• Giữ vai trò ổn định nền kinh tế: Ở phần lớn các nền kinh tế, các doanh nghiệp nhỏ và vừa là những nhà thầu phụ cho các doanh nghiệp lớn. Sự điều chỉnh hợp đồng thầu phụ tại các thời điểm cho phép nền kinh tế có được sự ổn định. Vì thế, DNVVN được ví là thanh giảm sốc cho nền kinh tế.
• Làm cho nền kinh tế năng động: vì doanh nghiệp nhỏ và vừa có quy mô nhỏ, nên dễ điều chỉnh (xét về mặt lý thuyết) hoạt động
37 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1270 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng nông nghiệp chi nhánh Cầu Giấy - Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h nghiệp nhỏ và vừa có quy mô nhỏ, nên dễ điều chỉnh (xét về mặt lý thuyết) hoạt động.
Tạo nên ngành công nghiệp và dịch vụ phụ trợ quan trọng: doanh nghiệp nhỏ và vừa thường chuyên môn hóa vào sản xuất một vài chi tiết được dùng để lắp ráp thành một sản phẩm hoàn chỉnh.
Là trụ cột của kinh tế địa phương: nếu như doanh nghiệp lớn thường đặt cơ sở ở những trung tâm kinh tế của đất nước, thì doanh nghiệp nhỏ và vừa lại có mặt ở khắp các địa phương và là người đóng góp quan trọng vào thu ngân sách, vào sản lượng và tạo công ăn việc làm ở địa phương.
Ở Việt Nam, DNVVN chiếm 96% trong tổng số doanh nghiệp, đồng thời số lượng các doanh nghiệp được thành lập mới ngày càng tăng nhanh, đóng góp của khu vực DNVVN ngày càng lớn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, vai trò của các DNVVN ngày càng lớn đối với nền kinh tế-xã hội của Việt Nam và được thể hiện trên các mặt sau:
Thứ nhất: đóng góp quan trọng vào GDP và tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Theo Bộ kế hoạch và Đầu tư, thời gian qua, số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ đăng ký thành lập mới tăng nhanh, hiện cả nước có khoảng 240 ngàn doanh nghiệp vừa và nhỏ, chiếm 96% tổng số doanh nghiệp cả nước. Kinh tế tư nhân nói chung và DNVVN nói riêng đã trở thành khu vực kinh tế năng động có vai trò, vị trí quan trọng và đang thật sự là một lực lượng thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế Việt Nam. Các DNVVN đang đóng góp khoảng 30% tổng thu nhập GDP, khoảng 31% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, 78% tổng mức bán lẻ….tạo công ăn việc làm cho khoảng 25% lực lượng lao động cả nước, sử dụng trên 90% số lao động có việc làm thường xuyên, đồng thời góp phần quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Ngoài ra, tốc độ tăng trưởng sản xuất của khu vực DNVVN cũng thường cao hơn so với các khu vực doanh nghiệp khác.
Thứ hai: đóng góp phần không nhỏ vào ngân sách nhà nước và tăng thu hút vốn đầu tư.
Thứ ba: là tiền đề tạo ra những doanh nghiệp lớn, đồng thời làm lành mạnh môi trường đầu tư và kinh doanh với những doanh nghiệp thành công, quy mô của các doanh nghiệp sẽ mở rộng và nhiều doanh nghiệp trong số này dần dần trở thành các doanh nghiệp lớn, các tập đoàn kinh tế..
Thứ tư: làm tăng hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Hơn nữa, các DNVVN còn là tiền đề để tạo ra một môi trường văn hóa kinh doanh, tạo ra những nhà kinh doanh giỏi.
Nguồn vốn của DNVVN
Vốn là điều kiện không thể thiếu được để một doanh nghiệp được thành lập và tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Nguồn vốn của doanh nghiệp chia làm hai bộ phận: vốn chủ sở hữu và nợ.
Vốn chủ sở hữu
Vốn chủ sở hữu gồm vốn góp ban đầu, lợi nhuận không chia, tăng vốn bằng phát hành cổ phiếu mới.
ò Vốn góp ban đầu: Khi doanh nghiệp được thành lập bao giờ chủ doanh nghiệp cũng phải có một số vốn ban đầu nhất định do các cổ đông- chủ sở hữu góp. Xét về hình thức sở hữu của doanh nghiệp thì:
Đối với doanh nghiệp nhà nước, vốn góp ban đầu chính là vốn đầu tư của nhà nước. Chủ sở hữu của doanh nghiệp Nhà nước là Nhà nước.
Đối với các doanh nghiệp, theo luật doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp phải có một số vốn ban đầu cần thiết để xin đăng kí thành lập doanh nghiệp.
ò Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia
Nguồn vốn tích lũy từ lợi nhuận không chia là bộ phận lợi nhuận được sử dụng tái đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Tự tài trợ bằng lợi nhuận không chia- nguồn vốn nội bộ là một phương thức tạo nguồn tài chính quan trọng và khá hấp dẫn của các doanh nghiệp, vì doanh nghiệp giảm được chi phí, bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài. Nhiều doanh nghiệp coi trọng chính sách tái đầu tư từ lợi nhuận để lại, nguồn vốn tái đầu tư từ lợi nhuận để lại chỉ có thể thực hiện được nếu như doanh nghiệp đã và đang hoạt động và có lợi nhuận, được phép tiếp tục đầu tư. Nguồn vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ lâu nay chủ yếu dựa vào nguồn vay phi chính thức. Số DN được vay từ nguồn vốn chính thức (ngân hàng) rất hạn chế bởi một phần do bản thân doanh nghiệp và một phần do các định chế từ phía ngân hàng. DNVVN ở Việt Nam có lợi nhuận để lại ít ỏi, nên nguồn vốn chủ sở hữu hình thành từ lợi nhuận không chia rất hạn chế.
ò Phát hành cổ phiếu mới.
Một nguồn tài chính dài hạn rất quan trọng là phát hành cổ phiếu để huy động vốn cho doanh nghiệp. Phát hành cổ phiếu được gọi là hoạt động tài trợ dài hạn của doanh nghiệp. Mặc dù phát hành cổ phiếu có nhiều ưu thế so với các phương thức huy động khác, nhưng cũng có hạn chế mà DNVVN gặp không ít khó khăn. Xuất phát từ cán bộ quản lý, phần đông chưa qua đào tạo, việc lập dự án để chứng minh tính khả thi của cơ hội kinh doanh là điều quá sức.
1.1.4.2 Nguồn vay nợ
Để bổ sung vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có thể sử dụng nợ từ các nguồn: tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại và vay thông qua phát hành trái phiếu.
Vốn tín dụng ngân hàng: Đây là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất, không chỉ đối với sự phát triển của bản thân các doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Ngân hàng đồn vai trò là người cung cấp vốn cho doanh nghiệp từ khi mới thành lập, khi bước vào hoạt động kinh doanh, cung cấp vốn lưu động khi doanh nghiệp có nhu cầu. Trước khi cho vay, ngân hàng luôn phải đòi hỏi người vay hạch toán rõ ràng, minh bạch và định kỳ chuyển cho ngân hàng các tài liệu, báo cáo hoạt động kinh doanh và sử dụng vốn vay.
Vốn tín dụng thương mại: Các DNVVN hầu như không đáp ứng được điều kiện vay vốn của ngân hàng như điều kiện về khả năng tài chính, tính khả thi của dự án hay điều kiện tài sản bảo đảm. Bởi vậy, các DNVVN thường sử dụng phổ biến tín dụng thương mại hay còn được gọi là tín dụng của người cung cấp. Nguồn vốn này được hình thành một cách tự nhiên trong quan hệ mua bán chịu hàng hóa, dịch vụ. Nguồn này có ảnh hưởng trực tiếp to lớn không chỉ với các doanh nghiệp mà còn cả đối với nền kinh tế. Trong một số doanh nghiệp, nguồn vốn này dưới dạng các khoản phải trả có thể chiếm tới 20% tổng vốn, thậm chí có thể chiếm tới 40% tổng vốn.
Ưu điểm của nguồn vốn này là rẻ, tiện dụng và có tính linh hoạt trong kinh doanh. Hơn nữa, nó còn tạo khả năng mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh một cách một cách lâu bền. Tuy vây, cần nhận thức tính chất rủi ro của quan hệ tín dụng thương mại khi quy mô tài trợ quá lớn.
1.1.4.3 Những khó khăn khi DNVVN tiếp cận với nguồn vốn của các NHTM
- Do tránh việc đóng thuế cao nên các DNVVN thường có hai hệ thống kế toán riêng biệt, một là để khai báo đóng thuế, hai là để khai báo doanh thu thực tế. Khi vay vốn các NHTM thường yêu cầu các báo cáo thuế của các doanh nghiệp, vì thế việc tổng hợp báo cáo thường gặp nhiều khó khăn và sai thực tế. Mặt khác, các báo cáo thuế thấp hơn rất nhiều so với thực tế nên các doanh nghiệp khi nộp báo cáo này để vay vốn thường không đáp ứng đủ điều kiện vay vốn của ngân hàng
- Các DNVVN có hệ thống nhân lực trình độ còn thấp, không có ban chuyên trách về luật pháp nên việc đáp ứng các quy trình và thủ tục vay vốn của NHTM thường khó khăn. Điều này gây tâm lí e ngai cho một số doanh nghiệp khi muốn vay vốn của ngân hàng, từ đó các doanh nghiệp thường huy động nguồn vốn từ các tổ chức kinh tế khác.
- Các DNVVN có nguồn vốn kinh doanh thấp, ít tài sản đảm bảo nên việc thế chấp vay vốn gặp nhiều khó khăn do không đáp ứng được các điều kiện vay vốn của ngân hàng.
1.2 Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.2.1 Khái niệm tín dụng ngân hàng
Trong thực tế cuộc sống thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, ngay cả trong quan hệ tài chính tuỳ theo từng bối cảnh cụ thể, mà thuật ngữ tín dụng có một nội dung riêng. Trong quan hệ tài chính tín dụng có thể theo các nghĩa sau:
+ Xét trên góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp chuyển dịch quỹ từ người cho vay sang người đi vay.
+ Trong quan hệ tài chính cụ thể tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở có hoàn trả giữa hai chủ thể.
+ Tín dụng còn có nghĩa là một số tiền cho vay và các định chế tài chính cung cấp cho khách hàng.
Nói tóm lại trên cơ sở tiếp cận theo chức năng hoạt động của ngân hàng thì tín dụng được hiểu như sau:
Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay (ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân doanh nghiệp và các chủ thể khác) trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả về điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
1.2.2 Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
Trong nền kinh tế thị trường sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ là một tất yếu khách quan và cũng như các loại hình doanh nghiệp khác trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp này cũng sử dụng vốn tín dụng ngân hàng để đáp ứng nhu cầu thiếu hụt vốn cũng như để tối ưu hoá hiệu quả sử dụng vốn của mình. Vốn tín dụng ngân hàng đầu tư cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng vai trò rất quan trọng,nó chẳng những thúc đẩy sự phát triển khu vực kinh tế này mà thông qua đó tác động trở lại thúc đẩy hệ thống ngân hàng, đổi mới chính sách tiền tệ hoàn thiện các cơ chế chính sách về tín dụng, thanh toán ngoại hối… Để thấy được vai trò của tín dụng ngân hàng trong việc phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, ta xét một số vai trò sau:
+ Tín dụng ngân hàng góp phần đảm bảo cho hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ được liên tục.
Trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp luôn cần phải cải tiến kỹ thuật thay đổi mẫu mã mặt hàng, đổi mới công nghệ máy móc thiết bị để tồn tại đứng vững và phát triển trong cạnh tranh. Trên thực tế không một doanh nghiệp nào có thể đảm bảo đủ 100% vốn cho nhu cầu sản xuất kinh doanh. Vốn tín dụng của ngân hàng đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm máy móc thiết bị cải tiến phương thức kinh doanh. Từ đó góp phần thúc đẩy tạo điều kiện cho quá trình phát triển sản xuất kinh doanh đựơc liên tục.
+ Tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Khi sử dụng vốn tín dụng ngân hàng các doanh nghiệp phải tôn trọng hợp đồng tín dụng phải đảm bảo hoàn trả cả gốc lẫn lãi đúng hạn và phải tôn trọng các điều khoản của hợp đồng cho dù doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả hay không. Do đó đòi hỏi các doanh nghiệp muốn có vốn tín dụng của ngân hàng phải có phương án sản xuất khả thi. Không chỉ thu hồi đủ vốn mà các doanh nghiệp còn phải tìm cách sử dụng vốn có hiệu quả, tăng nhanh chóng vòng quay vốn, đảm bảo tỷ suất lợi nhuận phải lớn hơn lãi suất ngân hàng thì mới trả được nợ và kinh doanh có lãi. Trong quá trình cho vay ngân hàng thực hiện kiểm soát trước, trong và sau khi giải ngân buộc doanh nghiệp phải sử dụng vốn đúng mục đích và có hiệu quả.
+ Tín dụng ngân hàng góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Trong nền kinh tế thị trường hiếm doanh nghiệp nào dùng vốn tự có để sản xuất kinh doanh. Nguồn vốn vay chính là công cụ đòn bẩy để doanh nghiệp tối ưu hoá hiệu quả sử dụng vốn. Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ do hạn chế về vốn nên việc sử dụng vốn tự có để sản xuất là khó khăn vì vốn hạn hẹp vì nếu sử dụng thì giá vốn sẽ cao và sản phẩm khó được thị trường chấp nhận. Để hiệu quả thì doanh nghiệp phải có một cơ cấu vốn tối ưu, kết cấu hợp lý nhất là nguồn vốn tự có và vốn vay nhằm tối đa hoá lợi nhuận tại mức giá vốn bình quân rẻ nhất.
+ Tín dụng ngân hàng góp phần tập trung vốn sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ .
Cạnh tranh là một quy luật tất yếu của nền kinh tế thị trường, muốn tồn tại và đứng vững thì đòi hỏi các doanh nghiệp phải chiến thắng trong cạnh tranh. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, do có một số hạn chế nhất định, việc chiếm lĩnh ưu thế trong cạnh tranh trước các doanh nghiệp lớn trong nước và nước ngoài là một vấn đề khó khăn. Xu hướng hiện nay của các doanh nghiệp này là tăng cường liên doanh, liên kết, tập trung vốn đầu tư và mở rộng sản xuất, trang bị kỹ thuật hiện đại để tăng sức cạnh tranh. Tuy nhiên để có một lượng vốn đủ lớn đầu tư cho sự phát triển trong khi vốn tự có lại hạn hẹp, khả năng tích luỹ thấp thì phải mất nhiều năm mới thực hiện được. Và khi đó cơ hội đầu tư phát triển không còn nữa. Như vậy có thể đáp úng kịp thời, các doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ có thể tìm đến tín dụng ngân hàng. Chỉ có tín dụng ngân hàng mới có thể giúp doanh nghiệp thưc hiện được mục đích của mình là mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh.
1.3 Hiệu quả của tín dụng
1.3.1 Khái niệm
Hiệu quả tín dụng là một trong những biểu hiện của hiệu quả kinh tế trong lĩnh vực ngân hàng, nó phản ánh chất lượng của các hoạt động tín dụng ngân hàng. Đó là khả năng cung ứng tín dụng phù hợp với yêu cầu phát triển của các mục tiêu kinh tế xã hội và nhu cầu của khách hàng đảm bảo nguyên tắc hoà trả nợ vay đúng hạn, mang lại lợi nhuận cho ngân hàng thương mại từ nguồn tích luỹ do đầu tư tín dụng và do đạt được các mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Trên cơ sở đó đảm bảo sự tồn tại và phát triển bền vững của ngân hàng.
Vì vậy, hiệu quả tín dụng là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh khả năng thích nghi của tín dụng ngân hàng với sự thay đổi của các nhân tố chủ quan (khả năng quản lý, trình độ của cán bộ quản lý ngân hàng …) khách quan mức độ an toàn vốn tín dụng ,lợi nhuận của khách hàng , sự phát triển kinh tế xã hội …). Do đó hiệu quả tín dụng là kết quả của mối quan hệ biện chứng giữa ngân hàng – khách hàng vay vốn-nền kinh tế xã hội, cho nên khi đánh giá hiệu quả tín dụng cần phải xem xét cả ba phía ngân hàng, khách hàng và nền kinh tế.
1.3.2 Các tiêu thức đánh giá hiệu quả tín dụng
1.3.2.1 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tín dụng về phía ngân hàng
Để đánh giá hiệu quả tín dụng trong nội bộ ngân hàng thương mại , người ta sử dụng “Hệ số chênh lệch lãi ròng” (NIM=Net Interest Margin) là tỷ số giữa thu nhập lãi ròng với số tài sản có hoặc tài sản sinh lợi.
Hệ số chênh lệch lãi ròng (%)
=
Thu nhập lãi ròng
x 100
Tài sản sinh lời
Công thức trên đã chỉ rõ các tiêu thức chủ yếu liên quan trực tiếp đến khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng là thu nhập lãi ròng và tài sản sinh lời. Trong đó nhân tố thu nhập lãi ròng của tài sản sinh lời giữ vai trò trọng yếu .
Thêm vào đó, để đánh giá đầy đủ hiệu quả tín dụng trong năm tài chính, người ta còn tính đến hệ số:
Giá trị tín dụng tổn thất thực tế
x 100
Tài sản sinh lời
Tóm lại, khả năng sinh lợi của các khoản cho vay và đầu tư phụ thuộc vào chi phí của các khoản cho vay, đầu tư, tổn thất tín dụng và lãi suất ngân hàng áp dụng .
Ngoài các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tín dụng ở năm tài chính nói trên người ta còn sử dụng đến một số chỉ tiêu khác khi xem xét mặt hoạt động này trong một quá trình nhiều năm đến thời điểm nghiên cứu, cụ thể là:
Phân tích tình hình nợ quá hạn để biết thêm chất lượng tín dụng, khả năng rủi ro, hiệu quả kinh doanh của các tổ chức tín dụng, từ đó có biện pháp khắc phục trong tương lai.
Tỷ lệ nợ quá hạn (%)
=
Nợ quá hạn
x 100
Tổng dư nợ
Tỷ lệ nợ khó đòi (%)
=
Nợ khó đòi
x 100
Tổng dư nợ
Tỷ lệ nợ tổn thất (%)
=
Nợ được xếp loại tổn thất
x 100
Tổng dư nợ
Tỷ lệ quỹ dự phòng rủi ro với nợ được xếp loại tổn thất (%)
=
Quỹ dự phòng rủi ro
x 100
Nợ được xếp loại tổn thất
Nợ được xếp loại tổn thất = Nợ xoá từ chủ trương của Chính phủ
Trên đây là những chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tín dụng ngân hàng về phía ngân hàng. Hiệu quả do hoạt động tín dụng mang lại phải bù đắp chi phí cho vay, rủi ro trong tín dụng, có lợi nhuận không chỉ đảm bảo đời sống cho cán bộ công nhân viên, không ngừng tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật, phương tiện, làm việc phục vụ khách hàng theo hướng ngày càng hiện đại, làm tròn nghĩa vụ với Nhà nước mà còn có tích luỹ để tăng vốn tự có.
1.3.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá tín dụng về mặt xã hội
Về khía cạnh kinh tế xã hội trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, hiệu quả tín dụng ngân hàng thường được đánh giá thông qua các chỉ tiêu chủ yếu như: kết quả thực hiện tổng sản phẩm trong nước (GDP) theo giá cố định, giá hiện hành phân theo ngành kinh tế …; kết quả đạt được về diện tích, năng suất, sản lượng nông – lâm- ngư –diêm nghiệp đối với từng loại cây trồng, vật nuôi, loại thuỷ, hải sản đánh bắt …; giá trị tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp và xây dựng tại nông thôn… Những chỉ tiêu này được tính hằng năm hoặc trong một gia đoạn nhất định tuỳ theo mục đích nghiên cứu. Mỗi chỉ tiêu có một ý nghĩa nhất định: từ việc phản ánh sự tăng trưởng của nền kinh tế đến mức độ phát triển của các nghành nông –lâm – ngư – diêm nghiệp, công nghiệp và xây dựng cùng khả năng đáp ứng cho nhu cầu sản xuất, tiêu dùng và tạo việc làm ở khu vực nông nghiệp, nông thôn.
Thêm vào đó cần phải xem xét mức độ tập trung, bố trí vốn tín dụng ngân hàng cho các chương trình phát triển kinh tế có hiệu quả, theo đường lối chiến lược kinh tế của Đảng và Nhà nước trong từng thời kỳ, góp phần tích cực khai thác mọi nguồn lực, tăng cường giải quyết công ăn việc làm, giảm thời gian nông nhàn, ngăn chặn và đẩy lùi tệ nạn xã hội ở nông thôn.
1.3.2.3 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tín dụng đối với khách hàng
Để đánh giá hiệu quả tín dụng ngân hàng đối với khách hàng, người ta thường sử dụng những chỉ tiêu phản ánh về lợi nhuận, hiệu quả vốn, sử dụng lao động…của khách hàng cụ thể là:
+ Về các chỉ tiêu lợi nhuận:
Hệ số lợi nhuận (%)
=
Lợi nhuận thu được
x 100
Doanh thu
Tỷ suất lợi nhuận (%)
=
Lợi nhuận thu được
x 100
Tổng chi phí sản xuất
Tỷ suất doanh lợi (%)
=
Lợi nhuận thu được
x 100
Vốn sản xuất
Vốn sản xuất = vốn cố định + vốn lưu động
+ Về các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn:
Hiệu quả sử dụng vốn cố định
=
Tổng thu nhập
Vốn cố định
Hiệu quả sử dụng vốn lưu đồng
=
Tổng thu nhập
Vốn lưu động
+ Về các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng lao đông:
Năng suất lao động
=
Giá trị thực tế tổng giá trị hàng hoá
Số lao động bình quân
Hiệu quả sử dụng lao động
=
Tổng thu nhập
Số lao động bình quân
Vì vậy về phía khách hàng, hiệu quả sử dụng thể hiện ở sự thành đạt qua quá trình sử dụng vốn vay để tổ chức thực hiên các phương án, dự án sản xuất, kinh doanh đã thoả thuận với ngân hàng khi đến quan hệ vay vốn.
1.3.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tín dụng.
1.3.3.1 Đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước
Đường lối, chủ trương, chính sách của đảng, pháp luật của nhà nước, nhất là đường lối phát triển kinh tế đúng đắn sẽ giải phóng lực lượng sản xuất, sử dụng tốt hơn các nguồn lực của đất nước, tranh thủ được nguồn vốn khoa học, kỹ thuật… tất cả điều đó đã tạo thuận lợi nâng cao chất lượng và hiệu quả tín dụng ngân hàng.
1.3.3.2 Hiệu quả sản xuất, kinh doanh của khách hàng vay vốn
Một trong 2 nguyên tắc vay vốn là sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng, điều này khẳng định việc sử dụng vốn vay đúng mục đích có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình hoạt động tín dụng. Rõ ràng hạn chế những rủi ro trong sản xuất. Kinh doanh đồng nghĩa với việc hạn chế rủi ro trong tín dụng, góp phần nâng cao hiệu quả tín dụng.
1.3.3.3 Hiệu quả tín dụng ngân hàng phụ thuộc vào thông tin về khách hàng vay vốn và về khoản vay
+ Quyết định cho vay phải dựa trên thông tin về khách hàng vay vốn.Thẩm định uy tín khách hàng vay vốn là yêu cầu trước tiên và quan trọng nhất trong quan hệ tín dụng.
+ Quyết định cho vay phải dựa trên những thông tin về khoản vay. Bên cạnh những thông tin thu thập từ Ngân Hàng Nhà Nước. Thì các Ngân hàng thương mại phải xem xét bảng cân đối tài khoản nhưng không chỉ dừng lại ở các con số mà còn đưa ra nhiều nhận xét. Đánh giá đối chiếu những giữ liệu liên quan tác động lẫn nhau trong quá khứ, hiện tại, tương lai của khách hàng
1.3.3.4 Tài sản đảm bảo tiền vay phải có tính khả thi cao
Việc đặt ra vấn thế chấp tài sản đối với khoản vay một phần để hạn chế có hiệu quả hiện tượng khách hàng vay ngân hàng lại mang những tài sản này thanh toán cho những tổ chức tín dụng khác. Chính vì vậy đòi hỏi tài sản đảm bảo tiền vay không chỉ có giá trị mà bản thân nó dễ trở thành hàng hoá trên thị trường với giá trị mới thu về sau khi phát mãi phải lớn hơn giá trị khoản vay.
1.3.3.5 Ngân hàng phải được độc lập trong quyết định cho vay và hoàn toàn chịu trách nhiệm về quyết định này
Tuyệt đại bộ phận nguồn vốn cho vay đều xuất phát từ nguồn vố huy động của các thành phần kinh tế và tầng lớp dân cư, do vậy ngân hàng phải có trách nhiệm hoàn trả đầy đủ, đúng hạn chính xác lãi và vốn cho khách hàng gữi tiền. Sự độc lập trong các quyết định cho vay của ngân hàng trong phạm vi điều chỉnh của pháp luật sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho những khoản vay đó phát huy tác dụng tích cực. Mang lại hiệu quả kinh tế – xã hội thiết thực và khi ấy thực tiễn và đạo lý ngân hàng mới chịu trách nhiệm hoàn toàn về các quyết định của mình.
1.3.3.6 Mở rộng quy mô tín dụng gắn liền với nâng cao chất lượng và hiệu quả tín dụng
Ngân hàng thưong mại hoạt động kinh doanh theo phương châm “ Đi vay để cho vay”. Do đó chúng không thể tồn tại và phát triển nếu định hướng kinh doanh, cho vay của nó theo hình thức mạo hiểm, rủi ro.
Các nhân tố ảnh hưởng hiệu quả tín dụng ngày càng được bổ sung để theo kịp những biến đổi của nền kinh tế, đặc biệt là quá trình phát triển của công tác tín dụng. Mặc dù chúng chưa được hoàn hảo, song nếu không được tôn trọng thực hiện nghiêm túc sẽ là một tai hoạ cho hiệu qủa tín dụng và hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ TÍN DỤNG ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI NGÂN HÀNG NHNo&PTNT CHI NHÁNH CẦU GIẤY HÀ NỘI
2.1 Khái quát về NHNo&PTNT Cầu Giấy
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của chi nhánh NHNo & PTNT Cầu Giấy
Quận Cầu Giấy - một trong những quận được hình thành từ khá sớm của Thủ đô Hà Nội, và là đầu mối giao thông quan trọng phía Tây thành phố với lưu lượng hàng hóa giao thương rất lớn. Là nơi tập trung rất nhiều trường đại học, cơ quan nhà nước, nhiều khu dân cư tập trung, hiện đại đã và đang được xây dựng, cùng một số lượng lớn các công ty mới hình thành đặt trụ sở làm việc và kinh doanh trên địa bàn.
Với những điều kiện thuận lợi về mặt vị trí địa lý - kinh tế - xã hội, năm 1997 chi nhánh Agribank Cầu Giấy đã được thành lập, tách ra từ chi nhánh Agribank huyện Từ Liêm, Hà Nội chuyển đổi thành chi nhánh cấp 2 trực thuộc Agribank Hà Nội.
Từ những ngày đầu mới thành lập, dù còn bao khó khăn, thiếu thốn về nhân lực và cơ sở vật chất nhưng ban lãnh đạo và cán bộ công nhân viên của chi nhánh vẫn hết sức nỗ lực để đạt được những kết quả tốt nhất, đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển chung của hệ thống ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn. Đến năm 2004, một trụ sở mới khá khang trang, bề thế với đầy đủ trang thiết bị đã được xây dựng tại số 99 đường Trần Đăng Ninh, tạo điều kiện mở rộng thêm hoạt động của chi nhánh, tạo đà cho những bước phát triển của chi nhánh nói riêng cũng như toàn bộ hệ thống Agribank nói chung sau này.
Ngày 12/1/2006, Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã ra quyết định số 35, nâng cấp Agribank Cầu Giấy từ chi nhánh cấp 2 thành chi nhánh cấp 1, trực thuộc NHNN&PTNT Việt Nam.
Trên cơ sở đó, ngày 13/1/2006, chủ tịch hội đồng quản trị NHNN&PTNTVN đã ra quyết định số 28, chính thức thành lập chi nhánh cấp I-chi nhánh Agribank Cầu Giấy. Chi nhánh đã tổ chức lễ khai trương và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 20/3/2006.
Tại thời điểm bắt đầu chuyển đổi lên chi nhánh cấp I, chi nhánh chỉ có 31 nhân viên và 4 Phòng giao dịch trực thuộc. Đến cuối năm, chi nhánh đã có 100 nhân viên và 10 Phòng giao dịch trực thuộc. Trong các năm hoạt động, đặc biệt là từ khi chuyển đổi thành chi nhánh cấp I, Agribank Cầu Giấy đều đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận trong hoạt động kinh doanh.
2.1.2 Cơ cấu tổ chức của NHNo&PTNT Cầu Giấy
Để thực hiện tốt nhiệm vụ mà ngân hàng Trung Ương giao phó, theo tiến trình đi lên của Đảng và nhà nước, qua các thời kỳ đổi mới, hoàn thiện sao cho phù hợp tình hình mới. Đến nay, cơ cấu tổ chức của chi nhánh Agribank Cầu Giấy được thể hiện như sau:
Đứng đầu chi nhánh là: chức danh Giám đốc, có nhiệm vụ điều hành hoạt động kinh doanh hàng ngày của chi nhánh theo chỉ đạo từ ban lãnh đạo Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Chức danh phó Giám đốc chi nhánh có nhiệm vụ hỗ trợ, và thực hiện các công việc theo chỉ đạo trực tiếp từ Giám đốc chi nhánh (ở chi nhánh NHNo&PTNT Cầu Giấy có 3 phó Giám đốc). Ngoài ra là 1 kế toán trưởng và đội ngũ cán bộ, nhân viên làm việc tại các phòng ban như: Phòng kế toán ngân quỹ, phòng tín dụng, phòng thanh toán quốc tế, phòng hành chính, phòng kế hoạch, tổ kiểm soát, tổ tiếp thị, tổ thẻ.
Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức của chi nhánh Agribank Cầu Giấy
Giám Đốc chi nhánh
Phó Giám đốc chi nhánh
(3 Phó giám đốc)
Phòng
Kế toán ngân quỹ
Phòng
tín dụng
Phòng thanh toán
quốc tế
Phòng hành chính
Phòng kế hoạch
Tổ kiểm soát
Tổ tiếp thị
Tổ thẻ
2.1.3 Các hoạt động chính của chi nhánh NHNo&PTNT Cầu Giấy
- Huy động vốn từ các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước thông qua việc nhận tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi thanh toán và phát hành kỳ phiếu với mức lãi suất linh hoạt, hấp dẫn.
- Cho vay các tổ chức doanh nghiệp, cá nhân và hộ gia đình với mức lãi suất thỏa thuận và các loại hình cho vay đa dạng như cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn, cho vay thế chấp, tín chấp, cho vay tiêu dùng, …
- Thực hiện các nghiệp vụ thanh toán quốc tế, thanh toán biên mậu với các phương thức chuyển tiền, nhờ thu, tín dụng chứng từ… qua mạng SWIFT đảm bảo nhanh chóng, an toàn, thuận tiện.
- Thực hiện các nghiệp vụ chuyển tiền phi thương mại trong và ngoài nước với dịch vụ chi trả kiều hối, chuyển tiền qua Weston Union,…
- Tham gia tài trợ chính, hoặc phối kết hợp với các tổ chức kinh tế - xã hội và các tổ chức tài chính khác với tư cách là ngân hàng đầu mối hoặc ngân hàng thành viên cho vay vốn đối với các chương trình, các dự án lớn với thủ tục thuận lợi nhất, thời gian nhanh nhất.
- Mua bán giao ngay các loại ngoại tệ theo tỷ giá hiện hành trên thị trường.
- Nhận thanh toán các loại thẻ thanh toán quốc tế do các hãng Visa, Master Card phát hành.
- Phát hành thẻ thanh toán và thực hiện dịch vụ rút tiền tự động ATM 24/24.
- Thực hiện một số dịch vụ khác của ngân hàng thương mại.
2.2 Kết quả hoạt động kinh doanh
Với tinh thần trách nhiệm cộng với sự phấn đấu đầy tích cực và một tư duy sáng tạo, nhạy bén của đội ngũ cán bộ, anh chị em trong chi nhánh cùng với sự giúp đỡ, định hướng hết sức đúng đắn từ phía ban lãnh đạo Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn trong thời gian qua đã đem lại nhiều thành tích rất đáng tự hào.
2.2.1 Chỉ tiêu huy động vốn
Công tác nguồn vốn được đặc biệt coi trọng, trong thời gian đầu chú trọng khai thác các nguồn vốn từ các tổ chức kinh tế như: Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm tiền gửi, Quỹ hỗ trợ phát triển, các tổ chức tín dụng…, nhằm tạo lập tiền đề ban đầu về nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh, song cũng quan tâm một cách đúng mức đến việc khai thác các nguồn vốn trong dân cư. Thông qua việc tiếp thị, triển khai dịch vụ thanh toán, ngân quỹ, xử lý lãi xuất, tác phong giao dịch, đa dạng và các hình thức huy động vốn.
Bảng 1.2 Chỉ tiêu huy động vốn
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
2007
2008
2008/2007
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
(+/-)
%
Tổng nguồn vốn
1.001
100
1.881
100
+880
+87,9
Nội tệ
786
78,5
1.564
83,1
+778
+98,9
Ngoại tệ
215
21,5
317
16,9
+102
+47,4
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2007 & 2008)
Qua bảng số liệu có thể nhận thấy công tác huy động vốn của chi nhánh phát triển khá tốt. Cụ thẻ năm 2008 tổng nguồn vốn huy động đạt 1.881 tỷ đồng, tăng 880 tỷ đồng ( tương đương với 87,9%) so với năm 2007. Trong đó có thể thấy nguồn vốn huy động chủ yếu là từ đồng nội tệ, năm 2008 nguồn vốn huy động bằng nội tệ đạt 1.564 tỷ đồng, chiềm tỷ trọng 83,1% so với tổng nguồn vốn và tăng 778 tỷ đồng (+98,9%) so với năm 2007. Mặt khác thì nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ lại chiếm tỷ lệ khá khiêm tốn, năm 2008 vốn huy động bằng ngoại tệ quy ra VNĐ là 317 tỷ đồng, tăng 102 tỷ đồng (+47,4%) so với năm 2007.
2.2.2 Chỉ tiêu dư nợ
Chỉ tiêu dư nợ là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất đối với NHTM, thông thường chỉ tiêu dư nợ càng lớn thì chứng tỏ hoạt động của ngân hàng càng tốt. Sau đây là bảng 2.2 phản ánh chỉ tiêu dư nợ của chi nhánh trong 2 năm 2007 và 2008:
Bảng 2.2 Chỉ tiêu dư nợ phân theo tiền tệ và kỳ hạn
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2007
Năm 2008,
2008/2007
Số tiền
TT
(%)
Số tiền
TT
(%)
(+/-)
%
Tổng dư nợ
945.740
100
1.128.619
100
+182.879
+19,3
Phân theo loại tiền tệ
Nội tệ
785.870
83
837.168
74,2
+51.298
+6,5
Ngoại tệ
159.870
17
291.451
25,8
+131.581
+82,3
Phân theo kỳ hạn
- Ngắn hạn
530.230
56
682.170
60,4
+151.949
+28,6
- Trung hạn
280.686
29,7
336.490
29,9
+55.804
+19,9
- Dài hạn
134.824
14,3
109.959
9,7
-24.865
-18,4
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2007 & 2008)
Nhìn vào bảng số liệu có thể nhận thấy, tổng dư nợ của chi nhánh năm 2008 là 1.128.619 triệu đồng, tăng 182.879 triệu đồng (+19,3%) so với năm 2007. Đây là một con số khá khả quan vì năm 2008 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu nên việc kinh doanh của các doanh nghiệp thường rất khó khăn.
Phân loại chỉ tiêu dư nợ theo tiền tệ, năm 2008 dư nợ bằng nội tệ đạt 837.168 triệu đồng, tương đương với 74,2% tổng dư nợ và tăng so với năm 2007 là 51.298 triệu đồng (+6,5%). Dư nợ ngoại tệ năm 2008 đạt 291.451 triệu đồng, tăng 131.518 triệu đồng, đây là một con số khá đáng mừng với chỉ tiêu dư nợ ngoại tệ vì so với năm 2007 tỷ trọng dư nợ ngoại tệ là 17% thì sang năm 2008 nó đã tăng cao hơn và chiếm 25,8%.
Phân loại chỉ tiêu dư nợ theo kỳ hạn, qua bảng số liệu có thể nhận thấy chỉ tiêu dư nợ quá hạn thường chiếm tỷ trọng khá cao so với trung hạn và dài hạn. Năm 2008 chỉ tiêu dư nợ ngắn hạn là 682.170 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 60,4% so với tổng dư nợ và tăng so với năm 2007 là 151.949 triệu đồng (+28,6%).
Trong khi đó chỉ tiêu dư nợ trung hạn năm 2008 cũng có dấu hiệu khả quan khi đạt 336.490 triệu đồng tăng 55.804 triệu đồng so với năm 2007 (+19,95), ngược lại dư nợ dài hạn có dấu hiệu giảm dần khi mà năm 2008 dư nợ dài hạn đạt 109.959 triệu đồng, giảm so với năm 2007 là 24.865 triệu đồng, tương đương với 18,4%.
2.2.3 Chỉ tiêu cho vay, thu nợ, dư nợ
Đây là ba chỉ tiêu chính để đánh giá hoạt động tín dụng của NHTM có hiệu quả không. Đặc điểm chung của ba chỉ tiêu này là càng lớn càng tốt, tuy nhiên cả ba chỉ tiêu này đều phải phụ thuộc vào nhau trong quá trình đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng.
Bảng 3.2 Một số chỉ tiêu tài chính khác
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2007
Năm 2008
So sánh 2008/2007
(+/-)
(%)
Cho vay
964.590
1.070.819
+106.229
+11
Thu nợ
707.010
887.940
+180.930
+25.6
Dư nợ
945.740
1.128.619
+182.879
+19.3
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2007 & 2008)
Qua bảng trên có thể nhận thấy tình hình hoạt động tín dụng của chi nhánh hoạt động khá tốt khi cả 3 chỉ tiêu tăng một cách đồng đều và không có khoảng cách chênh lệch lớn giữa 3 chỉ tiêu với nhau. Điều đó được cụ thể như sau:
Chỉ tiêu cho vay năm 2008 là 1.070.819 triệu đồng, tăng 106.229 triệu đồng (+11%) so với năm 2007.
Chỉ tiêu thu nợ năm 2008 là 887.940 triệu đồng, tăng 707.010 triệu đồng (+25,6%) so với năm 2007.
Chỉ tiêu dư nợ năm 2008 là 1.128.519 triệu đồng, tăng 182.879 triệu đồng (+19,3%) so với năm 2007.
2.3 Chỉ tiêu chất lượng tín dụng đối với DNVVN tại NHNo Cầu Giấy – Hà Nội
2.3.1 Chỉ tiêu cho vay, thu nợ, dư nợ đối với DNVVN
Bảng 4.2 Các chỉ tiêu cho vay, thu nợ, dư nợ
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2007
Năm 2008
Tăng, giảm so 2007
Số tiền
Tỷ lệ(%)
DS cho vay
771.932
910.819
+138.887
+18
DS thu nợ
636.367
787.000
+150.633
+23,67
Dư nợ
776.932
920.619
+143.687
+18,49
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2007 & 2008)
Qua bảng số liệu nhận thấy, cũng giống như toàn chi nhánh, công tác tín dụng đối với khách hàng là DNVVN của chi nhánh cũng được quan tâm một cách rất chu đáo khi cả ba chỉ tiêu thu nợ, dư nợ và cho vay tăng trưởng khá đồng đều.
Chỉ tiêu cho vay năm 2008 là 910.819 triệu đồng, tăng 138.887 triệu đồng (+18%) so với năm 2007.
Chỉ tiêu thu nợ năm 2008 là 787.000 triệu đồng, tăng 150.633 triệu đồng (+23,67%) so với năm 2007.
Chỉ tiêu dư nợ năm 2008 là 920.619 triệu đồng, tăng 143.687 triệu đồng (+18,49%) so với năm 2007
2.3.2 Chỉ tiêu dư nợ theo kỳ hạn đối với DNVVN
Bảng 5.2 Chỉ tiêu dư nợ theo kỳ hạn đối với DNVVN
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
2007
2008
2008/2007
ST
TT
ST
TT
(+/-)
%
Tổng dư nợ
776.932
100
920.619
100
+143.687
+18,49
Ngắn hạn
526.452
67,8
612.866
66,5
+86.414
+16,4
Trung hạn
212.262
27,3
287.968
31,4
+76.706
+35,7
Dài hạn
38.218
4,9
19.785
2,1
-18.433
-48,2
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2007 & 2008)
Qua bảng số liệu thì ta có thể nhận thấy dư nợ ngắn hạn chiếm tỷ trọng cao hơn và có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn so với dư nợ trung và dài hạn. Năm 2008 dư nợ ngắn hạn tăng 86.414 triệu đồng (+16.4%) so với năm 2007 còn đối với dư nợ trung hạn tăng 76.706 triệu đồng (+35,7%), nhưng dư nợ dài hạn lại có xu hướng giảm khi năm 2008 dư nợ dài hạn là 19.785 triệu đồng, giảm 18.433 triệu đồng (-48,2%) so với năm 2007. Điều này chứng tỏ đối với khách hàng là doanh nghiệp vừa và nhỏ thì chi nhánh chỉ tập trung chủ yếu vào cho vay ngắn hạn và trung hạn, đây cũng là một hướng đi rất đúng đắn vì các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường vay với số tiền không lớn và các tài sản đảm bảo cũng như nguồn vốn của loại hình doanh nghiệp này thường không ổn định như là các doanh nghiệp lớn nên việc cho vay dài hạn là khá nguy hiểm.
2.3.3 Chỉ tiêu nợ xấu
Việc thống kê nợ xấu định kỳ giúp ngân hàng hạn chế được rất nhiểu rủi ro phát sinh trong các họat động tín dụng. Ngoài ra nó còn giúp ngân hàng có thể chủ động hơn trong quá trình hạn chế và phát hiện các nhóm nợ “có vấn đề” để giải quyết kịp thời để tránh những rủi ro có thể gây tổn thất cho ngân hàng.
Bảng 6.2 Chỉ tiêu nợ xấu
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
2007
2008
Chi nhánh
DNVVN
Chi nhánh
DNVVN
Tổng dư nợ
945.740
776.932
1.128.619
920.619
Nợ xấu
9.165
5.663
10.383
7.882
Tỷ lệ nợ xấu
0,96
0,73
0,92
0,86
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2007 & 2008)
Qua bảng số liệu nhận thấy tình hình nợ xấu trong hai năm 2007 và 2008 của chi nhánh có nhiều dấu hiệu khá khả quan khi tỷ trọng nợ xấu của chi nhánh chỉ chiếm khoảng ~1% và giảm qua các năm. Tỷ trọng nợ xấu năm 2008 chiếm 0,92% trên tổng dư nợ, giảm 0,04% so với năm 2007.
Nợ xấu đối với khách hàng là DNVVN có tỷ trọng ít hơn so với nợ xấu của toàn chi nhánh. Tuy nhiên năm 2008 tỷ trọng nợ xấu đối với khách hàng là DNVVN lại tăng so với năm 2007, cụ thể năm 2008 tỷ trọng nợ xấu là 0,86% trong khi năm 2007 chỉ là 0,73%.
Phòng chống và hạn chế nợ xấu là một hoạt động rất quan trọng trong quá trình nâng cao chất lượng tín dụng của NHTM. Chính vì thế trong thời gian tới chi nhánh cần quan tâm hơn đến hoạt động này để tỷ lệ nợ xấu của chi nhánh ngày càng giảm dần.
2.3.4 Chỉ tiêu nợ quá hạn
Trong hoạt động tín dụng của NHTM, nợ quá hạn là một hiện tượng tất yếu và không thể tránh khỏi. Các NHTM chỉ có thể hạn chế chứ không thể loại bỏ hoàn tòan được loại nợ này. Ở các nước phát triển, một NHTM hoạt động tốt khi nó duy trì được tỷ lệ nợ quá hạn chỉ từ 1-2%
Dưới đây là bảng số liệu phản ánh tình hình nợ quá hạn của chi nhánh trong hai năm 2007 và 2008.
Bảng 7.2 Tình hình nợ quá hạn của khách hàng là DNVVN
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
2007
2008
2008/2007
Số tiền
TT
(%)
Số tiền
TT
(%)
(+/-)
%
Tổng dư nợ
776.932
100
920.619
100
+138.887
+18
Nợ quá hạn
6.370
0,82
9.022
0,98
2.652
+41,6
(Nguồn: Sao kê nợ quá hạn năm 2007-2008. NHNo&PTNT Cầu Giấy)
Qua bảng số liệu ta thấy tỷ lệ nợ quá hạn của chi nhánh trong hai năm 2007 và 2008 luôn được duy trì ở mức <1% so với tổng dư nợ và không có hiện tượng gì bất thường. Tuy nhiên sang năm 2008 tỷ lệ nợ quá hạn là 9.022 triệu đồng (0,98%) vẫn còn cao hơn năm 2007 là 6.370 triệu đồng (0,82%).
Chính vì thế chi nhánh cần quan tâm hơn tới công tác phòng trừ và giảm thiểu tình trạng nợ xấu và nợ quá hạn để sang tới năm 2009 hai chỉ tiêu này có thể giảm tới mức tối thiểu nhất.
2.3.5 Số lượng khách hàng là các doanh nghiệp có quan hệ tín dụng với ngân hàng
Số lượng khách hàng có quan hệ tín dụng với ngân hàng phản ánh được niềm tin của khách hàng là doanh nghiệp đối với ngân hàng. Số lượng này càng cao thì càng tốt, ngân hàng luôn có những chính sách, biện pháp ưu tiên với các khách hàng truyền thống và ngày càng cố gắng mở rộng quan hệ với nhiều khách hàng tiềm năng.
Tuy nhiên việc mở rộng quan hệ tín dụng với nhiều doanh nghiệp là một việc khá khó khăn. Ngoài việc phải cạnh tranh với các NHTM khác cùng hoạt động trên địa bàn thì việc sàng lọc, đánh giá khách hàng cũng là một việc khiến các NHTM phải “đau đầu”.
Bảng 8.2 Tình hình biến động số lượng khách hàng là DNVVN
Đơn vị: Doanh nghiệp
2008/2007
2008
2007
Chỉ tiêu
%
(+/-)
Số lượng
Số lượng
+14,5
+10
79
69
Tổng số
-2,2
-2
7
9
DNNN
+20
+12
72
60
DNNQD
(Nguồn: Báo cáo cho vay doanh nghiệp theo thành phần kinh tế. NHNo&PTNT Cầu Giấy)
Bảng số liệu trên thể hiện được số lượng khách hàng là doanh nghiệp của chi nhánh trong 2 năm 2007 và 2008. Nhận thấy tổng số doanh nghiệp có quan hệ tín dụng với khách hàng năm 2008 là 79 doanh nghiệp, tăng 10 doanh nghiệp so với năm 2006. Trong đó khách hàng là các DNNQD chiếm tỷ trong khá cao, năm 2008 là 72 trên tổng số 79 doanh nghiệp, tăng 12 doanh nghiệp so với năm 2007. Nhưng ngược lại, số lượng khách hàng là các DNNN còn quá ít, hơn nữa sang năm 2008 lại còn có dấu hiệu suy giảm khi chỉ có 7 doanh nghiệp vẫn còn duy trì quan hệ tín dụng với chi nhánh, giảm 2 doanh nghiệp so với năm 2007. Điều này cho thấy mặc dù chỉ chiếm số lượng nhỏ nhưng Chi nhánh vẫn phải quan tâm nhiều hơn nữa tới đối tượng khách hàng là doanh nghiệp nhà nước.
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DNVVN TẠI NHNo CHI NHÁNH CẦU GIẤY HÀ NỘI
Đánh giá về chất lượng tín dụng đối với DNVVN tại NHNo chi nhánh Cầu Giấy – Hà Nội:
Kết quả đạt được:
Trong những năm qua, với phương châm lấy hiệu quả kinh tế lên hàng đầu, Chi nhánh đã hướng đầu tư vào những ngành, những lĩnh vực có tiềm năng, có khả năng sinh lời và ưu tiên cho những dự án đầu tư theo chiều sâu, tránh hiện tượng đầu tư tràn lan, không hiệu quả. Chi nhánh đã có nhiều cố gắng trong công tác thông tin tiếp thị, thực hiện chính sách khoa học, tăng khả năng cạnh tranh với NHTM khác trên địa bàn tạo tiền đề quan trọng cho việc nâng cao chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp này.
Ban lãnh đạo Chi nhánh thường xuyên cùng phòng kinh doanh bám sát khách hàng, bám sát địa bàn bằng cách trực tiếp đi khảo sát, nắm bắt tình hình sản xuất kinh doanh và tài chính của các đơn vị, kịp thời giải quyết vướng mắc phát sinh trong quan hệ tín dụng. Từ những thông tin thu thập được trong các chuyến đi khảo sát, nguồn thông tin khác; Chi nhánh tiến hành phân loại khách hàng có định hướng đầu tư đúng đắn, mở rộng cho vay có hiệu quả.
Chi nhánh đã chỉ đạo được sát sao những biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ:
+ Các khoản cho vay mới, đảm bảo đụng quy trình, đúng chế độ. Trước đây, quy trình nghiệp vụ tín dụng chưa hoàn chỉnh và chưa xác định rõ trách nhiệm trong từng khâu công việc. Và hiện nay, được thực hiện theo từng bước trong quy chế cho vay của NHNo&PTNTVN, trong đó nêu rõ trách nhiệm của cán bộ tín dụng, trưởng phòng kinh doanh, giám đốc sở đối với mỗi khoản vay.
+ Công tác thẩm định tín dụng thực sự trở thành căn cứ cho quyết định cho vay, loại trừ hầu hết phương án sử dụng vốn kém hiệu quả, đảm bảo an toàn vốn. Tỉ lệ nợ quá hạn trong giới hạn cho phép.
+ Quá trình thẩm định và theo dõi từng khoản tín dụng sau khi giải ngân được giao cho một cán bộ chịu trách nhiệm chính. Sự phân công đó đòi hỏi cán bộ tín dụng nâng cao trách nhiệm cá nhân và năng lực nghiệp vụ, các khoản vay sẽ được giám sát, đánh giá hiệu quả thường xuyên qua thông tin phản hồi của người phụ trách, thể hiện tính chuyên sâu của nghiệp vụ tín dụng.
+ Nghiêm túc thực hiện sửa sai theo kết luận của thanh tra Ngân hàng nhà nước và bước đầu đã có hiệu quả.
Tình hình hoạt động của Chi nhánh nói chung và tình hình tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng có nhiều triển vọng tốt đẹp. Trong thời kì mà nhu cầu về tín dụng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất lớn thì Chi nhánh đã hoàn thành tương đối tốt, làm thoả mãn được nhu cầu của khách hàng. Song cũng không phải không có những tồn tại mà cần phải giải quyết để có thể đi tới những thành tựu lớn hơn trong các năm tiếp theo.
3.1.2 Những hạn chế và nguyên nhân
3.1.2.1 Những hạn chế
Hoạt động kinh doanh ngân hàng là lĩnh vực rất nhạy cảm với những biến động từ phía thị trường, sự thay đổi tình hình kinh tế xã hội và chịu sự giám sát chặt chẽ của cơ quan quản lý kinh tế. Chính vì vậy, các ngân hàng không ngừng đổi mới chính sách kinh doanh, biện pháp thực hiện phù hợp với thực tế, theo hướng hoàn thiện dịch vụ cung ứng, đáp ứng nhu cầu khách hàng. Nhưng trong quá trình đổi mới và tự hoàn thiện các ngân hàng thường bị sa lầy vào những khó khăn khiến họ bị mắc kẹt, quá trình phát triển bị giám đoạn. Những vấn đề tồn tại vốn thuộc về sự cố hữu của hoạt động ngân hàng luôn là mối đe doạ trực tiếp tới sự sống còn của ngân hàng, đồng thời là vấn đề trọng tâm cần giải quyết kịp thời.
Thứ nhất
Cơ cấu tín dụng chưa hợp lý, còn tập trung nhiều vào khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh, trong khi đó khách hàng là các doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ lệ thấp, cho vay tiêu dùng chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng dư nợ.
Ngoài ra, mặc dù định hướng của chi nhánh là tập trung phát triển cho vay ngắn và trung hạn nhưng công tác cho vay dài hạn lại bị “bỏ quên”, điều này được phản ánh rất rõ khi chỉ tiêu cho vay dài hạn của cả chi nhánh và đối với DNVVN liên tục giảm trong các năm gần đây.
Thứ hai
Thực đơn tín dụng còn đơn giản. Hiện nay, mới thực hiện phương thức cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức tín dụng, cho vay theo dự án đàu tư và cho vay hợp vốn. Trong đó, chủ yếu là cho vay từng lần và cho vay theo hạn mức tín dụng. Việc tìm kiếm các dự án đầu tư gặp phải sự cạnh tranh từ phía ngân hàng khác, đặc biệt là ngân hàng đầu tư và phát triển, vốn được đánh giá có uy tín và ưu thế trong tài trợ cho các dự án đầu tư. Cho vay hợp vốn là phương thức khá mới mẻ đối với các ngân hàng hiện nay, nên số lượng các dự án được giải ngân chưa nhiều.
Thứ ba
Công tác thông tin tiếp thị đã có nhiều chuyển biến nhưng vẫn chưa đạt được những kết quả cao. Lượng khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã thu hút được chưa thực sự nhiều, thậm chí còn đánh mất bạn hàng truyền thống.
3.1.2.2 Nguyên nhân gây ra những hạn chế trên
* Nguyên nhân chủ quan:
Việc khai thác sử dụng nguồn thông tin chưa thực sự trở thành công cụ hữu hiệu trong phòng ngừa và hạn chế rủi ro. Mối quan hệ với trung tâm thông tin tín dụng trung ương, với công ty Kiểm toán còn lỏng lẻo. Nguồn thông tin vẫn dựa vào khách hàng là chủ yếu mà thông thường thì đây là nguồn thông tin thiếu chính xác. Hệ thống thu thập và xử lý thông tin của Chi nhánh nhìn chung còn thiếu thốn và tổ chức chưa chặt chẽ. Cơ sở lưu trữ, phân loại và quản lý thông tin chưa hiện đại, do đó thông tin thu thập thiếu độ chính xác cao, lượng thông tin thấp, tính kịp thời thấp. Khi chất lượng thông tin chưa được đảm bảo thì cũng không thể đáng giá khoản tín dụng đó có chất lượng tốt và thực tế công tác thẩm định của Chi nhánh còn thiếu chắc chắn, chưa xác định rõ được thực trạng tình hình sản xuất kinh doanh, tài chính nên hiệu quả và mức độ an toàn vốn thấp, khâu sàng lọc khách hàng còn yếu kém.
* Về đôi ngũ cán bộ
+ Đội ngũ cán bộ của Chi nhánh tuy đã có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm, ý thức trách nhiệm, song điểm mạnh đó chỉ thuộc về chuyên ngành ngân hàng – tài chính. Còn ở mức độ tích luỹ kiến thức về chuyên môn kĩ thuật là rất hạn chế. Do đó, những kết luận khi xem xét, đánh giá, thẩm định dự án xin vay ít nhiều bị chi phối theo chiều hướng thiên lệch.
+ Số lượng cán bộ tuy đã được bổ sung nhiều nhưng chưa tương ứng với khối lượng công việc. Vẫn còn tình trạng một cán bộ phải làm quá nhiều việc. Chưa xây dựng được mô hình đánh giá, xếp loại công việc làm cơ sở để trả lương cán bộ theo số lượng và chất lượng công việc họ hoàn thành.
* Nguyên nhân khách quan
-Môi trường kinh doanh chưa thuận lợi cho đầu tư tín dụng, còn thiếu nhiều các định chế phụ trợ cần thiết:
+Hiện nay chưa có một cơ quan mang tính chất chuyên nghiệp cung cấp thông tin về tình hình tài chính các doanh nghiệp. Sự phối hợp giữa ngân hàng với kiểm toán chưa chặt chẽ. Có những doanh nghiệp đã được kiểm toán nhà nước tiến hành kiểm toán nhưng khi ngân hàng xin kết quả kiểm toán thì không được đáp ứng. Vì vậy, nguồn thông tin chính ngân hàng dựa vào các báo cáo doanh nghiệp cung cấp. Các báo cáo tài chính doanh nghiệp là một trong những căn cứ quan trọng để ngân hàng thiết lập và đảm bảo chất lượng quan hệ tín dụng với doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp không cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ và kịp thời các báo cáo tài chính và tình hình sử dụng vốn cho ngân hàng sẽ dẫn đến những đánh giá sai lệch về doanh nghiệp và những quyết định đầu tư sai lầm gây thiệt hại cho cả doanh nghiệp và ngân hàng. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho vốn cho vay không được kiểm soát, theo dõi một cách căn bản và dẫn đến nợ quá hạn.
- Môi trường pháp lý bộc lộ nhiều yếu kém về mặt hiệu lực, tính đồng bộ giữa các văn bản luật, cơ quan ban ngành liên quan, đặc biệt là các văn bản liên quan tới cơ chế cho vay. Khi mới ra đời, nghị định 08/2000/NĐ-CP về giao dịch có đảm bảo đã được các ngân hàng đón nhận với hy vọng đó sẽ là cơ sở pháp lý rõ ràng cho việc thực hiện đầu tư tín dụng. Nhưng khi bước ra thực tế, các văn bản chứa đựng nhiều bất cập gây bối rối cho ngân hàng.
-Do trên địa bàn hà Nội đang có nhiều ngân hàng cùng hoạt động, mức độ cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng gay gắt, đã làm ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh của Chi nhánh.
* Nguyên nhân từ phía khách hàng
Hầu hết các doanh nghiệp có vốn tự có rất nhỏ, vốn lưu động chủ yếu dựa vào tín dụng ngân hàng. Cơ sở hạ tầng, phương pháp làm việc, trang thiết bị còn rất yếu kém, lạc hậu, thị trường hoạt động chưa ổn định, năng lực điều hành hoạt động kinh doanh còn hạn chế, thiếu kinh nghiệm xây dựng dự án đầu tư, chưa thực sự chủ động trong quá trình sản xuất kinh doanh. Những tồn tại cũ về tình hình tài chính gây sức ỳ rất lớn, nhiều doanh nghiệp quy mô lớn nhưng chất lượng bên trong không mạnh. Và kết quả cuối cùng, các doanh nghiệp không thực hiện hoàn trả vốn đầy đủ cho ngân hàng khi đến hạn. Nhiều trường hợp các Ngân hàng phải vận dụng gia hạn nợ.
3.2 Một số định hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng với các DNVVN tại NHNo chi nhánh Cầu Giấy – Hà Nội
3.2.1 Một số định hướng phát triển hoạt dộng tín dụng đối với DNVVN tại NHNo Cầu Giấy – Hà Nội
Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động tín dụng đối với khách hàng là DNVVN, NHNo & PTNT chi nhánh Cầu Giấy – Hà Nội đã có những định hướng phát triển cho năm 2009 với loại hình khách hàng này như sau:
Thứ nhất: Tăng cường công tác tiếp thị, tiếp xúc với các DNVVN để ngày càng nâng cao được số lượng khách hàng có quan hệ tín dụng với ngân hàng. Đồng thời củng cố thêm quan hệ với các khách hàng truyền thống.
Thứ hai: Xây dựng thêm các chính sách tín dụng mới, phù hợp hoạt động cho vay DNVVN
Thứ ba: Nâng cao và hoàn thiện các kỹ năng nghiệp vụ của cán bộ tín dụng. Đặc biệt là trong khâu đánh giá và tìm hiểu khách hàng để từ đó có thể giúp ngân hàng không bỏ sót các khách hàng tiềm năng.
Thứ tư: Hạn chế và giải quyết các nguồn nợ xấu, nợ quá hạn còn tồn đọng lại trong các năm trước
Thứ năm: Cải tiến các thủ tục vay vốn cho đơn giản để tránh tình trạng “ngại” vay vốn ngân hàng của các doanh nghiệp.
3.2.1 Công tác huy động vốn.
- Tiến hành phân loại khách hàng ở nguồn vốn hiện có, có chính sách ưu đãi cụ thể với từng khách hàng, đặc biệt là với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.Đa dạng các loại hình huy động nhất là tiết kiệm trung và dài hạn, áp dụng lãi suất linh hoạt để tăng nguồn vốn trung, dài hạn và tính ổn định vững chắc.
3.2.2 Công tác tính dụng điều hành hoạt động kinh doanh:
- Công tác xây dựng chiến lược kinh doanh phải được thực hiện nghiêm túc.Đôn đốc chỉ đạo thường xuyên các cán bộ nghiệp vụ thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch được giao.
- Tạo uy tín để giữ khách hàng truyền thống, chủ động tìm kiếm các khách hàng mới tập trung vào các đối tượng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn,vì hiện nay số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ là lớn.
- Nâng cấp trang thiết bị phát triển công nghệ Ngân hàng, thực hiện thanh toán điện tử nâng cấp dịch vụ thanh toán để thu hút khách hàng đến giao dịch.
3.2.3 Giải pháp phát triển thị phần:
- Phải luôn chú trọng vào mở rộng địa bàn hoạt động, tăng thị phần trong khách hàng truyền thống, thu hút nhiều khách hàng mới.
- Tổ chức tốt hội nghị khách hàng, tuyên truyền quảng bá tạo uy tín và vị thế.
- Tổ chức phân tích tài chính doanh nghiệp, phân loại khách hàng để có cơ chế ưu đãi phù hợp đồng thời tránh những rủi ro trong kinh doanh.
- Nắm bắt tốt tình hình lãi suất trên thị trường để điều chỉnh lãi suất cho vay, huy động phù hợp.
- Tích cức tiếp cận khách hàng mới thiết lập quan hệ tín dụng và thanh toán đặc biệt là với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Làm tốt công tác tổ chức khảo sát, mở thêm các điểm giao dịch để tăng cường huy động vốn và cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ đạt kết quả cao.
3.2.4 Tăng cường công tác kiểm tra kiểm toán nội bộ.
Nhằm kịp thời phát hiện những tồn tại, thiếu sót để tìm biện pháp khắc phục hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng. Chú trọng công tác tự kiểm tra, kiểm soát nội bộ để nâng cao chất lượng mọi mặt hoạt động nghiệp vụ và khả
Môc lôc
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1862.doc