Đề tài Nâng cao hiệu quả công tác lập và quản lý dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng tại Công ty Tư vấn Đầu tư Xây dựng GTCC Hà Nội

+ Đối với những công trình được giao theo Kế hoạch Pháp lệnh ( A1) và các công trình do công ty tự khai thác ( A2): Giám đốc công ty trực tiếp ký hợp đồng với chủ đầu tư bằng tài khoản của Công ty. Xí nghiệp khảo sát thực hiện nhiệm vụ sản xuất theo đúng phiếu giao việc của Công ty. Việc hạch toán và phân bổ lợi ích với Xí nghiệp được thực hiện theo đúng quy chế đã ban hành ngày 5 tháng 2 năm 1999. + Đối với công trình do xí nghiệp tự khai thác ( A3): Giám đốc công ty uỷ quyền cho giám đốc Xí nghiệp khảo sát ký hợp đồng trực tiếp với chủ đầu tư bằng khoản thu của Xí nghiệp. Xí nghiệp tự hạch toán, làm nhiệm vụ đối với nhà nước và thực hiện trách nhiệm tài chính đối với Công ty theo quy chế ban hành ngày 14 tháng 4 năm 1999. Cả hai xí nghiệp đều có bộ phận nghiệp vụ chuyên ngành kế hoạch nghiệp vụ để giúp Giám đốc Xí nghiệp quản lý hạch toán theo chế độ chính sách hiện hành cũng như các quy định của Công ty. Các xí nghiệp phải làm văn bản báo cáo định kỳ hàng tháng và hàng quý tình hình thu – chi theo nghiệp vụ quản lý tài chính của đơn vị cho phòng Tài vụ của Công ty để tổng hợp thành báo cáo chung trình các cơ quan quản lý doanh nghiệp.

doc91 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1275 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao hiệu quả công tác lập và quản lý dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng tại Công ty Tư vấn Đầu tư Xây dựng GTCC Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i còn làm giảm tuổi thọ của máy móc thiết bị được đầu tư. Tuy nhiên, trong những năm qua, hệ số kỹ thuật sử dụng thiết bị của công tycũng đã tăng lên, đáp ứng được nhu cầu sản xuất và xây dựng ngày một cao của thị trường. Biểu 12: Hệ số kỹ thuật sử dụng thiết bị bình quân của công ty qua các năm Đơn vị tính % Năm 1997 1998 1999 2000 2001 2002 HS SD thiết bị 60.4 62.3 65.8 72.8 70.4 74.1 Nguồn: Báo cáo tổng kết của công ty qua các năm Quản lý rủi ro Do thông tin kém chất lượng kéo theo sự thiếu chính xác của các yếu tố trong lập và quản lý dự án nên thường gây ra rất nhiều rủi ro trong quản lý hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị thi công xây dựng. Yếu tố rủi ro nhất đối với quyết điịnh đầu tư mua sắm máy móc thiết bị là thị trường công việc xây dựng cơ sở hạ tầng cạnh tranh nhau quá gay gắt. Tất cả các doanh nghiệp xây dựng cơ sở hạ tầng đều phải cạnh tranh trên một thị trường có quy mô hãy còn khá khiêm tốn và tốc độ phát triển không cao, vì vậy tình trạng thiếu thị trường công việc cho công ty thường xuyên xảy ra. Hơn nữa, khi thực hiện những dự án lớn, công ty thường chỉ là nhà thầu phụ từng phần cho các nhà của nước ngoài, vì vậy giá bỏ thầu của công ty phải rất thấp để đảm bảo được hoạt động sản xuất liên tục của mình. Từ đó tất yếu dẫn đến việc các máy móc thiết bị buộc phải giảm mức khấu hao xuống thấp nhất, thậm chí không có khấu hao và hậu quả là công ty không thể đảm bảo được tiến độ hoàn vốn cho các dự án. Ngoài ra còn phải kể đến hàng loạt các yếu tố khác khi quyết định đầu tư mua sắm máy móc thiết bị xây dựng như rủi ro về công nghệ thiết bị, rủi ro về lạm phát,trượt giá…cũng có ảnh hưởng không nhỏ. IV. Một số những tồn tại chủ yếu trong công tác lập và quản lý dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng. 1. Chất lượng của công tác lập và quản lý dự án còn thấp Lập dự án đầu tư mua sắm thiết bị thi công trong doanh nghiệp xây dựng có đặc thù riêng do tác động của các đặc điểm thuộc ngành xây dựng. Qua quá trình phân tích công tác lập và quản lý dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng tại công ty có thể rút ra một số hạn chế cơ bản sau: Thứ nhất công ty chưa tuân theo đúng các yêu cầu quy định trong trình tự lập dự án đầu tư, đặc biệt là đối với những dự án phục vụ cho một công trình cụ thể. Trong thực tiễn có khi giai đoạn chuẩn bị đầu tư và giai đoạn thực hiện đầu tư được làm gối lên nhau. Điều này một mặt đảm bảo kịp thời tiến độ thi công nhưng nó sẽ ảnh hưởng đến công tác vận hành và quản lý dự án sau này. Thứ hai là các nội dung của dự án đầu tư chưa được thực hiện đầy đủ, chưa tuân theo các yêu cầu về nội dung của một dự án được quy định tại các Nghị định của Chính phủ trong từng thời kỳ mà gần đây nhất là Nghị định 52/NĐCP về quy chế quản lý đầu tư và xây dựng. Thứ ba là chất lượng của việc tính toán các chỉ tiêu hiệu quả trong phân tích tài chính dự án đầu tư còn nhiều hạn chế, các tính toán chủ yếu mang tính ước lượng chủ quan mà chưa dựa vào những biến động thực tế của thị trường cũng như thực tế của hoạt động sản xuất của công ty. Các chỉ tiêu hiệu quả mới chỉ dừng lại ở việc tính toán các chỉ tiêu NPV, NFV, IRR và thời hạn thu hồi vốn nhằm hợp lý hoá các thủ tục vay vốn ngân hàng mà chưa tính đến những chỉ tiêu hiệu quả quan trọng khác. Bên cạnh đó, tính khả thi về tài chính của dự án mới chỉ được đánh giá thông chỉ qua các chỉ tiêu phản ánh mặt tài chính mà chưa được thể hiện thông qua việc xem xét độ an toàn về tài chính như: An toàn về nguồn vốn, an toàn về khả năng thanh toán nghĩa vụ tài chính ngắn hạn và khả năng trả nợ, độ nhạy của dự án. Những chỉ tiêu an toàn về tài chính này rất quan trọng, đặc biệt là trong điều kiện thị trường xây dựng biến động liên tục như hiện nay thì việc xem xét chúng là rất cần thiết. Các dự án cũng chưa xem xét đến tỷ lệ trượt giá và tỷ lệ lạm phát. Lạm phát là sự giảm sức mua của đồng tiền nói chung. Còn trượt giá là sự tăng hay giảm giá của một mặt hàng nhất định. Trượt giá và lạm phát là yếu tố khách quan tác động đến các khoản thu chi và mức lãi suất thực tế của dự án. Bởi vậy, để đánh giá đúng hiệu quả tài chính của dự án trong bối cảnh nền kinh tế nước ta thì cần phải xét đến tác động này. Doanh thu và chi phí của các dự án tại công ty hầu hết đều được giữ nguyên trong suốt cả đời dự án là chưa được hợp lý vì nó chưa phản ánh trung thực những biến động về giá cả có thể xảy ra trên thị trường trong suốt những năm dự án vận hành sản xuất. Thứ tư công tác quản lý dự án chủ yếu được thực hiện bởi các đội sản xuất ngay tại công trường chứ chưa có một bộ phận riêng biệt đảm bảo theo dõi công tác này. Chính vì vậy mà quá trình quản lý dự án, đặc biệt là quản lý trong giai đoạn vận hành thường không nghiêm túc, chặt chẽ, các yêu cầu về bảo hành bảo dưỡng máy móc thiết bị thường bị bỏ qua. Về mặt nội dung, mặc dù các dự án có chia theo từng lĩnh vực quản lý cụ thể như quản lý thời gian, quản lý chất lượng, quản lý chi phí, quản lý rủi ro nhưng trên thực tế không có sự quản lý rõ ràng đối với từng lĩnh vực. Công tác quản lý do đó chỉ mang nhiều tính chất hình thức mà chưa phát huy được tác dụng một cách rõ ràng. 2. Công tác quản lý dự án chưa theo sát công tác lập dự án Do đặc điểm của ngành xây dựng trong một thời kỳ có thể cùng lúc thực hiện nhiều công trình khác nhau nên nhìn chung hoạt động quản lý dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị thi công ở khâu vận hành rất phức tạp. Công tác quản lý dự án đầu tư chỉ phụ thuộc vào yêu cầu thi công tại công trường chứ ít khi được quản lý theo từng nội dung cụ thể. Ngược lại, các dự án được lập cũng chủ yếu dựa vào yêu cầu thi công hoặc mục tiêu phát triển chiến lược của công ty chứ không dựa vào cơ sở thực tiễn quản lý dự án của những năm trước. Thêm vào đó, công tác quản lý dự án chủ yếu do các đội sản xuất tại công trường đảm nhiệm. Bộ phận này lại hoàn toàn độc lập với nhóm chuyên viên kiêm nhiệm lập dự án. Vì vậy mà công tác lập và quản lý dự án tại công ty hoàn toàn không được thông nhất với nhau cả về mặt nội dung và trình tự. Công tác lập dự án chưa tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý, và ngược lại, công tác quản lý dự án cũng chưa thống nhất về trình tự và nội dung để có những điều chỉnh trong khâu lập cho thích hợp. 3. Chưa áp dụng hình thức đấu thầu trong mua sắm thiết bị xây dựng Theo quy chế Đấu thầu, đối với những gói thầu mua sắm trị giá trên 2 tỷ đồng phải thực hiện đấu thầu. Nhưng trên thực tế, quy định này thường bị bỏ qua. Công ty thường không tổ chức đấu thầu theo quy định mà thường sử dụng hình thức chỉ định thầu hoặc chào hàng cạnh tranh trên cơ sở các mối quan hệ. Một số dự án có sử dụng biện pháp đấu thầu cạnh tranh hạn chế, nhưng thực chất cũng chỉ là chỉ định thầu do các nhà thầu liên kết với nhau nhằm đảm bảo cho việc thanh tra kiểm tra của các cơ quan pháp luật. Nội dung và quy trình chấm thầu của công ty cũng thiếu chuyên nghiệp. Do năng lực tài chính còn hạn chế nên công ty hầu như chỉ quan tâm đến yếu tố giá cả, còn các yếu tố về chất lượng công nghệ thường mơ hồ, thiếu những tiêu chuẩn chặt chẽ, các chế độ bảo hành bảo trì cũng không được quan tâm nhiều. Điều này là đặc biệt nguy hiểm đối với những thiết bị đã qua sử dụng. 4. Bộ máy lập và quản lý dự án chưa có tính chuyên nghiệp Công ty chưa có một tổ chức chuyên nghiệp để lập và quản lý dự án mà vẫn chỉ sử dụng các chuyên gia, các cán bộ kỹ thuật ở các phòng ban chức năng khác nhau tham gia lập và quản lý dự án đầu tư. Chính vì vậy mà công tác lập và quản lý dự án tại công ty không có trách nhiệm rõ ràng, không có một đầu mối để quản lý chung. Hơn nữa, chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ của các chuyên gia, các phòng chức năng không thống nhất, đôi khi còn mâu thuẫn làm cho việc lập dự án chồng chéo thiếu nhịp nhàng. Thêm vào đó, năng lực của các cán bộ lập và quản lý dự án còn hạn chế cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng của công tác này. V. Một số nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng của công tác lập và quản lý dự án đầu tư đổi mới công nghệ thiết bị xây dựng 1. Nguyên nhân từ thị trường công việc. Thị trường công việc chính là yếu tố cơ bản nhất, quyết định nhất đến hiệu quả đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị thi công của công ty. Nó tác động đến hiệu quả trên hai khía cạnh là: - Doanh thu - Lợi nhuận và thời gian hoàn vốn đầu tư Thông thường, khi lập dự án đầu tư mua sắm thiết bị xây dựng, công ty tuy đã tính toán đến yếu tố này nhưng diễn biến thực tế của thị trường rất phức tạp. Khi tính toán chỉ tiêu doanh thu hàng năm của máy móc thiết bị và công nghệ được đầu tư, công ty thường dựa vào năng suất bình quân của thiết bị, hệ số kỹ thuật của máy và những dự đoán chung nhất về hệ số sử dụng thiết bị. Nhưng thực tế lại không diễn ra như vậy. Đối với những dự án đầu tư vào công nghệ thiết bị cho một công trình cụ thể có thời gian xây dựng dài ( khoảng trên 50% thời gian hoàn vốn của dự án) thì các chỉ tiêu về hệ số sử dụng thiết bị có thể bảo đảm được. Còn đối với những dự án đầu tư vào thiết bị đặc chủng được lập theo mục tiêu chiến lược và kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp thì hệ số sử dụng thiết bị ước tính có thể khác rất xa so với thực tế. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt trên thị trường xây dựng cơ sở hạ tầng như hiện nay, muốn thắng thầu công ty phải giảm xuống mức thấp nhất tỷ lệ khấu hao cơ bản, thậm chí có trường hợp không tính khấu hao nhằm giành được công trình, từ đó làm cho thời hạn hoàn vốn đầu tư bị kéo dài, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động chung của đơn vị. 2. Nguyên nhân từ thị trường thiết bị xây dựng Thị trường thiết bị xây dựng hiện nay rất cạnh tranh, sôi động với nhiều chủng loại và giá cả khác nhau. Điều này một mặt tạo điều kiện thuận lợi cho công ty có thể lựa chọn những loại công nghệ và thiết bị phù hợp nhất với điều kiện và mục tiêu của mình, mặt khác cũng làm cho việc đánh giá xem xét lựa chọn thiết bị đầu tư của công ty gặp nhiều khó khăn. Đặc biệt, đối với những thiết bị đã qua sử dụng thì rủi ro này lại càng lớn bởi vì giá trị còn lại cũng như chất lượng thiết bị rất khó tính toán chính xác, nhất là trong điều kiện trình độ hiểu biết và khả năng nắm bắt thông tin của đội ngũ cán bộ kỹ thuật trong công ty còn quá mỏng. Bên cạnh đó, ở nước ta chưa có một cơ quan thống nhất thẩm định giá thiết bị chuyên nghiệp của Nhà nước, trong khi lĩnh vực này ở các nước rất phát triển. Việc đánh giá giá trị còn lại của máy móc thiết bị thường do công ty dự làm, lại chưa có một quy trình chuẩn dẫn đến việc thực hiện rất tuỳ tiện, gây ảnh hưởng xấu đến chất lượng của công tác lập dự án. 3. Nguyên nhân từ khả năng huy động vốn và năng lực tài chính của công ty Vốn đầu tư đổi mới công nghệ thiết bị thi công là yếu tố quan trọng có ảnh hưởng đến hiệu quả công tác lập và quản lý dự án đầu tư của công ty. Vốn đầu tư của công ty chủ yếu tập trung từ 3 nguồn: Nguồn vốn vay( Vốn vay tín dụng ưu đãi của nhà nước, nguồn vốn vay tín dụng của các Ngân hàng thương mại…) Nguồn vốn tự có của công ty( tích luỹ từ lợi nhuận giữ lại qua các năm) Nguồn từ khấu hao cơ bản Mỗi một nguồn vốn đều có những đặc điểm cũng như phương pháp quản lý khác nhau. Đặc biệt là đối với nguồn vốn vay, do không có khả năng đáp ứng các yêu cầu về bảo lãnh thế chấp nên việc huy động vốn đầu tư từ nguồn này thường gặp phải rất nhiều khó khăn. Kể cả khi đã vay được vốn rồi, công ty vẫn phải chịu sự quản lý rất chặt chẽ từ phía đơn vị cho vay trong suốt thời gian vay vốn. Có những trường hợp, cơ quan cho vay vốn còn tác động cả đến vấn đề quản lý dự án đầu tư mua sắm máy móc thiết bị thi công. 4. Nguyên nhân từ năng lực của đội ngũ cán bộ lập và quản lý dự án đầu tư còn hạn chế. Công tác lập và quản lý dự án là một công tác mang nhiều yếu tố chủ quan của con người. Vì vậy trình độ cũng như năng lực của cán bộ thực hiện công tác này đóng một vai trò quyết định đối với sự thành công hay thất bại của mỗi dự án. Tuy nhiên, thực tế tại công ty, các chuyên gia có kinh nghiệm nhất hiện nay chủ yếu được đào tạo từ trước những năm 90 trong điều kiện nền kinh tế quan liêu bao cấp, chưa có những kiến thức mới. Số kỹ sư, chuyên gia mới ra trường tuy được đào tạo chính quy nhưng kinh nghiệm thực tiễn chưa nhiều, chưa theo kịp với diễn biến của quá trình cạnh tranh gay gắt trên thị trường xây dựng. Thêm vào đó, trong suốt những năm qua, do năng lực tài chính của công ty có hạn nên chi phí dành cho đào tạo và đạo tạo lại nguồn nhân lực nói chung và đội ngũ cán bộ chuyên gia trong hoạt động lập và quản lý dự án nói riêng của công ty có nhiều hạn chế. Chính điều này đã có ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của công tác lập và quản lý đầu tư của công ty. 5. Nguyên nhân từ khả năng nắm bắt thông tin còn chưa chính xác. Trong giai đoạn hiện nay, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều đòi hỏi phải có lượng thông tin chính xác, đầy đủ và kịp thời. Hoạt động lập và quản lý dự án cũng không nằm ngoài tác động chung đó. Đối với hoạt động đầu tư mua sắm công nghệ và máy móc thiết bị, vấn đề thông tin lại càng trở nên đặc biệt quan trọng. Nó đòi hỏi các chuyên gia lập và quản lý dự án phải có thông tin từ nhiều nguồn, nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong đó những thông tin quan trọng nhất là các thông tin liên quan đến giá cả, nhà cung cấp, chất lượng và công nghệ của các thiết bị máy móc tương đương khác nhau trên thị trường. Ngoài ra các chuyên gia lập dự án cũng cần phải nắm được tình hình hoàn thiện pháp luật và quy định điều chỉnh hoạt động đầu tư mua sắm trang thiết bị có liên quan, môi trường và xã hội ảnh hưởng đến quá trình vận hành dự án. Xuất phát từ thực tế đó, yêu cầu việc cập nhật thông tin liên tục nhiều chiều là một hoạt động thiết thực và không thể thiết trong công tác lập và quản lý dự án đầu tư mua sắm thiết bị xây dựng. Nước ta hiện nay do nhiều nguyên nhân khác nhau nên hệ thống thông tin còn nghèo nàn, các kênh thu thập thông tin còn thiếu và chưa đồng bộ. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động lập và quản lý dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng của doanh nghiệp nói riêng. Chính thực tế này đã không cho phép dự báo được những rủi ro tiềm tàng có thể nảy sinh bất cứ lúc nào, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của dự án, làm cho công tác lập dự án không được sát thực tới thực tế hoạt động trong giai đoạn vận hành . Hiện nay, Công Ty tư vấn đầu tư và xây dựng GTCC Hà Nội đã có nhiều điều kiện để cập nhật thông tin từ các nguồn khác nhau như qua báo chí trong nước và nước ngoài, qua hệ thống Internet và quan trọng nhất là qua trao đổi kinh nghiệm với các công ty xây dựng trong ngành. Tuy nhiên do thiếu tính đồng bộ và tính thường xuyên cũng như thiết kinh phí nên các thông tin thu thập được hãy còn rời rạc, chưa bắt kịp được với xu hướng biến động nhanh chóng của thị trường. Chính nguyên nhân này đã và đang là một yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động lập và quản lý dự án mua sắm thiết bị của công ty và cần được khắc phục trong thời gian tới. Chương III: Một số biện pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện công tác lập và quản lý dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng trong thời gian tới. I. Những cơ hội và thách thức đối với công ty trong thời gian tới và sự cần thiết phải hoàn thiện công tác lập và quản lý dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng 1. Những cơ hội và thách thức trong thời gian tới Thị trường xây dựng cơ sở hạ tầng đang tiếp tục phát triển với quy mô ngày một lớn. Như đã phân tích ở phần trên, nó chính là yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô và hiệu quả hoạt động đầu tư mua sắm thiết bị thi công công trình của công ty. Chiến lược phát triển cơ sở hạ tầng được chia làm 3 giai đoạn: Giai đoạn 2000 - 2005: Củng cố, khôi phục và nâng cấp các công trình giao thông và cơ sở hạ tầng hiện có, tập trung đầu tư chiều sâu một số công trình quan trọng để nâng cao năng lực thông qua xây dựng đồng thời một số công trình có yêu cầu cấp thiết. Đối với các công trình mới, thực hiện thiết kế và xây dựng theo tiểu chuẩn quốc tế. Giai đoạn 2005 – 2010: Tiếp tục củng cố, nâng cấp các cơ sở hạ tầng hiện có, hoàn chỉnh hệ thống cơ sở hạ tầng, xây dựng thêm những tuyến giao thông mới. Giai đoạn 2011 – 2020: Tiếp tục hoàn thiện và từng bước hiện đại hoá mạng lưới cơ sở hạ tầng giao thông và cấp thoát nước. Là một đơn vị thiết kế và xây dựng chủ yếu tập trung vào những công trình trọng điểm trên địa bàn thành phố Hà Nội, định hướng chiến lược của thành phố về phát triển cơ sở hạ tầng mang một ý nghĩa quyết định đến sự phát triển của toàn công ty nói chung và đến hoạt động đầu tư mua sắm máy móc thiết bị thi công nói riêng. Với mạng lưới đường được quy hoạch trong tương lai theo Quyết định 108 của Thủ Tướng Chính Phủ thì tốc độ phát triển cơ sở hạ tầng và quy hoạch tổng thể của Hà Nội từ nay đến năm 2010 sẽ tăng rất mạnh, cụ thể là: Đẩy nhanh tiến độ xây dựng vành đai 3 cùng với cầu Thanh Trì để giảm nhu cầu vận tải liên tỉnh qua nội đô và cầu Chương Dương. Xây dựng các trục đường hướng tâm song song với các cửa ngõ đô thị để giảm tải mật độ tập trung vận tải cho các trục đường này, cụ thể là: + Xây dựng tuyến đường Thanh Xuân – Láng Hạ - Giảng Võ + Mở rộng và xây dựng mới một số đoạn thuộc tuyến đường nối từ Pháp Vân – Yên Sở – Vĩnh Tuy – Vành đai 1 kết hợp với việc phân luồng và mở rộng hướng tuyến Trương Định – Bạch Mai – Lò Đúc. + Nối thông và mở rộng hướng tuyến Cầu Diễn – Hoàng Quốc Việt – Hoàng Hoa Thám để giảm tải một phần cho tuyến đường 32 Cầu Giấy. Khai thông vành đai 1 đoạn từ Cầu Giấy – Giảng Võ - Ô Chợ Dừa- Bách Khoa đúng cấp đường tiêu chuẩn đã được quy hoạch. Xây dựng tuyến đường vành đai 2.5 vì tuyến đường này nối thông các khu đô thị mới, đồng thời giảm tải cho vành đai 1 và 2 phần phía nam sông Hồng, hoàn thiện phần phía Đông và phía Nam vành đai 3. Hoàn chỉnh, đa dạng hoá, hiện đại hoá kết cấu hạ tầng giao thông và cơ sở hạ tầng đô thị. Song song với việc thị trường công việc xây dựng cơ sở hạ tầng rất phát triển trong những năm tới thì mức độ cạnh tranh giữa các công ty xây dựng cũng ngày một gay gắt. Hiện trên cả nước có khoảng 5000 công ty xây dựng, trong đó có gần 100 công ty là các tổng công ty 90, trên 50 công ty xây dựng liên doanh, gần 30 công ty nước ngoài. Với một lực lượng lớn các nhà thầu như vậy thì trong những năm tới Công ty chắc chắn sẽ phải đối mặt với tình trạng cạnh tranh không chỉ về giá mà còn phải cạnh tranh cả về uy tín và chất lượng. Để đứng vững và phát triển được trên “sân chơi” này, trong tương lai công ty cần phải tiến hành đầu tư toàn diện để từng bước nâng cao được sức cạnh tranh của mình, trong đó đầu tư vào công nghệ và thiết bị thi công là một yếu tố mang tính chất quyết định đến thành công của công ty. 2. Sự cần thiết phải hoàn thiện công tác lập và quản lý dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng tại Công ty Tư vấn đầu tư và xây dựng GTCC – Hà Nội Trong giai đoạn hiện nay, để đáp ứng ngày một tốt hơn yêu cầu của thị trường xây dựng Hà Nội và các tỉnh lân cận, Công ty đã và đang ngày càng đẩy mạnh hoạt động đầu tư trên tất cả các mặt, trong đó đầu tư đổi mới thiết bị xây dựng được coi là một chiến lược hàng đầu. Xuất phát từ thực tế và yêu cầu đó, Công ty cần phải nhanh chóng hoàn thiện công tác lập và quản lý dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng để nhằm đảm bảo tính khoa học trong quá trình phân tích, đồng thời có thể tiết kiệm được thời gian và chi phí, tránh được những tổn thất trong quá trình huy động và sử dụng vốn. Công ty Tư vấn đầu tư và xây dựng GTCC Hà Nội là một công ty hoạt động trong lĩnh vực xây dựng và tư vấn thiết kế, hoạt động đầu tư mua sắm chưa nhiều nên kinh nghiệm trong công tác lập và quản lý dự án đầu trong lĩnh vực này còn thiếu. Vì thế, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn để hoàn thiện phương pháp lập dự án, tính toán các chỉ tiêu tài chính để từ đó làm cơ sở cho công tác quản lý dự án, từng bước xây dựng một quy trình lập và quản lý dự án hiện đại, phù hợp với các yêu cầu thực tế càng trở nên cấp bách và cần thiết hơn bao giờ hết. Chiến lược phát triển thị trường của Công ty Tư vấn đầu tư và xây dựng GTCC Hà Nội là từng bước chiếm lĩnh thị trường xây dựng cơ sở hạ tầng ở Hà Nội và từng bước mở rộng thị trường xây dựng cơ sở hạ tầng trong cả nước. Do đó, sự thành bại của các dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng hiện nay có vai trò quyết định đến kết quả của chiến lược dài hạn này. Hoàn thiện công tác lập và quản lý dự án trước hết sẽ tạo điều kiện để nâng cao hiệu quả hoạt động của dự án, và quan trọng hơn là nâng cao sức cạnh tranh của toàn công ty, từng bước mở rộng và chiếm lĩnh thị trường xây dựng. Với những cơ hội và thách thức như vậy, việc hoàn thiện công tác lập và quản lý các dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng là một yêu cầu cấp bách cần được công ty quan tâm nghiên cứu đầy đủ. Đây sẽ là nền tảng quan trọng cho việc mở rộng các hoạt động đầu tư nói chung và hoạt động đầu tư mua sắm thiết bị xây dựng nói riêng của công ty trong những năm tới. II. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác lập và quản lý dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng tại công ty 1. Xây dựng chiến lược phát triển doanh nghiệp nhằm đẩy mạnh hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng Các vấn đề cần phải chú ý khi xây dựng chiến lược phát triển của công ty bao gồm. - Chiến lược phát triển thị trường Trên cơ sở chiến lược phát triển cơ sở hạ tầng và giao thông vận tải của Nhà nước cho Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung từ nay đến năm 2010, trong đó so với thời kỳ 1995 – 2000, tốc độ tăng về nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng bình quân hàng năm tăng 1.5 lần (đối với cả nước) và 2.5 lần (đối với riêng Hà Nội). Cùng với việc nghiên cứu quy mô đầu tư trong các hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng, khả năng vươn ra thị trường các tỉnh lân cận và thị trường quốc tế, công ty cần đặt mục tiêu dài hạn trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng thông qua hàng loạt các biện pháp. Chiến lược huy động vốn Việc xây dựng chiến lược huy động vốn của công ty cần dựa trên quy hoạch chung của Nhà nước, bộ, ngành, cơ quan chủ quản và phù hợp với xu thế phát triển trên thị trường vốn Việt Nam. Đồng thời công ty cần xác định rằng việc tích luỹ từ quá trình sản xuất kinh doanh là nguồn vốn đầu tư chính. Cần phải cân đối giữa mở rộng quy mô đầu tư với năng lực tài chính thực tế của mình trên cơ sở theo sát những thay đổi của cơ chế chính sách Nhà nước được điều chỉnh cho từng thời kỳ. Chiến lược đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng Như đã phân tích ở trên, thiết bị xây dựng là một yếu tố quyết định đến mọi hoạt động và sự phát triển của toàn công ty. Vì vậy, chiến lược đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị thi công có ảnh hưởng quan trọng đến việc thực hiện các mục tiêu lâu dài của đơn vị. Ngoài chiến lược mở rộng quy mô đầu tư, công ty cần chú trọng đến hoạt động đầu tư vào các dây chuyền thiết bị thi công đồng bộ, hiện đại, công nghệ tiên tiến, chất lượng cao phù hợp với tốc độ phát triển của ngành xây dựng cơ sở hạ tầng nói riêng và chiến lược công nghiệp hoá - hiện đại hoá của cả nước nói chung. Trong chiến lược đầu tư vào thiết bị thi công, cần phải thể hiện rõ chiến lược đầu tư về mặt quy mô, chiến lược đầu tư về mặt chất lượng công nghệ, chiến lược đầu tư về mặt hiệu quả kinh tế có thể thu được, đồng thời phải có chiến lược đào tạo đội ngũ thợ công nhân kỹ thuật sử dụng thiết bị cũng như các vấn đề bảo đảm khác cho việc nâng cao hệ số sử dụng thiết bị 2. áp dụng hình thức đấu thầu trong mua sắm máy móc xây dựng Trước hết, công ty cần phải có cách nhìn nhận đúng đắn về hình thức đấu thầu trong mua sắm thiết bị. Quy chế đấu thầu đã quy định rằng đối với những gói thầu mua sắm hàng hoá trị giá từ 2 tỷ đồng trở lên cần thực hiện phương thức đấu thầu. Việc áp dụng đấu thầu trong mua sắm hàng hoá sẽ làm giảm chi phí đầu tư và nâng cao chất lượng thiết bị đầu tư. Tuy nhiên, trong quá trình chấm thầu để lựa chọn cho mình nhà cung cấp cũng như loại thiết bị phù hợp nhất, công ty cần chú trọng đến cả chất lượng cũng như giá cả của loại thiết bị đó. Thực tế đã cho thấy do vốn đầu tư thấp nên công ty thường chỉ chú ý đến mặt giá cả mà bỏ qua những yếu tố quan trọng khác như chất lượng, bảo hành hay uy tín của nhà cung cấp thiết bị trên thị trường. Để đảm bảo được yêu cầu về chất lượng cũng như giá thành, công ty cần phải tuân thủ những nội dung sau: Đánh giá nội dung kỹ thuật + Đánh giá mức độ đáp ứng các yêu cầu về số lượng, chất lượng. + Tính đồng bộ của công nghệ và thiết bị (đặc biệt quan trọng đối với những dây chuyền thiết bị có công nghệ cao đòi hỏi phải được vận hành đồng bộ). + Đáp ứng được các yêu cầu về điều kiện tự nhiên, khí hậu…Yếu tố này cũng rất quan trọng bởi phần lớn các thiết bị hiện đại công nghệ cao được sản xuất ở các nước phát triển có khí hậu ôn đới ( như Nga, Pháp, Đức, Mỹ...) có thể không phù hợp với điều kiện khí hậu nóng ẩm ở Việt Nam, dẫn đến công tác bảo hành bảo trì thiết bị gặp nhiều khó khăn và kết quả là tuổi thọ của thiết bị thường bị sụt giảm. + Phương án cung ứng lắp đặt thiết bị máy móc. + Mức độ thực hiện chuyển giao công nghệ. Đối với những loại thiết bị có công nghệ phức tạp, công tác chuyển giao cần phải được nghiên cứu tìm hiểu kỹ, đảm bảo cho lao động của công ty có thể vận hành tốt trong giai đoạn sử dụng sau nay. + Những biện pháp khắc phục ảnh hưởng của máy móc thiết bị tới môi trường. + Những giải pháp kỹ thuật phụ. Nhìn chung nếu thiết bị xây dựng đạt trên 70% thì đạt yêu cầu về chất lượng kỹ thuật. Tuy nhiên đối với những thiết bị đặc chủng, giá thành cao thì tỷ lệ này nhất thiết phải cao hơn để đảm bảo được một cách tốt nhất các yêu cầu kỹ thuật. Đánh giá nội dung tài chính Cần phải xác định được giá đánh giá dựa trên tổng chi phí cho toàn bộ đời máy để làm cơ sở so sánh giữa các nhà thầu khác nhau. Thiết bị của nhà cung cấp nào đảm bảo được trên 70% yêu cầu kỹ thuật hoặc cao hơn tuỳ từng trường hợp cụ thể, đồng thời có giá chào thầu thấp nhất sẽ trúng thầu và được công ty ký kết hợp đồng giao hàng. Bên cạnh đó, công ty cũng cần có một bộ máy chuyên nghiệp, có năng lực, có trình độ, có trách nhiệm và có khả năng nắm bắt tốt thông tin về thị trường thiết bị máy xây dựng để tổ chức triển khai đấu thầu cho từng dự án. Việc thực hiện tốt công tác đấu thầu sẽ giúp công ty giảm được chi phí đầu tư, đồng thời nâng cao chất lượng thiết bị được đầu tư, xét về mặt lâu dài sẽ có ảnh hưởng tốt đến hiệu quả của dự án đầu tư và hiệu quả hoạt động chung của cả công ty. 3. Sử dụng hình thức thức thuê mua đối với những loại máy móc đặc chủng. Trong thực tế hoạt động của doanh nghiệp, khi thắng thầu những công trình có giá trị lớn, thời gian thực hiện công trình kéo dài, công ty thường tiến hành mua ngay những loại thiết bị đặc chủng để phục vụ cho công trình đó. Khi công trình kết thúc, các loại máy móc thiết bị đã được đầu tư hầu như ít khi được sử dụng, hệ số sử dụng kỹ thuật có khi chỉ đạt tới 20 – 30% năm, gây ra rất nhiều sự lãng phí. Máy móc thiết bị tuy không được sử dụng nhưng vẫn hao mòn và do đó vẫn phải tính khấu hao. Để khắc phục tình trạng này, công ty có thể sử dụng phương thức thuê mua (hay còn gọi là thuê leasing) đối với những loại thiết bị đặc chủng để phục vụ cho việc thi công một công trình cụ thể nào đó. Thuê mua là thuê quyền sử dụng vốn dưới dạng tài sản được vận hành trong kinh doanh. Hiện nay có 2 loại thuê mua là thuê trọn gói ( thuê tài chính) và thuê vận hành, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà công ty có thể lựa chọn hình thức thuê mua nào cho phù hợp với hoàn cảnh điều kiện thi công cụ thể của mình. Các phương thức giao dịch của tín dụng thuê mua Tín dụng thuê mua là hình thức tài trợ tín dụng thông qua các loại tài sản, máy móc thiết bị. Đây là một phương thức giao dịch có lịch sử khá lâu đời, song nó mới được phát triển ở thị trường Việt Nam trong thời gian gần đây ở các Ngân hàng Thỏa thuận thuê mua là một hợp đồng giữa hai bên hay nhiều bên, liên quan đến một hay nhiều loại thiết bị. Theo đó, bên cho thuê chuyển giao cho bên thuê quyền sử dụng thiết bị trong một khoảng thời gian nhất định. Đổi lại, bên thuê phải phải trả một số tiền cho chủ tài sản tương ứng với quyền sử dụng và quyền hưởng dụng thiết bị Đối với phương thức thuế trọn gói: Là phương thức tài trợ tín dụng trung hạn hay dài hạn , không được huỷ ngang khi không được sự nhất trí của cả hai bên. Theo phương thức này, bên cho thuê thường đầu tư tài sản, thiết bị mà bên đi thuê cần và đã có những bước nghiên cứu về thị trường. Thông thường, một giao dịch được gọi là thuê trọn gói khi thời hạn thuê mua chiếm phần lớn đời máy và hiện giá thuần của toàn bộ khoản tiền thuê phải đủ để bù đắp những chi phí mua thiết bị tại thời điểm bắt đầu hợp đồng. Đối với phương thức thuê vận hành, thời hạn thuê thường tương đối ngắn so với toàn bộ tuổi thọ thiết bị, điều kiện chấm dứt hợp đồng cũng rất linh hoạt, chỉ cần báo trước và thời gian tương đối ngắn. Bên thuê phải chịu mọi chi phí vận hành của thiết bị như chi phí bảo trì, bảo hiểm, chi phí thuế…cùng mọi rủi ro và sự sụt giảm giá trị của thiết bị. Đối với công ty, với tư cách là người đi thuê thì việc lựa chọn phương pháp thuê vận hành có hiệu quả hơn. Còn đối với giao dịch thuê trọn gói, thực chất là một khoản vay đầu tư trung và dài hạn trong điều kiện thiếu khả năng bảo lãnh để vay vốn. Nhưng điều quan trọng hơn cả là công ty phải lựa chọn đúng giữa đầu tư mua sắm thiết bị và thuê mua thiết bị (cả thuê mua vận hành và trọn gói). Tuy nhiên sự lựa chọn thường dựa trên cơ sở trực giác mà chưa so sánh giữa ưu điểm và nhược điểm của các hình thức khác nhau. Công ty có thể lựa chọn giữa đầu tư hay thuê mua dựa trên việc tính toán các chỉ tiêu tài chính. Hai chỉ tiêu quan trọng nhất thường được dùng để so sánh lựa chọn phương án là NPV va IRR. Công ty dựa trên dòng tiền kỳ vọng do thiết bị xây dựng đó mang lại và từng loại lãi suất chiết khấu có thể tính được NPV và IRR của từng dự án. Khi đã xác định được dòng tiền của mỗi phương án, doanh nghiệp sẽ quyết định: Mua thiết bị nếu NPV của phương án đầu tư mua sắm thiết bị lớn hơn NPV của phương án thuê mua thiết bị và lớn hơn 0 Thuê mua thiết bị nếu NPV của phương án thuê mua thiết bị lớn hơn NPV của phương án đầu tư mua sắm thiết bị và lớn hơn 0 Trong thực tiễn, việc áp dụng những cơ sở trên đây còn phụ thuộc vào hoạt động kinh doanh của tổ chức thuê mua tài chính tại các ngân hàng, các tổ chức tài chính và đặc biệt là việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, quy chế quản lý có liên quan đến lĩnh vực này của Nhà nước. 4. Nâng cao chất lượng của công tác lập dự án Mặc dù công ty đã tuân theo đầy đủ các bước của công tác lập dự án từ khâu chuẩn bị đầu tư đến khâu thực hiện đầu tư và vận hành các kết quả đầu tư nhưng trên thực tế tầm quan trọng của nó chưa được đề cao đúng mức. Chính vì vậy trong quy trình lập dự án đầu tư đổi mới công nghệ và máy xây dựng, công ty cần đặc biệt quan tâm đầy đủ đến vấn đề này để đảm bảo chất lượng dự án đầu tư được lập. Việc thực hiện đúng trình tự, nội dung lập dự án đầu tư đổi mới công nghệ và máy xây dựng phù hợp với thực tiễn sẽ cho phép triển khai thực hiện dự án thuận lợi, đúng hướng. Muốn vậy, công ty cần phải chú ý làm tốt từ khâu nghiên cứu cơ hội đầu tư. Đây là một công tác có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với hiệu quả của công tác được lập vì có xác định được đúng đắn cơ hội đầu tư thì mới đảm bảo cho dự án đạt được hiệu quả cao. Nghiên cứu kỹ cơ hội đầu tư bao gồm nghiên cứu toàn diện các giải pháp công nghệ kỹ thuật trong hoạt động xây dựng của công ty để phục vụ cho chiến lược tổng thể chung hoặc phục vụ cho một công trình lớn mà công ty sẽ tham gia. Bên cạnh đó, công tác thẩm định dự án cũng cần phải được tính toán cụ thể và nghiêm túc, đặc biệt là thẩm định về giá và chất lượng của máy móc thiết bị xây dựng sẽ được đầu tư. Việc tính toán các chỉ tiêu hiệu quả trong phân tích tài chính cũng cần được theo sát với thực tế thị trường và tình hình hoạt động của công ty. Đặc biệt những yếu tố như chi phí nguyên vật liệu, doanh thu, khấu hao, lãi định mức cần phải được điều chỉnh sao cho phản ánh thực tế nhất những kết quả mà công ty sẽ thu được trong tương lai thông qua đầu tư vào dự án đổi mới công nghệ và máy xây dựng. Những biến động của thị trường xây dựng hay những thay đổi của Nhà nước về đơn giá xây dựng và đơn giá nguyên vật liệu xây dựng cũng cần phải được dự trù đầy đủ bằng các tính toán dựa trên cơ sở khoa học để việc tính toán các chỉ tiêu hiệu quả được chính xác và có ý nghĩa thực tế. Các yếu tố cần được quan tâm xem xét trong việc phân tích các chỉ tiêu tài chính bao gồm Chỉ tiêu thời hạn khấu hao tính toán Thông thường việc tính khấu hao thường tính đều đặn hàng năm, phụ thuộc chủ yếu vào 2 căn cứ: áp lực của tiến độ hoàn trả vốn vay của nguồn cung cấp tín dụng. Thời hạn khấu hao theo quy định của Nhà nước tại quyết định số 1062/TC/QĐ/CSTC ban hành ngày 14/11/1996 quy định về chế độ quản lý, sử dụng và tính khấu hao tài sản cố định. Để việc tính toán chỉ tiêu này được phù hợp với thực tiễn vận hành quản lý thiết bị, công ty cần tìm ra tỷ lệ khấu hao phù hợp cho từng dự án đầu tư khác nhau. Đối với các dự án thắng thầu có giá trị lớn, các thiết bị có khả năng phát huy công suất tối đa thì có thể tăng tỷ lệ khấu hao. Còn đối với các thiết bị đặc chủng được đầu tư thì tỷ lệ khấu có thể giảm đi tuỳ từng trưng hợp cụ thể. Xác định chỉ tiêu doanh thu hàng năm của thiết bị được đầu tư Qn = K . Q . G Trong đó: K: Số ca thiết bị hoạt động bình quân trong năm Q: Năng suất một ca máy tính theo đơn vị sản phẩm G: Đơn giá sản phẩm Trong khi Q và G thường có sai lệch không nhiều so với thực tế thì K lại là yếu tố bị sai lệch nhiều nhất. Sai lệch này bắt nguồn từ tác động của thị trường công việc, chất lượng thiết bị cũng như quá trình quản lý điều hành sản xuất trên công trường xây dựng. Để có thể đưa ra chỉ tiêu K có độ chính xác cao, khi lập dự án và để thuận lợi trong quá trình quản lý sử dụng thiết bị, công ty có thể vận dụng cách tính sau cho từng thiết bị hoặc cho tập hợp các thiết bị của dự án Qn= 365. W. a . g. G a: Hệ số sử dụng thiết bị bình quân hàng năm. g: Chỉ tiêu hệ số kỹ thuật. Nt: Số ngày thiết bị tốt bình quân trong năm Nh: Số ca hoạt động bình quân trong năm. Các chỉ tiêu a, g có ảnh hưởng quan trọng đến công tác lập và quản l‎ý dự án đầu tư của doanh nghiệp xây dựng. Hệ số kỹ thuật thiết bị phụ thuộc vào chất lượng, chủng loại thiết bị, phụ thuộc vào hệ thống tổ chức, bảo dưỡng, sửa chữa cũng như phụ thuộc vào trình độ vận hành của người điều khiển. Hệ số sử dụng thiết bị phụ thuộc vào thị trường công việc, phụ thuộc vào công tác quản lý, điều hành, sử dụng thiết bị, phụ thuộc vào thời tiết, chể độ nghỉ…Các chuyên gia khi xem xét chỉ tiêu này cần phải phân loại chất lượng, chủng loại thiết bị, đồng thời xem xét các yếu tố cụ thể dự kiến thời hạn đầu tư, tính toán của dự án để xác định các chỉ tiêu này một cách phù hợp. Để nâng cao hệ số kỹ thuật, hệ số sử dụng thiết bị trong giai đoạn quản lý, vận hành, cần: Tạo thị trường công việc ổn định Xây dựng chương trình sản xuất hợp lý Có hệ thống sửa chữa, bảo dưỡng linh hoạt Nâng cao chất lượng quản lý, điều hành của dự án thắng thầu. - Phân tích độ nhạy của dự án đầu tư Trong phân tích tài chính, các dự án đầu tư vào công nghệ và máy xây dựng của công ty cũng cần phải tính toán cả độ an toàn về mặt tài chính, bao gồm tính toán mức độ an toàn về vốn, an toàn về khả năng thanh toán nghĩa vụ tài chính ngắn hạn và khả năng trả nợ và quan trọng nhất là tính toán độ nhạy của dự án. Phân tích độ nhạy của dự án là xem xét các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án như NPV, IRR, thời gian hoàn vốn đầu tư…khi các yếu tố có liên quan như doanh thu, chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công trực tiếp thay đổi, qua đó cho biết dự án có đạt hiệu quả hay không khi những yếu tố tác động đến nó thay đổi theo chiều hướng không có lợi ( chi phí tăng, doanh thu giảm…). Khi các yếu tố ảnh hưởng đến chỉ tiêu hiệu quả tài chính thay đổi trong giới hạn nhất định theo hướng bất lợi mà các chỉ tiêu hiệu quả xem xét vẫn đạt hiệu quả (NPV vẫn đảm bảo dương, IRR vẫn đảm bảo lớn hơn r giới hạn) thì dự án đang xem xét được xem là an toàn. Hay nói một cách khác, phân tích độ nhạy nhằm xác định hiệu quả của dự án trong điều kiện biến động của các yếu tố liên quan đến chỉ tiêu hiệu quả tài chính đó. Phân tích độ nhạy của dự án giúp cho doanh nghiệp biết được dự án nhạy cảm với các yếu tố nào, hay yếu tố nào gây nên sự thay đổi nhiều nhất của chỉ tiêu hiệu quả xem xét để từ đó có biện pháp quản lý chúng trong quá trình thực hiện dự án. Mặt khác phân tích độ nhạy của dự án còn cho phép lựa chọn những dự án có độ an toàn hơn cho những kết quả dự tính. Dự án có độ an toàn cao là những dự án vẫn đạt được hiệu quả khi những yếu tố tác động đến nó thay đổi theo chiều hướng không có lợi. Trong điều kiện thị trường xây dựng ở nước ta thuờng xuyên biến động, tình hình cạnh tranh trên thị trường ngày một gay gắt, giá cả đầu vào nguyên vật liệu không ổn định thì việc phân tích độ nhạy trong các dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng tại Công ty Tư vấn Đầu tư và Xây dựng GTCC là hết sức cần thiết. Độ nhạy của các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng có thể được tính toán trên cơ sở sau ( Phân tích chi tiết độ nhạy ở phần Phụ lục) Biểu 78: Phân tích độ nhạy của dự án đầu tư vào dây chuyền rải bêtông cấp phối Nhật Bản năm 2000. Đơn vị: 1000đ Chi phí Doanh thu -10% PA cơ sở +10% -10% IRR 0,153784767 0,067835089 0,031275808 NPV 4.145.458,298 -528.251,4716 -5.264.545,534 PA cơ sở IRR 0,241669111 0,163944765 0,079212288 NPV 9.349.803,831 4.727.238,601 63.470,21806 +10% IRR 0.324572365 0,251134129 0,174000522 NPV 14.553.757,3 9.931.192,073 5.308.626,844 Nguồn: Tự tính dựa trên nguồn số liệu của dự án đầu tư vào dây chuyền rải bêtông cấp phối Nhật Bản năm 2000 Bảng phân tích độ nhạy dự án trên cho thấy, trong trường hợp có những thay đổi đồng thời bất lợi cho dự án (doanh thu giảm 10% và chi phí tăng 10% so với dự kiến ) thì dự án không còn khả thi nữa vì lúc này NPV < 0 và IRR nhỏ hơn tỷ suất chiết khấu. - Phân tích tài chính dự án đầu tư trong trường hợp tính toán đến các yếu tố trượt giá và lạm phát Trượt giá và lạm phát là yếu tố khách quan tác động đến các khoản thu chi và mức lãi suất thực tế của dự án. Bởi vậy để đánh giá đúng hiệu quả tài chính của dự án trong trường hợp có trượt giá và lạm phát cần phải tiến hành phân tích các yếu tố này. Cơ sở tính toán: Hệ số trượt giá doanh thu năm i = Hệ số trượt giá năm (i-1) * Tỷ lệ trượt giá hàng năm. Hệ số trượt giá chi phí năm i = Hệ số trượt giá năm (i-1) * Tỷ lệ trượt giá hàng năm Hệ số khử lạm phát năm i = 1/ ( 1+ tỷ lệ lạm phát năm (i-1))i. Trong đó, hệ số trượt giá và hệ số khử lạm phát năm thứ nhất bằng 1. Từ đó có thể tính toán các chỉ tiêu hiệu quả tài chính có tính đến các yếu tố trượt giá và lạm phát như trong biểu sau: 5. Công tác quản lý dự án cần phải được bám sát và phù hợp với công tác lập dự án Thực tế tại công ty, công tác quản lý dự án thường do các đội sản xuất trực tiếp thực hiện tại công trường, do vậy mà công tác quản lý dự án thường không theo sát với công tác lập dự án. Ngược lại, công tác lập dự án cũng chỉ dựa vào mục tiêu chiến lược của công ty hay những yêu cầu cụ thể của một công trình nào đó chứ ít khi quan tâm đến kết quả thực tiễn từ công tác quản lý của những dự án trước. Để khắc phục hạn chế này, công ty cần có những biện pháp đẩy mạnh sự gắn bó chặt chẽ giữa công tác lập và công tác quản lý Công tác quản lý cần phải tuân theo những yêu cầu cụ thể về nội dung và trình tự trong khâu lập dự án đã quy định, tiến hành quản lý từ khi chuẩn bị lập dự án cho đến khi dự án đi vào giai đoạn vận hành và kết thúc dự án. Đồng thời công tác lập dự án cũng cần phải tổng kết rút kinh nghiệm thực tiễn từ khâu quản lý dự án nhằm làm cho các kết quả tính toán mang tính thực tiễn cao và phù hợp với điều kiện thực tế của công ty. 6. Nâng cao năng lực trình độ của đội ngũ cán bộ tham gia công tác lập và quản lý dự án đầu tư đổi mới công nghệ thiết bị xây dựng Con người luôn là yếu tố trung tâm quyết định đến kết quả và hiệu quả của mọi hoạt động mà cụ thể ở đây là hoạt động lập và quản lý dự án đầu tư . Một dự án đầu tư dù cho có khả thi đến đâu cũng chỉ là vô nghĩa nếu người thực hiện không ý thức được nó, không có khả năng thực hiện được đồng thời cũng không cố gắng để đạt được mục tiêu. Chính vì vậy, tập trung vào nguồn nhân lực chính là biện pháp, chiến lược hàng đầu nhằm nâng cao hiệu quả của công tác lập và quản lý dự án đầu tư mua sắm máy xây dựng của công ty. Điều này đòi hỏi các cán bộ thực hiện công tác lập và quản lý dự án của công ty phải được trang bị đầy đủ kiến thức và kỹ năng để theo kịp được với những đỏi hỏi khắt khe của công tác này. Muốn vậy công ty cần phải thực hiện những biện pháp sau nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lưc của chính mình: Tổ chức đào tạo và đạo tạo lại cán bộ công ty nói chung và cán bộ lập và quản lý dự án nói riêng để nâng cao trình độ, nghiệp vụ chuyên môn ngay tại cơ quan hoặc cử đi học ở nước ngoài..với kinh phí do công ty tài trợ. Bên cạnh đó, công ty cũng cần phải có những biện pháp trả lương thích hợp đối với những đối tượng này. Thực hiện tốt chủ trương trích quỹ lương hàng tháng để lập quỹ đào tạo, đồng thời có kế hoạch đào tạo thường xuyên, ổn định và luân phiên nhau. Thường xuyên tổ chức các cuộc thảo luận, trao đổi về tình hình lập và quản lý dự án giữa nhóm chuyên gia lập và quản lý dự án với các đội sản xuất để có thể nâng cao tính thực tiễn cho đội ngũ cán bộ này. Việc đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực cần đảm bảo thoả mãn những yêu cầu sau: Năng động, chính xác, phù hợp với thị trường. Việc lựa chọn chuyên gia phải đảm bảo yêu cầu này để có thể xử lý linh hoạt, kịp thời phù hợp với mục tiêu của doanh nghiệp và tuỳ thuộc vào diễn biến của thị trường. Biết cách điều chỉnh, vận dụng những kiến thức mới, kiến thức thực tiễn. Chuyên sâu một công việc nhưng phải hiểu biết tổng thể nhiều lĩnh vực. Hoạt động lập và quản lý dự án đầu tư là một dây chuyền, trong đó các quá trình, nội dung công việc có liên quan chặt chẽ với nhau, đồng thời từng nội dung, từng công việc có yêu cầu chuyên sâu riêng. Do đó, việc bố trí, sử dụng các chuyên gia theo nguyên tắc này sẽ nâng cao chất lượng và hiệu quả công việc. Thông thao ngoại ngữ, pháp luật. Đây là một yêu cầu đặc biệt quan trọng của các chuyên gia. Để đảm bảo được yêu cầu này, công ty phải vận dụng bằng cách vừa làm vừa đào tạo, hoăc có thể tuyển chọn các chuyên gia, kỹ sư giỏi từ thị trường lao động, hoặc lựa chọn các kỹ sư mới ra trường cho tiếp xúc với thực tiễn. 7. Xây dựng hệ thống thông tin thường xuyên đảm bảo cho quá trình lập và quản lý dự án Nền kinh tế thị trường càng phát triển thì yêu cầu đảm bảo về hệ thống thông tin ngày càng cao, đồng thời công tác lập và quản lý dự án ngày càng đòi hỏi tính chính xác và đầy đủ. Do đó, ngoài việc trực tiếp bổ xung các thông tin còn thiếu, công ty cần phải tiếp tục bổ xung những thông tin mới dự án diện hơn, chi tiết hơn và đảm bảo tính chính xác cao hơn. Xuất phát từ những đặc trưng của hoạt động lập và quản lý dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng, trước hết công ty cần phải xác định được những loại thông tin cần bổ xung. Đó là những thông tin phản ánh đầy đủ những khía cạnh khác nhau của nền kinh tế thị trường. Những thông tin quan trọng mà công ty cần nắm bắt bao gồm : Thông tin ở tâm vĩ mô, gồm : Chính sách thuế, chính sách khuyến khích đầu tư, các quy định về đấu thầu, thuê mua thiết bị, các chính sách liên quan đến các hoạt động tín dụng và huy động vốn… Thông tin về thị trường xây dựng, gồm xu hướng phát triển của hệ thống cơ sở hạ tầng trên địa bàn thành phố và các tỉnh lân cận, quy hoạch hệ thống giao thông đường bộ, hệ thống cấp thoát nước, các công trình trọng điểm sẽ được triển khai xây dựng trong những năm tới. Thông tin về thị trường thiết bị xây dựng, bao gồm thông tin về các nhà cung cấp, thông tin về các công nghệ và thiết bị mới, thông tin về thị trường thiết bị đã qua sử dụng… Khi đã xác định được các thông tin cần thu thập, các chuyên gia lập và quản lý dự án cần tổng hợp và phân tích các thông tin một cách khoa học và có hệ thống theo phương pháp kênh thông tin, trong đó mỗi kênh phải có trách nhiệm tổng hợp đầy đủ và chính xác các thông tin liên quan tới lĩnh vực mà mình phụ trách. Theo đặc điểm và tính chất của nguồn thông tin, có thể phân thành các kênh sau : - Kênh thu thập các thông tin từ các cơ quan quản lý Nhà nước như :Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư,…Kênh này chuyên thu thập thông tin về các chính sách ưu đãi đầu tư, các loại thuế, tình hình hoàn thiện pháp luật liên quan đến hoạt động đấu thầu, tín dụng và các hoạt động huy động vốn khác. - Kênh thu thập thông tin từ các phương tiện truyền thông như báo chí, truyền hình, đài phát thanh, mạng Internet…Kênh này có thể thu thập các thông tin về tình hình thị trường xây dựng hay thị trường cung cấp công nghệ và thiết bị xây dựng trong nước và trên thế giới. - Kênh thu thập các thông tin tổng hợp khác. Việc phân chia các kênh thông tin như ở trên chỉ mang tính chất tương đối, bởi vì trong quá trình thu thập và tổng hợp thông tin không có sự tách bạch rõ ràng giữa các loại thông tin cũng như các nguồn thông tin. Do đó, việc kết hợp hoạt động của các kênh thông tin này sẽ là nhân tố quan trọng quyết định mức độ hoàn thiện của hoạt động thu thập thông tin. Bên cạnh đó, việc đảm bảo dòng thông tin được lưu chuyển thông suốt trong toàn bộ công ty cũng cần đặt lên hàng đầu. Những thông tin cần thiết liên quan đến lập và phân tích dự án cần phải được đặt lên hàng đầu và phải được cung cấp đầy đủ nhanh chóng. Hầu hết các cán bộ của công ty đều là những người rất có kinh nghiệm trong lưu trữ, phân tích và xử lý thông tin. Vì vậy công ty cần tiến hành tập hợp và xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu mang đặc thù riêng của Công ty và hoạt động đầu tư của công ty, trong đó có tổng hợp lưu trữ những thông tin có giá trị liên quan đến lĩnh vực đầu tư và xây dựng. Kết luận Cùng với sự phát triển kinh tế đất nước, thị trường xây dựng cơ sở hạ tầng cũng đang ngày một mở rộng. Chính điều này đã tạo ra những cơ hội cũng như thách thức cho Công ty Tư vấn Đầu tư và Xây dựng Giao thông công chính trên bước đường phát triển của mình. Trong điều kiện cạnh tranh găy gắt như hiện nay cộng với sự hạn chế về năng lực tài chính, công ty cần phải có những bước đi hợp lý, vững chắc để có thể tồn tại và phát triển. Trong giai đoạn hiện nay và trong những năm tới, thiết bị xây dựng vẫn là một yếu tố quan trọng quyết định đến thành công của công ty trên thị trường. Vì vậy, công tác lập và quản lý dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị thi công là một đòi hỏi có tính chất thực tiễn, cấp bách nhằm nâng cao sức cạnh tranh của chính mình. Trong quá trình thực tập của mình tại Công ty Tư vấn Đầu tư và Xây dựng GTCC, em đã có điều kiện tiếp xúc với thực tế hoạt động lập và quản lý dự án của công ty. Nhận thức rõ được tầm quan trọng của hoạt động đầu tư nói chung và hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ thiết bị xây dựng nói riêng đối với sự phát triển của doanh nghiệp, em đã đi sâu nghiên cứu và hoàn thành chuyên đề này. Qua đây, em cũng bước đầu đề đạt những suy nghĩ về phương hướng, biện pháp nhằm giải quyết những tồn tại hiện có và góp phần nâng cao hiệu quả của công tác lập và quản lý dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị thi công tại công ty. Cuối cùng, một lần nữa em xin được cảm ơn thầy giáo Từ Quang Phương cùng tập thể cán bộ phòng Tư vấn - Đầu Tư Công ty Tư vấn Đầu tư Xây dựng GTCC Hà Nội đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. Tài liệu tham khảo Th.S Từ Quang Phương – Giáo trình Quản lý dự án đầu tư. Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân – Bộ môn Kinh tế đầu tư – NXB Giáo Dục. PGS – TS Nguyễn Ngọc Mai – Giáo trình Kinh tế đầu tư. Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân – Bộ môn Kinh tế đầu tư – NXB Giáo dục năm 1998. TS Nguyễn Bạch Nguyệt – Giáo trình Lập và quản lý dự án đầu tư – Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân – Bộ môn Kinh tế đầu tư – NXB Thống Kê năm 2000. Nguyễn Văn Chọn – Kinh tế đầu tư – NXB Giáo dục năm 1997. Trần Văn Khôi – Dự án đầu tư tăng năng lực thiết bị thi công bằng hình thức trả chậm của Tổng Công ty xây dựng Trường Sơn – Tạp chí Công nghiệp số 22 tháng 11/1999. Trần Văn Khôi – Hiệu quả đầu tư tăng năng lực thiết bị thi công ở Tổng công ty xây dựng Trường Sơn – Tạp chí công nghiệp số 6 tháng 3/1999. Hoàng Trọng Nhân – Một số vấn đề về đầu tư ở các doanh nghiệp xây dựng hiện nay – Tạp chí Người xây dựng số 12 năm 2002. Bùi Ngọc Khánh – Quy hoạch giao thông Hà Nội từ nay đến năm 2010 – Tạp chí Giao Thông Vận Tải số 1 năm 2003. Nguyễn Nam Trung – Bàn về vấn đề phá giá trong đấu thầu xây lắp – Tạp chí Công nghiệp Việt Nam số 7 tháng 4/2001. Cung Hồng Phương – Hoàn thiện nội dung, phương pháp đấu thầu mua sắm thiết bị trong các doanh nghiệp xây dựng giao thông – Tạp chí Công nghiệp quốc phòng và kinh tế số 1/2000. Đoàn Phương Minh – Tầm quan trọng của hoạt động đầu tư ở các doanh nghiệp quốc doanh – Thời báo Kinh tế số 94/2002. Lê Đăng Chính – Các mô hình quản lý dự án ở các công ty xây dựng nước ngoài – Tạp chí Người xây dựng số 11 năm 2002. Đàm Thanh Phong – Các biện pháp huy động vốn cho đầu tư phát triển ở các Tổng Công ty – Tạp chí Kinh Tế và dự báo số 8 năm 2001. Báo cáo Tổng kết của Công ty Tư vấn Đầu tư Xây dựng GTCC Hà Nội các năm 1997, 1998, 1999, 2000, 2001 và 2002. Hồ sơ dự thầu xây lắp – Gói thầu Hạ tầng kỹ thuật khu liên hợp thể thao quốc gia Mỹ Đình – Mễ Trì (110 ha) – Giai đoạn 1 của Công ty Tư vấn Đầu tư Xây dựng GTCC Hà Nội năm 2000 Hồ sơ dự thầu xây lắp – Gói thầu xây dựng mạng lưới cấp nước khu đô thị mới Yên Hoà của Công ty Tư vấn Đầu tư Xây dựng GTCC Hà Nội năm 1999. Hồ sơ dự thầu xây lắp – Gói thầu Thiết kế Tuynen kỹ thuật để đặt đường ống cấp nước và các loại dây cáp qua nút giao thông của Công ty Tư vấn Đầu tư Xây dựng GTCC Hà Nội năm 2002. Dự án đầu tư vào hệ thống trộn bê tông asphalt của Nhật năm 1995. Dự án đầu tư vào thiết bị đóng cọc DJ2 năm 1999. Dự án đầu tư vào dây chuyền rải bê tông cấp phối năm 2000. Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc1368.doc
Tài liệu liên quan