Đề tài Nâng cao hiệu quả đầu từ vào doanh nghiệp của ngân hàng công thương Bãi Cháy

PHẦN A: MỞ ĐẦU CHƯƠNG I: ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài Từ khi nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, đặc biệt là từ sau khi pháp lệnh về ngân hàng ở nước ta ra đời (1990) thì ngành ngân hàng cũng có sự chuyển đổi căn bản từ hệ thống ngân hàng từ một cấp sang hệ thống ngân hàng hai cấp.Sự xuất hiện hàng loạt ngân hàng thương mại trong nước và sự xâm nhập thị trường của các ngân hàng liên doanh chi nhánh và các văn phòng đại diện của các ngân hàng nước ngoài đã làm cho môi trường kinh doanh của ngân hàng trong nước nóng lên dần và thị phần của các ngân hàng thương mại bị thu hẹp.Đặc biệt trong thời kì này, các ngân hàng hoạt động trong sự biến động không ngừng của môi trường kinh doanh và cuộc chiến giành giật thị trường ngày càng khốc liệt. Bên cạnh đó là sự yếu kém trong kinh doanh, cơ chế chính sách thiều đồng bộ và còn nhiều bất hợp lý làm tình trạng thất thoát vốn nghiêm trọng, nợ khó đòi gia tăng. Trước những khó khăn đó,để khai thông bế tắc và đưa hoạt động kinh doanh của ngân hàng trở lại bình thường và có hiệu quả, các nhà quản trị ngân hàng đã nhận thấy vai trò quan trọng của việc đầu tư vào doanh nghiệp của ngân hàng thương mại. Xuất phát từ tình hình đó, để nâng cao hiệu quả đầu tư vào doanh nghiệp của ngân hàng thương mại của nước ta nói chung và của ngân hàng công thương Bãi Cháy nói riêng,em xin chọn đề tài “Nâng cao hiệu quả đầu từ vào doanh nghiệp của ngân hàng công thương Bãi Cháy”. 2.Giới hạn nghiên cứu. 2.1.Đối tượng nghiên cứu. Những vấn đề khi đầu tư vào doanh nghiệp của Ngân hàng thương mại và các giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư vào doanh nghiệp của Ngân hàng thương mại 2.1.1.Hoạt động đầu tư vào doanh nghiệp của Ngân hàng công thương Bãi Cháy. 2.1.2.Các loại hình doanh nghiệp ( ở đây nghiên cứu chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ). 2.2.Phạm vi nghiên cứu. Các doanh nghiệp trên địa bàn phường Bãi Cháy nói chung và tỉnh Quảng Ninh nói riêng. 2.2.1.Phạm vi nội dung. Đầu tư vào doanh nghiệp của Ngân hàng thương mại. 2.2.2.Phạm vi không gian. Ngân hàng CPTM Công Thương Việt Nam chi nhánh Quảng Ninh. 2.2.3.Phạm vi thời gian. Từ ngày 07/03/2011 đến ngày 07/05/2011. 3.Mục đích và mục tiêu nghiên cứu. 3.1.Mục đích nghiên cứu: Nâng cao hiệu quả đầu tư vào doanh nghiệp của ngân hàng công thương Bãi Cháy 3.2.Mục tiêu nghiên cứu: Phân tích đánh giá thực trạng đầu tư vào doanh nghiệp của Ngân hàng công thương Bãi Cháy và các doanh nghiệp được đầu tư. 4. Các phương pháp nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu được vận dụng trong đề tài là phương pháp thống kê và phân tích số liệu thực tế thu thập được trong quá trình thực tập tại doanh nghiệp, các số liệu trong các báo cáo quyết toán, báo cáo tài chính, sổ sách kế toán tại doanh nghiệp và các số liệu có được từ việc phỏng vấn trực tiếp các nhân viên của phòng kế toán để từ đó rút ra những nhận xét và kết luận. 5. Tóm tắt nội dung, bố cục của bài. Bài báo cáo gồm 3 phần và 5 chương bao gồm: Phần một: Chương I. Đặt vấn đề. Phần hai: Chương II: Tổng quan về đề tài nghiên cứu. Chương III: Phương pháp nghiên cứu. Chương IV: Thực trạng. Phần ba: Chương V. Kết luận và kiến nghị.

doc37 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1690 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao hiệu quả đầu từ vào doanh nghiệp của ngân hàng công thương Bãi Cháy, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NH NGHIỆP CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Giáo viên hướng dẫn : Nguyễn Ngọc Thúy Sinh viên thực hiện : Nguyễn Đình Trường Lớp : CĐ TCNH2-K3 Khóa học : 2008-2011 LỜI CAM KẾT Tôi xin cam kết rằng bài báo cáo này hoàn toàn đúng sự thật và do tôi thực hiện tại NHCPTMCT Bãi Cháy. Bài báo cáo này sử dụng những tài liệu thực tế thu thập được và được sự giúp đỡ nhiệt tình của các cán bộ NHCPTMCT Bãi Cháy. Đặc biệt được sự giúp đỡ và hướng dẫn nhiệt tình của cô Nguyễn Ngọc Thúy, tôi đã hoàn thành bài báo cáo này Bài báo cáo này sử dụng một số tài liệu có sẵn trong giáo trình của nhà trường và một số nguồn nguồn tài liệu khác LỜI CẢM ƠN Em xin trân thành cảm ơn cô giáo Nguyễn Ngọc Thúy, các cán bộ ngân hang Công Thương chi nhánh Tỉnh Quảng Ninh đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn để em hoàn thành được bài viết này. Với trình độ còn nhiều hạn chế, lại ít hiểu biết về ngân hang nên chắc chắn bài viết không tránh khỏi những yếu kém và thiếu sót. Em mong được sự đóng góp ý kiến nhiệt tình của thầy cô để em được tiến bộ hơn trong những bài viết sau này. Sinh viên thực hiện: Nguyễn Đình Trường LỜI NÓI ĐẦU Qua 2 tháng thực tập tại ngân hàng công thương bãi cháy. Em đã tìm hiểu và nhận thức được tầm quan trọng của việc nâng cao hiệu quả đầu tư vào doanh nghiệp của ngân hàng thương mại cho phù hợp với điều kiện thực tại của môi trường kinh tế và điều kiện riêng của mỗi ngân hàng để đảm bảo an toàn vốn cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng như đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Báo cáo của tôi tập trung giải quyết những vấn đề sau: Thứ nhất: Khái quát về hiệu quả hoạt động đầu tư của NHTM và hoạt động đầu tư vào doanh nghiệp. Thứ hai:Nguồn gốc và lịch sử phát triển của NHCT Bãi Cháy và hoạt động đầu tư vào doanh nghiệp của NHCT Bãi Cháy. Thứ ba: Đối tượng, phạm vi, bảng biểu về hoạt động đầu tư vào doanh nghiệp của NHCT Bãi Cháy. Thứ tư: Thực trạng đầu tư vào doanh nghiệp của NHCT Bãi Cháy. Thứ năm: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư vào doanh nghiệp của NHCT Bãi Cháy. PHẦN A: MỞ ĐẦU CHƯƠNG I: ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài Từ khi nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, đặc biệt là từ sau khi pháp lệnh về ngân hàng ở nước ta ra đời (1990) thì ngành ngân hàng cũng có sự chuyển đổi căn bản từ hệ thống ngân hàng từ một cấp sang hệ thống ngân hàng hai cấp.Sự xuất hiện hàng loạt ngân hàng thương mại trong nước và sự xâm nhập thị trường của các ngân hàng liên doanh chi nhánh và các văn phòng đại diện của các ngân hàng nước ngoài đã làm cho môi trường kinh doanh của ngân hàng trong nước nóng lên dần và thị phần của các ngân hàng thương mại bị thu hẹp.Đặc biệt trong thời kì này, các ngân hàng hoạt động trong sự biến động không ngừng của môi trường kinh doanh và cuộc chiến giành giật thị trường ngày càng khốc liệt. Bên cạnh đó là sự yếu kém trong kinh doanh, cơ chế chính sách thiều đồng bộ và còn nhiều bất hợp lý làm tình trạng thất thoát vốn nghiêm trọng, nợ khó đòi gia tăng. Trước những khó khăn đó,để khai thông bế tắc và đưa hoạt động kinh doanh của ngân hàng trở lại bình thường và có hiệu quả, các nhà quản trị ngân hàng đã nhận thấy vai trò quan trọng của việc đầu tư vào doanh nghiệp của ngân hàng thương mại. Xuất phát từ tình hình đó, để nâng cao hiệu quả đầu tư vào doanh nghiệp của ngân hàng thương mại của nước ta nói chung và của ngân hàng công thương Bãi Cháy nói riêng,em xin chọn đề tài “Nâng cao hiệu quả đầu từ vào doanh nghiệp của ngân hàng công thương Bãi Cháy”. 2.Giới hạn nghiên cứu. 2.1.Đối tượng nghiên cứu. Những vấn đề khi đầu tư vào doanh nghiệp của Ngân hàng thương mại và các giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư vào doanh nghiệp của Ngân hàng thương mại 2.1.1.Hoạt động đầu tư vào doanh nghiệp của Ngân hàng công thương Bãi Cháy. 2.1.2.Các loại hình doanh nghiệp ( ở đây nghiên cứu chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ). 2.2.Phạm vi nghiên cứu. Các doanh nghiệp trên địa bàn phường Bãi Cháy nói chung và tỉnh Quảng Ninh nói riêng. 2.2.1.Phạm vi nội dung. Đầu tư vào doanh nghiệp của Ngân hàng thương mại. 2.2.2.Phạm vi không gian. Ngân hàng CPTM Công Thương Việt Nam chi nhánh Quảng Ninh. 2.2.3.Phạm vi thời gian. Từ ngày 07/03/2011 đến ngày 07/05/2011. 3.Mục đích và mục tiêu nghiên cứu. 3.1.Mục đích nghiên cứu: Nâng cao hiệu quả đầu tư vào doanh nghiệp của ngân hàng công thương Bãi Cháy 3.2.Mục tiêu nghiên cứu: Phân tích đánh giá thực trạng đầu tư vào doanh nghiệp của Ngân hàng công thương Bãi Cháy và các doanh nghiệp được đầu tư. 4. Các phương pháp nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu được vận dụng trong đề tài là phương pháp thống kê và phân tích số liệu thực tế thu thập được trong quá trình thực tập tại doanh nghiệp, các số liệu trong các báo cáo quyết toán, báo cáo tài chính, sổ sách kế toán tại doanh nghiệp và các số liệu có được từ việc phỏng vấn trực tiếp các nhân viên của phòng kế toán để từ đó rút ra những nhận xét và kết luận. 5. Tóm tắt nội dung, bố cục của bài. Bài báo cáo gồm 3 phần và 5 chương bao gồm: Phần một: Chương I. Đặt vấn đề. Phần hai: Chương II: Tổng quan về đề tài nghiên cứu. Chương III: Phương pháp nghiên cứu. Chương IV: Thực trạng. Phần ba: Chương V. Kết luận và kiến nghị. PHẦN B: NỘI DUNG CHƯƠNG II NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ VÀO DOANH NGHIỆP. 1.Những vấn đề chung về hoạt động đầu tư của NHTM. 1.1Khái niệm hiệu quả hoạt động đầu tư của NHTM. Hoạt động đầu tư vào doanh nghiệp của NHTM là việc ngân hàng dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn mua cổ phần của các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng khác trong nước theo quy định của pháp luật. 1.2.Vai trò về hoạt động đầu tư. Khoản mục đầu tư có vị trí quan trọng thứ hai sau khoản mục cho vay, nó mang lại khoản thu nhập lớn và đáng kể của NHTM. Tất cả hoạt động đầu tư vào chứng khoán đều nhằm mục đích mang lại thu nhập. Nhưng mặt khác nhờ hoạt động đầu tư mà các rủi ro trong hoạt động ngân hàng sẽ được phân tán. Ngoài ra nếu đầu tư vào trái phiếu chính phủ, tín phiếu kho bạc thì mức độ rủi ro sẽ rất thấp, mức độ thanh khoản cao, lại có thể đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động kinh doanh của NH bất cứ thời điểm nào, đồng thời tạo ra nguồn thu nhập ổn định cho NH. 1.3.Các hình thức đầu tư vào DN của NHTM. Về hình thưc đầu tư vào DN của NHTM hiện đang có các hình thức phổ biến sau: Đầu tư vốn thành lập các công ty trực thuộc ( công ty con) phổ biến nhất là các công ty chứng khoán hoặc các công ty cho thuê tài chính . Hình thức thứ hai là các NHTM góp vốn thành lập hoặc mua cổ phần của các doanh nghiệp ở đủ mọi lĩnh vực, mọi ngành nghề. Như trường hợp của Ngân hàng Việt Á góp vốn vào công ty cổ phần nước suối Vĩnh Hảo… Các hình thức NHTM có thể lien doanh với các doanh nghiệp để thành lập công ty liên doanh. Điển hình là ACB liên doanh với công ty vàng bạc đá quý TP.HCM (SJC) để thành lập công ty liên doanh kinh doanh vàng. 1.3.Qui trình ra quyết định đầu tư vào DN của NHTM. Đầu tư vào doanh nghiệp là một trong các khoản mục đầu tư của NH, trước khi ra quyết định đầu tư vào doanh nghiệp thông thường tuân theo quy trình sau: Bước 1:Xác định đầu tư vào doanh nghiệp. Bước 2:Đánh giá cơ hội đầu tư vào doanh nghiệp. Bước 3:Định giá doanh nghiệp. Bước 4:Quyết định đầu tư vào doanh nghiệp. 1.4. Đánh giá rủi ro của danh mục đầu tư. Phân tích các rủi ro có thể ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của công ty. Phân tích các rủi ro chung của nền kinh tế như lạm phát, lãi suất… cũng như các rủi ro về ngành cũng như các rủi ro đặc thù trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Phân tích rủi ro giúp NDT lường trước được các biến động có thể ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng như đến khoản đầu tư vào doanh nghiệp. 1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư vào DN của NHTM. Yếu tố liên quan đến thị trường: đây là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu và qua đó ảnh hưởng đến lợi nhuận và cổ tức của doanh nghiệp. Yếu tố liên quan đến khả năng cạnh tranh: đây là yếu tố liên quan đến khả năng của doanh nghiệp có thể đứng vững trên thị trường được hay không trước sức ép cạnh tranh. Bao gồm: chính sách giá cả, năng suất lao động. chính sách tiếp thị… Yếu tố liên quan đến hiệu quả quản lý: đây là yếu tố liên quan đến trình độ vào kỹ năng của đội ngũ quản lý chủ chốt của doanh nghiệp. Yếu tố tỷ suất lợi nhuận kỳ vọng: là tỷ suất mà NH mong muốn sẽ đạt được từ chứng khoán khi chúng đáo hạn bao gồm thu lãi chứng khoán, khả năng có thu được hoặc lỗ về vốn gốc của chứng khoán. Yếu tố khả năng chịu thuế: phần lớn thu nhập lãi và lợi vốn từ chứng khoán của ngân hàng đều phải chị thuế của thu nhập khác. Yếu tố rủi ro lãi suất: có thể ảnh hưởng tới giá trị hiện hành của chứng khoán. Yếu tố rủi ro thanh khoản : rủi ro thanh khoản thể hiện tính khả mại của CK với chi phí thấp nhất. Yếu tố rủi ro tín dụng: là loại rủi ro xuất hiện khi người phát hành CK không có khả năng thanh toán gốc và lãi của CK đến kì hạn. CHƯƠNG III: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1.Phương pháp định tính. Nghiên cứu định tính là một phương pháp tiếp cận nhằm mô tả và phân tích đặc điểm văn hóa và hành vi con người và của nhóm người từ quan điểm của nhà nghiên cứu. Nghiên cứu định tính cung cấp mọi thông tin toàn diện về đặc điểm của môi trường xã hội nơi nghiên cứu tiến hành. Đời sống xã hội được nhìn nhận như một chuỗi các sự kiện liên kết chặt chẽ với nhau mà cần được mô tả một cách đầy đủ để phản ánh cuộc sống thực tế hàng ngày. Nghiên cứu định tính dựa trên một chiến lược nghiên cứu linh hoạt và có tính biện chứng. Phương pháp này cho phép phát hiện những chủ đề quan trọng mà các nhà nghiên cứu có thể chưa bao quát được nó. 2.Phương pháp định lượng. Nghiên cứu định lượng là phương pháp thu thập dữ liệu bằng số và giải quyết quan hệ trong lý thuyết và nghiên cứu theo quan điểm diễn dịch, nghiên cứu định lượng chủ yếu là kiểm dịch lý thuyết, sử dụng mô hình khoa học tự nhiên thực chứng luận, phương pháp nghiên cứu định tính có thể chứng minh được trong thực tế và theo chủ nghĩa khách quan. 3.Phương pháp thu thập thông tin. Sau khi thu thập giả thuyết nghiên cứu, người nghiên cứu phải thu thập các thông tin để chứng minh hay bác bỏ giả thuyết. Tùy từng ngành khoa học,người nghiên cứu sử dụng các phương phap thu thập thông tin khác nhau. *Các loại thông tin:Các cơ sở lý thuyết liên quan đến nội dung và đối tượng nghiên cứu ; Kết quả nghien cứu của các đồng nghiệp trong và ngoài ngành ;Sự kiện/số liệu; Tài liệu thống kê. *Các dạng tồn tại của thông tin: Tài liệu: tác phẩm khoa học, sách giáo khoa, tạp chí chuyên ngành, báo chí, báo cáo khoa học. Hiện vật: dạng tồn tại trong thực tế của vật chất. *Các phương pháp để thu thập thông tin: Nghiên cứu tài liệu hoặc đối thoại trực tiếp với đồng nghiệp; quan sát trên khảo sát; thực nghiệm trực tiếp. 4.Phương pháp thu thập số liệu thực tế. Trong phương phap này, số liệu được thực hiện bằng các quan sát, theo dõi, đo đạc qua các thí nghiệm. Các thí nghiệm trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, vật lý, hóa học, kỹ thuật, nông nghiệp, kể cả xã hội thường được thực hiện trong phòng thí nghiệm, nhà lưới, ngoài đồng và cộng đồng xã hội.Để thu thập số liệu các nhà khoa học thường đặt ra các biến để quan sát và đo đạc. Các nghiệm thức trong thí nghiệm thường được lặp lại để giảm sai số trong thu thập số liệu. 5.Phương pháp trực quan. Phương pháp trực quan là phương pháp tri giác đối tượng một cách có hệ thống để thu thập thông tin về đổi tượng. Đây là một hình thức quan trọng của nhận thức thông tin nhờ quan sát mà ta có thông tin, nhờ quan sát mà ta có thông tin về đối tượng, trên cơ sở đó mà tiến hành các bước tìm tòi khám phá tiếp theo. 6.Phương pháp lý luận. Phương pháp lý luận là hệ thống lý luận về các phương pháp nhận thức và hoạt động thực tiễn là hệ thống các quan điểm , các nguyên tắc tìm kiếm, xây dựng lựa chọn và vận dụng các phương pháp nhận thức và hoạt động thực tiễn. 7.Phương pháp thống kê. Phương pháp thống kê là một hệ thống các phương pháp bao gồm thu thập, tổng hợp. trình bày số liệu, tính toán các đặc trưng của đối tượng nghiên cứu nhằm phục vụ cho quá trình phân tích, dự đoán và ra quyết định. CHƯƠNG IV: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ VÀO DOANH NGHIỆP CỦA NHCT BÃI CHÁY 1.Tổng quan về Ngân hàng cổ phần thương mại(CPTM) Công Thương Việt Nam. Ngân Hàng TMCP Công Thương Việt Nam (VietinBank) được thành lập từ năm 1988 sau khi tách ra từ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.Là Ngân hàng thương mại lớn, giữ vai trò quan trọng, trụ cột của ngành Ngân hàng Việt Nam. Có hệ thống mạng lưới trải rộng toàn quốc với 150 Sở Giao dịch, chi nhánh và trên 900 phòng giao dịch/ Quỹ tiết kiệm.Có 6 Công ty hạch toán độc lập là Công ty Cho thuê Tài chính, Công ty Chứng khoán Công thương, Công ty Quản lý Nợ và Khai thác Tài sản, Công ty TNHH MTV Bảo hiểm, Công ty TNHH MTV Quản lý Quỹ, Công ty TNHH MTV Vàng bạc đá quý và 3 đơn vị sự nghiệp là Trung tâm Công nghệ Thông tin, Trung tâm Thẻ, Trường Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Là sáng lập viên và đối tác liên doanh của Ngân hàng INDOVINA. Có quan hệ đại lý với trên 850 ngân hàng và định chế tài chính lớn trên toàn thế giới. Ngân Hàng TMCP Công Thương Việt Nam là một Ngân hàng đầu tiên của Việt Nam được cấp chứng chỉ ISO 9001:2000. Là thành viên của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, Hiệp hội các ngân hàng Châu Á, Hiệp hội Tài chính viễn thông Liên ngân hàng toàn cầu(SWIFT), Tổ chức Phát hành và Thanh toán thẻ VISA, MASTER quốc tế. Là ngân hàng tiên phong trong việc ứng dụng công nghệ hiện đại và thương mại điện tử tại Việt Nam. Không ngừng nghiên cứu, cải tiến các sản phẩm, dịch vụ hiện có và phát triển các sản phẩm mới nhằm đáp ứng cao nhất nhu cầu của khách hàng. 2. Quá trình hình thành và phát triển. 2.1.Quy mô hoạt động. Năm 2009 vốn chủ sở hữu là 1283 tỉ đồng. Tổng tài sản là 24 843 tỉ đồng; về mạng lưới phân phối tính đến năm 2011 toàn hệ thống Vietinbank có 82 chi nhánh và phòng giao dịch với số lượng nhân viên là 4812 nhân viên trong đó có 85% nhân viên có trình độ đại học và sau đại học. Năm 2010 vốn chủ sở hữu là 1470 tỉ đồng. Tổng tài sản là 50 347 tỉ đồng . Về mang lưới kênh phân phôi tính đến cuối năm 2011 có 175 chi nhánh và phòng giao dịch với số lượng nhân viên là 12000 nhân viên trong đó có 91.5% nhân viên có trình độ đại học và sau đại học. Tính đến tháng 05/2011 vốn chủ sở hữu là 4230 tỉ. Tổng tài sản là 97053 tỉ đồng, toàn hệ thống NH Vietinbank có 234 chi nhánh và phòng giao dịch với số nhân viên là 14532 nhân viên trong đó có 97% nhân viên có trình độ đại học và sau đại học. 2.2.Quá trình hoạt động và một số sự kiện đáng chú ý. Năm 1996 là ngân hàng TMCP đầu tiên phát hành thẻ tín dụng quốc tế MasterCard Năm 1997 phát hành thẻ Vietinbank visa. Và cũng trong năm này Vietinbank tiếp cận nghiệp vụ ngân hàng hiện đại dưới hình thức của một chương trình đào tạo nghiệp vụ toàn diện kéo dài hai năm do giảng viên nước ngoài trong lĩnh vực ngân hàng thực hiện. Năm 1999 Vietinbank triển khai chương trình hiện đại hóa công nghệ thông tin ngân hàng , xây dựng hệ thống mạng diện rộng, nhằm trực tuyến hóa và tin học hóa hoạt động giao dich. Năm 2003 xây dựng hệ thống quản lý theo tiêu chuẩn ISO 9001:2000 và được công nhận theo tiêu chuẩn trong các lĩnh vực : huy động vốn; cho vay ngắn hạn-trung hạn; thanh toán quốc tế. Năm 2006 Vietinbank và Ngân hàng SCB kí kết thỏa thuận hỗ trợ kĩ thuật toàn diện . Năm 2007 mở rộng mạng lưới hoạt động lập them 47 chi nhánh và phong giao dịch mới. 2.3.Lĩnh vực hoạt động. Huy động vốn ngắn hạn,trung hạn và dài hạn dưới các hình thức tiền gửi không kì hạn, có kì hạn và tiếp nhận vốn ủy thác đầu tư và phát triển của các tổ chức trong nước vay vốn của tổ chức tín dụng khác; Cho vay ngắn, trung hạn và dài hạn; chiết khấu thương phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá;hùm vốn liên doanh theo luật định; Làm dịch vụ thanh toán giữa các ngân hàng; Thực hiện kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc, thanh toán quốc tế , huy động các loại vốn từ nước ngoài và các ngân hàng trong quan hệ với nước ngoài khi được NHNN cho phép; Hoạt động bao thanh toán; Môi giới và đầu tư chứng khoán, cung cấp về dịch vụ đầu tư, quản lý nợ và khai thác tài sản, cho thuê tài chính và các dịch vụ ngân hàng khác. 2.4.Sơ đồ cơ cấu tổ chức NHTMCP CT Bãi Cháy. Cơ cấu tổ chức Ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam được chia làm 2 hướng kinh doanh và hỗ trợ. Các khối kinh doanh gồm có: khối khách hàng cá nhân, khối khách hàng doanh nghiệp và khối ngân quỹ. Các đơn vị hỗ trợ bao gồm: khối công nghệ thông tin, khối giám sát điều hành, khối phát triển kinh doanh, khối quản trị nguồn lực và một số phòng ban do giám đốc trực tiếp điều hành. 2.5.Kết quả hoạt động kinh doanh trong thời gian qua. Sau nhiều năm hoạt động NHTMCP CT Việt Nam luôn giữ vững mức tăng trưởng mạnh mẽ và ổn định. Nhờ có nhưng chiến lược kinh doanh hiệu quả nên dù gặp phải sự cạnh tranh khốc liệt giữa ngày càng nhiều các NHTM nhưng Vietinbank đã hoàn thành xuất săc kế hoạch đề ra năm 2010. Và tính đền tháng 05/2011 đạt 40% lợi nhuận cả năm. 2.6.Thực trạng hiệu quả hoạt động đầu tư vào DN của NHTMCP CT Bãi Cháy. 2.6.1.Tiền đề các hoạt động đầu tư vào doanh nghiệp. Sự phát triển các hoạt động M&A trong những năm gần đây đã tạo tiền đề cho hoạt động đầu tư vào doanh nghiệp. Trong nhưng năm gần đây xu hướng mua bán sát nhập DN ở Việt Nam ngày càng gia tăng.Cụ thể năm 2010 Việt Nam có 140 vụ M&A với tổng trị giá lên tới 2401 tỉ USD trong khi đó năm 2009 số vụ M&A chỉ có 64 vụ với tổng trị giá là 972 tỉ USD , năm 2008 có 34 vụ với tổng trị giá là 340 tí USD. Xu hướng sát nhập DN ở VN gia tăng vì nhiều lí do: Thứ nhất, theo lộ trình gia nhập WTO thì VN sẽ nới lỏng hạn mức đầu tư hoặc góp vốn của nước ngoài, đồng thời xu hướng cổ phần hóa, tư nhân hóa đang trở lên phổ biến ở nhiều nước đặc biệt là các nước đang phát triển trong đó có VN. Thứ hai, hình thức đầu tư chéo giữa các doanh nghiệp ngày càng phổ biến theo phương thức “ đối tác chiến lược” mà thực chất là một dạng tập trung kinh tế. Và cuối cùng là xu hướng hình thành các tập đoàn kinh doanh đa dạng, đa nghề cũng là tiền đề cho các hoạt động mua bán sát nhập diễn ra thuận lợi hơn. 2.6.2.Thực trạng hoạt động đầu tư vào DN của NHCT Bãi Cháy. Ra đời vào năm 2000 nhưng TTCK VN chỉ chính thức phát triển mạnh mẽ vào năm 2006 đầu năm 2007 trở về sau.TTCK phát triển là nguyên nhân thúc đẩy các tổ chức cũng như các nhà đầu tư cá nhân tham gia vào hoạt động đầu tư nhằm mục đích kiếm lợi nhuận. Cũng như các nhà đầu tư khác NHTM cũng dành một phần vốn tham gia đầu tư trên TTCK trong thời gian này.Và kết quả của việc đầu tư đó mang lại một khoản lợi nhuận đáng kể cho NH bên cạnh các hoạt động truyền thống khác. Vì thế các NH ngày càng dành nhiều vốn hơn cho việc đầu tư lĩnh vực này. Như ngân hàng SaComBank thì tổng số dư đầu tư vào chứng khoán vốn, chứng khoán nợ và góp vốn mua cổ phần 6 tháng đầu năm 2009 là 15,366 tỷ đồng, gấp 0.04 lần năm 2010 (14,828 tỷ đồng), gấp 4.94 lần năm 2006 (3,109 tỷ đồng) và gấp 7.94 lần năm 2005 (1,936 tỷ đồng ). Bảng 1.Ngân sách cho các khoản đầu tư và lợi nhuận đạt được từ hoạt động đầu tư qua các năm của SaComBank.( đơn vị tính: tỉ đồng) Riêng ngân hàng Vietinbank tổng số vốn dành cho hoạt động đầu tư tháng 5 năm 2011 là 15,366 tỷ đồng, gấp 1,48 lần 2010 (10,399 tỷ đồng) gấp 2,89 lần năm 2009 (5,313 tỷ đồng) và gấp 3,07 năm 2008(7,999 tỷ đồng). Các khoản chứng khoán kinh doanh. Chứng khoán kinh doanh là chứng khoán ban đầu được mua và nắm giữ cho mục đích kinh doanh trong ngắn hạn. Do tính chất rủi ro trong hoạt động đầu tư đặc biệt là các khoản đầu tư kinh doanh cổ phiếu nên đối với khoản mục đầu tư này đòi hỏi phải lập dự phòng giảm giá chứng khoán trong trường hợp giá thị trường của chứng khoán thấp hơn giá trị sổ sách. Chứng khoán kinh doanh của NH chủ yếu bao gồm các chứng khoán vốn do các TCTD, TCKT trong nước phát hành. Các khoản chứng khoán đầu tư. Năm 2007, tổng giá trị đầu tư vào vào trái phiếu là 4,823 tỷ đồng, trong đó trái phiếu của TCTD chiếm 62% , trái phiếu Chính phủ chiếm tỷ trọng 38% Năm 2008, tổng giá trị đầu tư vào trái phiếu là 4,228 tỷ đồng, trong đó trái phiếu của TCTD chiếm 36,08%, trái phiếu Chính phủ chiếm 38.67% và các tổ chức kinh tế trong nước chiếm 25,25%. Năm 2009, tổng giá trị đầu tư vào chứng khoán là 9,132.820 tỷ đồng trong đó Chứng khoán nợ là 8478 tỷ đồng chiếm 92% , Chứng khoán vốn là 673 tỷ đồng chiếm tỷ lệ 8%. Trong tổng số tiền 8478 tỷ đồng mà Ngân hàng đầu tư vào chứng khoán nợ thì trái phiếu Chính phủ chiếm 45%; trái phiếu của TCTD khác, chủ yếu của các NHTMNN, là 34% và các tổ chức kinh tế trong nước chiếm 21%. Tính đến ngày 30/05/2011, tổng giá trị đầu tư vào chứng khoán là 13,990 tỷ đồng trong đó Chứng khoán nợ là 13,328 tỷ đồng chiếm tỷ lệ 95%, chứng khoán vốn là 662 tỷ đồng chiếm tỷ lệ 5%. Các khoản đầu tư vào công ty liên kết. Vietinbank đã lựa chọn những ngành nghề được đánh giá là có khả năng sinh lợi cao và được cộng đồng nhà đầu tư quan tâm trên TTCK hiện nay để đầu tư góp vốn. Các khoản đầu tư của Ngân hàng vào các công ty liên kết hiện nay chủ yếu là các khoản đầu tư mà Vietinbank và các công ty con trực thuộc nắm trên 20% vốn điều lệ của DN đó. Các khoản đầu tư dài hạn. Cũng như các nhà đầu tư khác, mục tiêu của NH khi quyết định đầu tư vào DN nào đó ngoài việc thu được cổ tức và lợi vốn nhờ giá trị DN gia tăng, NH còn hướng đến việc dần nắm quyền kiểm soát và quản lý DN đó. Khi chọn các DN để quyết định đầu tư dài hạn, Vietinbank chủ yếu tập trung đầu tư vào các TCTD và TCKT có hiệu quả hoạt động tốt và tiềm năng tăng trưởng cao. Các khoản đầu tư dài hạn của NH hiện nay chủ yếu là các khoản đầu tư có tỷ lệ phần vốn nhỏ hơn 20%, gồm các đơn vị sau. Góp vốn thành lập công ty con trực thuộc. Ngân hàng Á Châu góp vốn thành lập các công ty con trực thuộc đó là Công ty Cổ phần chứng khoán Ngân hàng Á Châu (ACBS), Công ty Quản lý nợ và khai thác Tài sản Ngân hàng Á Châu (ACBA), và Công ty cho thuê Tài chính Ngân hàng Á Châu (ACBL) với tổng vốn góp 100%. Trong những năm qua, các công ty con trực thuộc đã đi vào hoạt động kinh doanh rất hiệu quả và mang về những khoản lợi nhuận rất lớn cho Ngân hàng nhất là ACBS. Mức góp vốn mà ACB dành cho các công ty con trực thuộc cũng tăng tương ứng theo các năm . 2.7.Đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư vào DN của NHTMCP CT Bãi Cháy. 2.7.1.Lợi nhuận đạt được từ hoạt động đầu tư. Nhìn tổng quan trong những năm vừa qua, hoạt động đầu tư tại NHTMCP Á Châu đã được những kết quả bước đầu rất khả quan, nếu so sánh với các NHTM có cùng quy mô nguồn vốn đầu tư thì lợi nhuận từ hoạt động này tại NH hiện nay có hiệu quả cao hơn so với các NHTMCP khác. 2.7.2.Kết quả chưa đạt được trong hoạt động đầu tư vào DN của NHTMCP CT Bãi Cháy. Trong những năm qua, hoạt động đầu tư góp vốn vào DN đã góp phần làm nên thắng lợi trong hoạt động kinh doanh của ACB. Tuy nhiên, đây là điểm mạnh cũng như là điểm yếu của hoạt động đầu tư. Nền kinh tế thế giới nói chung và đặc biệt là Việt Nam nói riêng trong năm 2008 gặp rất nhiều khó khăn: lạm phát tăng cao, TTCK sụt giảm trầm trọng là những rủi ro rất lớn cho những khoản đầu tư của ACB, đặc biệt là rủi ro trong hoạt động góp vốn thị trường niêm yết và cả chưa niêm yết. Nếu như năm 2007, lợi nhuận NH đạt được phần lớn nhờ vào hoạt động đầu tư thì trong năm2008,đó có thể là rủi ro cho NH nếu như quá chú trọng vào hoạt động này mà không chú trọng đẩy mạnh những hoạt động truyền thống khác. Bởi những yếu tốbất lợi về triển vọng phát triển kinh tế và sự sụt giảm liên tục trênTTCK sẽ làm cho những khoản đầu tư của NH trên thị trường này bị thua lỗ và có thể NH sẽ không hoàn được mục tiêu lợi nhuận của mình. Với yếu tố trên nên nguồn vốn mà NHdành cho hoạt động đầu tư đặc biệt là hoạt động đầu tư góp vốn vào DN trong năm2008đã bị hạn chế, kết quả đạt được từ hoạt động đầu tư góp vốn của NH trong năm nay cũng không cao như các năm trước đây dù danh mục đầu tư của NH đã rất hiệu quả và qui trình kiểm soát rủi ro cũng rất tốt 2.7.3.Những thuận lợi trong hoạt động đầu tư vào DN của NHTMCP CT Bãi Cháy. Với thuận lợi là NHTMCP có nguồn vốn chủ sở hữu cao hệ thống NH Việt Nam ( năm 2008: nguồn vốn chủ sở hữu của NH là 6,257 tỷ đồng, 6 tháng đầu năm 2011 là 7,037 tỷ đồng), Vietinbank sẽ có nhiều cơ hội hơn trong việc dành nguồn vốn cho các hoạt động đầu tư vào DN của mình. Được xếp thứ 2 về lợi nhuận đạt được trong hệ thống NHTM tại Việt Nam, ACB có điều kiện hơn nữa trong việc gia tăng nguồn vốn chủ sở hữu để đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động đầu tư vào DN. Mặt khác, nhờ hoạt động kinh doanh hiệu quả của mình, ACB có khả năng thuận lợi nhiều hơn trong việc thu hút nguồn nhân lực có chất lượng cao cho các hoạt động kinh doanh của NH, đặc biệt đối với lĩnh vực đầu tư vào DN là một lĩnh vực tương đối mới mẻ, đòi hỏi những đội ngũ nhân viên có kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực tài chính, khả năng phân tích thông tin và ra quyết định chọn lựa các cơ hội đầu tư. 2.7.4.Những hạn chế trong hoạt động đầu tư vào DN của NHTMCP CT Bãi Cháy. Việc khống chế mức tham gia góp vốn mua cổ phần vào các DN theo quy định 457/2005/QĐ-NHNN ban hành ngày 19/04/2005 của NHNNcũnglàmột trở ngại cho ACB trong quá trình tham gia hoạt động đầu tư của mình.Theo quy định này, nguồn vốn dành cho hoạt động đầu tư bị giới hạn ở mức 11% vốn điều lệ của DN mục tiêu dự định đầu tư, cho nên nếu DN mà NH tham gia đầu tư sau quá trình hoạt động đạt được hiệu quả kinh doanh tốt,lúc đó NH muốn góp vốn đầu tư thêm vào DN đó thì lại không được do mức vốn góp đã vượt quá tỷ lệ cho phép, đồng thời quy định tổng mức góp vốn, mua cổ phần của tổ chức tín dụng trong tất cả các DN, quỹ đầu tư, dự án đầu tư, tổ chức tín dụng khác không được vượt quá 40% vốn điều lệ và quỹ dự trữ của TCTD cũng hạn chế mức đầu tư của NH nếu như ACB có dự định tăng thêm nguồn vốn cho hoạt động đầu tư vào DN của mình. 2.7.5.Đánh giá rủi ro trong hoạt động đầu tư vào DN của NHTMCP CT Bãi Cháy. Trong hoạt động đầu tư đặc biệt là hoạt động đầu tư góp vốn vào DN của mình, Vietinbank phải đối mặt với không ít rủi ro, những rủi ro đó có thể là rủi ro hệ thống và rủi ro phi hệ thống. Yếu tố rủi ro thanh khoản : TTCK Việt Nam trong năm 2010 liên tục sụt giảm cả về số lượng giao dịch và giá trị giao dịch, do ảnh hưởng cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu nên TTCK Việt Nam trong thờigian gần đây liên tục sụt giảm, vì là một thị trường mới nổi, yếu tố tâm lý còn chiếm đại đa số trong quyết định của các nhà đầu tư cộng thêm việc liên tục bán ròng giá trị các cổ phiếu và trái phiếu của các tổ chức và nhà đầu tư nước ngoài làm cho tính thanh khoản của các chứng khoán trên thị trường rất kém, những bất lợi trên đã làm cho nguồn ngân sách mà Vietinbank dành cho khoản mục chứng khoán kinh doanh trong năm 2010 không mang lại lợi nhuận mà trái ngược còn đưa đến sự thua lỗ, theo số liệu từ Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của Vietinbank tính đến 30/05/2010 thì khoản mục đầu tư vào mua bán các chứng khoán ngắn hạn trên TTCK đã đem về khoản lỗ 1 tỷ đồng, trong khi đó 6 tháng đầu năm 2009 thì lợi nhuận lên đến 180 tỷ đồng. Yếu tố rủi ro lạm phát: Tốc độ tăng lạm phát của nền kinh tế Việt Nam trong năm 2009 và 6 tháng đầu năm 2010 ở mức cao trong vòng vài năm trở lại đây, mức lạm phát cao đã làm giảm đi nguồn thu nhập của Vietinbank có được từ việc tham gia đầu tư. Yếu tố rủi ro lãi suất: Trong 6 tháng đầu năm 2011, do tỷ lệ lạm phát tại Việt Nam tăng quá cao trong vòng vài năm trở lại đây, NHNN đã sử dụng các biện pháp mạnh nhằm mục tiêu kiềm chế tốc độ tăng của lạm phát thông qua việc áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt bằng việc tăng mức lãi suất chiết khấu, tăng mức lãi suất trên thị trường trái phiếu nhằm thu hút lượng tiền trong lưu thông, lãi suất tăng cao đã làm giảm nguồn thu nhập của Vietinbank có được từ việc tham gia đầu tư góp vốn vào DN so với việc đầu tư vào các chứng khoán nợ như : Trái phiếu chính phủ, tín phiếu kho bạc của NHNN... Yếu tố rủi ro kinh doanh của DN có thể gây thiệt hại khoản mục đầu tư của Vietinbank ví dụ như sự bất ổn từ lĩnh vực, ngành của DN mục tiêu mà Vietinbank đầu tư, trong năm 2011 rủi ro này có thể đến từ việc đầu tư vào các DN trong các lĩnh vực như : kinh doanh bất động sản, xuất nhập khẩu,vận tải…do tình hình thị trường bất động sản ảm đạm kéo dài từ cuối năm 2007 đến nay,chính sách tỷ giá cũng như tình hình giá cả xăng dầu thế giới liên tục biến động mạnh.. Yếu tố rủi ro tài chính: Vietinbank sẽ gặp nhiều bất lợi khi đầu tư vào những DN mục tiêu có sử dụng đòn bẩy tài chính cao (ví dụ như các DN trong lĩnh vực địa ốc, xây dựng, bất động sản), với mức lãi suất cao như hiện nay thì khoản chi phí lãi vay mà các DN này phải trả là một con số không nhỏ và các DN sẽ khó hoàn thành được mục tiêu lợi nhuận của mình. 2.7.6.Nguyên nhân dẫn đến những rủi ro cho kết quả hoạt động đầu tư vào doanh nghiệp của NHTMCP CT Bãi Cháy. Trong thời gian gần đây, nền kinh tế Mỹ lâm vào những cuộc khủng hoảng tài chính trầm trọng, đặc biệt là sự sụp đổ của các NH hàng đầu của Mỹ trong đó là sự sụp đổ của NH đầu tư hàng đầu của Mỹ - NH Lehman Brothers là một bài học cho những NH có tham gia vào hoạt động đầu tư. Đầu tư là một “con dao hai lưỡi”, chính sách đầu tư và khả năng quản lý rủi ro tốt sẽ đem lại lợi nhuận rất lớn và ngược lại. Hơn nữa đầu tư là một hoạt động mang nhiều yếu tố rủi ro, hoạt động đầu tư vào DN ở NH hiện nay tập trung chủ yếu là đầu tư vào chứng khoán của các DN đang niêm yết trên TTCK tập trung và trên thị trường OTC. Sự sụt giảm liên tục cả về giá trị giao dịch và tính thanhkhoản ngày càng giảm đi trên hai thị trường này đã gây rất nhiềukhókhănchohoạt động đầu tư của các NH cũng như các NĐT tham gia trên thị trường. Những khi TTCK có khuynh hướng đi lên thì cảnh có rất nhiều người mua, người bán lại không có là thường xuyên diễn ra, giá chứng khoán lúc đó cao hơn rất nhiều so với giá trị sổ sách của DN, điều này sẽ làm cho việc mua và thương lượng cổ phiếu sẽ rất khó khăn và rủi ro hơn. Khi TTCK có khuynh hướng đi xuống, nếu vào thời điểm đó do nhu cầu cần gấp nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh thì NH sẽ gặp trở ngại trong vấn đề bán các chứng khoán đầu tư do lúc này tình hình đã ngược lại, người bán rất nhiều và người mua không có, tính thanh khoản và giá của chứng khoán giảm rất nhiều . Vì vậy, NH trong quá trình tham gia hoạt động đầu tư trên TTCK sẽ gặp rất nhiều rủi ro do ảnh hưởng “tâm lý bầy đàn” từ đa số các NĐT khi tham gia trên TTCK. 2.7.7.Đánh giá hoạt động của Phòng Đầu tư trong thời gian qua. Những mặt đã đạt được. Vềtổchứcthựchiện:PhòngĐầutưđượcchiathànhbabộ phận rấtrõràng,mỗibộphận chuyên trách về một lĩnh vực thuộc đúng chuyên môn của mình. Trong quá trình thựchiện công việc, các bộ phận có sự trao đổi và học tập kinh nghiệm lẫn nhau, đồngthờiba bộ phận trên cũng có sự liên lạc thường xuyên với các bộ phận khác tạicácphòng ban của Ngân hàng để có thể thu thập thêm thông tin về những lĩnh vựcliênquan đến ngành dự định đầu tư hoặc về DN dự định đầu tư nếu DN đó cóquanhệgiao dịch thường xuyên với NH để có thêm thông tin chi tiết về DN giúpchoquátrình đầu tư đạt hiệu quả cao. Về quy trình phân tích, định giá DN và quyết định đầu tư Về cơ bản thì quy trình phân tích đầu tư của phòng Đầu tư - NHTMCP CT Việt Nam là khá đầy đủ và toàn diện. Quy trình phân tích này có thể cung cấp những thông tin chi tiết, giúp hiểu rõ tình hình nền kinh tế, các yếu tố vĩ mô có thể tác động đến các khoản mục đầu tư; làm rõ những yếu tố nội tại cũng như tiềm năng của công ty dự định đầu tư và các yếu tố vi mô có thể gây rủi ro cho khoản đầu tư của ACB. Từ đó, giúp cho NH có sự lựa chọn đúng đắn trong việc quyết định đầu tư hay không vào DN mục tiêu. CHƯƠNG V: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ VÀO DOANH NGHIỆP CUA NHCT BÃI CHÁY. 3.1.Đinh hướng phát triển của NHTMCP CT Bãi Cháy trong thời gian tới Với tốc độ tăng trưởng nhanh so với tốc độ tăng trưởng của ngành như hiện nay, Vietinbank đã đề ra chiến lược 5 năm 2008 - 2010 và tầm nhìn 2015 khẳng định việc Vietinbank sẽ tiếp tục giữ vị thế hàng đầu trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trên các mặt: tăng trưởng cao, chỉ số tài chính duy trì ở mức an toàn cao trong đó ROE cần đạt 25% đến 30%, chất lượng tài sản có, quản lý rủi ro theo thông lệ tốt nhất, các chỉ tiêu tăng trưởng bền vững, hệ thống sản phẩm và kênh phân phối đa dạng, chất lượng dịch vụ cao. Vietinbank chủ trương tăng trưởng trong tầm kiểm soát và chỉ tăng trưởng nếu kiểm soát được rủi ro. Để đạt được mục tiêu đề ra, đòi hỏi ngân hàng phải không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ, ápdụngcông nghệ hiện đại trên tất cả các lĩnh vực từ lĩnh vực truyền thống như:lĩnh vực huy động vốn, lĩnh vực cho vay… đến các lĩnh vực mới như bao thanh toán,ngân hàng điện tử, kinh doanh sàn giao dịch vàng, và đặc biệt là lĩnh vực đầu tư vào DN sẽ ngày càng được NH chú trọng vì lĩnh vực này đã đóng góp tỷ trọng lợi nhuận rất cao trong kết quả kinh doanh của NH qua các năm 2010 - 2011. Do đó, việc thành lập NH đầu tư chuyên nghiệp trong thời gian tới là một hướng đi đúng, bởi vì đầu tư là một lĩnh vực khó và nhạy cảm, nếu được sự hỗ trợ,kết nối và chia sẻ thông tin giữa các công ty hoạt động trong lĩnh vực có liên quan sẽ giúp cho hoạt động đầu tư của Ngân hàng đạt hiệu quả tốt nhất, đồng thời giúp cho việc kiểm soát rủi ro trong quá trình đầu tư sẽ được chặt chẽ và chuyên nghiệp hơn. 3.2.Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư vào doanh nghiệp của NHTMCP CT Bãi Cháy. 3.2.1.Kiến nghị với nhóm hoạt động đầu tư vào DN của Phòng đầu tư- NHCT Bãi Cháy. 3.2.1.1.Về quy trình phân tích. Phòng Đầu tư nên áp dụng phân tích kỹ thuật trước khi ra quyết định thời điểm đầu tư vào DN. Trong qui trình phân tích đầu tư hiện nay tại Phòng, các phương pháp được sử dụng để phân tích trước khi ra quyết định đầu tư hiện chủ yếu dựa vào việc phân tích cơ bản. Dù biết phân tích cơ bản đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc đánh giá giá trị nội tại của doanh nghiệp hay một loại cổ phiếu nhằm đưa ra quyết định đầu tư hợp lý nhưng để việc đầu tư đạt hiệu quả cao hơn nữa thì vấn đề chọn lựa thời điểm đầu tư lại có ý nghĩa hết sức quan trọng. Bởi vì danh mục đầu tư dù có được thiết lập hiệu quả và qui trình kiểm soát rủi ro có tốt đi chăng nữa nhưng nếu việc quyết định đầu tư không đúng thời điểm thì hiệu quả đạt được sẽ không cao và mất đi cơ hội tìm kiếm lợi nhuận nhiều hơn. 3.2.1.2.Về quy trình ra quyết định đầu tư. Qui trình ra quyết định đầu tư tại Phòng Đầu tư hiện nay được thực hiện khá chặt chẽ, việc xét duyệt quyết định đầu tư được thực hiện qua các cấp, điều đó có ưu điểm là hạn chế được rủi ro trong khi đầu tư, tuy nhiên qui trình này cũng có nhược điểm là mất nhiều thời gian, và để lỡ các cơ hội đầu tư tốt. Kiến nghị đối với qui trình ra quyết định đầu tư vào DN của NH là bỏ đi phần xét duyệt của Hội đồng Quản trị. Sau quá trình phân tích và chọn lựa được DN tiềm năng hay một dự án đầu tư tốt, Trưởng phòng Đầu tư chỉ chịu trách nhiệm báo cáo trực tiếp với Hội đồng Đầu tư mà không phải thông qua Hội đồng Quản trị. Hội đồng đầu tư sẽ họp bàn để ra quyết định có nên đầu tư vào DN mục tiêu hay không sau đó sẽ thông báo lại cho Trưởng phòng Đầu tư thực hiện các bước tiếp theo. Lý do cho kiến nghị này là vì Hội đồng Đầu tư hiện nay thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình đã theo sự uỷ quyền của Hội đồng Quản trị, Hội đồng đầu tư có trách nhiệm thẩm định và ra quyết định đối với các dự án đầu tư, hơn nữa đứng đầu Hội đồng đầu tư là Tổng Giám đốc của NH, thành viên trong Hội đồng đầu tư là Giám đốc các Khối tại Hội sở phụ trách tất cả các mảng kinh doanh chính của ngân hàng nên có rất nhiều thông tin và kinh nghiệm về các DN kinh doanh cùng lĩnh vực mà Phòng Đầu tư dự định đầu tư. Vì vậy, dự án đầu tư phải được Hội đồng Quản trị thông qua là không cần thiết. Với những lý do trên, theo ý riêng của người viết, qui trình ra quyết định đầu tư của NHTMCP Á Châu có thể lược qua cấp Hội đồng quản trị xét duyệt mà chỉ cần qua cấp Hội đồng đầu tư xét duyệt là được. Mục đích của kiến nghị này nhằm rút ngắn thời gian ra quyết định để không bỏ lỡ những cơ hội đầu tư tốt, đồng thời vẫn kiểm soát được các rủi ro nếu xảy ra. 3.2.2.Các nhóm giải pháp quan trọng cho việc nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư vào DN của NHTMCP CT Bãi Cháy. 3.2.2.1.Xây dựng tiêu chí chọn lựa cơ hội đầu tư. Tiêu chí chọn lựa cơ hội đầu tư nên được xây dựng một cách cụ thể trong qui trình đầu tư. Nhìn chung, tiêu chí này có thể xây dựng theo định hướng chọn lựa từ 3 -5 doanh nghiệp hàng đầu của ngành dự định đầu tư, có chỉ số P/E phải thấp hơn bình quân của ngành, việc chọn lựa cơ hội đầu tư sẽ nhắm đến những DN có chỉ số tăng trưởng cam kết trong 3 năm, lớn hơn hoặc bằng tăng trưởng ngành, và phải lớn hơn tăng trưởng của nền kinh tế đồng thời DN đó phải được lãnh đạo bởi đội ngũ nhân lực giỏi, có năng lực và có mố quan hệ tốt với chính quyền, công chúng. Mặt khác việc chọn lựa cơ hội đầu tư sẽ nhắm đến những DN có các báo cáo tài chính lành mạnh, rõ ràng và tình hình pháp lý minh bạch. 3.2.2.2.Xây dựng quy trình quản lý rủi ro trong doanh mục đầu tư. Đầu tư trên TTCK đã là một hoạt động đầy rủi ro.Trên thị trường mới nổi như Việt Nam, rủi ro đầu tư có thể xem như một đặc thù được gây ấn tượng bằng những tiềm năng có được của lợi nhuận cao trên các thị trường này. Dù không mong đợi, nhưng rủi ro vẫn luôn hiện diện trong mọi quyết định đầu tư của NH hay bất kỳ NĐT nào. Để việc quản lý hiệu quả rủi ro trong hoạt động đầu tư, NH cần xây dựng được qui trình quản lý rủi ro tốt, cụ thể, rõ ràng, khả năng ứng phó linh hoạt khi những tình huống bất lợi xảy ra cho danh mục đầu tư của mình. Qui trình này có thể xây dựng theo trình tự sau : Bước 1. Bộ phận quản lý danh mục đầu tư chịu trách nhiệm thực hiện phân tích danh mục đầu tư so sánh với các chỉ tiêu của chính sách đầu tư và tỷ lệ sinh lời mong muốn của danh mục đầu tư. Bộ phận phân tích danh mục đầu tư được thực hiện song song phải nhận định được những rủi ro trên thị trường chứng khoán và những biến động của nền kinh tế để từ đó xác định các yếu tố tác động đến khả năng tăng trưởng của DN mục tiêu, lợi nhuận kỳ vọng và giá chứng khoán đầu tư trong tương lai sẽ như thế nào. Bước 2. Bộ phận phân tích sẽ tiến hành phân tích danh mục đầu tư nhằm đưa ra các nhận định, dự báo và tính toán thống kê các vấn đề sau : - Khả năng và xác suất của từng loại chứng khoán đang nắm giữ trong danh mục đầu tư đạt/không đạt được tỷ lệ sinh lời mong muốn hoặc bị lỗ trong giới hạn /vượt giới hạn cho phép, trong thời hạn đầu tư xác định. - Khả năng và xác suất các ngành kinh tế được chọn lựa trong chính sách đầu tư đạt mức tăng trưởng và lợi nhuận của ngành kinh tế, qua đó tác động làm tăng giá/giảm giá của cổ phiếu trong danh mục đầu tư. - Khả năng và xác suất danh mục đầu tư đạt được tỷ lệ sinh lời mong muốn , trong đó cần nêu rõ các trường hợp tốt nhất, trung bình, xấu nhất có thể xảy ra. - Khả năng và xác suất danh mục đầu tư đạt được tỷ lệ sinh lời mong muốn theo như cam kết, nếu thực hiện thay đổi cơ cấu danh mục đầu tư. - Bộ phận phân tích danh mục đầu tư phải tính toán được tỷ lệ sinh lời thực tế và kỳ vọng của từng chứng khoán trong danh mục đầu tư; tỷ lệ sinh lời thực tế và kỳ vọng của danh mục đầu tư vào thời điểm đánh giá. - Việc phân tích danh mục đầu tư phải đo lường được mức độ rủi ro của giá chứng khoán so với thay đổi của thị trường cũng như đo lường được mức độ rủi ro của danh mục đầu tư. Để xác định được mức độ rủi ro của danh mục đầu tư đòi hỏi Bộ phận phân tích phải tính toán được các chỉ số sau: ƒ Dựa vào phương pháp xác suất thống kê, từ đó tính toán phương sai và độ lệch chuẩn của tỷ lệ sinh lời từng chứng khoán so với tỷ lệ sinh lời mong muốn; qua đó đo lường được mức độ rủi ro của mỗi chứng khoán trong danh mục. ƒ Tương tự, mức độ rủi ro của danh mục đầu tư hay khả năng danh mục đầu tư không đạt được tỷ lệ sinh lời mong muốn cũng được đo lường bằng phương sai và độ lệch chuẩn của danh mục đầu tư, hoặc có thể tính bằng phương pháp tính bình quân có trọng số độ lệch chuẩn của các chứng khoán trong danh mục. ƒ Ngoài ra, mức độ rủi ro của danh mục đầu tư có thể đo lường qua hệ số tương quan giữa các loại chứng khoán trong danh mục đầu tư. Sau khi xác định được mức độ rủi ro, chuyên viên phân tích danh mục đầu tư có thể thực hiện phân tích độ nhạy của tỷ trọng các loại chứng khoán trong danh mục nhằm xem xét sự thay đổi hệ số tương quan của danh mục đầu tư . Từ đó xác định các cơ cấu danh mục đầu tư nào có phương sai/độ lệch chuẩn hay mức độ rủi ro thấp nhất. Bộ phận phân tích có thể áp dụng mô hình đường cong hiệu quả để xác định danh mục tối ưu với tỷ lệ sinh lời cao nhất và độ biến thiên thấp nhất; hoặc trong phạm vi mức độ rủi ro cho phép, xác định tỷ lệ danh mục đầu tư có tỷ lệ sinh lời kỳ vọng cao nhất. Ngoài ra, bộ phận phân tích cũng có thể áp dụng các công cụ phân tích kỹ thuật cho các chứng khoán niêm yết và chỉ số thị trường để so sánh, đối chiếu với kết quả phân tích cơ bản. Tóm lại, qui trình quản lý rủi ro trong danh mục đầu tư nếu được xây dựng và thực hiện tốt sẽ giúp cho Phòng Đầu tư có thêm cơ sở so sánh đối chiếu với dự báo kinh tế và biến động thị trường để từ đó đưa ra nhận định chính xác các rủi ro tiềm tàng và phân bổ lại danh mục đầu tư sao cho phù hợp nhất tại từng thời điểm 3.2.2.3.Đa dạng hóa danh mục đầu tư nhằm hạn chế rủi ro. Đa dạng hóa danh mục đầu tư nhằm giảm thiểu rủi ro có thể xảy ra. Việc đa dạng hóa có thể thực hiện bằng việc đầu tư vào nhiều công ty, nhiều lĩnh vực không có nhiều sự liên kết với nhau, NH có thể kiềm chế sự biến động giá cả cổ phiếu trong danh mục đầu tư của mình do thực tế rất hiếm khi xảy ra các trường hợp: tất cả các ngành đi lên hay đi xuống với cùng một tốc độ và trong cùng một thời kỳ. Do đó, đa dạng hóa sẽ đảm bảo sự hoạt động ổn định hơn, ít rủi ro hơn cho NH cũng như NĐT. Để hoạt động đầu tư vào DN đạt hiệu quả cao, đồng thời giảm thiểu rủi ro có thể xảy ra, trong danh mục đầu tư của mình, NH nên chọn danh mục tối ưu về mặt số lượng và chủng loại chứng khoán, tức là danh mục có kỳ vọng lợi nhuận cao nhất. NH cần nghiên cứu các loại chứng khoán khác nhau, so sánh kỳ vọng lợi nhuận và chọn loại chứng khoán có kỳ vọng lợi nhuận cao nhất. Để làm được điều này đòi hỏi đội ngũ nhân viên của NH phải có kỹ năng phân tích sâu rộng, khả năng tư duy, ý chí và bản lĩnh khi phân tích và đưa ra quyết định có nên chọn lựa đầu tư vào loại chứng khoán nào đó không. NH có thể chọn đa dạng hóa danh mục đầu tư theo những cách sau : Đa dạng hóa chứng khoán: Nếu đầu tư tất cả vốn vào một loại cổ phiếu, mà tình hình kinh doanh của công ty đó không được tốt, thậm chí đi đến phá sản thì NH không những không thu được cổ tức, mà còn bị mất cả vốn. Vậy nên, đầu tư vào nhiều loại chứng khoán, cho dù có vài loại chứng khoán trong số đó gặp rủi ro thì NH vẫn có thể thu được lợi từ những chứng khoán khác để bù đắp thiệt hại. Đa dạng hóa tổ chức phát hành: Nếu danh mục đầu tư chỉ bao gồm tòan bộ trái phiếu chính phủ thì NH không cần phải đa dạng hóa chủ thể phát hành, bởi vì trái phiếu Chính phủ gần như không có rủi ro. Tuy nhiên, nếu trong danh mục đầu tư của NH có bao gồm các loại trái phiếu công ty, trái phiếu địa phương hoặc cổ phiếu thì việc đa dạng hóa chủ thể phát hành là một vấn đề cần được cân nhắc, bởi các loại chứng khoán này luôn tiềm ẩn một số rủi ro nhất định. Ngoài ra, NH có thể đa dạng hóa danh mục đầu tư của mình theo lĩnh vực kinh doanh, nguồn thu hoặc đa dạng hóa theo vị trí địa lý. Tuy nhiên, dù đa dạng hóa danh mục đầu tư đến đâu thì cũng không thể loại bỏ hoàn toàn nguy cơ rủi ro. NH chỉ có thể giảm thiểu được rủi ro gắn liền với các chứng khoán đơn lẻ (rủi ro không có hệ thống), thế nhưng có rủi ro luôn thuộc về bản chất của thị trường (rủi ro hệ thống). Rủi ro này có thể ảnh hưởng đến hầu hết chứng khoán và sự đa dạng dù ở mức độ nào cũng không thể ngăn chặn được chúng. Có quan điểm sai lầm cho rằng, rủi ro tỷ lệ nghịch với số lượng cổ phiếu thêm vào danh mục đầu tư, trong khi trên thực tế điều này không đúng. Có những nghiên cứu cho thấy, nhà đầu tư chỉ có thể giảm rủi ro đến một thời điểm nhất định mà tại đó, việc đa dạng hóa hơn nữa không đem lại lợi ích gì. 3.2.2.4.Nâng cao chất lượng đội ngũ nhân lực. Về cơ bản, sự thành công của các NH được quyết định chủ yếu bởi khả năng tìm kiếm và nắm bắt cơ hội đầu tư. Điều này chỉ có thể đạt được khi có sự góp sức và tâm huyết của đội ngũ nhân viên thiện chiến, đó là nhân tố chủ đạo cho sự thành công trong hoạt động đầu tư của mỗi Ngân hàng. Trong khi đó, đi tìm nhân lực chất lượng cao cho nghề đầu tư tài chính là một bài toán khó, đáp số tưởng chừng có thể đến từ ứng viên chất lượng cao của các công ty săn đầu người, hoặc có thể đến từ việc tái đào tạo các ứng viên có nền tảng tốt. Tuy nhiên, hơn bất kỳ ngành nào khác, nghề đầu tư tài chính đòi hỏi con người phải có rất nhiều tố chất: khả năng phân tích sắc bén thông tin, nhận định xác đáng về thị trường tài chính, ứng dụng linh hoạt trong tình huống thực tiễn, quyết đoán trong việc ra quyết định… nhờ đó có thể nắm bắt thông tin nhanh chóng, phân tích chính xác các cơ hội đầu tư, nhận định xác đáng xu thế thị trường, lắp ghép hợp lý dữ liệu, dám đưa ra quyết định và chịu trách nhiệm. Để có được những nhân viên với những tố chất, khả năng như vậy là điều không dễ dàng, nhất là trong bối cảnh nghề đầu tư tài chính còn quá mới mẻ trên thị trường Việt Nam, mặt khác sự cạnh tranh thu hút chất xám lẫn nhau giữa các NH, các Quỹ đầu tư và các tổ chức đầu tư tài chính lại càng làm cho việc thu hút nguồn nhân lực trong lĩnh vực này càng khó khăn hơn. Để giải được bài toán nhân lực này, trước mắt NH nên củng cố và tái đào tạo những nhân viên có nền tảng tốt trong lĩnh vực tài chính, thường xuyên mở các lớp đào tạo ngắn hạn, dài hạn và chuyên sâu trong lĩnh vực này. Cho nhân viên tham gia vào các lớp đào tạo bên ngoài về các kỹ năng nhằm đáp ứng cho lĩnh vực đầu tư như : lớp học về các kỹ năng phân tích cơ bản, kỹ năng phân tích kỹ thuật, kỹ năng ra quyết định đầu tư… Tạo môi trường làm việc hấp dẫn, cơ hội thăng tiến và mức lương, thưởng tương xứng với năng lực từng nhân viên. Nắm bắt được kỹ năng của từng nhân viên, tạo điều kiện để họ phát huy tốt nhất sở trường của mình nhằm mang lại hiệu quả công việc cao nhất. Xây dựng chế độ trả lương thưởng theo kết quả thực hiện công việc, đồng thời cũng khuyến khích phương pháp làm việc theo nhóm. 3.2.3.Một số kiến nghị đối với Chính phủ, NHNN. TTCK VN trong năm 2007 và 8 tháng đầu năm 2008 có nhiều biến động khá thất thường, các dao động của chỉ số VN Index thông thường có hai chiều hướng, hoặc lên rất nhanh và khi giảm cũng rất sâu . Chính điều đó đã gây rất nhiều khó khăn không chỉ cho các NĐT cá nhân mà cả những NĐT tổ chức chuyên nghiệp trong việc quyết định đầu tư. Một trong những nguyên nhân trên do VN là một TTCK mới nổi, kiến thức về lĩnh vực đầu tư tài chính của các NĐT chưa cao, yếu tố tâm lý đầu tư theo kiểu bầy đàn vẫn còn nặng, cơ chế quản lý TTCK ở VN còn quá kém, thông tin trên thị trường còn thiếu tính minh bạch và bất cân xứng, ... do đó để thị trường đi vào ổn định và phát triển đòi hỏi UBCKNN phải không ngừng theo dõi sát sao sự biến động trên thị trường để có những giải pháp phù hợp hơn, kịp thời để giúp thị trường đi vào ổn định, và đồng thời để hạn chế những thiệt hại có thể xảy ra cho NĐT tổ chức cũng như NĐT cá nhân tham gia trên thị trường này. KẾT LUẬN Mặc dù TTCK VN trong nửa đầu năm 2008 gặp khá nhiều khó khăn do chính sách thắt chặt tiền tệ của NHNN, việc khống chế tăng trưởng tín dụng tại các NH, cuộc chạy đua lãi suất nóng bỏng trong khoảng thời gian từ tháng 05 đến tháng 07 năm 2008 , nhưng xét về dài hạn, khi nền kinh tế vượt qua khó khăn và đi vào ổn định thì chứng khoán vẫn là kênh đầu tư hấp dẫn nhất so với các kênh đầu tư khác nếu như NH Á Châu có những chọn lựa danh mục đầu tư một cách hiệu quả nhất. Quán triệt mục tiêu nghiên cứu, trên cơ sở vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học, đi từ lý thuyết đến thực tiễn, đề tài “ Nâng cao hiệu quả đầu tư vào DN tại NHTMCP Á Châu” đã tập trung giải quyết một số nội dung quan trọng sau: Một là, làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về NHTM, về hiệu quả hoạt động đầu tư của NHTM, các hình thức đầu tư vào DN của NHTM và qui trình ra quyết định đầu tư vào DN của NHTM. Hai là, phân tích thực trạng hoạt động đầu tư vào DN tại NHTMCP Á Châu, qua đó chỉ rõ những thuận lợi cũng như những khó khăn đối với hoạt động đầu tư vào DN mà NH gặp phải , đồng thời thể hiện rõ qui trình phân tích và định giá DN trước khi ra quyết định đầu tư vào DN tại Phòng Đầu tư - NHTMCP Á Châu. Ba là, trên cơ sở qui trình ra quyết định đầu tư vào DN tại NHTMCP Á Châu, Luận văn đã đề xuất một số nhóm giải pháp và kiến nghị nhằm hạn chế những rủi ro có thể xảy ra cho NH trong hoạt động đầu tư vào DN của mình Do kiến thức có hạn nên những những vấn đề về lý luận, thực tiễn và các giải pháp trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư vào DN của NH Á Châu chỉ đáp ứng được một số yêu cầu trước mắt đang đặt ra đối với NH này. Đề tài cần có sự bổ sung thêm nhiều giải pháp khác mới có thể đạt được kết quả như mong đợi. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. TS Nguyễn Minh Kiều (2007), “Nghiệp vụ Ngân hàng hiện đại”, NXB Thống kê. 2. TS Nguyễn Minh Kiều (2006) , “ Tài chính doanh nghiệp”, NXB Thống kê. 3. PGS.TS Trần Huy Hoàng (2007), “Quản trị Ngân hàng thương mại”, NXB Lao động xã hội. 4. TS Bùi Kim Yến, TS Thân Thị Thu Thuỷ (2006), “ Phân tích chứng khoán và định giá chứng khoán”, NXB Thống kê 5. PGS.TS Trần Ngọc Thơ (2005), “ Tài chính doanh nghiệp hiện đại”, NXB Thống kê 6. TS Nguyễn Trọng Hoài (2007), “ Quyết định đầu tư cá nhân trên TTCK, kiểm định các nhân tố tác động bằng mô hình đa biến”, “ Tạp chí Kinh tế DANH MỤC VIẾT TẮT Vietinbank Ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam. NHTM Ngân hàng thương mại. CT Công thương. DN Doanh nghiệp. NHNN Ngân hàng nhà nước. KH Khách hàng. VN Việt nam. VCB Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. ROA Tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản. ROE Tỷ suất sinh lợi trên vốn cổ phần.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docnguy7877n 273nh tr4327901ng tc nh 02 k3 vvv..doc
Tài liệu liên quan