề cho các NHTM trong việc tính toán vòng quanh chu kỳ chuyển vốn.
- Công cụ tài chính của ta còn rất nghèo nàn, khiến cho việc chế độ điều hành tỷ giá hối đoái cố định bị hạn chế, chính sách tiền tệ trở nên kém hiệu quả. Việc áp đặt tỷ giá đã thúc đẩy sử sự phát triển của thị trường đen do đó việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái căn cứ vào tỷ giá trên thị trường tự do là hợp lý hơn. Sự thiếu đa dạng của các công cụ tài chính làm cho hoạt động luân chuyển các nguồn vốn ngắn hạn kém phong phú, hạn chế các nghiệp vụ thị trường mở của ngân hàng TW, làm gia tăng tình trạng ứ đọng vốn.
Hệ thống liên ngân hàng sẽ đảm bảo cho khả năng thanh toán của từng ngân hàng và đảm bảo cho sự cân đối của thị trường vốn. Sự hỗ trợ giũa các ngân hàng sẽ bảo vệ chính bản thân các ngân hàng, đồng thời tăng cường sức mạnh tài chính để có thể cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài có thị trường mạnh.Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng diễn ra các giao dịch kỳ hạn và giao dịch hoán đổi làm tăng tính đa dạng cho các hoạt động của thị truờng.Hệ thống quỹ bù đắp rủi ro liên ngân hnàg sẽ tạo diều kiện cho ngân hàng tránh được các rủi ro đổ vỡ bằng tiềm lực tài chính mạnh của toàn hệ thống và đem lại niềm tin cho khách hàng.
- Thanh tra ngân hàng Nhà nước ở cấp trung ương phải cùng kết họp với cấp địa phương, thường xuyên phân tích đánh giá chất lượng tín dụng và cơ cấu nguồn vốn, cơ cấu tài chính là tình hình lợi nhuận của các tổ chức tín dụng, từ đó phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh các sai phạm nhằm lành mạnh hoá hệ thống ngân hàng, tránh tình trạng thất thoát nghiêm trọng.
C.Kết luận.
Hoạt động của NHTM nói chung và hoạt động tín dụng của NHTM nói riêng đã góp phần đang kể vào sự phát triển của nền kinh tế đất nước. nguồn vốn tín dụng đã thực sự đi vào cuộc sống của từng hộ gia đình, các doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế. Nó giữ một vai trò quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Nguồn vốn tín dụng đã góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, góp phân xây dựng cơ sở hạ tầng vững chắc. Không thể phủ nhận vai trò to lớn của nguồn vốn tín dụng thì mỗi cá nhân, doanh nghiệp và Nhà nước đều phải đóng sức mình để hoạt động tín dụng thực sự có chất lượng.Thực hiện được điều đó góp phần xây dựng phát triển ngân hàng,nền kinh tế đất nước.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21217.doc