Nói tóm lại, với những đường lối kiên định của Đảng và Nhà nước ta, hoạt động tiền tệ và tín dụng trong những năm vừa qua của chi nhánh Ngân hàng Công thương Ba Đình rất đáng khen ngợi. Sự thành công này góp phần đáng kể vào những chuyển biến tích cực mạnh mẽ của nền kinh tế. Sự thành công này là do sự cố gắng nỗ lực của toàn thể các cán bộ của chi nhánh, sự chỉ đạo phối hợp chặt chẽ các ban ngành có liên quan cũng như sự khai thác triệt để những thuận lợi của mình.
50 trang |
Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1350 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao chất lượng tín dụng trung - Dài hạn của Ngân hàng công thương ba đình đối với các doanh nghiệp nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g cho vay trung - dài hạn đối với khu vực kinh tế này tăng rất chậm qua các năm trong khi sử dụng vốn cho vay ngắn hạn tăng nhanh hơn tại vì các doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn đã hạn chế vào đầu tư tài sản cố định, dùng để bổ sung vào vốn lưu động. Chúng ta thấy rằng trong một số năm gần đây, cùng với sự gia tăng về sử dụng vốn cho vay nói chung, là sự tăng lên cả về số lượng lẫn cơ cấu trong việc sử dụng vốn để cho vay trung dài hạn nói riêng đối với doanh nghiệp nhà nước. Năm 1999 đạt 80 tỷ đồng tăng 36,5% so với năm 1998, tương tự năm 2000 đạt 100 tỷ đồng tăng 25% so với năm 1999, năm 2001 đạt 108 tỷ tăng 8% so với năm 2000. Trong đó tỷ trong của việc sử dụng vốn vào cho vay trung - dài hạn (cả VND và cả ngoại tệ quy VND) đối với doanh nghiệp nhà nước qua các năm lần lượt là: năm 1999: 12,6%; 2000: 15,4%; 2001 : 16,2%. Mặc dù trung ương đã có chủ trươngkhuyến khích cho vaycác doanh nghiệp nhà nước kể cả nguồn vốn ngắn hạn, trung - dài hạn, nhưng tốc độ sử dụng vốn để cho vay trung - dài hạn tăng chậm hơn đối với cho vay ngắn hạn. Mặc dù, việc sử dụng vốn lại tăng nhanh hơn tạo nên sự mất cân đối đồng bộ trong cơ cấu cho vay. Cụ thể là năm 1999 tăng 42,5%; 2000 :13,3%; 2001: 5,8%. Đây cũng là mặt còn hạn chế của chi nhánh cấn phải khắc phục trong thời gian tới.
Mặt khác đối với cho vay ngoại tệ thì chi nhánh đã tạo mọi khả năngcho các doanh nghiệp nhà nước vay để mua sắm máy móc thiết bị ngoại nhập. Nhưng mấy năm gần đây do cuộc khủng hoảng tài chính châu á đã ảnh hưởng tới không nhỏ tới khả năng vay vốn ngoại tệ của các doanh nghiệp. Chính vì vậy việc cho vay ngoại tệ không tăng đáng kể, đôi khi còn giảm xuống.
Tóm lại, sự tăng trưởng của cho vay trung - dài hạn đối với đơn vị kinh tế quốc doanh đã phần nào giải quyết được vấn đề về vốn đầu tư cho các đơn vị này. Với khối lượng vốn đầu tư như vậy đã góp phần không nhỏ về đổi mới công nghệ, tăng năng lực sản xuất, kinh doanh theo hướng hiện đại hoa công nghệ sản xuất.
Trong khi các doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả nhưng chi nhánh vẫn mạnh dạn đầu tư vào các dự án có tính khả thi, bên cạnh đó còn đóng vai trò then chốt đối với một số đơn vị kinh tế trong việc hỗ trợ vốn để đầu tư mở rộng hiện đại hoá công nghệ lạc hậu, nhằm nâng cao năng xuất lao động, tăng tính cạnh tranh trên thị trường, điều này cho thấy sự quyết tâm của chi nhánh trong vấn đề tăng trưởng tín dụng.
Bảng IIIa.tình hình sử dụng vốn qua các năm.
Đơnvị:tỷ đồng
Chỉ tiêu
31/12/1999
31/12/2000
31/12/2001
VND
USD
VND
USD
VND
USD
Huy động vốn
754
115
898
177
1088
183
Sử dụng vốn
359
130
468
105
522
84
-cho vay ngắn hạn
327
82
398
58
398
44
+quốc doanh
313
82
391
58
393
44
+ngoài quốc doanh
14
7
5
-Chovay trung dàihạn
32
48
53
47
68
40
+quốc doanh
24
40
48
40
65
33
+ngoài quốc doanh
8
8
5
7
3
7
-TDTM&liên doanh
17
16
16
-Bảo lãnh
549
-Nợ quá hạn
9
3
12
5
11
4
2.4. Phân tích tình hình cho vay trung - dài hạn của chi nhánh.
2.4.1 Tình hình dư nợ cho vay tín dụng của chi nhánh.
Chúng ta so sánhdư nợ cho vay tín dụngh doanh nghiệp nhà nướcavới các thành phần kinh tế khác, và sự tăng giảm so với các năm.( Bảng IIIb). Với chủ trương mở rộng tín dụng đối với các thành phần kinh tế, tổng mức dư nợ năm 2001 tăng 33438 nghìn (tăng 5,8%)so với năm 2000. Nhưng xét về cơ cấu chung theo nguồn vốn thì dư nợ đối với ngoại tệ giảm mạnh so với năm trước (giảm 24,5%), còn dư nợ đối với VND tăng mạnh( tăng11,6%). Nhưng nói chung với mức tăng trưởng như vậy cũng giải quyết được phần nào về vấn đề vốn cho các DN đặc biệt là vốn bằng VND.cùng với sự tăng trưởng nhanh của tổng dư nợ, dư nợ cho vay tín dụngh cũng cóa những chuyển biến tích cực. Năm 2001 đạt 108591nghìn tăng 8227 nghìn (tăng 8,2%) so với năm 2000. Trong đó mức tăng chủ yếu là đối với khu vực kinh tế quốc doanh.
Mức dư nợ cho vay tín dụngh đối với các doanh nghiệp nhà nướcacũng tăng đáng kể năm 2001 đạt 98737 nghìn tăng 11180 nghìn (tăng 12,8%)so với năm 2000. Trong tổng mức dư nợ cho vay tín dụngh, tỷ trọng của cho vay tín dụngh đối với doanh nghiệp nhà nướca chiếm chủyêú, năm 2000 chiếm 87,2%, năm 2001 chiếm 91%. Sự tăng lên như vậy là do có sự cho vay thuộc loại này để giải quyết vấn đề trang thiết bị của doanh nghiệp nhà nước. Chi nhánh tích cực tìm kiếm các dự án mới, đối tác mới để hạn chế sự cách biệt dần khoảng cách giữa mức dư nợ nói chung với mức dư nợ cho vay tín dụngh đối với doanh nghiệp nhà nướca. Vì mục tiêu của chi nhánh là cung cấp vốn cho các doanh nghiệp nhà nướca dưới mọi hình thức nên tổng dư nợ trong cả hai loại hình cho vay ngắn hạn và tín dụngh chiếm tỷ trọng cao hơn cả. Cụ thể là năm 2000 đạt 536568 nghìn chiếm 88,5% tổng dư nợ. Nếu so sánh về tốc độ tăng trưởng giữa hai năm 2000 và 2001 thì tăng không đáng kể khoảng 0,03%.
Bảng tình hình dư nợ tín dụng phân theo ngành kinh tế.
Đơn vị:nghìn đồng
Chỉ tiêu
2000
2001
VND
USD
VND
USD
Tổng dư nợ
468.098
105.081
522.196
84.421
- Dư nợ ngắn hạn
397.914
57.720
398.810
44.335
+ Quốc doanh
391.142
57.720
393.496
44.335
+ Ngoài quốc doanh
6.772
5.314
Dư nợ trung dài hạn
53.003
47.361
68.504
40.087
+ Quốc doanh
47.643
39.914
65.710
33.027
+ Ngoài quốc doanh
5.360
7.447
2.794
7.060
Tuy nhiên cùng với thực trạng chung của các doanh nghiệp nhà nước, do tính chất cấp bách trong nhu cầu về vốn ngắn hạn lên tổng dư nợ cho vay ngắn hạn nói chung đối với doanh nghiệp nhà nướca chiếm tỷ trong cao hơn nhiều so với cho vay tín dụngh (tính cho cả VND và USD). Nếu xét về cho vaýngắn hạn thì năm 2000 đạt 448.862nghìn chiếm tỷ trong 83,7% tổng dư nợ với các doanh nghiệp nhà nướca. Tương tự như vậy năm 2001 là 98.737 nghìn chiếm 18,4%. Chi nhánh đã có nhiều cố gắng để cải thiện tình hình này trong những năm qua, nhưng vẫn còn có sự mất cân đối lớn giưã hai loại hình cho vay này. Đây là mặt còn hạn chế của chi nhánh, trong những năm tới cơ cấu dư nợ này cần phải được điều chỉnh lại cân đối hơn.
Mặc dù có sự tăng lên trong tổng mức dư nợ đối với các doanh nghiệp nhà nước nói chung và mức dư nợ cho vay tín dụngh đối với các doanh nghiệp nhà nướca này nói riêng như đã nói ở trên, nhưng cùng với sự giản đơn của tổng mức dư nợ làm cho năm 2001 có sự giảm sút về mức dư nợ thuộc loại naỳ, chỉ đạt 33027 nghìn giảm 6887 nghìn (đạt 82,7%) so với năm 2000. Trong khi đó dư nợ vay bằng VND tăng với tốc độ khá nhanh, năm 2001 đạt 65710 nghìn tăng 18067 nghìn (tăng 37,9%)so với năm 2000. Điều này chứng tỏ một số DN này đã phần nào có đủ nguồn vốn ngoại tệ đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh của mình và thay vào đó là vốn bằng VND dùng để mua sắm tài sản trong nước, sản xuất tăng lên đáng kể. Bên cạnh đó là việc hạn chế nhu cầu sử dụng ngoại tệ của các DN. Nói tóm lại, đây là kết quả của sự cố gắng để mở rộngcho vay, trong khi các doanh nghiệp nhà nướcathì không đủ khả năng hoặc là không muốn vay. Với sự tăng trưởng về mức dư nợ như trên là một thành công vượt trội của chi nhánh trong thời gian qua. Nhưng nếu xét trên mức dư nợ tổng thể thì tỷ trọng của mức dư nợ thuộc loại này còn rất thấp, đây có thể nóichính là điều mà chi nhánh chưa đạt được.
2.4.2. Tình hình cho vay và dư nợ của chi nhánh năm 2001.
Khi phân tích tình hình cho vay của chi nhánh ta không thể không xem xét đến các nghiệp vụ cho vay và thu nợ của chi nhánh.
Thu nợ là một nghiệp vụ rất quan trọng của Ngân hàng. Những khoản đến hạn phải thu bao gồm cả lãi và gốc của người vay phải trả. Đối với những khoản cho vay tín dụngh thì tình hình thu nợ cũng được kéo dài hơn việc thu nợ ngắn hạn. Việc thu nợ do cán bộ tín dụng phụ trách trực tiếp đảm nhận, bởi vì họ là những người lắm rõ nhất kỳ hạn phải trả của người vay được quy định trong hợp đồng tín dụng. Các nguồn trả nợ của DN mà Ngân hàng thường quan tâm là toàn bộ nguồn vốn của người vay (lợi tức cộng với lệ phí tiền mặt). Trong quá trình theo dõi hoạt động kinh doanh của DN, các cán bộ tín dụng thường quan tâm đến tình hình tài chính của DN khi sắp đến thời hạn trả nợ. Bởi vì kỳ hạn của khoản mục cho vay của Ngân hàng sẽ ảnh hưởng đến tính thanh khoản của Ngân hàng cũng như mức độ rủi ro của nó.
Chính vì tính quan trọng của việc thu nợ như vậy nên chi nhánh rất chú trọng việc thu nợcủa khoản nợ đến hạn trả đặc biệt là những khoản thu hồi có giá trị lớn trong mỗi kỳ hạn trả nợ. Nhìn chung, mặc dù các doanh nghiệp nhà nướca gặp nhiều khó khăn về vốn đặc biệt là vốn lưu động. Nhưng các DN naỳ đều hoàn thành trả nợ đúng hạn, nhất là những tổng công ty có mức dư nợ lớn hiện nay. Một số trường hợp khó khăn tạm thời thì được xin phép ra hạn theo quy định của tổng giám đốc Ngân hàng công thương Việt nam. Chính vì điều này đã làm giảm dư nợ quá hạn xuống mức thấp, đồng thời chi nhánh cũng đã hạn chế thấp nhất rủi ro về mức thanh khoản. Cũng có một số khoản nợ đếnhạn phải thu mà khách hàng đã xin ra hạn vượt quá số lần quy định thì được đưa vào nợ quá hạn.
2.4.2.1 Về tình hình cho vay:
thực hiện sự chỉ đạo của thống đốc Ngân hàng nhà nước và tổng giám đốc Ngân hàng công thương Việt nam về ưu tiên dành vốn cho vay trung - dài hạn vì sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hóa đất nước. Trong những năm qua, một thành công mà chi nhánh thực hiện được là thẩm định và đầu tư kịp thời các dự án tín dụnghcó tính khả thi cao để giúp các doanh nghiệp có điều kiện đổi mới trang thiết bị, tăng năng lực sản xuất kinh doanh trong những năm qua chi nhánh đã đầu tư hàng chục tỷ đồng để cải tạo nâng cấp trang thiết bị cho ngành giao thông vận tải và ngành xây dựng tạo điều kiện cho việc thi công công trình lớn.
2.4.2.2. Tình hình thu nợ:
Trong năm 2001 tổng mức thu nợ và tổng mức cho vay nói chung không có sự chênh lệch quá xa, tổng mức cho vay 6 tháng đầu năm là 770 tỷ đồng, tổng mức thu nợ 6 tháng đầu năm 2001 là 731 tỷ. Cho thấy rằng chi nhánh luôn quan tâm đến cả hai loại hình, cân đối đượ giữa chất lượng và số lượng cho vay.
Chi nhánh đã kịp thời tháo gỡ những khó khăn về vốn cho các doanh nghiệp. Trong những năm qua, do tình hình kinh tế xã hội có nhiều biến động ảnh hưởng không nhỏ đến tình tài chính của doanh nghiệp, cụ thể là gây khó khăn về khả năng thanh toán tiền vay ngắn hạn cho Ngân hàng. Nhìn thấy được điều này, trên cơ sở các văn chỉ đạo của thống đốc và tổng giám đốc Ngân hàng công thương Việt Nam chi nhánh đã rà soát tình hình đầu tư và tín dụng đối với từng DN, đặc biệt là trong các DNcó khó khăn về vốndo nhiều nguyên nhân, từ đó đưa ra những biện pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn tạm thời về khả năng thanh toán cho các DN nay.
2.4.3. Tình hình nợ quá hạn của chi nhánh.
Bên cạnh việc tăng trưởng về doanh số cho vay tín dụngh đối với các doanh nghiệp nhà nướca, một vấn đề cũng được chi nhánh quan tâm đó là chất lượng tín dụng. Trong khi về số lượng cho vay tăng rất nhanh nhưng chất lượng lại tỷ lệ nghịch với số lượng thì đó lại là một điều còn nguy hiểm hơn là việc giảm số lượng tín dụng để nâng cao chất lượng tín dụng.
Bên cạnh việc mở rộng quy mô và doanh số cho vay nhưung chi nhánh cũng rất quan tâm đến tốc độ an toàn của từng khoản vay. Ngân hàng đã có nhiều cố gắng trong việc hạn chế đến mức thấp nhất các thiệt hại do rủi ro tín dụng gây ra
Chỉ tiêu
1999
2000
2000 so với 1999
2001
2001 so với 2000
Ts
%
Ts
%
Ts
%
Ts
%
Ts
%
Nợ quá hạn
12,8
100
18
100
+5,2
15
100
1. Theo thời hạn
12,8
100
18
100
+5,2
15
100
-3
* Ngắn hạn
11,2
87
16,2
90
+5
+45
14
93,3
-2,2
+3,3
* Trungdài hạn
1,6
13
1,8
10
+0,6
+15
1
6,7
-0,8
-3,3
2. Theo thành phần KT
12,8
100
18
100
+5,2
15
100
* Quốc doanh
8,8
69
13,4
74
+4,6
+5
11,4
76
-2
+2
* Ngoài quốc doanh
4
31
4,6
26
+0,6
+15
3,6
24
-1
+2
Các nguyên nhân gây ra sự quá hạn của chi nhánh là do các doanh nghiệp giải thể, sát nhập, một số doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, sử dụng vốn sai mục đích.
Tổng số vụ quá hạn theo các thành phần kinh tế năm 2001 là 15 tỷ. Đối với doanh nghiệp Nhà nước sự quá hạn năm 2001 là 11,4 tỷ chiếm tỷ trọng 6,7% tổng dư nợ, một con số rất thấp so với số lượng cho vay của chi nhánh trong thời gian qua. Điều này cho thấy mặc dù có sự tăng trưởng trong đầu tư và tín dụng nhưng chi nhánh không bao giờ xa rời mục đích nâng cao chất lượng tín dụng. Các dự án đều được thẩm định chặt chẽ trước khi quyết định cho vay.
Tuy nhiên cần phải đưa ra một mức sự quá hạn hợp lý hoá để một mặt đảm bảo tăng trưởng tín dụng, mặt khác vẫn đảm bảo được rằng những thiệt hại do mất vốn gây ra vẫn kiểm soát được và không làm mất đi khả năng cạnh tranh của ngân hàng.
Những năm gần đây tỷ trọng sự quá hạn đã giảm một cách rõ rệt năm 2001 sự quá hạn là 15 tỷ giảm 3 tỷ so với năm 2000. Đó là một điểm mạnh của chi nhánh. Trong những năm tới do điều kiện chung của nền kinh tế có xu hướng biến động, các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, nên tỷ trọng sự quá hạn còn tiềm ẩn có thể mở ra bất cứ lúc nào gây khó khăn cho hoạt động của ngân hàng.
Mặc dù trong những năm qua tình hình kinh tế trong nước có nhiều biến động tiêu cực do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước còn gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên về sự chỉ đạo chặt chẽ của ban lãnh đạo các ngành có liên quan, trongnăm vừa qua, chất lượng tín dụng trung dài hạn đối với các doanh nghiệp Nhà nước có thể nói là đã được cải thiện với mức tối đa.
Nói tóm lại, các dự án được chi nhánh đầu tư đều phát huy có hiệu quả, trả nợ gốc và lãi đúng hạn. Việc cho vay có bảo đảm này giúp cho ngân hàng báo tìm được vốn, giảm rủi ro, nâng cao hiệu quả và trách nhiệm sử dụng vốn, có điều kiện mở rộng tín dụng cho nền kinh tế góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Kết quả cho vay và đầu tư của Ngân hàng Công thương Ba Đình trong thời gian qua đã góp phần tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước và tạo tiền đề cho một giai đoạn phát triển kinh tế mạnh mẽ nhưng vẫn còn tại cần khắc phục sớm.
2.2.4 Khó khăn - tồn tại
Thứ nhất, về cơ cấu huy động vốn, tốc độ tăng tiền gửi các dân cư vẫn là chủ yếu, tiền gửi có kỳ hạn từ 3 tháng trở lên chiếm tỷ trọng 70% đây là cơ cấu bất lợi cho kinh doanh. Do lãi suất của tiền gửi có kỳ hạn cao hơn không kỳ hạn, làm cho mức lãi suất huy động vốn bình quân cao hơn làm cho mức lãi suất cho vay bình quân cao hơn. Do doanh số cho vay trung dài hạn chiếm tỷ trọng trong tổng số cho vay nên cần phải điều chỉnh lại mức lãi suất này. Tuy nhiên, do bị ngân hàng Nhà nước khống chế mức lãi suất cho vay tối đa, và cùng với sự cạnh tranh với các tổ chức tín dụng khác nên chi nhánh vẫn phải hạ thấp mức lãi suất cho vay trung dài hạn. Điều này làm giảm doanh thu của chi nhánh.
Thứ hai, hệ số sử dụng vốn bình quân đạt 50%. Mặc dù chi nhánh đã có nhiều cố gắng trong việc tìm kiếm khách hàng mới, nhưng do địa bàn là nơi tập trung chủ yếu các cơ quan hành chính sự nghiệp nên có ít các doanh nghiệp lớn, nên tốc độ *** nguồn vốn còn rất chậm. Doanh số cho vay và huy động không cân đối như vậy đã làm giảm doanh số của chi nhánh. Mặc dù số vốn thừa nộp về Trung ương để hướng lãi suất điều hoà, những lãi suất này quá thấp không đủ trang trả chi phí khác.
Ba là, vấn đề sự quá hạn của các món vay từ lâu vẫn còn là nỗi trăn trở của chi nhánh. Nhìn tổng thể các nguyên nhân gây ra vụ quá hạn thì sự quá hạn do doanh nghiệp thua lỗ chiếm tỷ trọng lớn nhất. Điều đó chúng ta thấy rằng tình hình thẩm định dự án chung vẫn còn chưa tốt, chưa chặt chẽ. Việc làm ăn thua lỗ của doanh nghiệp xuất phát từ tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không có hiệu quả cán bộ tín dụng phải theo dõi chặt chẽ điều này đồng thời phải tiến hành thu thập thông tin đáng tin cậy hơn để đưa ra những báo cáo khả năng có thể xảy ra. Cụ thể hơn là do cán bộ tín dụng thiếu những thông tin cần thiết và đủ tin cậy để phục vụ cho công tác phân tích tín dụng/ Điều này là một hạn chế của chi nhánh cần phải sớm khắc phục.
Bốn là, giám sát tình hình sử dụng vốn vay của chi nhánh mới chỉ giới hạn thời gian cho vay tối đa là 5 năm (theo quy định cho vay dài hạn từ 5 năm trở lên) vì chi nhánh muốn thu vốn nhanh để cho vay khác và việc theo theo dõi các khoản vay thời gian càng ngắn thì càng để rủi ro thấp hơn và dễ xác định hơn. Tuy nhiên đây là một khó khăn cho các doanh nghiệp đối với việc đầu tư vào tài sản cố định. Một số doanh nghiệp khi có luận chứng kinh tế kỹ thuật có tính khả thi cao, nhưng thời gian hoạt động lại trên 5 năm, thì việc vay vốn của chi nhánh là điều không thể. Biết được điều này, khi lập dự án trình lên chi nhánh để vay, thời gian hoạt động của dự án đó bị thu hẹp lại, và vì khấu hao phải tính theo quy định của Bộ tài chính là chi đều cho số năm hoạt động ( cả đời dự án) nên việc thu hồi vốn từ khấu hao sẽ gặp khó khăn, và điều này lý giải khoản nợ quá hạn của công ty gốm Hữu Hưng. Khoản vốn đầu tư của doanh nghiệp này khá lớn, nên việc thu hồi vốn từ khâú hao cần phải có một thời gian dài ( khoảng 10 năm ).
Việc sản xuất không đạt hiệu quả cao vì phải cạnh tranh với hàng ngoại nhập, nên chỉ đủ trả lãi. Do đó, trong thời gian vay mà chi nhánh cho phép tối đa là 5 năm thì doanh nghiệp phải khấu hao hết. Vì thế lượng khấu hao hàng năm tăng gấp đôi, mà khả năng sản xuất lại có hạn, nên đến thời hạn việc chậm hoàn trả vốn vay từ khấu hao cho chi nhánh là điều dễ hiểu.
Bên cạnh đó còn có một số yếu tố thuộc về ngoại cảnh gây khó khăn trong hoạt động của chi nhánh.
Đó là vấn đề lãi suất cho vay trung dài hạn. Mặc dù mức lãi suất đã được đổi mới nhưng vẫn chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu hạch toán kinh doanh của chi nhánh và của khách hàng. Sự phối hợp, kết hợp giữa các ngành, các Bộ và các cơ quan chức năng trong quá trình xây dựng, thẩm định và quản lý dự án đầu tư còn chưa đồng bộ dẫn đến các doanh nghiệp mất cơ hội kinh doanh. Đáng chú ý nhất là vấn đề thế chấp, bảo lãnh tài sản vốn vay trong nước và ngoài nước của kinh tế quốc doanh giữa Ngân hàng Nhà nước, Bộ tài chính và Bộ chủ quản còn nhiều ách tắc. Các cơ sở kinh tế pháp lý quan trọng như : quy luật phát triển tổng thể các khu vực, các ngành kinh tế kỹ thuật chưa có hoặc chưa được phê duyệt đã cản trở rất lớn đến việc mở rộng cho vay đầu tư cho các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp thuộc Bộ giao thông vận tải và Bộ xây dựng.
Đặc biệt đối với các doanh nghiệp Nhà nước nói chung nghị định 59 ra đời quyết định tổng mức huy động dưới hình thức không vượt quá vốn điều lệ hết sức khó khăn, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ có số vốn quá nhỏ bé so với yêu cầu kinh doanh. Quy định là các Ngân hàng thương mại chỉ được cho các doanh nghiệp Nhà nước vay 70% tổng vốn, còn 30% là vốn tự có của doanh nghiệp. Nhưng trong điều kiện các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay nói chung và chi nhánh nói riêng có rất ít vốn tự có, nên nếu áp dụng quy định này thì việc cho vay của chi nhánh sẽ gặp nhiều khó khăn.
Những dự án được xem xét là có tính khả thi cao, nhưng do tác động của nền kinh tế có nhiều diễn biến phức tạp, nên khi thực hiện lại không có tính khả thi. Việc đưa ra các quyết định hợp lý quả là rất khó khăn đối với các cán bộ tín dụng.
chương iiI
một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn của ngân hàng công thương ba đình đối với các doanh nghiệp Nhà nước
I. phương hướng nhiệm vụ của ngân hàng công thương Ba Đình trong thời gian tới.
Trong những năm qua ngân hàng đã đạt được những thành tựu đáng kể, song còn một số những tồn tại không đáng có, vì vậy ngân hàng đề ra những phương hướng và nhiệm vụ trong thời gian tới như sau:
- Về công tác huy động vốn:
Ngân hàng phải xác định đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm và hết sức quan trọng, có ý nghĩa quyết định hoạt động của ngân hàng. Phải có nhiều hình thức, biện pháp phù hợp để huy động vốn cả nội tệ và ngoại tệ, vốn ngắn hạn, trung dài hạn *** chi phí đầu vào thống nhất. Chủ động đáp ứng nhu cầu về nguồn vốn để mở rộng tín dụng và đầu tư, đảm bảo các tỷ lệ dự trữ bắt buộc, duy trì khả năng thanh toán an toàn, nhằm thoả mãn nhu cầu vốn của các doanh nghiệp - nhất là các dự án phương án có hiệu quả kinh tế, có tính khả thi, khả năng trả nợ đầy đủ, đúng hạn.
- Tiếp tục mở rộng đầu tư tín dụng đi đôi với việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo hướng góp phần giải phóng một năng lực sản xuất, phát huy tiềm năng của mọi thành phần kinh tế, đảm bảo cho doanh nghiệp Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, chủ lực, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Tập trung vốn cho các chương trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá và phát triển kinh tế.
- Về công tác kinh doanh:
Tăng cường khai thác xử lý có hiệu quả tài sản thế chấp xiết nợ theo phương án cụ thể của từng đơn vị.
Tiếp tục thực hiện chiến lược khách hàng của ngân hàng, đẩy mạnh công tác tiếp thị, để mở rộng và phát triển khách hàng tốt, tìm kiếm các dự án có hiệu quả. Tăng khối lượng và tỷ trọng cho vay trung - dài hạn. Tập trung vốn cho các ngành hàng quan trọng, các dự án theo chỉ định của Chính phủ, các dự án theo chương trình đồng tài trợ không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng và chất lượng thẩm định dự án cho vay, tuân thủ và tôn trọng các thể lệ chế độ tín dụng hiện hành.
Tập trung vốn trung dài hạn để đầu tư cho các doanh nghiệp mua sắm máy móc, thiết bị, đổi mới công nghệ cho chương trình phát triển công nghệ sau quy hoạch, chương trình sản xuất hàng tiêu dùng thay thế hàng nhập khẩu.
Tích cực, chủ động phối hợp với các cấp, các ngành có liên quan để xây dựng các phương án, các giải pháp nhằm nhanh chóng xử lý có hiệu quả các khoản nợ gốc, nợ lãi tồn đọng.
Để phấn đấu được như vậy cụ thể là chi nhánh tiếp tục phấn đấu tăng huy động vốn lên 20% dư nợ bình quân tăng 20% và giảm nợ quá hạn xuống 2,5% đồng thời tăng thêm 5% lợi nhuận hạch toán so với năm 2001 những vẫn đảm bảo không quên phưong châm kinh doanh hàng đầu đó là "ổn định, an toàn, hiệu quả và phát triển".
II. Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn đối với các doanh nghiệp Nhà nước.
1. Về phía ngân hàng công thương Ba Đình.
* Ngân hàng cần có các hình thức huy động vốn trung dài hạn thích hợp và đa dạng hoá các hình thức thu hút vốn.
Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta dần dần đi vào ổn định, hoạt động tín dụng trung - dài hạn tại Ngân hàng Công thương Ba Đình đã được cải thiện đáng kể để phù hợp với sự đổi mới theo hướng công nghệ hoá, hiện đại hoá của đất nước. Đó là việc thay đổi cơ cấu đầu tư theo hướng nâng cao dần tỷ trọng cho vay trung - dài hạn. Nguồn vốn cho vay trung dài hạn của ngân hàng do vậy phải được tăng cường bởi lẽ để đáp ứng cho các loại hình doanh nghiệp đặc biệt là đối với doanh nghiệp Nhà nước với loại hình tín dụng này thì nguồn vốn vẫn còn nhỏ bé.
Do đó ngân hàng cần đa dạng hoá hình thức huy động vốn, hoàn thiện các nghiệp vụ tiền gửi tiết kiệm truyền thống, xây dựng thêm các hình thức huy động vốn mới như: phát hành trái phiếu có thời hạn 1 năm trở lên để vay vốn trong và ngoài nước (nếu NHNN cho phép) hoặc huy động tiết kiệm dài hạn với mức lãi suất cao hơn lãi suất ngắn hạn. Các công cụ đó có hữu danh hoặc vô danh để có thể chuyển nhượng tự do mua bán trên thị trường. Ngân hàng có thể phát hành trái phiếu mệnh giá lớn, người mua ban đầu chỉ phải bỏ ra một số tiền ít hơn mệnh giá của trái phiếu nhưng đến hạn thì được trả đủ theo mệnh giá. Ngoài ra ngân hàng cần thực hiện nghiệp vụ chiết khấu các kỳ phiếu, trái phiếu chưa đến hạn thanh toán, bên cạnh công tác tuyên truyền, quảng cáo để thu hút vốn trung dài hạn trong và ngoài địa bàn. Đồng thời ngân hàng cũng cần phải chuyển hoá năng động, hợp lý các nguồn vốn ngắn hạn vừa đảm bảo nhu cầu vừa có khả năng thanh toán cao. Hiện nay, để thực hiện cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, theo quy định các ngân hàng đã trích đến 20% - 30% vốn ngắn hạn để cho vay trung hạn. Ngân hàng Công thương Ba Đình cũng đã làm như vậy nhưng điều này chưa phải là giải pháp hữu hiệu vì thị trường vốn ngắn hạn và thị trường chứng khoán ở nước ta chưa phát triển.
* Đơn giản hoá thủ tục cho vay.
Ngân hàng nên đơn giản hoá các thủ tục xin vay vốn, đẩy mạnh quá trình điều tra xét duyệt cho vay đối với dự án có hiệu quả. Nhìn chung, khách hàng đi vay vốn bao giờ cũng ngại thủ tục xét duyệt cho vay quá rườm rà. Trong bộ hồ sơ xin vay vốn trung dài hạn có rất nhiều các thủ tục xin vay: Đơn xin vay, luận chứng kinh tế kỹ thuật, dự án công trình được cấp có thẩm quyền phê duyệt, bản tính toán hiệu quả kinh tế của dự án, hạch toán vay, trả nợ, các hợp đồng cung ứng thiết bị, nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm. Các văn bản pháp lý và tài sản thế chấp, giấy bảo lãnh vốn vay, báo cáo thực trạng tài chính của doanh nghiệp, báo cáo quyết toán của doanh nghiệp kế tiếp hai năm về trước, các tài liệu khác có liên quan đến dự án và doanh nghiệp.
Trong các khách hàng vay vốn trung dài hạn của ngân hàng thì chủ yếu là khách hàng truyền thống và khách hàng lâu dài từ trước đã tham gia vay vốn ngắn hạn của ngân hàng. Vì vậy giữa bộ hồ sơ vay vốn trung dài hạn với hồ sơ vay vốn ngắn hạn có 2 điểm trùng nhau đó là: Báo cáo thực trạng tài chính của doanh nghiệp, Báo cáo quyết toán của doanh nghiệp 2 năm kế tiếp trước đó. Do đó ngân hàng có thể đơn giản hai thủ tục này khi mà doanh nghiệp chưa có đủ thì hoàn toàn có thể áp dụng dựa vào bộ hồ sơ vay vốn ngắn hạn. Vì trong nghiệp vụ vay vốn ngắn hạn, cán bộ tín dụng vẫn phải thường xuyên kiểm tra tình hình tài chính doanh nghiệp. Tuy nhiên việc dựa vào bộ hồ sơ vay vốn ngắn hạn chỉ ứng dụng cho các đơn vị có quan hệ thường xuyên với ngân hàng, còn các đơn vị vay lần đầu thì cần phaỉ đẩy đủ thủ tục. Việc đơn giản thủ tục như vậy sẽ làm cho khách hàng không ngại ngần khi đặt quan hệ với ngân hàng. Việc các thủ tục xét duyệt đơn giản cũng sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng điều tra có trọng điểm, không mất thời gian tìm hiẻu hiểu quá lâu. Đơn giản không có nghĩa là qua loa hời hợt, đó là nguyên tắc của ngân hàng trong điều tra cho vay.
* Nâng cao hơn nữa việc kiểm tra thẩm định hiệu quả kinh tế củ khoản vay và dự án vay.
Thẩm định dự án là khâu đầu tiên và then chốt trong công tác tín dụng. Thẩm định dự án nhằm kiểm tra khẳng định lại những chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật của dự án đầu tư như: quy mô đầu tư, thiết bị công nghệ năng lực công suất máy móc, khối lượng và chất lượng sản phẩm, thị trường tiêu thụ, trên cơ sở đó để đi đến đầu tư.
Ngân hàng Công thương Ba Đình trong việc thẩm định đã đạt được những thành tựu đáng kể. Nhưng để hoàn thiện hơn thì ngân hàng cần chú ý, ngoài việc kiểm tra tính đầy đủ, tính hợp pháp của các văn bản hồ sơ pháp lý về kinh doanh dự án vay. Quan trọng là việc thẩm định các căn cứ dùng làm cơ sở để tính toán dự án vay, thẩm định tính hiện thực, tính khả thi của các cơ sở, tiền đề từ đó có dự báo về hiệu quả và khả năng vay trả.
Thông thường khi vay vốn người đi vay đã luận ý, đã tính toán hiệu quảkt, tính toán nguồn vốn và khả năng vay trả của dự án. Với giác độ là người cho vay vốn ngân hàng phải thẩm định kiểm tra lại các cơ sở lập luận và cơ sở tính toán của người vay để làm sáng tỏ mọi khía cạnh trong dự án. Hiệu quả kinh tế cao hay thấp của dự án vay có quan hệ hữu cơ khăng khít và thường quyết định khả năng vay trả tốt hay xấu cảu dự án vay. Nhưng nếu ngân hàng chỉ dừng lại ở các chỉ tiêu hiệu quả của khoản vay thì chưa đủ, mà điều quan trọng là: trả nợ bằng nguồn vốn nào, nguồn trả nợ có đảm bảo không, trả nợ trong bao lâu, lịch trả nợ cụ thể như thế nào.
Vì vậy ngoài việc thẩm định lại hiệu quả kinh tế của dự án vay, ngân hàng cần phải chú trọng kiểm tra các nguồn vốn để trả nợ, trả lãi, thời hạn trả nợ hiện thực khả thi, lịch trả nợ, trả lãi cụ thể. Do vậy ngân hàng cần có một đội ngũ thẩm định có chuyên môn vững vàng, có nhiệt tình cao nghiêm khắc và mềm mỏng trong các trường hợp khác nhau có thể xảy ra trong công việc.
* Đẩy mạnh nâng cao chất lượng quản lý trong quá tình cho vay theo dõi đôn đốc thu nợ và thu lãi.
Nếu thẩm định dự án là khâu đầu tiên và lâu khâu quyết định chung đối với dự án thì quá trình đưa vốn ra, theo dõi đôn đốc thu nợ cũng là khâu không kém phần quan trọng. Khi một dự án đầu tư trung - dài hạn được cho vay theo đúng mục đích, đúng lúc, đúng thời điểm, đúng số vốn theo lịch vay vốn ghi trong hợp đồng tín dụng thì công việc quản lý vay vốn ở đây là theo dõi kiểm tra số vốn và doanh nghiệp rút ra lần trước có sử dụng đúng mục đích không. Việc kiểm tra này thông qua các chứng từ hoá đơn, hợp đồng giá cả. Nếu doanh nghiệp sử dụng đúng mục đích ghi trong hợp đồng tín dụng thì đó là cơ sở cho việc phát vốn lần sau. Những trường hợp nếu sử dụng sai mục đích thì phải sử lý ngay theo chế độ tín dụng. Ngoài ra phải theo dõi, bám sát mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp để đánh giá chính xác những diễn biến trong mỗi quan hệ giữa doanh nghiệp với khách hàng của doanh nghiệp từ đó có các thông tin chính xác, phát hiện kịp thời khả năng có thể phát sinh nợ quá hạn, nợ khó đòi, từ đó có biện pháp xử lý ngay.
Việc đôn đốc thu nợ, thu lãi đúng kỳ hạn và đủ là trách nhiệm là kỷ luật cán bộ tín dụng. Lịch trả nợ gốc và lãi đã cam kết trong hợp đồng tín dụng phải theo dõi hàng ngày. Ngân hàng đồng thời phải gửi giấy báo cho doanh nghiệp chuẩn bị nguồn trả vào trước kỳ hạn. Việc thu nợ, lãi đúng kỳ hạn sẽ không có nợ quá hạn, thể hiện sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.
Khi một dự án vay mà đã hết hạn trả nhưng doanh nghiệp chưa có nguồn vốn để nợ thì việc xem xét được gia hạn, trả nợ gốc phải đúng thẩm quyền được uỷ nhiệm và các chế độ tín dụng quy định, không tuỳ tiện gia hạn, nếu trong các dự án cho vay mà có nợ quá hạn, thì cán bộ tín dụng phải thường xuyên theo dõi mọi diễn biến để kịp thời thu hồi, tránh để nợ.
Để xử lý nợ quá hạn thì ngân hàng có biện pháp thích hợp để giúp đỡ doanh nghiệp tháo gỡ mọi khó khăn trong sản xuất kinh doanh, Ngân hàng giúp doanh nghiệp vịêc tư vấn trong sản xuất để giảm nợ quá hạn. Tuyệt đối không cho vay mới khi chưa hết nợ cũ, không lấy nợ, nuôi nợ.
* Luôn luôn dự báo các rủi ro tiềm ẩn trong tín dụng trung và dài hạn và có biện pháp phòng ngừa hữu hiệu.
Rủi ro thanh toán, rủi ro lãi suất luôn đe doạ các ngân hàng khi họ chiếm lĩnh thị trường trung và dài hạn bởi cấp độ rủi ro của khoản cho vay trung dài hạn lớn hơn đáng kể so với khoản cho vay ngắn hạn. Sự quan tâm đến vấn đề phòng ngừa rủi ro đối khoản vay trung dài hạn không chỉ đòi hỏi đối với ngân hàng kinh doanh mà còn đặc biệt đối với cơ quan quản lý tiền tệ. Bởi vì mức độ của khoản vay trung, dài hạn là rất lớn gây đột biến và kéo dài cho cả bên vay, ngân hàng tài trợ và các bên có liên quan. Chính vì vậy biện pháp xác định dự báo rủi ro tiềm ẩn trong thế chấp và bảo lãnh vay vốn là hết sức cần thiết đối với ngân hàng. Việc dự báo các rủi ro tiềm ẩn càng đầy đủ, các biện pháp phòng ngừa càng cẩn trọng thì hiệu quả sử dụng tín dụng ngay từ khâu phán quyết càng cao. Đương nhiên việc phát hiện và dự báo các rủi ro tiềm ẩn để đề ra các giải pháp phòng ngừa phải là việc làm liên tục, thường xuyên không chỉ trước khi phán quyết mà ngay cả trong suốt quá trình đưa vốn cho đến khi thu xếp hết nợ gốc và lãi vay.
Vì vậy khi tính toán nguồn trả nợ, thời hạn trả nợ, người ta phải tính cả phương án : phương án lạc quan nhất, phương án xấu nhất phương án trung bình nhất. Để an toàn và phòng ngừa các rủi ro tiềm ẩn có một cách thường dùng là lấy phương án xấu nhất để xem xét.
Nếu phương án này vẫn trả được nợ và lãi vay ngân hàng trong giới hạn cho phép, thì chắc chắn ngay từ khi phán quyết đã có thể yên tâm về khoản vay được duyệt.
Thế chấp và bảo lãnh cho việc vay vốn là chìa khoá an toàn cuối cùng cho việc vay vốn. Trong điều kiện hiện nay, ngân hàng phải hết sức nhạy cảm, bảo đảm nguyên tắc và chấp hành nghiêm chỉnh quy định của Nhà nước, áp dụng một cách linh hoạt, sáng tạo nhưng không tuỳ tiện. Thực hiện việc thế chấp bảo lãnh đúng quy định và cho vay phải dựa trên những cơ sở thực sự từ phía doanh nghiệp không chỉ dựa vào duy nhất tài sản thế chấp.
* Ngân hàng cho vay đầy đủ, kịp thời đối với các dự án đầu tư
Ngân hàng cần đầu tư tiến hành dứt điểm cho từng dự án, từng công trình, tránh tình trạng cho vay tràn lan, kéo dài. Sau khi công trình đã được duyệt cho vay, ngân hàng cần phát triển tiền vay theo đúng kế hoạch tiến độ thi công của công trình hay d ự án kinh doanh đã đề ra.
Trong quá trình điều tra xét duyệt cho vay Ngân hàng cần chú trọng đến các công trình phục vụ cho mục tiêu chiến lược phát triển của Đảng và Nhà nước các công trình có tính chất phục vụ cơ cấu của nền kinh tế quốc dân, thực sự có hiệu quả đảm bảo đầu tư đúng mục tiêu, đúng kế hoạch có khả năng trả nợ và trả lãi vay Ngân hàng đúng hạn, có thời gian thu hồi vốn nhanh.
V iệc đầu tư một cách đầy đủ và kịp thời sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình đưa dự án của doanh nghiệp thực thi đúng tiến độ,đúng kế hoạch, sớm đưa dự án nào sử dụng và phát huy có hiệu quả, đảm trừ đủ nợ, đủ lãi vay cho ngân hàng.
* Ngân hàng nên phát triển các trung tâm dịch vụ tư vấn đầu tư
Trong thời đại hiện nay, khi nền kinh tế đã phát triển, hệ thống thông tin đã rộng khắp, mạng lưới thông tin đã đi sâu vào mọi lĩnh vực ngành nghề thì việc đáp ứng các hiểu biết của con người trở lên cần thiết hơn. Cũng như nhiều trung tâm tư vấn khác, tư vấn ngân hàng là một lĩnh vực nhiều đánh giá phân tích, dự báo các thông tin về tình hình kinh tế, xã hội, luật pháp, thị trường giá cả... liên quan đến vấn đề đầu tư giúp cho các doanh nghiệp đưa ra quyết định đầu tư một cách đúng đắn nhất.
Cho đến nay hầu hết các doanh nghiệp nước ta ít hiểu biết về lĩnh vực đầu tư, chính vì vậy đầu tư vào các công trình chưa thu hút được kết quả như mong muốn, rủi ro trong đầu tư vẫn còn. Để phổ biến rộng khắp, giải đáp các thắc mắc, ngân hàng nên có các trung tâm đầu tư vào và đầu tư, luôn giữ thông tin của tất cả các khách hàng, Tru ng tâm này sẽ tập hợp tất cả các vấn đề về đầu tư, về các công trình hướng dẫn cố vấn các doanh nghiệp khách hàng.
Từ đó cố vấn cho các doanh nghiệp có nhu cầu tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển nhanh hơn điều đó cũng làm cho chính các ngân hàng phát triển thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế phát triển.
* Ngân hàng xử lý linh hoạt các tình huống trong quá trình vay
Xử lý linh hoạt các tình huống trong quá trình cho vay để bảo đảm cho lợi ích của ngân hàng và khách hàng, đầu tư một cách hiệu quả nhất. Ví dụ như trong quá trình ngân hàng cho đơn vị vay vốn, do giá cả thiết bị thay đổi, do tỷ giá hối đoái biến động... lúc đó thì tổng giá trị cho vay tăng lên cùng với hạng mục chi phí đã tính toán. Do vậy để tạo điều kiện cho doanh nghiệp vay vốn để thi công các công trình gọn, dứt điểm ngân hàng phải duyệt nhanh chóng, linh hoạt cho sự điều chỉnh lại phần vốn. Vấn đề này chỉ có thể thực hiện có hiệu quả khi cán bộ chuyên quản phải là người có trình độ phân tích và am hiểu về lĩnh vực hoạt động của đơn vị và là người tham mưu cho đơn vị những phương cách giải quyết sao cho hai bên cùng có lợi.
* Ngân hàng cần có các chính sách thích hợp đối với nguồn nhân lực làm công tác tín dụng đảm bảo năng lực, phẩm chất, xông xáo, năng động, sáng tạo hiểu biết trong nhiều lĩnh vực.
Hoạt động tín dụng sử dụng phần lớn nguồn vốn của ngân hàng, giao tiền vào tay người khác chính vì vậy cán bộ tín dụng đòi hỏi phải có trình độ chuyên môn cao. Nhất là trong lĩnh vực dài hạn phải thẩm định dự án, dự đoán trước cho một khoảng thời gian dài vì vậy cán bộ tín dụng phải có cái nhìn tổng quan, có đầu óc phán đoán. Chính vì vậy, Ngân hàng nên chọn những cán bộ có đủ năng lực và nhiệt tình công tác vào hoạt động tín dụng trung dài hạn. Thực hiện đào tạo lai hoặc hướng dẫn nghiệp vụ kinh tế thị trường cho đội ngũ cán bộ làm quá lâu trong thời kỳ bao cấp. Tuyển chọn những cán bộ trẻ tuổi có năng lực thực sự am hiểu về kinh tế thị trường.
2. Về phía các doanh nghiệp ( khách hàng)
Ngân hàng công thương Ba Đình hoạt động kinh doanh chủ yếu trên địa bàn Hà Nội, trong họat động tín dụng trung dài hạn cho vay chủ yếu là cho vay cô ng thương nghiệp, xây dựng cơ bản và giao thông vận tải. Như vậy rủi ro tín dụng do khách quan đem lại là rất ít mà chủ yếu là do nguyên nhân chủ quan.
Hiện nay, do có sự quy định về trách nhiệm hình sự đối với mỗi cán bộ tín dụng nếu mắc phải sai lầm nên môí món vay đều được xem xét kiểm tra rất chặt chẽ. Do đó nguyên nhân rủi ro tín dụng do lỗi của ngân hàng thường không nhiều mà nguyên nhân chủ yếu hiện nay là do các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, sử dụng vốn vay sai mục đích dẫn đến không trả nợ được cho ngân hang.
Theo tôi mong muốn lớn nhất hiện nay của Ngân hàng Công thương Ba Đình hiện nay là các doanh nghiệp đặc biệt hay là Doanh nghiệp Nhà nước hay tuân thủ đúng những cam kết trong hợp đồng tín dụng để hoàn trả nợ đúng hạn, giúp ngân hàng có thêm nguồn vốn để đầu tư cho các dự án tiếp theo. Cán bộ ngành chỉ đạo các doanh nghiệp phải có biện pháp sử dụng vốn vay ngân hàng đúng mục đích, kiểm soát chặt chẽ vốn đầu tư, đảm bảo có hiệu quả kinh tế.
Ngoài ra, theo tôi để ngân hàng có thể kiểm tra, theo dõi hoạt động tài chính của các doanh nghiệp một cách dễ dàng và thuận lợi hơn thì các doanh nghiệp Nhà nước đặc biệt là các doanh nghiệp lớn nên thực hiện chế độ kiểm toán nội bộ và kiểm toán độc lập nhằm giúp cho chủ doanh nghiệp có thể nắm được tình hình tài chính của doanh nghiệp một cách đầy đủ chính xác. Tuy nhiên hiện nay các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam thường không thích sử dụng kiểm toán trong khi đó, kiểm toán Nhà nước lại tiến hành không thường xuyên. Do đó, theo tôi, trong tương lai, Nhà nước cần có văn bản quy định về việc thực hiện kiểm toán áp dụng bắt buộc đối với tất cả các doanh nghiệp Nhà nước lớn và vừa. Nên tiến hành kiểm toán độc lập để có “ cái nhìn” khách quan nhất đối với tình hình của doanh nghiệp. Việc làm này không những giúo cho các bộ, các ngành kiểm tra được tình hình tài chính, tình hình sử dụng kinh phí do ngân sách cấp của các doanh nghiệp trực thuộc một cách đầy đủ và chính xác nhất mà còn giúp cho ngân hàng trong việc bảo đảm vốn tín dụng của mình.
Tóm lại, nếu mỗi khách vay đều có sự phối hợp chặt chặt chẽ giữa ngân hàng và doanh nghiệp, nhất là sự nỗ lực của các doanh nghiệp thì rủi ro tín dụng trong cho vay của ngân hàng sẽ giảm đi rất nhiều, chất lượng tín dụng sẽ đạt hiệu quả cao.
III. Những điều kiện cần thiết để đảm bảo cho việc thực hiện các giải pháp
1. Về phía Nhà nước cần nhanh chóng hoàn thiện môi trường pháp lý
- Do tình hình kinh tế xã hội phát triển nhanh, nhiều quan hệ xã hội mới phát sinh trong nền kinh tế thị trường thực sự đòi hỏi phải có pháp luật điều chỉnh, tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh trong sự phát triển kinh tế. Chính vì vậy đòi hỏi một hệ thống pháp luật đồng bộ làm chỗ dựa pháp lý cho ngân hàng, cho doanh nghiệp là rất cần thiết. Hơn thế nữa, luật lệ của nước ta chưa ổn định, thay đổi luôn luôn không tạo ra được cơ sở vững chắc cho ngân hàng: Việc ban hành các luật doanh nghiệp, luật đầu tư nước ngoài, luật đất đai nhà cửa... luôn bị sửa đổi, vì vậy các giấy tờ liên quan như giấy phép kinh doanh, giấy sở nhà đất không rõ ràng đối với ngân hàng, rất khó khăn trong việc xem xét dự án để cho vay.
- Nhà nước cần có biện pháp đồng bộ để ổn định tiền tệ’
Nền kinh tế Việt Nam về cơ bản đã thoát khỏi cảnh đói nghèo và đang t iến lên một nền kinh tế mới theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. Tỷ lệ tăng trưởng hàng năm cao, lạm phát ở mức thấp. Tuy nhiên, vẫn còn không ít các nhân tố đe doạ giá trị đồng Việt Nam. Chính vì vậy, ngân hàng Nhà nước cần phải kiên trì và cương quyết xây dựng, sử dụng đồng bộ và có hệ thống công cụ quản lý vĩ mô để tiếp tục đẩy lùi lạm phát, đưa tỷ lệ lạm phát ổn định ở mức thấp, tránh nguy cơ tái lạm phát cao hoặc biến động thất thường.
Chính sách tiền tệ, chính sách tài khoá cũng được điều chỉnh đồng bộ nhịp nhàng. Công cụ lãi suất, tỷ giá hối đoái phải thực sự phù hợp với biến động thị trường, tránh gây đột biến cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, của ngân hàng. Nhà nước phải cung cấp các thông tin về dự báo thị trường cho mọi thành phần kinh tế qua các phương tiện thông tin đại chúng hữu hiệu nhất, Ví dụ như khủng hoảng tài chính Châu á vừa qua thay đổi tỷ giá USD/VNĐ đã gây không ít khó khăn cho hoạt động ngân hàng thương mại.
Việc thiết lập một môi trường kinh tế lành mạnh, giá trị đồng tiền ổn định, chính sách lãi suất hợp lý sẽ kích thích dân chúng gửi vốn với kỳ hạn dài, các doanh nghiệp yên tâm nhập khẩu máy móc thiết bị, nâng cao năng lực và khả năng cạnh tranh kích thích đầu tư, vay vốn trung dài hạn t ừ ngân hàng và do vậy mức chi nợ tín dụngtrung dài hạn của ngân hàng sẽ tăng lên. Đồng thời, với chính sách tỷ giá hối đoái hợp lý, các ngân hàng sẽ yên tâm trong kinh doanh, thu hút vốn ngoại tệ, từ đó thúc đẩy cả tín dụng trung - dài hạn và ngắn hạn bằng USD.
- Việc mà Nhà nước ra đời thị trường chứng khoán thời gian qua đã thực sự là liều thuốc kích thích hàng loạt các công ty cổ phiếu ra đời. Nhưng sự thiếu thốn về mọi mặt, cơ sở vật chất kỹ thuật văn bản pháp quy đã làm cho hoạt động này dần dần đi vào tình trạng không khả quan. Nếu thị trường chứng khoán ra đời, việc tạo vốn qua thị trường này của các doanh nghiệp sẽ được tăng cường một bước tạo sự phát triển chung cho nền kinh tế. Các ngân hàng sẽ có thể tham gia với việc phát hành traí phiếu gọi vốn trung - dài hạn. Ngân hàng có thể tạo thêm nhiều nghiệp vụ đa dạng, phong phú hơn như đại lý phát hành, tư vấn lãi suất, lưu giữ và quản lý chứng khoán, thanh toán chứng khoán.
- Đối với các doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta hiện nay việc thiếu vốn trong sản xuất kinh doanh là một vấn đề đáng lo ngaị của nhiều cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp. Chính vì vậy Nhà nước cũng cần quy định lại mức vốn cố định tối thiểu đối với doanh nghiệp Nhà nước để từ đó các ngân hàng thương mại có cơ sở vững chắc để cho vay, tránh trường hợp chuyển vốn ngắn hạn sang cho vay trung dài hạn, vì điều này sẽ gặp rủi ro mất vốn khá cao.
Ngoài ra việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là một phương thức sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước, huy động các nguồn vốn từ các thành phần kinh tế khác tham gia vào phát triển kinh tế. D o vậy chúng ta có thể nói : Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước có cơ hội tăng vốn tự có, trang trải nợ nhằm tạo ra sức cạnh tranh tính chiến lược hình thức quản lý mới. Nếu chúng ta không khẩn trương việc cổ phần hoá, thì doanh nghiệp sẽ mất cơ hội tiếp cận với các khoản tín dụng lớn ( nói cách khác thì nguyên tắc cân bằng 1/1 trong điều 11 của Nghị định 59 /CP còn lâu mới thực hiện được)
Vì vậy cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước là một trong những giải pháp vì nó quan trọng nhất có khả năng giải quyết những mâu thuẫn hiện nay của nền kinh tế đó là : ngân hàng thương mại thì thừa vốn sử dụng không cho vay được, ngược lại các doanh nghiệp Nhà nước đang thiếu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình nhưng lại bị trói buộc về cơ chế tín dụng hiện hành của ngân hàng thương mại, và không vay được với tín dụng. Hơn nữa trong cơ chế thị trường có sự định hướng của Nhà nước, ngân sách Nhà nước không đủ và không thể bao cấp được tất cả các doanh nghiệp Nhà nước thì việc cung cấp đủ vốn cho doanh nghiệp lớn như hiện nay là điều hợp lý. Chính sách này cũng tạo điều kiện cho chi nhánh thu thập thông tin đầy đủ hơn về các doanh nghiệp, bởi vì, muốn huy động vốn từ việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu thì họ phải công khai các thông tin về tình hình tài chính của mình một cách chính xác và đầy đủ.
2. Về phía ngân hàng Nhà nước cần có chính sách lãi suất hợp lý
Hiện nay, ngân hàng Nhà nước quy định khung lãi suất cho các ngân hàng thương mại quốc doanh. Khung lãi suất này được xác định ở một biên độ nhất định đối với tất cả các ngân hàng Nhà nước thuận lợi hơn trong việc điều khiển chính sách tiền tệ. Nhưng đối với các ngân hàng, khi áp dụng khung lãi suất này đã làm giảm sự cạnh tranh giữa các ngân hàng bởi lãi suất này chính là gía cả của ** mà giá cả thì quyết định bởi chất lượng uy tín. Các điểm này không hề giống nhau giữa các ngân hàng. Làm giảm sự cạnh tranh giữa các ngân hàng tức là không phù hợp với nền kinh tế thị trường.
Khi áp dụng khung lãi suất này, ngân hàng chỉ đựơc ấn định trong một khoản chênh lệch lớn, do đó khi quyết định tăng lãi suất huy động không có ngân hàng nào lại chịu giữ nguyên lãi suất tiền vay. Vì vậy để áp dụng mức lãi suất đầu vào, đầu ra hợp lý trên thị trường đòi hỏi ngân hàng Nhà nước phải có biện pháp hữu hiệu nhất cho chính sách lãi suất. Ngân hàng Nhà nước có thể chỉ áp dụng kiểm soát đầu ra của lãi suất còn để các ngân hàng thương mại tự khống chế đầu vào nhưng không được quá tuỳ tiện nhất là ở những địa bàn ít các ngân hàng hoạt động.
Đối với tín dụng trung dài hạn thì việc áp dụng lãi suất cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn là hoàn toàn hợp lý nhưng cao hơn bao nhiêu là đủ khi mà nguồn vốn phải huy động với lãi suất cao do vốn trung dài hạn rất khó thu hút. Do đó mức chênh lệch thu lợi nhuận của ngân hàng còn nhỏ dẫn đến khó khăn cho việc mở rộng hoạt động tín dụng trung dài hạn. Trong khi đó chu kỳ của tín dụng trung dài hạn là dài vì trong đó tiềm ẩn nhiều rủi ro. Vì vậy việc áp dụng lãi suất hợp lý cho tín dụng ngân hàng là rất cần thiết đặc biệt là lãi suất đối với tín dụng trung dài hạn để vừa đảm bảo cho lợi nhuận ngân hàng vừa phù hợp với việc vay vốn của doanh nghiệp, tránh tình trạng lợi nhuận của doanh nghiệp chỉ đủ t rả lãi ngân hàng.
3. Về phía Ngân hàng Công thương Việt Nam
Đối với Ngân hàng Công thương Việt Nam tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng hiệu quả họat động kinh doanh.
Với phương châm hành động : “ ổn định, an toàn, hiệu quả và phát triển “Ngân hàng Công thương Việt Nam tiếp tục đổi mới toàn diện hoạt động kinh doanh, phấn đấu giữ vững vị trí là một trong những Ngân hàng thương mại quốc doanh có vai trò chủ đạo, chủ lực trên lĩnh vực huy động vốn và cho vay phát triển nền kinh tế Việt Nam. Để thực hiện mục tiêu trên, trong thời gian tới Ngân hàng Công thương Việt Nam phải tập trung triển khai thực hiện nghị quyết Trung ương IV và luật ngân hàng theo các vấn đề trọng tâm sau đây.
3.1 Điều chỉnh lại bộ máy tổ chức, cán bộ và mạng lưới kinh doanh
+ Sắp xếp và kiện toàn lại đội ngũ cán bộ trong toàn hệ thống, trước hết là đội ngũ cán bộ chủ chốt. Xử lý nghiêm túc các cán bộ sai phạm và kém phẩm chất. Thực hiện chế độ thay đổi luân phiên giữa các chi nhánh, không để một giám đốc điều hành một chi nhánh quá 5 năm.
+ Củng cố, sát nhập, giải thể đối với các chi nhánh phụ thuộc, trực thuộc các phòng giao dịch, cửa hàng kinh doanh vàng bạc, cầm đồ không phù hợp về mô hình tổ chức, kinh doanh thua lỗ, hoặc thị trường nhỏ hẹp, chưa có nhu cầu.
+ Phát triển mới các chi nhánh, các phòng giao dịch tại các khu vực kinh tế phát triển thực sự có nhu câù và có thị trường.
3.2 Tăng trưởng tín dụng đầu tư có hiệu quả, bảo toàn, phát triển vốn kinh doanh
+ Đảm bảo huy động đủ vốn đáp ứng yêu cầu chung đầu tư phát triển kinh tế.
+ áp dụng chính sách khách hàng, nâng cao chất lượng thẩm định, phân tích tín dụng, chọn lọc khách hàng tốt, dự án có hiệu quả, đảm bảo nguyên tắc bảo toàn và phát triển vốn kinh doanh của ngân hàng.
3.3 Nâng cao chất lượng và đa dạng hoá các dịch vụ ngân hàng
+ Mở rộng và nâng cao chất lượng, hiệu quả các dịch vụ ngân hàng hiện có.
+ Phát triển dịch vụ mới, trên cơ sở khai thác có hiệu quả tối đa năng lực, cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ tin học và mạng lưới kinh doanh rộng lớn.
3.4. Hoàn thiện cơ chế, quy chế hoạt động kinh doanh
+ Bổ sung hoàn thiện, ban hành mới các quy chế, quy chế quản trị, điều hành nghiệp vụ phù hợp với luật Ngân hàng.
3.5. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
+ Triển khai chương trình đào tạo bồi dưỡng kiến thức quản trị kinh doanh kỹ thuật nghiệp vụ, pháp luật ngoại ngữ, tin học.. cho tất cả cán bộ công nhân viên phù hợp với yêu câù nhiệm vụ được giao.
3.6. Đẩy mạnh thực hiện chương trình hiện đại hoá ngân hàng
3.7 Công tác kiểm tra, kiểm soát
Nâng tầm vai trò quan trọng của bộ máy thanh tra, kiểm tra, coi trọng đúng mức công tác thanh tra, kiểm tra, coi đây là tiền đề để đảm bảo ngân hàng an toàn và phát triển.
kết luận
Nói tóm lại, với những đường lối kiên định của Đảng và Nhà nước ta, hoạt động tiền tệ và tín dụng trong những năm vừa qua của chi nhánh Ngân hàng Công thương Ba Đình rất đáng khen ngợi. Sự thành công này góp phần đáng kể vào những chuyển biến tích cực mạnh mẽ của nền kinh tế. Sự thành công này là do sự cố gắng nỗ lực của toàn thể các cán bộ của chi nhánh, sự chỉ đạo phối hợp chặt chẽ các ban ngành có liên quan cũng như sự khai thác triệt để những thuận lợi của mình.
Song song với việc đề cao lợi ích của mình. Chi nhánh không tách khỏi lợi ích chung của nền kinh tế. Là một doanh nghiệp quốc doanh, chi nhánh luôn bám sát những khó khăn trước mắt của những doanh nghiệp Nhà nước trên địa bàn để cùng nhau tìm ra những giải pháp hợp lý để giải quyết những vấn đề còn tồn tại trong nền kinh tế thị trường. Hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng trong đào tạo đối với doanh nghiệp Nhà nước nói riêng và chi nhánh đều đạt được những thành quả đáng khen ngợi. Đó là việc hạn chế đến mức tối đa những khó khăn về vốn trung dài hạn cho các doanh nghiệp Nhà nước trên địa bàn thủ đô, thúc đẩy các doanh nghiệp này làm ăn có lãi, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường để thực sự trở thành những “ con chim đào tạo trong nền kinh tế :”.
Song tình hình kinh tế xã hội trong thời gian qua còn có nhiều biến động sẽ gây tác động tiêu cực đến chi nhánh, tôi hy vọng rằng những gì đã đạt được trong thời gian qua sẽ là nền móng vững chắc để chi nhánh vượt qua những thử thách này, và để xứng đáng với danh hiệu là chi nhánh xuất sắc của hệ thống Ngân hàng Công thương Việt Nam trên địa bàn thủ đô.
Tài liệu tham khảo
- Các giáo trình tham khảo:
1. Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính (Frederic. SMishkin) Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật Hà Nội - 1998.
2. Ngân hàng thương mại (Edward W.Reed và Kdward. K.Gill) Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh. 1996
- Các báo và tạp chí có liên quan:
1. Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 237 tháng 2 - 2001
2. Kinh tế 2000 - 2001 Việt Nam và Thế giới
3. Báo NHCTVN 10 năm xây dựng và đổi mới số
4. Và một số tạp chí khác
- Các bài viết tham khảo khác:
1. Đảm bảo tín dụng trong cơ chế thị trường.Tác giả : Nguyễn Như Minh - Ngân hàng Nhà nước Trung ương
2. Để có thể nâng cao hiệu quả tín dụng Ngân hàng cho các doanh nghiệp Nhà nước. Tác giả : Nguyễn Minh Đạo - Ngân hàng công thương Việt Nam Việt Trì.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0284.doc